Hai người bạn cùng làm thuê, lâu ngày gặp nhau, trò chuyện:

- Mình đi làm công cho người ta đã nhiều mà chưa thấy ông chủ nào chửi bới công nhân thậm tệ như ông này. Thằng cha nào cũng bị ổng chửi. Trong bữa ăn ông ta cũng chửi.

- Còn bà chủ?

- Ồ! Bà chủ thì hết chê, trẻ hơn ông chủ đến cả vài chục tuổi, tính tình cởi mở. Thằng nào cũng thích.

- Nếu tớ là ông chủ ấy, tớ cũng chửi.

1044




Người đàn ông keo kiệt nhất trên đời đã đi sắm quà giáng sinh. Nhưng mọi thứ mà anh trông thấy đều quá đắt ngoại trừ một bình hoa giá năm mươi đô la được giảm xuống còn hai đô la vì cái quai của nó bị gãy mất rồi. Anh ta mua nó và bảo người bán gửi về cho bạn mình qua đường bưu điện để bạn anh ta ngỡ rằng anh ta đã mua nó với giá năm mươi đô la và nó đã bị gãy quai lúc chuyên chở.

Một tuần lễ sau lễ Giáng sinh, anh ta đã nhận được thư cảm ơn của bạn mình, thư viết:

- Cảm ơn bạn về chiếc bình hoa xinh đẹp. Và cảm ơn bạn đã cẩn thận gói riêng từng mảnh gởi cho mình.1999




- Tôi kết hôn với một nữ luật sư, nàng có tài thuyết phục thật kinh hồn. Khi tôi quyết định ly dị để làm lại cuộc đời với một cô gái mà tôi yêu thắm thiết thì nàng đã thuyết phục được tôi ở lại với nàng vì hạnh phúc của các con.

- Đó là điều thông thường, phụ nữ vẫn dùng cách này để cứu vãn hôn nhân của mình.

- Vâng, mãi về sau tôi mới nhớ ra rằng chúng tôi chưa bao giờ có con.1037




- Hôm nay ở trường học gì thế con? - Ông bố hỏi con trai.

- Dạ thầy giáo bảo con tìm chủ ngữ và vị ngữ trong câu. Thật là khó!

- Hồi bố đi học, người ta cũng bắt bố tìm những thứ ấy! - Ông bố nói giọng an ủi - Thế mà đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra!



o O o


- Mày học toán mãi mà chỉ đếm được từ 1 đến 10. Dốt thế thì sau này làm gì được hả con!

- Bố yên tâm. Con sẽ là trọng tài quyền anh!1141




     Bấy giờ Út mới mười lăm tuổi. Mỗi khi rảnh việc, Út thường chạy đến xem tôi vẽ. Út tỏ ra thích những bức tranh tôi thể hiện cảnh đồng quê bằng cách chấm phá những đường nét giản dị trên các mảng màu thật nhạt. Như cảnh bờ ao với một vài con vịt đứng rỉa cánh, cảnh dòng kinh với một con bói cá cắp mồi bay vụt lên, còn để lại dưới nước một vòng tròn lan tỏa.

     Vẽ chán những cảnh quanh quẩn ở nhà, tôi xoay qua vẽ cảnh mặt trời mọc trên đồng nước nổi. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm. Khi tôi lịch kịch chuẩn bị các thứ bảng màu, giá vẽ... thì Út cũng thức. Tôi ở trên nhà chuẩn bị đồ lề của mình, Út ở dưới bếp nấu nước châm trà cho ngoại. Ánh lửa rưng rức hắt vào mặt Út, bật lên những viền sáng, tự nhiên gợi cho tôi đề tài về thiếu nữ giữa đồng đưng gọi mặt trời thức giấc.

     Tôi nghĩ đến đồng đưng, bởi trước giải tỏa tôi chiến đấu ở vùng Tháp Mười. Những cánh đồng đưng ngút ngát, vào mùa nước nổi bị nhận chìm, trên mặt nước chỉ còn lất phất những đọt lá nào thật cao. Khi mặt trời lên, mặt nước của cánh đồng đưng có màu sắc riêng lạ lắm. Tùy theo sự dày đặc khác nhau của lớp đưng bị nhấn chìm mà sắc màu chuyển động, chuyển động liên tục theo sự phản quang của tia mặt trời ban mai chiếu xuyên qua mặt nước, rọi xuống những cọng đưng tua tủa bên dưới mà dội lại theo những góc gãy khác nhau. Nếu đặt trên nền ấy một chiếc xuồng, một thiếu nữ... biết đâu tôi sẽ được một tác phẩm về sức trỗi dậy hoang sơ đầy lãng mạn.

     Vậy là tôi hăm hở ra đi, hết ngày này qua ngày khác, cố gắng quan sát thật kỹ để nắm bắt cho được thần thái của sắc màu. Tôi kiên trì thể hiện bằng màu trên giấy không biết bao nhiêu lần. Chừng thấy tàm tạm, tôi mới bắt tay vào thể hiện hình tượng cô gái và mặt trời. Lấy ai làm mẫu bây giờ? Tôi nghĩ ngay đến Út. Tôi mới dạm hỏi, Út đã cười bẽn lẽn:

     - Em xấu thấy mồ, làm mẫu hư tranh anh thì sao?

     Ngoại Út ngồi uống nước, hút thuốc nghe vậy gõ gõ ngón tay xuống bàn, nói:

     - Con nhỏ này thiệt! Mày không giúp thì còn ai giúp?

     Út lại cười. Đôi mắt cũng cười. Mái tóc cũng cười. Cái lúm đồng tiền tròn vo cũng cười.

     Đường từ nhà Út ra đồng đưng phải vượt cả một cánh đồng chừng năm bảy cây số; để khỏi mất thời gian của Út tôi bắt đầu vẽ Út với mặt trời vào mỗi sáng ngay trước cửa nhà. Tôi ngồi sau lái, Út ngồi ở mũi xuồng. Tôi phải sắp xếp cho chiếc xuồng nằm hơi xéo tia chiếu của mặt trời. Còn Út thì ngồi xếp hai chân về phía sau, người hơi đổ về phía trước, mặt xoay về hướng mặt trời. Một tay cầm mái dầm thả một cách hờ hững trên đùi. Một tay đưa lên trán như kiểu sắp hất cho mái tóc dài xõa về phía sau. Nội chừng ấy thôi, tôi đã mất đến bốn năm buổi sáng với bảy, tám phác thảo mà vẫn chưa thấy hài lòng.

     Mỗi lần thấy tôi vẽ xong mà lắc đầu, Út lo lắm. Út nhìn tôi, hỏi một cách vô tư:

     - Tại em ngồi mẫu kém phải không anh Ba? Em mắc tật cứ hay ngọ ngoạy chân tay làm anh vẽ không được, phải không anh Ba? Để mai em ráng ngồi thiệt êm cho anh vẽ nghen!

     Tôi giải thích cho Út hiểu rằng cái chính không phải là đường nét mà là sắc màu. Tôi thất bại vì chưa diễn tả được cái đẹp hồn nhiên trong sáng của ánh nhìn trong mắt Út khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu vào. Tôi nói với Út:

     - Út biết không, khi tia mặt trời đầu tiên chiếu vào mắt em, ánh nhìn của em ngời lên ánh sáng rất diệu kỳ, đẹp không thể tưởng được; sang năm, sang năm nữa anh quyết vẽ bằng được mới thôi.

     Sau nhiều lần phác thảo chân dung tại chỗ, tôi quyết định cùng Út ra đồng để xây dựng bố cục giữa thiếu nữ, mặt trời và đồng đưng ngay tại không gian tôi đã chọn. Ba bốn ngày liền, tôi với Út chống xuồng ra đồng đưng để dựng phác thảo. Điều làm tôi quay quắt nhất là chọn tông màu. Thiên nhiên ngời ngợi màu sắc, tôi không làm việc sao chép lại màu sắc ấy. Cái tôi cần thể hiện là phải tìm bằng được linh hồn của sắc màu, sao cho nói lên được sự yên ổn, hoang dã bật thức dậy trong đôi mắt thiếu nữ gọi mặt trời.

     Một hôm, khi đang loay hoay pha màu, tôi bỗng nghe tiếng Út reo lên sung sướng:

     - Sếu về! Sếu về rồi anh Ba ơi!

     Tôi ngoái lại nhìn. Đẹp quá! Đẹp tuyệt vời! Những cánh bay dìu dịu, nhẹ nhàng như đan vào nhau mà chớp ngọn nắng hừng đông. Cả một bức tranh hoành tráng chuyển động sắc màu nâu nhạt trên nền trời xanh xám, ửng lên phơn phớt sắc hồng. Phải rồi. Tìm được tông màu rồi. Tôi cảm động đến lịm người.

     - Sếu về rừng tràm, về đồng năn đó anh Ba. Vô rừng tràm coi chim đi anh Ba!

     Tôi gật đầu với Út. Hai chúng tôi lúc bơi bằng dầm, lúc chống bằng sào, phải gần ba tiếng đồng hồ mới vô đến tràm chim. Những con sếu cổ trụi đứng dầm chân dưới nước như những chấm màu. Thấy người, chúng vỗ cánh bay dựng lên, tạo ra những âm thanh xao xác. Bay được một quãng, chúng lại đáp xuống, điểm màu cho đồng năn buổi sáng. Chúng tôi say sưa ngắm đàn sếu cổ trụi hết cả buổi. Con nào cũng to lớn và đẹp một cách duyên dáng. Con thì cần mẫn dùng cái mỏ dài đào củ năn. Con thì ngẩng cao đầu nhìn mặt trời. Nhiều con vỗ cánh nhảy múa những vũ điệu gọi mời hết sức lạ mắt. Tới trưa, bất chợt một cơn mưa ập xuống. Tôi với Út phải tấp vô rừng tràm, căng tấm vải nhựa ra đụt mưa.Trời cứ mưa mãi, mưa muốn hết cả buổi chiều. Lạnh và đói. Út nói: - Dứt mưa, em lên bờ bao đập rắn mối đãi anh nghe anh Ba!

     Út đập được một xâu mười mấy con. Tôi gom lá tràm khô đốt lên nướng trui. Thịt rắn mối trắng, thơm và ngọt, ăn không biết chán.

     Khi chúng tôi ngồi vào xuồng thì đã xế chiều. Bầu trời vần vũ những đám mây mọng nước. Út giục: - Bơi lẹ anh Ba! Tối là hết thấy đường đó.

     Ai đã sống ở đồng nước mới biết khi tối trời đồng nước mênh mông ngút mắt, không còn biết hướng nào ra hướng nào. Quay phía nào cũng chỉ nước là nước, nước quây chóng mặt. Chúng tôi đã lâm vào cảnh đó giữa lắc rắc mây mưa, giữa mịt mùng bóng đêm vây bủa.

     - Út ơi! Lạc đường rồi phải không?

     - Chớ còn gì nữa. Đâu, ta bơi về hướng có ánh đèn kia kìa. Có gì mình hỏi đường người ta.

     Ngọn đèn coi chập chờn, tưởng gần mà đến được đến đó cũng mất gần cả giờ. Đó là ngọn đèn dầu hôi của một thằng nhỏ thắp lên canh chừng vịt. Thấy chúng tôi, nó ngạc nhiên hỏi:

     - Ủa, anh Hai bị lạc đường sao cà?

     Tôi kể cho nó nghe mọi chuyện. Nghe xong nó nói:

     - Hai anh em từ sớm đến giờ chưa bỏ bụng miếng nào mà chịu thấu sao? Để tui nấu cháo vịt cho ăn.

     Tôi chưa kịp ngăn lại, nó đã vọt lẹ ra gò đất quây vịt, vặn tréo cổ một con. Bầy vịt giật mình kêu quàng quạc. Ăn uống xong xuôi, thằng nhỏ hấp háy con mắt, nói với tôi, giọng tỉnh queo:

     - Tui ngủ xuồng cho, tui có nóp. Anh Hai với đứa em ngủ giường đi. Hồi chiều mắc mưa, ngủ ngoải bịnh à nghen! Tôi từ chối cách mấy nó cũng không chịu. Cuối cùng, tôi đành phải làm theo lời nó, bảo Út lên giường ngủ. Còn tôi, tôi ngồi hút khan hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, chong mắt chờ trời sáng.

     Quá nửa đêm, Út giật mình thức dậy, nói:

     - Anh Ba nằm ké đây mà ngủ. Ngồi đó muỗi ăn thịt à.

     Quả là muỗi nhiều thật. Muỗi cỏ trong đồng nhỏ lăn tăn, li ti, bay xám quanh mình, kêu ve ve như sáo thổi; chúng đốt đau nhoi nhói và ngứa muốn phát điên lên được. Mệt quá, chịu hết xiết, tôi buộc phải phủi chân chun vô mùng ngủ chung với Út. Gần sáng, tôi thức giấc thấy mình đang ôm Út trong lòng; mắc cỡ quá, tôi lật đật ngồi dậy, bước ra khỏi túp lều. Mình thật kỳ, may mà Út ngủ say không biết, chứ không... dám độn thổ cho rồi. Sau bữa đó mấy ngày, tôi hoàn thành tác phẩm. Ngoại Út đứng chống nạnh, dòm dòm một hồi rồi nói:

     - Chú Ba vẽ y chang con nhỏ. Mà coi bộ còn giống hơn con nhỏ. Dòm vô thấy nó man mác như xa như gần. Giỏi thiệt!

     Hết hạn thực tế, tôi chép lại một phiên bản tặng Út. Út mừng húm, đòi ngoại mua khung kiếng lộng bức tranh treo lên vách nhà. Trên vách nhà cặp bằng lá dừa nước xé, còn nguyên sống lá chạy đổ song sóng từ trên xuống, bức tranh nổi lên rất sống động, mặc dù nó chỉ là phiên bản. Cô gái trong bức tranh như đang chớp mắt gọi mặt trời. Mái tóc bay xõa như suối mây, vờn vào không gian thấp thoáng bóng chim, bóng cá, nhòa nhạt bóng nước, bóng trời.

     Bảy năm sau, hội mỹ thuật tổ chức cho tôi một cuộc triển lãm chung với hai họa sĩ khác. Hằng ngày chúng tôi thường đến phòng tranh, ngồi uống nước quan sát người xem, coi họ nhận định tranh ra sao. Một hôm có mấy nhà doanh nghiệp nước ngoài đến, họ dừng lại trước bức Cô gái gọi mặt trời của tôi. Một người nói: - Rất sống động. Tông màu biến hóa kỳ ảo như huyền thoại. Thiếu nữ trong tranh phải là một người sống rất chân tình. Giá mái tóc được bật sáng thêm chút nữa...

     Ông ta đặt cọc để mua bức tranh cao hơn giá treo tranh của tôi rất nhiều. Số tiền đó với gia đình chúng tôi là cả một tài sản. Biết tin này, không hiểu sao vợ tôi lại hỏi:

     - Này anh, cô Út của anh chắc có chồng rồi nhỉ? Bảy năm rồi còn gì!

     Nghe vợ hỏi, tôi sực nhớ đến Út. Nhớ đến buổi sáng chia tay với Út. Út bơi xuồng đưa tôi ra chợ xã. Dọc đường Út kể đủ thứ chuyện về đồng nước. Gần đến chợ, Út chợt hỏi tôi:

     - Anh Ba về thành chắc nhiều con gái đẹp, dám quên ngoại, quên Út lắm nghe.

     Tôi nói đùa với Út:

     - Con gái thành thị coi màu mè sặc sỡ chứ hơn sao được Út mà quên. Đợi ra trường làm ăn có tiền, thể nào anh cũng về nông thôn cưới vợ.

     Út gác mái dầm, nhìn tôi, nói:

     - Dóc tổ! Anh Ba mà chịu cưới vợ quê!

     - Thiệt chớ! Anh sẽ tìm cưới được một cô vợ giống hệt Út vầy nè!

     Út đỏ mặt mắc cỡ, hứ một tiếng rồi từ đó không nói chuyện nữa, chỉ lặng lẽ chèo. Mãi đến khi đã cặp xuồng vào mé chợ, Út mới lại lên tiếng:

     - Anh Ba cho Út tấm hình được không?

     Nghe tôi nói không có tấm hình nào, Út buồn xịu xuống, mắt rưng rưng muốn khóc. Để an ủi Út, tôi rủ Út vô tiệm chụp hình chụp chung hai anh em một tấm làm kỷ niệm.

     Bây giờ nghe vợ tôi nói vậy, tự nhiên tôi thấy mình có lỗi. Tôi ăn ở nhà Út cả tháng trời, vậy mà khi trở về thành đến một lá thư cảm ơn, thăm hỏi cũng không viết được. Đã vậy khi chia tay tôi còn hứa hươu hứa vượn. Lòng đầy ân hận, ngay chiều đó tôi tìm mua mấy món quà, ra bến xe mua vé về thăm Út.

     Tới nơi, cảm giác đầu tiên làm tôi lạnh cả người. Căn nhà vắng đến kỳ lạ. Bức tranh vẽ Út từ vách lá đã chuyển lên bàn thờ. Trời ơi! Út mất rồi sao? Tôi đau đớn lặng người, nước mắt trào ra. Thắp một nén nhang, tôi đứng chết trân trước bức tranh tôi vẽ cô gái gọi mặt trời.

     Sau đó, bà hàng xóm tính tình xởi lởi chạy qua, kể với tôi: - Chú biết không, con nhỏ lạ lắm. Ba bốn đám đến hỏi mà nó không ưng, không chịu đám nào. Với ai nó cũng nói nó có chỗ rồi. Chừng nó bịnh, thấy thương lắm chú Ba ơi! Hễ nằm thiêm thiếp thì thôi, còn thức dậy là ứa nước mắt, hỏi: "Anh Ba có về thăm chưa ngoại?." Lúc đầu ai cũng tưởng nó hỏi thăm thằng Ba anh ruột nó, chừng thằng Ba về, mới biết không phải. Lúc nó chết, thay bộ đồ cho nó, lục trong túi áo cũ thấy có tấm hình chú Ba chụp chung với nó. Chèng ơi! Con nhỏ trông chú Ba mỏi con mắt. Chú thiệt là tệ! Đi gì đâu biệt tăm hơi, không biên cho nó được lá thư!

     Trở về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho vợ tôi nghe, vợ tôi buồn bã nói:

     - Anh ạ! Đừng bán bức tranh nữa. Cả hai đứa mình đều có lỗi với Út. Bán bức tranh đi, mình mắc tội với Út không biết bao nhiêu lần mà kể.

289




Đêm nay, căn phòng khách này được sắp xếp lại. Bộ salon, cái tủ chè, cùng những bức tranh sơn mài phải mang cất vào các buồng trong. Nhường chỗ cho chiếc áo quan kê ở giữa phòng. Ánh sáng của hai ngọn đèn neon trên trần nhà, được thay bằng ánh sánh của nhiều cây nến. Trong không khí trộn trạo những mùi nhang khói, trầm hương, hoa tươi, nước thánh, vải xô, gỗ mới, vẹc ni, là những bóng người mặc đồ tang trắng toát. Giữa những cái bóng đứng, ngồi, quỳ, phủ phục đó, có anh. Trông anh vẫn rắn rỏi, như thể pho tượng đồng được gói trong lần vải tang sô chưa nhầu nếp.

Anh đang khóc. Ánh nến soi vào hai giọt nước mắt, trông lấp lánh tựa hai giọt sương ứa ra từ một phiến đá đen thẩm. Không nghe thấy tiếng nức nở, chỉ thấy đôi vai anh run lên nhè nhẹ. Tôi nghĩ, sống trên đời hơn ba mươi năm nay, chắc đây là lần thứ hai anh khóc. Lần đầu là khi anh mới lọt lòng sanh ra, lần thứ hai này là vì mẹ anh vừa qua đời.

Anh tuổi cọp. Nhỏ thó. Lì lợm. Như quả lựu đạn bọc thuốc nổ trong lớp thép đen đủi, lạnh băng. Một đêm mưa tháng tám, tôi mở cửa cho anh vào nhà sau nhiều tháng đi biệt. Anh cởi chiếc áo mưa, lộ ra một vết chém đầy máu. Anh không chịu đi bệnh viện, chỉ buông lời ngắn gọn: "Khâu lại cho tao!". Bàn tay đứa sinh viên năm thứ ba trường Y của tôi, vẫn còn run run trên những đường kim vụng về. Bởi đó là máu, thịt, vết thương, cảm giác của ruột rà thân thuộc. Mặt anh đẫm nước mưa lẫn mồ hôi, và lấm tấm vệt đỏ máu. Da thịt anh đanh lại, nhưng anh không phát ra một tiếng rên đau.

Anh là hình ảnh hoàn toàn trái ngược với tôi. Có lần Bác nhìn tôi, giọng trầm xuống: "Phải chi thằng Hải nó được một phần của con". Còn tôi lại ước có phần nào đó của anh. Hồi chúng tôi còn nhỏ, anh hơn tôi chỉ ba tuổi, người nhỏ con đen đủi, nhưng lại làm con ngáo ộp tôi mang ra dọa đám trẻ đồng trang lứa. Chẳng có đứa nào dám bắt nạt tôi. Cả những đứa to con lớn xác hơn, cũng ngán anh vì anh vừa lì lợm chịu đòn, vừa ngang tàng liều mạng. Anh đẽo cù, dán diều, bắt dế cho tôi. Anh thương tôi như một người em ruột. Rồi anh bỏ học, đi hoang. Thỉnh thoảng trở về, nằm nhà vài ngày, rồi lại đi. Mỗi lần anh trở về, tôi lại thấy anh rắn rỏi, lầm lì hơn. Khi anh ở trần, tôi thấy người anh phô ra đầy những vết thẹo ngang dọc, ghi dấu những chiến tích giang hồ. Vì anh, bác tôi khóc mãi. Nước mắt cứ ướt, rồi lại khô. Buồn lo trong lòng người mẹ kết tinh lại, như ngọc trong trong đá. Bác lại bảo tôi "Ông Trời công bằng lắm con ạ. Mang con đến cho ta, thay đứa con ruột". Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi cùng chết trong một tai nạn. Người thân chỉ có mỗi bà bác goá chồng, cưu mang tôi.

Nhưng Trời hào phóng hơn nữa, khi mang đến cho Bác thêm một đứa trẻ khác. Cũng vào một đêm mưa gió, anh trở về, bồng theo một đứa trẻ, nhỏ tẹo như con búp bê. Thế là, Bác đã hơn sáu mươi, lại phải bận rộn sữa tã cho đứa bé từ trên trời rơi xuống. Tôi hỏi anh muốn đặt tên nó là gì, anh bảo cứ gọi nó là Cúc. Tôi định hỏi, có phải mẹ nó là Cúc, như cái tên xâm trên cánh tay anh không, nhưng thấy mắt anh lạnh qúa, tôi không dám. Tôi ra phường, làm giấy khai sanh cho con bé lấy họ tôi. Và khi đi Mỹ, tôi tìm cách mang nó theo. Một hôm con bé hỏi tôi, cái tên của nó nghĩa là gì, tôi bảo đó là tên một loài hoa, người Mỹ gọi là Daisy. Nó bảo tôi đổi tôi đổi tên cho nó, vì người ta cứ gọi tên nó nghe như chữ cook - nghĩa là người đầu bếp. Thế là nó có tên mới, Daisy.

Daisy đang ngồi kia, cạnh người cha ruột của nó. Nhìn nó trong chiếc áo vải xô màu trắng, thật tội. Nhưng con bé không khóc, mọi thứ chung quanh đây có vẻ như xa lạ với nó. Chắc nó quên rồi những ngày xưa còn bé, quấn quýt bên bà nội. Ánh mắt lạ lẫm của nó đang dán vào con thằn lằn bám trên bức tường vôi trắng.

Bỗng tôi nghe anh nấc lên, khuỵu xuống bên chiếc áo quan "Mẹ ơi! ... tha lỗi cho con! Mẹ ơi ..." Daisy ngơ ngác, rời mắt khỏi con thằn lằn, nhìn sang cha nó. Có lẽ những lời thống thiết của anh, đã làm rung lên một sợi dây tình cảm vô hình thâm sâu, nối liền giữa cha và con. Khuôn mặt con bé chợt biểu lộ điều gì đó, tựa như một nỗi buồn - rất trẻ thơ.



CV1647




Có một ông lão đạp xe từ nông thôn lên Hà Nội chơi. Đến Cầu Giấy, ông dừng lại hỏi thăm một cô gái bên đường:
- Cô làm ơn cho tôi hỏi từ đây đến Bờ Hồ còn bao xa? Cô gái õng ẹo:
- Nhưng mà còn tuỳ ông hỏi là đường đi bộ hay đường chim bay? Ông già thành thật:
- Không thưa cô, tôi hỏi là hỏi đường... chim đi xe đạp!
2389





Đó là một tiệm bán sách báo. Bên trong kê những kệ để cơ man đủ loại sách. Ngay bên hông cửa ra vào, kê một cái tủ kiếng bày biện những món đồ trang trí bằng crystal, bút, tượng Phật và những dụng cụ treo trong xe. Một ngày nắng thật đẹp, nhưng có vẻ...buồn. Hình như ngay cả những giải nắng ngoài bãi đậu xe cũng đang lang thang chờ đợi bóng dáng ai...

Cô đến thăm anh vào một buổi trưa ngập nắng. Lòng hớn hở, vì cô có rất nhiều truyện kể anh nghe. Đôi khi, cô trộm nghĩ, có lẽ ngoài vấn đề anh nghe truyện cô bằng tai, anh còn nghe cả bằng mắt, và thỉnh thoảng, bằng sự xúc chạm bàn tay anh nắm lấy tay cô nữa...

Nhưng khi tới nơi, "chạm" phải ánh mắt anh nhìn tha thiết quá, làm cô bối rối, cảm thấy...quê một cục. Khi không cô lại im như thóc, chẳng nhớ bất cứ câu chuyện nào để kể. Cô ngồi làm bộ ngó lơ ngơ ra ngoài khung cửa, ngó trời, ngó đất, hai tay đan lấy nhau đặt trên đùi.

"Sao. Em Khoẻ không?"

"Uh huh..."

Anh bỏ chiếc nghế ngồi đối diện. Đến ngồi trên chồng sách cạnh bên cô, nhưng vẫn tế nhị dành một khoảng không gian vừa đủ cho cô khỏi bị mất tự nhiên:

"Sao hôm nay nói ít vậy? Có chuyện gì kể anh nghe..."

" Hì...."

Cô ngượng nghịu nhếch mép cười. Sao kỳ. Khi không cô lại mất tự nhiên thế này?

Biết cô đã đánh rớt mất sự hồn nhiên ngay sau khi bước vào cửa tiệm. Với cử chỉ rất tự nhiên, anh nắm lấy tay cô kéo về phía tủ kính:

"Có muốn có một cái chuông nhỏ treo trong xe không? Anh cho..."

Mặt cô tươi lên. Líu ríu theo chân anh đến chiếc tủ kiếng bày biện cơ man những đồ trang trí nho nhỏ. Từ tượng Phật bà, chuông, tháp, và cả những sợi tràng hạt đeo tay nữa. Anh chọn ra một cái chuông nhỏ xíu, ngắm nghía một lúc:

"Thích cái này không?"

"Thích... Nhưng...."

"Nhưng....sao?"

"Cái này để bán mà?"

"Nhằm gì. Của anh mà. Lấy một cái đâu có sao!"

"........."

Anh chọn ra một chiếc chuông nhỏ, có cột thêm một giải đỏ phía dưới:

"Cái này nhé? Ừ. Cái này đẹp hơn nè..."

Anh đưa liên tiếp hai, ba cái chuông đủ cỡ để cô chọn lựa. Nhưng cô vẫn còn ngần ngừ. Anh lại lôi tiếp một chuỗi đeo tay, ngắm nghía:

"Muốn cái này không?"

Cô xua tay lia lịa:

"Thôi...thôi, đừng lôi ra nữa. Em chẳng muốn gì hết!"

Chẳng trả lời cô. Anh vẫn chăm chú nhìn chuỗi tràng đeo tay mà anh vừa lôi ra từ trong tủ. Nó được kết bằng những viên đá vuông nhỏ, trên mặt đá có vẽ ngoằn nghèo vài nét trông rất lạ mắt.

"Anh nghĩ đây là chữ Phạn đó"

Cô cũng tò mò ghé mắt nhìn, cãi:

"Không phải chữ Phạn đâu, hình vẽ mà!"

"Hưmmmm... Chắc là chữ Phạn!"

Cô bướng bỉnh, trêu anh:

"Ưm....Không phải mà!"

Anh nhìn cô một thoáng, chẳng thèm cãi với cô chi cho mệt:

"Nè. Lấy không?"

"Không lấy đâu. Nhưng, em nói không phải tiếng Phạn nha!"

Anh chẳng nói gì. Nhìn sợi chuỗi thêm một lúc, cố nhận diện xem có một nét chữ nào quen không, rồi bỏ lại trong tủ. Cô tính kiếm cách...gây sự mà anh chẳng thèm cãi, cô đành xoè răng...cười:

"Okay. Chữ Phạn!"

Cả hai cùng cười. Anh tự ý chọn ra một cái chuông nhỏ rồi kéo cô trở về chỗ ngồi:

"Nè. Cất đi. Nhớ treo trong xe nghe."

Cô đỡ lấy món quà. Thực tâm, cô chẳng muốn lấy làm gì. "Vô công, vô dụng hạnh mà".  Cô luôn nghĩ như thế khi nhận quà từ người khác. Nhưng đối với anh, có lẽ không nên câu nệ, nhận để anh vui, vì đôi khi, hành động nhận quà của mình cũng chính là để đem niềm vui đến người cho.

Anh ngồi trên thùng giấy bên cạnh, nhường cho cô cái ghế đẹp nhất trong tiệm. Cô ngó lơ. Nhìn tới, nhìn lui chẳng biết nói chuyện gì. Hai bàn tay đan lại với nhau, thấy ngứa, cô gãi gãi, để lại một vết đỏ ỡ kẽ ngón. Cô méc:

"Đỏ nè... "

Anh cười:

"Hồi nhỏ, đau chỗ nào, anh đều lấy...nước bọt làm thuốc, ngậm một lúc là hết... Đưa đây anh chữa cho..."

Rất nhẹ, anh đặt môi trên vết đỏ. Cô có cảm giác đầu lưỡi anh ươn ướt...

Thấy kỳ kỳ... Rụt tay về. Cô lại ngó lơ.....

Bỗng nhìn thấy đôi chân anh đi giầy sandal lòi mấy ngón chân coi ngộ ngộ, cô tinh nghịch dẫm lên chân anh rồi cười khúch khích. Phản ứng tự nhiên là anh rụt chân về. Nhưng cô cố bặm môi giữ lại. Cô ấn mạnh đôi giày bata của mình xuống chân anh. Anh hiểu ngay cô đang bắt đầu phát minh ra trò chơi mới. Anh hăng hái nhập cuộc chơi. Anh cố bặm môi kéo chân về. Hiển nhiên, anh kéo về được, và (chơi ngon) gác cả cẳng chân mình lên chân cô. Bốn bàn chân bắt đầu tranh giành ảnh hưởng, cô hăng hái muốn giành phần thắng về mình. Anh nghe tiếng cô cười lên khúch khích...

*

Buổi tối về. Anh lên giường với hình ảnh dễ thương của cô. Anh nhớ tới nụ cười ròn, ánh mắt ngó lơ... Mà kỳ ha! Sao bây giờ anh lại...nhớ thêm đôi cẳng chân với chiếc giầy bata đầy bụi đất!!

1099




Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn rà.Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi. Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng.

Từ trên điển canh tôi chạy lao về làng. Hồi chiều nghe tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôì. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Ðằng sau, cơn đại hồng thủy đuổi bén gót. Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái thì vừa đợt dâng nước thứ hai. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm. Ðến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vương vào thân đa trước đình làng.

Ðã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.

- Con trai ... con trai mà... yên tâm, con trai ... Ðể yên em ẵm, anh vụng lắm...

Nhiều giờ trôi quạ. Mưa tuôn, gió thổì. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.
Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôì. Một giọng nghẹn sặc với lên:

- Cứu mẹ con tôi mấy ... cứu mấy ... con gái tôi ...

Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thõng. Tôi vội cúi xuống, đưa tay rà. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi "ối" kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, san xuống làn nuớc tối tăm.

- Trời ơi! Con tôi ...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống hòng chụp lấy con.

Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tayđang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi ...

Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp ngườì. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc, ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy cũng bất lực không tìm thấỳ. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đì. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:

- Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Ðã bú, đã ngủ rồi đây nàỳ. Ngoan chưa này ...

Ôi chao, nó tè dầm rồi nàỳ.

Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôì. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn. Choáng váng, chết lặng, tôi nén một tiếng kêu thất thanh.

- Con tôi ... - Tôi òa khóc, đỡ lấy bọc chăn. - Con tôi!

Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ đẹp nhất làng. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết. Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lờì.
208





Có một điều làm tôi trăn trở
Bao tháng ngày cắt nghĩa không ra
Rồi sớm ấy tôi thấy loài hoa
Người đời gọi là hoa trinh nữ
Những lúc bướm ong về bên hoa tình tứ
Hoa lại thẹn thùng khép lá tương tư
Tôi hỏi gió :"Hoa ngủ đấy ử"
Gió thì thầm bảo rằng : "Hoa xấu hổ"
À vậy đấy thật là rõ khổ
Có thế mà suy ngẫm mãi chẳng ra
Mà có đâu chỉ riêng mỗi loài hoa
Tất cả mọi loài khi yêu đều vậy cả
Tới bây giờ tôi mới hiểu được điều khó tả
Rằng tại saọ.. người ta nhắm mắt... lúc hôn nhau
1505









Kính tặng Mẹ
 
Thưa Mẹ, dẫu mai nầy nắng tắt
Vẫn còn hơi Mẹ ấm lòng con
Vẫn còn giọng nói thơm như nhạc
Như gió mùa Thu... như nhớ mong...

 


Huế những mùa xa, thương quá đỗi
Lo toan, Mẹ chẳng quản thân gầy
Chuyến xe, bụi vướng bao chìm nổi
Đôi mắt nhòa đi, con chẳng hay
 
Sông Hương vẫn chảy bên bờ Ngự
Lòng con vẫn vậy, gió bên trời
Cám ơn đời rộng, con còn Mẹ
Để lúc ngồi bên... để ngắm thôi...
 
Để nhìn Mẹ đẹp như trời đất
Nâng bước đời con, gió viễn khơi
Gió vẫn bay, vang lừng câu hát:
Ngàn Năm Nguyên Vẹn Mẹ Tinh Khôi
 
Thưa Mẹ, dẫu mai nầy bóng xế
Tà dương con đứng níu chiêm bao
Khói sương lạnh lắm, không còn Mẹ
Tóc trắng đời con bỗng nghẹn ngào...

2718




- Cậu làm thế nào mà chỉ trong 3 năm đã có được một sản nghiệp đàng hoàng như thế này?
- Tớ liên kết với một doanh nghiệp có nhiều vốn.
- Tỷ lệ đóng góp thế nào?
- Anh ta lo vốn còn tớ góp kinh nghiệm.
- Kết quả ra sao?
- Như cậu thấy đấy, tớ thì có tiền còn anh ta tích lũy được kinh nghiệm.

2068




Dê đực chửa


Tiếng tăm về cầu bé thần đồng ở vùng Thanh Hóa bay đến kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thật như thế nào, bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không nộp sẽ bị trị tội. Dân chúng phủ Thanh Hóa hốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:

- Về việc ấy xin Thầy đừng lo. Thầy cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng.

Nghe con nói, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại với dân làng. Không có cách nào khác mọi người đành làm theo lời yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô đúng lúc nhà vua có việc đi qua cửa Đông. Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống lên. Vua sai lính lôi đứa bé đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đãy là vua, càng gào to, kể lể:

- Mẹ tôi chết đã mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi vẫn không chịu đẻ em bé cho tôi bế...

Vua cho là đùa bé bị bệnh dại ngây, cười và nói:

- Mày thật là đần độn, đàn ông mà đẻ sao được!

Bãy giờ Quỳnh nín bặt, đứng chắp hai tay nói rất trang nghiêm:

- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa.

Nghe nói, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé ở Thanh Hóa mà bấy lâu nay mình vẫn nghe đồn.
45




Chuyên gia tư vấn tình yêu hỏi cậu khách hàng trẻ tuổi:

- Thế nào, lời khuyên của tôi về chuyện hôn bạn gái vào lúc cô ta bất ngờ nhất có giúp ích gì cho cậu không?

- Quỷ tha ma bắt nhà ông! Bị cốc lia lịa vào đỉnh đầu chứ ích gì.

- Ô hay! Cậu rúc vào đâu mà ăn cốc trên đỉnh đầu?

- Thế không phải là hôn vào chỗ cô ta bất ngờ nhất sao?2025




Cô giáo dùng ngón tay trỏ chỉ trên bản đồ một điểm rồi hỏi:


- Đây là cái gì?


Trò:


- Thưa cô, đấy là ngón trỏ của cô ạ...
 


***


Thầy giáo viết lên bảng câu: “Người đàn ông lang thang đã chết đói!”. Rồi quay lại hỏi học sinh:


- Này Tí, em cho thầy biết chủ ngữ ở đâu?”


- Ơ.. Có lẽ dưới mồ ạ!!!

440




Một sinh viên viết thư về nhà.

"Thưa bố mẹ,

Con cảm thấy rất đau khổ khi cứ phải viết thư để xin tiền bố mẹ. Con cảm thấy xấu hổ và không vui vẻ gì khi phải hỏi xin ba mẹ thêm 100 đôla nữa. Con quì gối cúi xin ba mẹ rộng lòng tha thứ cho con.

Con trai của ba mẹ,
Marvin.

Tái bút: Con cảm thấy quá đau khổ nên đã chạy theo người đưa thư để lấy lại. Con muốn lấy lại lá thư và đốt cháy nó. Con đã cầu nguyện là con muốn lấy lại nó được nhưng mọi việc đã quá trễ."

Một vài ngày sau chàng sinh viên nhận được một lá thư từ ông bố.

"Lời cầu nguyện của con đã được chấp thuận. Lá thư của con không bao giờ tới nơi!!!"1124




Hai ông chồng gặp nhau:


- Này cậu, sao dạo này cậu gầy thế?


- Vì mình cưới được nàng tiên!


- Cô ấy đẹp lắm sao?


- Nào có đẹp gì cho cam! Hình thức thì cũng thường thường bậc trung nhưng được cái ăn ngủ tốt nên bao nhiêu việc trong gia đình mình phải gánh vác tất.


***


Một anh chàng tâm sự với bạn nhậu ở quán bia:


- Từ hồi lấy vợ đến giờ, tôi thấy mắt mình có vấn đề...


- Vì sao vậy?


- Bởi vì từ lúc lấy cô ấy về, tôi chẳng bao giờ trông thấy tiền!

441




 khổ trong đời là điều không thể tránh, nhưng sầu thảm lại là vấn đề tự chọn của mỗi người.

Mỗi tháng người quản lý của nghĩa trang đều nhận được một số tiền từ bà mệnh phụ tật nguyền đang được điều trị tại một bệnh viện trong thành phố. Số tiền ấy dành để mua hoa đặt lên mộ người con của bà ta, một chàng trai trẻ đã chết trong một tai nạn ô tô hai năm về trước.

Ngày nọ, một chiếc ô tô đi vào nghĩa trang và dừng lại trước ngôi nhà phủ đầy dây trường xuân, đó là nơi bác quản lý nghĩa trang sử dụng làm văn phòng tiếp khách. Người tài xế bước xuống xe. Ở băng ghế sau, một người phụ nữ lớn tuổi ngồi nhắm mắt bất động, bà ta trông xanh xao như một xác chết.

“Bà ta yếu quá. Không thể ra khỏi xe được,” người tài xế nói với bác quản lý nghĩa trang. ”Xin bác vui llòng lên xe, đưa chúng tôi đến mộ thằng bé con bà ấy. Bà ta cũng muốn yêu cầu bác giúp cho một số việc. Bác thấy đấy, bà ta không còn sống được bao lâu nữa. Bà ấy đã yêu cầu tôi, một người bạn cố cựu của gia đình, đưa bà ấy đến đây để thăm mộ con trai lần cuối.”

“Có phải là quý bà Wilson đấy không?” Bác quản lý đưa mắt nhìn sang bà mệnh phụ ngồi trong xe. Ông tài xế gật đầu.

“Vâng, tôi biết bà ấy.” Bác quản lý gật gù. “Hằng tháng, bà Wilson có gửi tiền cho tôi để đặt hoa cho ngôi mộ của con bà ta.” Bác theo ông tài xế đến bên xe, bước vào hàng ghế sau ngồi cạnh bà mệnh phụ. Hai người lặng lẽ chào nhau qua ánh mắt. Bà ta trông mong manh như cánh hoa tàn úa và xanh xao như một xác ướp, bác quản lý nhận xét thầm. Trong con người của bà ta, tất cả đều đã buông xuôi và từ chối cuộc sống, ngoạit rừ đôi mắt; đôi mắt sâu thẳm mang nặng một nỗi đau thầm lặng và u uất.

“Tôi là bà Wilson.” Bà ta thầm thì. “Hai năm qua, mỗi tháng…”

“Vâng, đúng vậy. Mỗi tháng tôi đều nhận được tiền của bà.” Bác quản lý nhẹ nhàng đỡ lời.

“Hôm nay, tôi đến đây,” bà Wilson cố gắng nói tiếp, “bởi vì các bác sĩ trong bệnh viện nói rằng tôi chỉ sống được vài tuần nữa thôi. Trước khi tôi chết, tôi muốn được nhìn mộ con trai tôi lần cuối. Nhân tiện tôi muốn gặp ông để thu xếp việc gửi tiền đặt hoa cho mộ con tôi sau này.”

Bà có vẻ kiệt sức vì phải nói nhiều. Chiếc xe chầm chậm rẽ vào một ngõ hẹp, tiến dần đến ngôi mộ đứa con trai bà mệnh phụ ấy rồi dừng lại. Bà mẹ tội nghiệp cố sức ghé qua đầu qua ô cửa kính để nhìn ra ngôi mộ của con. Không gian tĩnh lặng, tiếng chim chíu chít đâu đó bên trên những tán cây.

Bác quản lí nghĩa trang lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng. “Thưa bà, tôi luôn lấy làm tiếc vì món tiền bà đã thường xuyên gửi đến để đặt hoa cho ngôi mộ.”

Thoạt đầu bà mệnh phụ có vẻ không nghe được câu nói ấy. Sau đó bà chầm chậm xoay đầu lại.”Xin lỗi ông” bà ta thì thào.” Ông đang nói đến việc gì thế! Con trai của tôi…”

“Vâng, tôi hiểu” bác quản lí dịu dàng ngắt lời. “Bà biết không, tôi là thành viên trong nhóm cứu trợ nhà thờ. Hằng tuần chúng tôi đều tổ chức đi thăm bệnh viện, trại tế bần, nhà dưỡng lão, nhà tù…Ở những nơi ấy, có nhiều người sống cần được quan tâm, đa số họ đều yêu thích hoa. Họ còn có thể nhìn ngắm màu sắc và thưởng thức mùi hương của hoa. Còn ngôi mộ này…” bác quản lí đưa mắt về phía ngôi mộ”…không có sự sống trong đó, không có ai nhìn ngắm và thưởng thức nét đẹp và hương thơm của hoa. Vì thế, tôi…” Bác quay mặt đi và tránh cái nhìn của người mẹ sầu khổ, giọng của bác lạc dần rồi tắt hẳn.

Bà mệnh phụ không nói gì cả, mắt đăm đăm nhìn về phía ngôi mộ của cậu con trai. Dường như hằng tiếng đồng hồ đã trôi qua trong bầu không khí lặng lẽ và ngột ngạt ấy. Cuối cùng bà ta khẽ đưa tay ra hiệu, người lái xe cho xe quay trở về phòng tiếp khách của nghĩa trang.

“Mình đã xúc phạm bà ấy,” bác quản lý đưa mắt nhìn theo, lòng thầm nghĩ. “Đúng ra mình không nên nói cho bà ta biết điều ấy.”

Vài tháng sau, bác quản lí nghĩa trang không khỏi ngạc nhiên trước một cuộc viếng thăm bất ngờ và thú vị. Bà mệnh phụ ấy đã tìm đến gặp bác. Lần này không có tài xế, bà ta tự mình lái xe đến nghĩa trang. Bác quản lí không còn tin vào mắt mình nữa.

“Vâng đã nói đúng, ông quản lí thân mến!” Bà Wilson vui vẻ mở lời. “Về chuyện thưởng thức hoa đó mà! Đó chính là lý do tại sao tôi ngưng gởi tiền cho ông suốt mấy tháng vừa qua. Hôm ấy tôi trở về bệnh viện, không thể nào gạt được những lời của ông ra khỏi tâm trí. Sau đó tôi bắt đầu đặt hoa gởi tặng cho các bệnh nhân trong bệnh viện, những người không đựơc ai tặng hoa cả. Tôi cảm thấy vui khi họ yêu thích và thưởng thức chúng – những cánh hoa tươi đẹp đến từ một người hoàn toàn xa lạ. Điều đó đã khiến họ vui và tin tưởng hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, điều đó đã làm tôi hạnh phúc và vui với cuộc sống.”

“Không có vị bác sĩ nào hiểu được,” bà ta nheo mắt, “phép lạ nào đã khiến tôi bình phục nhanh đến thế. Chỉ có tôi biết được điều ấy thôi!”



1010




Một du khách Anh đến đảo Corse. Ông thấy trên bến cảng một ngư dân trẻ đang nằm trên thuyền câu hút thuốc và nhìn trời. Ngạc nhiên, ông hỏi:
- Tại sao anh không làm việc để có chiếc thuyền thứ hai?
- Để làm gì?
- Với số tiền có được từ con thuyền thứ hai, anh sẽ mua chiếc thứ 3, thứ 4, rồi cả đoàn thuyền.
- Rồi sao nữa?
- Với số tiền có được từ đoàn thuyền, anh có thể nghỉ ngơi.
- Vậy ông xem, tôi đang làm gì đây?
1717








Một ông Vua kia có nuôi bốn con rắn độc. Con thứ nhất tên "Rắn mỏ cây" (Kattha mukha) vì có cái mỏ cứng như cây, mổ đau lại có nọc độc. Rắn thứ nhì tên "Rắn mỏ thúi" (Puti Mukha) vì mỗi lần cắn ai thì thân thể người ấy sình thúi và tan rã ra nước. Thứ ba là "Rắn mỏ lửa"vì ai bị rắn này cắn thì nghe trong mình nóng như bị lửa thiếu đốt đến chết. Thứ tư là "Rắn mỏ khí giới" (Sattha Mukha) vì có răng thật bén, mỗi lần cắn ai thì cũng như dùng khí giới gây tử thương người đó. Vua giao phó việc chăm nom bốn con rắn ấy cho một ông quan cận thần. Khi nào có ai phạm trọng tội thì bị cho rắn cắn. Lúc có chiến tranh thì Vua thả rắn ra diệt trừ quân địch.

Hôm nọ có một tên trộm đáng bị tử tội. Vua truyền đem tội nhân cho rắn cắn. Ông quan dẫn tên tử tội đến chuồng rắn và mở nắp ra. Một trong bốn con rắn bò ra, quấn tay mặt tội nhân và gác đầu bên vai trái. Con thứ nhì quấn mình quanh tay trái và gác đầu lên vai mặt. Con thứ ba quấn ngang bụng. Con thứ tư quấn cổ và gác mỏ lên đầu tên trộm. Bị rắn quấn đầy mình mà anh không tỏ vẻ lo sợ chút nào. Vừa lúc ấy có một vị hiền nhân giàu lòng bác ái đi ngang qua thấy vậy hỏi:

- Anh không sợ chết hay sao?

Anh vừa chỉ rắn vừa đáp:

- Ðây là các vật trang sức của tôi. Tay tôi đeo neo, bụng thắt dây lưng, cổ có kiềng và dây chuyền, đầu lại đội mão.

- Không phải đâu, đó chỉ là bốn con rắn độc.

- Tôi có thấy đâu là rắn độc. Nó có vẻ hiền lành lắm và đeo trên mình tôi thế này là đẹp lắm đấy chớ!

- Bạn nên suy nghĩ lại kỹ càng và hãy bắt đầu lo từ bây giờ. Không nên lãng quên. Một ngày kia một con rắn sẽ bảo bạn đứng dậy nếu không thì nó không chịu. Nếu bạn làm theo thì ba con rắn kia bất bình. Rồi con thứ nhì sẽ bảo bạn đi tới. Rồi con thứ ba bảo bạn nằm, con thứ tư bảo bạn ngồi. Bạn không thể nào thoát khỏi ách nô lệ của chúng nó và bạn luôn luôn bị tai họa.

- Vậy bây giờ tôi phải làm thế nào?

- Bạn hãy lén lén bỏ rắn vào chuồng và mau chạy thoát ra khỏi chốn này.

Tên tội nhân làm y theo lời dạy.

Khi ông quan hay được thì vào triều tâu lại tự sự cho Vua. Vua truyền thả rắn ra rượt theo. Bốn con rắn cố sức chạy theo tên tội. Cùng một lúc ấy vua truyền năm tên binh sĩ theo phụ sức với rắn bắt cho được tên trộm, nếu thành công sẽ được trọng thưởng.

Vua cũng truyền gọi một người bạn chí thân của tội nhân đến dạy phải rượt bắt. Nếu bắt được tội nhân, vua sẽ phong cho làm đại tướng.

Nói về tên trộm, khi thoát ra khỏi chỗ nguy hiểm thì có ý dễ duôi hưởn đãi. Vị hiền nhân xuất hiện và nhắc nhở anh rằng tuy đại nạn vừa thoát khỏi nhưng anh chưa được châu toàn đâu. Hãy cố gắng, cố gắng tìm phương thoát nạn.

Anh vâng lời ráng sức chạy. Ðược một đỗi thì đến một làng nọ. Bụng đói, sức đuối, anh chạy riết vào làng tìm thức ăn và chỗ nghỉ nhưng đó chỉ là một làng bỏ hoang. Trong làng có sáu cái nhà mà nhà nào cũng vắng tanh. Chén dĩa nồi niêu đều trống không. Anh đâm ra chán nản, tìm một gốc cây dựa lưng vào nghỉ.

Vị hiền nhân lại xuất hiện và khuyên anh chớ nên trì hưỡn vì có thêm sáu tướng cướp đang chạy vào làng cùng bắt anh. Anh hoảng sợ bỏ chạy nữa. Một lúc sau anh đến trước một con sông rộng lớn. Từ bờ bên này qua bờ bên kia xa xa có một cù lao, có tất cả ba cù lao. Trong lòng sông, bốn giòng nước lũ gặp nhau xoay tròn thành một cái xoay rộng lớn. Bên kia bờ cỏ cây có vẻ yên tĩnh, nhàn lạc và an toàn. Còn bờ bên này thì chông gai đầy dẫy, phía sau lại có bốn con rắn, năm tên lính, người bạn thân trở mặt và sáu tên cướp đang rượt theo.

Nhưng làm sao qua sông? Không có cầu. Thuyền cũng không. Anh liền tìm cây và dây trong rừng kết lại làm một chiếc bè và hết sức cố gắng dùng cả tay lẫn chân bơi cho bè mau tách xa bờ. Khi đến cù lao thứ nhất anh ngoảnh nhìn lại phía sau thì thấy rắn, lính, người bạn và tướng cướp tất cả đều đến ven sông. Nhìn ra phía trước thấy còn hai cù lao và bờ bên kia. Anh lại nỗ lực bơi riết qua cù lao thứ nhì, thứ ba và rốt cùng đặt chân lên bờ bên kia, trên giải đất an lành tươi đẹp. Anh nghe trong người khoan khoái nhẹ nhàng, sẵn sàng bỏ lại sau lưng chiếc bè và bao nhiêu gian lao nguy khổn.

Bốn con rắn, năm tên lính, người bạn thân và sáu tên cướp biết rằng không thể nào bắt được tên tội nên buồn rầu. kẻ trước người sau, tất cả đều chết.

1228





Xe dừng hẳn, vợ hỏi chồng:
- Anh yêu, hãy nhìn xem em đỗ xe có xa lề đường quá không?
- Em định nói đến lề bên nào?



Nhìn thấy một chiếc Rolls-Royce lộng lẫy, chồng quay sang vợ tấm tắc:
- Em xem kìa! Xe thế mới gọi là xe chứ!
- Nhưng xe này không đi picnic, không ra rừng ngoại ô được.
- Ôi dào, nếu em đã có tiền mua chiếc xe như vậy, thì người ta sẽ mang cả rừng đến tận nhà cho em.
1782





     Tôi đã viết nhiều truyện về nước mắm, chẳng phải tôi là người dân xứ nước mắm mà chỉ vì hằng ngày tôi thường ăn nước mắm. Chúng ta dễ quên đi những điều thường ngày. Tôi nghĩ nếu có lần bạn thử không quên và hết sức chú ý đến chúng, điều thường ngày sẽ có khối chuyện hay xảy ra.

      Hàng ngày thay mặt ông chủ, tôi thường liên hệ với các nhà lều sản xuất nước mắm ở Phan Thiết, nhưng đặt chân đến đó thì chưa bao giờ. Sáng nay, bận công việc đột xuất, ông chủ giao tôi theo xe tải từ Đà Lạt xuống Phan Thiết nhận hàng. Hàng của chúng tôi không phải là nước mắm mà là "xác mắm" - loại phân bón tối ưu cho các nhà vườn trồng légumes ở Đà Lạt. Bạn đã bao giờ thấy xác mắm chưa? Đó là xác những con cá nát bấy được vét từ đáy những thùng muối mắm. Thấy xác mắm, bạn sẽ quên nó ngay vì nó chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu đã ngửi nó một lần trong đời, chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên nó được.

      Xe tải đến Phan Thiết lúc hai giờ chiều. Trời nắng gắt. Nhà lều chúng tôi đến lấy xác mắm nằm sát bên bờ sông Mương Mán nhưng không có ngọn gió nào từ mặt sông thổi lên. Tôi lấy khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt rồi bước vào văn phòng làm việc. Một người đàn ông tóc đã có những sợi bạc, đeo kính lão, đang ngồi xem sổ sách. Chếch về phía bên phải bàn làm việc của ông, một cô thư ký tóc dài đang ngồi đánh máy chữ lóc cóc. Tôi mỉm cười thầm nghĩ, ông chủ này chịu chơi, tuyển nữ thư ký "nhí" ghê!

      - Chào ông, tôi đại diện cho ông Quang ở Đà Lạt xuống nhận hàng.

      Người đàn ông đứng dậy, vồn vã bắt tay tôi:

      - Mời cậu ngồi. Tôi đã nghe điện thoại ông Quang dặn giao hàng chiều nay. Nhưng tôi gom chưa đủ số lượng. Vậy cậu hãy chịu khó đợi đến sáu giờ chiều, chúng ta sẽ cân hàng và chất lên xe luôn.

      Rồi ông già quay qua cô thư ký "nhí," nói:

      - Con lấy cho ba hai chai nước ngọt.

      Cô thư ký rời bàn máy chữ đi vào nhà trong. Tôi ngạc nhiên hỏi ông chủ:

      - Cô ấy là con gái của ông?

      Ông chủ cười hề hề:

      - Nó là con gái út của tôi. Nó đang học lớp 12 trường Phan Bội Châu. Những lúc rảnh, nó thường phụ giúp tôi đánh máy mớ giấy tờ. Cậu mới xuống Phan Thiết lần đầu?

      - Dạ phải.

      - Vậy trong khi chờ đợi nhận hàng. Tôi sẽ nói con gái tôi dẫn cậu đi coi phố xá hay đi tắm biển.

      - Cám ơn ông. Tôi thích tắm biển hơn, vì ở Đà Lạt chỉ có hồ với thác, không bơi lội được.

      Cô bé bưng ra hai ly nước đá và hai chai nước ngọt để xuống bàn. Ông chủ nói:

      - Ba phải đi lo giấy tờ chuyên chở hàng kẻo chiều tối công sở họ nghỉ việc. Con thay ba dẫn ông khách đây đi tắm biển, ông ấy mới ở Đà Lạt xuống chưa biết biển Phan Thiết nằm ở đâu.

      Cô bé quay qua nhìn tôi. Tôi cố gắng nở nụ cười thật tươi để em không từ chối. Và may mắn thay, cô bé đã gật đầu.

      Uống một hớp nước ngọt, ông chủ nói:

      - Cậu đi tắm biển vui vẻ nghe. Sáu giờ chiều mời cậu về đây ăn bữa cơm gia đình rồi chúng ta cùng cân hàng.

      Ông cầm túi xách đứng dậy, dắt chiếc xe Honda đỏ ra khỏi nhà. Cô bé hỏi tôi:

      - Ông có biết bơi không?

      - Em hỏi làm chi?

      - Để em biết nên dẫn ông đến chỗ bãi biển cạn hay sâu.

      - Tôi sợ chết đuối lắm. Em dắt tôi đến chỗ nào nước sâu đến... trái tim là được.

      Cô bé mỉm cười đi vào nhà trong sửa soạn. Tôi đi ra chỗ xe tải đậu, nói tài xế đợi đến sáu giờ chiều mới nhận hàng. Tôi với lấy túi xách có đựng quần tắm và khăn lông, tôi đã dự trù mang theo từ Đà Lạt xuống đây đợi có dịp là đi tắm biển bơi lội cho thỏa thích.

      Một lát sau cô bé chạy chiếc xe cúp màu xanh rêu đến bên chiếc xe tải. Tôi vội nhảy lên ngồi ở yên sau. Cô bé tắt máy xe, bước xuống:

      - Ngồi vậy kỳ chết. Ông ngồi trước lái xe đi.

      - Nhưng tôi đâu có rành đường. Chạy lạc thì sao?

      - Ông khỏi lo, em ngồi sau chỉ đường cho ông.

      - Trời đất! Đâu có ai ngồi sau mà "chỉ đạo" được người ngồi trước.

      - Có chứ. Mấy ông "sếp" thường ngồi ghế sau xe hơi chỉ đạo cho tài xế ngồi ghế trước.

      Tôi nhăn mặt ngồi lên yên trước, đạp máy xe nổ. Cô bé ngồi xuống yên sau, vỗ nhẹ vào vai tôi:

      - Ông cho xe quay lại.

      Theo sự hướng dẫn của cô bé, tôi cho xe chạy lòng vòng qua một vài đường phố chính. Thành phố này chưa xây dựng nhiều nhà mới. Những ngôi nhà cũ kỹ được quét lớp vôi mới nhưng những mái ngói vẫn để nguyên màu nâu đen. Xe chạy qua một cây cầu mới xây ra ngoại ô. Hai bên đường, nhà cửa cũng còn mới được xây dựng nên mái ngói còn đỏ tươi. Qua một đoạn đường đầy ổ gà, xe bắt đầu leo dốc lên một đỉnh đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cô bé vỗ vai tôi.

      - Dừng lại.

      Tôi thở phào hỏi:

      - Đến rồi hả?

      - Đến rồi.

      Tôi lái xe vào một chỗ trống, tắt máy, đứng nhìn quanh. Trời đất! Biển xanh thẳùm ở tuốc phía xa dưới chân đồi. Trên sườn đồi cây cỏ dại mọc tùm lum không thể chạy xe được. Nếu muốn tắm biển phải đẩy xe xuống dưới đó rồi lại đẩy xe lên, chắc tôi sẽ bị "xụm bà chè."Trong khi tôi đang phân vân có nên tắm biển hay không thì cô bé lấy sợi thun cột mái tóc đang bị gió thổi bay tung lên. Em hỏi:

      - Ông có biết ông đang đứng ở đâu không?

      Tôi nhìn xuống chân mình, quan sát kỹ lưỡng rồi trả lời:

      - Tôi đang đứng trên vùng đất pha đá.

      Cô bé lắc đầu:

      - Ông đang đứng trên nền Lầu Ông Hoàng được người Pháp xây dựng từ năm 1920 và bị sụp đổ năm 1945. Địa danh này nổi tiếng với chuyện tình của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm.

      Nóng mũi vì thấy kiến thức của mình thua cô học trò lớp 12, tôi nói gắt:

      - Tôi không cần biết Ông Hoàng là ai. Tôi cũng không cần biết thi sĩ Hàn Mặc Tử yêu ai. Tôi chỉ biết tôi đang yêu...

      - Ông yêu ai?

      - Yêu... xác mắm.

      Cô bé lững thững bỏ đi vào một vùng cây leo bò xanh rì mặt đất và nổi bật lên những chùm hoa đỏ hồng. Sợ cô bé bị rắn cắn hay bò cạp chích, tôi vội đi theo em để xem nếu có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ về báo cáo với ba em thật chính xác: em bị rắn nào cắn hay bị loại bò cạp nào chích. Chứ nói vu vơ ba em sẽ coi thường tôi thiếu óc quan sát thực tế.

      Cô bé dừng lại bứt một bó hoa đỏ hồng rồi quay lại hỏi tôi:

      - Ông có biết hoa này tên gì không?

      Tôi lắc đầu:

      - Ở Đà Lạt tôi chỉ rành tên các loại rau củ, còn tên hoa thì chịu thua.

      - Đây là hoa Tigôn, được người Pháp đem qua trồng ở Lầu Ông Hoàng. Lâu đài đã sụp đổ nhưng loài hoa vẫn còn. Thi sĩ T.T.Kh đã tả "Hoa dáng như tim vỡ" ông thấy đúng không?

      - Không. Tôi thấy nó giống đầu con cá cơm bị vỡ khi làm mắm.

      Cô bé thở dài:

      - Đầu óc ông không biết mơ mộng.

      - Em thông cảm cho tôi. Một người buôn bán xác mắm mà mơ mộng thì xác mắm sẽ "thơm lựng," bán không được thì tôi sẽ bị chết đói.

      Cô bé trao bó hoa đỏ hồng cho tôi:

      - Em tặng ông.

      Tôi cầm lấy bó hoa thắc mắc hỏi:

      - Em nói "Hoa dáng như tim vỡ." Vậy em tặng tôi loài hoa này làm chi? Tim tôi đâu đã... vỡ.

      - Em tặng ông để cảnh giác ông đừng làm vỡ trái tim.

      - Bộ tôi khùng rồi sao mà tự làm vỡ tim mình?

      - Nhưng ông có thể làm vỡ tim người khác vì không biết mơ mộng.

      Nghe cô bé nói nhức đầu quá, tôi đề nghị:

      - Chúng ta hãy tìm chỗ gửi xe rồi đi bộ xuống dưới kia tắm biển.

      - Chúng ta đã tắm biển rồi thôi.

      Tôi trố mắt nhìn em:

      - Chúng ta tắm biển hồi nào đâu?

      Cô bé cười, vòng tay chỉ quanh mình:

      - Ông không thấy chúng ta đang tắm trong biển hoa Tigôn sao? Tắm ở đây ông không sợ chết đuối vì hoa Tigôn chỉ mọc cao đến tim ông. Thôi trời sắp tối rồi, chúng ta hãy về kẻo ba em đợi cơm.

      Cơm nước xong, chúng tôi bắt đầu cân những bao lát chứa xác mắm chất lên xe tải. Mãi đến tám giờ tối công việc mới hoàn tất. Xe nổ máy, tôi bắt tay chào ông chủ rồi leo lên xe ngồi bên tài xế. Tôi vừa đóng mạnh cửa xe lại thì cô bé chạy đến, trao qua khung cửa xe bó hoa Tigôn.

      - Ông để quên cái này.

      - Cám ơn em. Mong có dịp chúng ta sẽ lại cùng nhau đi tắm biển Tigôn.

      Xe chạy. Tôi buồn buồn nhìn bó hoa đỏ hồng. Tôi tưởng em sẽ đổi ý tặng tôi một lít nước mắm nhĩ loại đặc biệt hay một ký khô mực loại xuất khẩu để làm quà kỷ niệm, nào ngờ vẫn chỉ là bó hoa Tigôn.

      Xe chở xác mắm sẽ chạy suốt đêm để tảng sáng có thể giao hàng cho các chủ vườn légumes ở Đà Lạt. Thật kỳ lạ, khi xe chạy qua chỗ nào, những người đứng hai bên đường đều bịt mũi. Vậy mà tôi ngồi ngay trong xe lại ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu. Phải chăng hương hoa Tigôn đã át mùi xác mắm? Hay tại tôi đã biết... mơ mộng?
287




Chỉ còn có hơn tuần lễ nữa là vợ chồng chúng tôi du lịch sang Cuba, thế mà hầu như ngày nào, các con tôi cũng thay nhau phone về nhà, cằn nhằn cha mẹ,
Bộ bố mẹ không biết Cuba là xứ cộng sảo sao?
Bộ hết chỗ du lịch rồi hay sao mà bố mẹ lại chọn Cuba,?
Bố mẹ ham giá rẻ ?
Bố mẹ đổi vé đi Caribbean đi…..………
chúng nó làm tôi nản chí quá chừng, …nhưng chồng tôi thì không nao núng chút nào hết, có lẽ vì bản chất từ xưa đã thích mạo hiểm, nên chàng cứ tỉnh bơ và chàng đã muốn là “cọp” muốn……… ngày ra đi, chúng tôi lái xe ra phi trường Toronto gửi xe ở gần đó …..và lên máy bay , chuyến Canada 3000 chật ních đầy người, không còn một chỗ trống, tôi cũng lấy làm lạ, sao thiên hạ đi Cuba đông thế nhỉ? Và cũng cảm thấy yên lòng đôi chút, nhưng bản tính hay lo nên tôi quan sát những người chung quanh , và lại thắc mắc ghé tai chồng tôi hỏi nhỏ :
Anh ơi, sao không thấy có người á đông trên chuyến này, toàn là người da trắng….
Chồng tôi gạt đi : Vớ vẩn vừa vừa chứ “ bà cố ”……, …enjoy quyển truyện của bà đi. Tôi im ngay vì tôi biết , chồng tôi đã gọi tôi là “ bà cố “tức là chàng sắp bực mình rồi đấy , thế là tôi đành chú ý đến quyển truyện mà tôi đem theo, tôi đọc liên tục , thỉnh thoảng nhắm mắt lại và relax một chút cho khỏi mỏi cái mắt .Mãi cho đến khi tiếng cô chiêu đãi viên hàng không nhắc nhở seat belt thì tôi mới ngừng đọc. À, thì ra máy bay đã đến phi trường Holguin.
Em ơi, nhìn xem , tôi nhìn ra phía cửa sổ, chỉ thấy đồng không mông quạnh, …..xa xa một mái nhà thấp lè tè, có vẻ đơn sơ tựa như mái nhà bằng tôn , hoặc bằng lá………….
Lúc này ý nghĩ lo lắng lại trở về với tôi, nhưng không còn thì giờ suy nghĩ nữa , nhanh tay lấy cái xách tay ,check lại chỗ ngồi và chuẩn bị rời máy bay.
Chưa ra khỏi máy bay , mà tôi đã thấy cái không khí nóng bức, ẩm thấp làm tôi khó chịu, tôi ngơ ngác theo đoàn người đi trước vào một gian nhà , đó là một gian nhà lớn hai tầng lầu ……chỉ có một chuyến máy bay đáp xuống mà cái gian nhà này đã chật chội như vầy, nếu vài chuyến đáp cùng giờ thì sẽ như thế nào nữa……Tôi hỏi nhỏ chồng tôi :
Sân bay đây hả? Sao mình sắp hàng làm gì ở đây? Hành lý lấy ở chỗ nào?
Chồng tôi đáp: Trình giấy trước đã, thủ tục xong thì sẽ qua bên kia lấy hành lý.
Tôi nhìn quanh quẩn thấy những người mặc đồng phục ,trông như công an và những người có phận sự, đứng hầu như rải rác khắp nơi, người nào cũng lạnh lùng, im lặng và có vẻ đang quan sát.
Tâm trạng tôi lại trở về lo âu như trước, nhất là lúc đến phiên chúng tôi, chồng tôi bảo :
Ðể anh vào trước, anh trình giấy và bảo họ ,vợ chồng mình đi chung. Tôi lại càng không hiểu.
Tại sao, em và anh không vào trình giấy chung một lượt .? ……
không được, luật của họ là từng nguời một,
Rồi đến lượt chồng tôi vào, chồng tôi vừa bước vào trong là cánh cửa khép lại, tôi chỉ còn thấy đôi chân chồng tôi , tôi đứng sắp hàng mà lòng lo âu, coi chừng bị hỏi lôi thôi và lại lòi ra cái đuôi trốn cộng sản Việt Nam……và một thoáng nghĩ đến lời các con tôi dặn, "hễ có chuyện gì là cố gắng cho tụi con biết tin ngay " tôi ngơ ngác kiếm cái phone công cộng, mà chẳng thấy chỗ nào có, mà hễ tôi nhìn đâu thì tôi cảm thấy như công an đang nhìn tôi……rồi vài phút trôi qua,…
Ðến lượt tôi, tôi vừa vào và cánh cửa khép lại sau lưng, lúc đó tôi không còn thấy chồng tôi đâu hết mà chỉ thấy tôi và tên công an Cuba, tôi cố gắng bình tĩnh ,mỉm cười chào nó, bằng tiếng Spanish đã học lóm được trước khi đi, “OH la.”
Nó cũng mỉm cười và chào tôi "Hi."…
Nó xem giấy tờ tôi không lâu như xem cho chồng tôi, trong lúc nó biên giấy tờ , tôi quan sát,chỗ tôi đứng , có gương phía sau lưng trên cao , để tên công an có thể quan sát từ đầu đến chân tôi, ….. và tôi được mở cửa bước ra ngoài, tôi gặp chồng tôi đứng chờ đấy, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lấy hành lý, lên xe bus để về resorts mà chúng tôi đã book . Trời bắt đầu nhá nhem tối, tôi nhìn chung quanh phi trường của island này , sao mà nhỏ quá, chỉ có thế là hết, tôi lại thì thầm vào tai chồng tôi, chắc không có người Việt Nam nào bay sang Cuba,
chồng tôi trả lời: Có chứ, em không nhớ Lý Tống sao? tôi sực nhớ, tôi kêu lên , nếu anh nhắc đến Lý Tống từ lúc ở nhà là không bao giờ em qua đây.
Chồng tôi bật cười trấn an tôi : Lý Tống khác, mình khác, mình đâu có liên hệ gì đến LT. ( tôi không rành về chính trị nhưng cũng lờ mờ nghe về Lý Tống bay qua Cuba rải truyền đơn chống cộng ….)
Con đường từ sân bay về đến resorts chỉ có 50km , mà tôi cảm thấy như xa lắm, đường đi dằn sóc, tối om, không môt ánh đèn đường, nhìn kỹ hai bên là rừng , hoặc đất bỏ hoang, cây cối có vẻ như khô héo, xa xa có một mái nhà , trông như mái nhà tranh, với ngọn đèn dầu leo lét, trời ơi, sao mà buồn bã ảm đạm, phải chi đây là Việt Nam quê hương tôi , thì tôi còn cảm thấy an ủi một chút, mà hình như cả xe cũng cảm thấy như vậy nên cái không khí trong xe như ngột ngạt, im lặng không một tiếng động , thỉnh thoảng xe ngừng lại, mọi người lại xì xào hỏi nhau,
Sao vậy? …..thì ra con đường quá nhỏ nên , mỗi lần có xe đi nguợc chiều, là tái xế phải rà xe lại , nép sát vào ,chờ cho chiếc xe đi ngược chiều qua , sau cùng chúng tôi cũng đến resource.
Chưa quẹo vào cái cổng riêng biệt , tôi đã nghe mọi người xôn xao mừng rỡ, …Cái cổng có hàng chữ bằng đèn “ Breezes costa verde, Super clubs” đèn sáng choang tôi có cảm tưởng như vào thiên đàng vậy,( có lẽ từ nảy giờ tôi đã lo sợ và có ấn tượng xấu về cuộc du lịch nên bây giờ khi nhìn thấy một nơi đầy ánh sáng tôi tưởng đến thiên đàng,)

Xuống xe đã có nhiều người Cuba ăn mặc đồng phục, đó là người của resorts này, họ nói rành tiếng Anh, họ niềm nở chào hỏi và giúp du khách mang hành lý vào ,chúng tôi chỉ chờ lấy chìa khóa phòng nữa là xong, vào phòng , tôi quan sát …..phòng rộng rãi đủ tiện nghi, và tất cả cái gì cũng delux , từ washroom cho đến bàn ghế trong phòng , tôi rất hài lòng , tôi mở cửa ra balcon , làn gió mát mẻ lùa vào tóc tôi, rồi mùi hoa thơm, cỏ lạ làm tôi sảng khoái, tôi nhìn ra xa xa, sau những rặng cây ,mặc dù trời đã tối đen , tôi cũng đoán ….. hình như là biển, đúng rồi vì tôi đã nghe tiếng sóng biển rì rào, nhè nhẹ vỗ vào bờ, …….
Em ơí ! lẹ lên, thay quần áo xuống hồ bơi trước, rồi ăn sau, trước khi ra khỏi phòng , anh còn xem lại bản đồ chỉ dẫn để biết chỗ nào là ,lobby, chỗ ăn , hồ bơi, …..
Hồ nước trong veo với nhiều ngọn đèn sáng , chúng tôi bơi bên hồ mát rồi qua hồ ấm, tôi thả ngửa , relax, nhìn bầu trời đầy sao, niềm lo âu mệt mỏi trong tôi tan biến đâu mất,…. rồi tôi ch270




Chim báo nước kêu khắc khoải cả đêm. Lìm lịm một nỗi buồn. Vậy thì đâu phải nó báo nước ròng, nước lớn . Chắc nó gọi bạn tình. Mấy hôm rày không hiếu vì sao chim báo nước mỗi ngày mỗi thưa dần tiếng bìm bịp thân quen. Cái anh chàng lầm lì ấy vô đồng đã mấy hôm nay. Chắc anh ta là thủ
phạm! Không biết anh ta ăn gì uống gì , chỉ thấy cứ đi rảo khắp lung , khắp bàu , rồi thỉnh thoảng... ngồi thừ ra trên một doi đất.
Hường nằm vắt tay lên trán , lắng nghe mãi tiếng bịp bịp buồn như tiếng thầy chùa tụng kinh. Rằm tháng mười vừa qua Hường có đi chùa Bà cúng cho chùa hai lít dầu hôi . Chùa buồn hiu trống huếch
trống hoác có gì đâu mà tới ; nhưng người ta đi thì Hường cũng đi , đi để rút một cây xăm cho có vậy thôi. Cốt yếu là để đem dầu cúng cho chùa. Mùa nước lênh láng , nhà chùa kiếm đâu ra củi ? Sư trụ trì thì già lắm. Già còn hơn cả cây săng máu nơi bến sông trước cửa . Nghe nói ngày xưa sư thất tình mới đi tu . Tu riết sư chỉ còn nắm xương bọc da trông cằn cỗi như gốc bần dầm nước.
Hường ngó vào mắt nhà sư thấy tồi tội, muốn khóc . Đời Hường có vui gì . Gần ba mươi mà vẫn héo hắt trên bến sông ngân ngấn nước . Sáng ra khỏi nhà , gặp bến sông. Chiều trở về lại cũng gặp bến sông . Ở không, ngồi chong mắt ngó mông ra cửa cũng chỉ có bến sông ấy - bến sông với cây săng máu trơ trọi thả nghiêng vòm lá , lúc nào cũng nghe xào xạc một điệu buồn u ẩn , lúc nào cũng ngân ngấn nước như sắp òa khóc một nỗi buồn cô quạnh .
Trưa qua , Hường thấy người đàn ông lầm lì ấy ngồi vấn thuốc hút khan dưới gốc cây săng máu. Chẳng thấy đồ nghề gì, chỉ thấy cái giỏ lác để hờ hỏng dưới chân. Anh ta ngồi thừ ra, từ lối gần mười giờ sáng tới gần hai giờ chiều . Chẳng thấy ăn gì , uống gì , chỉ thấy hút khan thuốc giồng. Giữa trưa, Hường luộc một nồi khoai sáp , cũng muốn mời anh ta nhưng lại ngại . Biết người ta thế nào mà mời . Với nữa , chỉ nồi khoai chứ cơm nước gì . Lúc mẹ đi xóm về thì anh ta đã xuống xuồng bơi đi đâu . Chắc lại vô lung, vô bàu bắt chim bìm bịp . Tại sao cứ phải bắt chim chứ . Miệt đồng còn rộng rinh. Thả dăm tay lưới , quăng mấy tay chài cũng đủ kiếm sống qua ngày.
Muốn khá thì cất vó bè hay đóng đáy , vỡ thêm vài công ruộng. Tại sao lại cứ phải bắt chim bìm bịp.
Tiếng chim vẫn nỉ non áo não đâu đó ngoài bến sông . Con nước đang ròng , phải gần hừng đông mới lớn trở lại

o0o

Sáng sớm , Hường phải đi chợ xã bán mấy cần xé hột vịt . Khi về thì trời đã xế trưa , mặt trời chếch bóng cây săng máu gần cả thước . Lạ thật ? Người đàn ông đang ngồi ăn cơm dưới bếp. Mẹ ngồi tiếp anh ta có vẻ như rất thân thuộc . Anh ta ngồi ăn cũng lầm lì , cô độc . Chỉ thoáng nhìn cũng biết, anh ta phải ngoài bốn mươi, tóc dày và cứng , gương mặt xương xương , hai bàn tay thô ráp , cần cổ cao và nổi hai sợi gân như hai ngón tay .
Day lại thấy Hường , anh ta vừa gật đầu chào , vừa nói với âm thổ , như vọng từ trong lồng ngực ra:
- Cô Ba ngồi ăn chén cơm luôn thể ?
Lúc đó tự dưng Hường đỏ cả mặt . Kể cũng ngộ , nhà của mình mà mình lại mắc cỡ . Hường thấy lúng túng, tay chân như thừa ra . Đang tính bỏ đi lên nhà trên, Hường nghe mẹ nói :
- Thì bây ăn với nó một chén cho vui. Nó cũng người làng này chứ xa lạ gì .
Sáng tới giờ Hường chỉ ăn có hai cái bánh ú khi đang chạy ghe trên sông, giờ cũng đã thấy hơi đói. Cô bày ra dĩa mấy trái cam sành , mấy trái quít đường, rồi ngồi ghé xuống mâm cơm. Vừa ăn Hường vừa len lén quan sát anh ta. Mắt đã có vết chân chim. Vầng trán hằn mấy đường nhăn . Râu cằm và râu
mép lún phún như rễ tre. Đôi mắt thăm thẳm , lấp lánh hai đốm sáng sâu hút . Người như vầy là người có bản lĩnh, từng trải. Vậy cắc cớ gì lại đến đây bắt chim bìm bịp ?
Mới tháng trước bìm bịp còn kêu đầy ngoài bờ ô rô, bờ dớn, bờ choại, bờ cóc kèn . Từ khi anh ta xuất hiện, bìm bịp cứ thưa dần. Tối qua chỉ còn nghe một con nao niết gọi bạn.
Đang vừa ăn vừa nghĩ miên man , Hường chợt nghe người đàn ông nói ồ ề:
- Cô Ba ăn đồ ăn ? Cá rô kho tộ ngon thiệt ngon !
Anh ta bẻ đôi con cá rô to như bàn tay, gắp cho Hường khúc đầu. Tự dưng Hường xốn xang cả lòng dạ. Đây là lần đầu tiên trong đời Hường được một người đàn ông gắp đồ ăn cho. Xưa nay Hường chỉ
quen gắp đồ ăn cho mẹ, cho mấy cô bạn đến nhà chơi . Hường chưa bao giờ sống trong cảm giác được người khác chăm sóc , nhất là... người đó lại là một người đàn ông hoàn toàn xa lạ. Chính điều đó làm Hường càng lúng túng, ngượng ngập hơn.
Để lẩy lại bình tĩnh, Hường nói:
- Anh ăn đi, anh là khách mà!
Hường gắp phần cá còn lại cho khách, nhưng do lúng túng miếng cá bị rớt xuống mâm. Rõ là vụng về. Hường cuống cả lên. Người đàn ông lại cất tiếng ồ ê:
- Cô Ba để tui . Tui no rồi .
Nói xong, anh ta xoay sang cắt cam và bóc quít . Hai bàn tay thô ráp mà làm coi gọn bân . Dáng vẻ sần sùi bên ngoài hình như chỏi lại tính nết bên trong . Người như anh không lẽ lại vô đồng bắt chim đem bán, hay bắt chim ngâm rượu ? Nghe nói lóng rày người ta chuộng rượu rắn ngâm với thuốc bắc, chim bìm bịp và hải mã.
Khi Hường rửa xong chén bát trở lên nhà , người đàn ông đã ra đi . Việc anh không chào cô một tiếng làm Hường phật lòng . Hường phàn nàn với mẹ:
- Hình như anh ta đến dây bắt chim ? Hồi hôm này ngoài bến sông, chỉ còn một con kêu thôi.
Mẹ vừa ngoáy cơi trầu vừa nói:
- Nước giật hổm rày, có khi chim vô đồng kiếm ăn.
Hường vẫn thấy giận người đàn ông. Người đâu mà... ra đi không thèm chào ai một tiếng. Cô nói :
- Ổng suốt ngày chui lủi trong bưng , trong bàu. Dám ổng lùng bắt chim chớ còn ai vô nữa?
Mẹ ngồi chỏi chân trên bộ ngựa , nhìn vọng qua cánh đồng bên kia sông , nói giọng khàn khàn:
- Bây ngựa vừa thôi con ơi. Không thấy thì đừng nghi oan cho người ta. Tội chết!
Ừ mà Hường có thấy anh ta bắt chim hồi nào đâu. Chỉ thấy anh ta thui thủi , lần mò đây đó trong lung, trong bàu . Ảnh làm gì ở trỏng ? Mấy năm trước có người ở tận xứ nào kéo vô săn lùng cua đinh, rắn hổ ; công an xã và du kích phải ra tay mới dẹp được họ . Nếu anh ta tới đây bắt chim bìm bịp , chừng nào công an mới tha. Vậy thì anh ta làm gì ? Có ai ở không mà tha thẩn trong lung, trong bàu như vậy . Hường vừa nghĩ vừa xách cây phảng ra chế đất sau nhà.
Ngang qua lùm tre gai nghe xoạt một tiếng , nhìn qua vạt cỏ ống Hường thấy một con hổ ngựa đang quăng mình rượt chuột . Con rắn to và dài thấy sợ . Thân hình nó màu nâu vàng , ban ngày thường nằm nép trên cành cây hoặc ẩn mình trong hang hốc, chỉ đêm xuống mới đi kiếm ăn , khi trườn thì rất nhẹ nhàng, chỉ khi phóng tới bắt mồi nó mới tỏ ra nhanh nhẹn. Con hổ ngựa này chắc ở đâu mới tới. Trước đây trong bọng cây c%
C3205




Anh quay người, cất tiếng chào rõ to, thậm chí cố gắng đặt những bước chân quả quyết trên nền đất trước hiên, còn ngoái lại nói vọng vào nhà những câu dặn dò nghiêm túc, đủ cho mọi căn phòng của khu tập thể giáo viên hiểu rằng anh đã về.

Nhưng lúc vừa cất bước ra khỏi cổng, khuất lấp bởi rặng tràm hoa vàng, thì anh liền dừng lại. Vờ vạch quần làm một động tác đi giải, anh vừa lặng lẽ quan sát vẻ động tĩnh của ngôi nhà. Và khi khẳng định mọi cái trở nên yên ắng, an toàn, và căn phòng cô nàng tắt điện, lòng anh nhói lên, hồi hộp quay lại. Mười đầu ngón chân của một thời là lính trinh sát đặt nhẹ và êm, nương theo bóng tối nhạt nhoà của giậu mướp đắng. Giây sau, anh đã như một chiếc lá rơi nghiêng lên mặt thềm, vừa đưa tay ẩy nhẹ cánh cửa khép hờ. Cánh cửa âm thầm chốt lại sau lưng khi bóng anh chỉ như một ngọn gió thoảng mỏng lách vào phòng. Run rẩy và cẩn trọng, anh cố giữ bình tĩnh mọi thao tác trong bóng tối.

Và khi vắt vội bộ quần áo vừa cởi lên thành ghế tựa như mọi lần, anh đã cảm thấy những hơi thở nóng hổi nồng nàn phả vào bả vai. Anh quay lại, và trong bóng tối đen đặc, quờ tay gặp thân thể không dính một mảnh vải của cô nàng đợi sẵn. Hai người xoắn riết lấy nhau. Lát sau, anh bế cái thân hình múp máp, mềm nhũn như đã chết đặt nhẹ lên giường, nơi hình như cô nàng có vẩy ít nước hoa…

Những cuộc tình vụng trộm thế này, từ lâu với anh không còn lạ nữa; nó chẳng phải là nhu cầu của một tình yêu đắm đuối, say mê và hạnh phúc, đó chỉ là thói quen xác thịt xuất phát từ một nhu cầu vị kỷ của sự trả thù, của nỗi hận đời, một mối hận sâu kín, lặng câm và nặng nề đeo đẳng mãi không thôi…

Bây giờ, thằng con của anh, đúng hơn là thằng con của vợ anh, càng ngày càng lộ rõ dấu vết hình hài của ông ấy, đến nỗi không tài chị chịu được.

Có phải cuộc đời vốn kỳ cục, kênh kiệu, và vô lý vậy không. Đến nỗi, đôi khi, anh nghĩ mình như một thứ đồ chơi trong tay kẻ khác. Khi anh từ mặt trận về, còn tươi nguyên những dự định, những ước ao của người vừa học xong đại học, ông Phán đã giội ngay những gáo nước lạnh lẽo lên đầu, lúc anh cầm quyết định về Trường sư phạm của ông công tác. “Hừm”! cụt tay cụt chân cũng không, mắt mũi đui mù cũng không…”, cái nhìn của ông bằng đôi mắt săm soi qua khe hẹp giữa vầng trán rướn nhăn xếp lớp với cái kính lão già nua, gãy gọng một bên được thay bằng sợi chỉ buộc vòng qua tai trễ xuống tận sống mũi, cứ lướt trên người anh từ đầu đến chân, rồi từ chân lên đầu ngầm bảo “Không đui què mẻ sứt gì, sao gọi là thương binh? Hừm, hẳn là một gã “cu chuồn” được ai che chở đây!”, ánh mắt nghi hoặc, cẩn trọng của ông căn ke trên từng dòng hồ sơ của anh, lại nói thế.

Cuối cùng, sau khi đã cật vấn xét nét anh trên mọi phương diện, ông Phán cất giọng khàn khàn, khẽ đặc xái thuốc:

- Hèm! Bây giờ tôi tạm bố trí anh về chỗ tổ giáo viên toán. Anh phải cố gắng đi dự giờ, rút kinh nghiệm một thời gian.

Lúc đó, anh hoàn toàn không lường hết được cái nội dung thực chất hàm chứa trong quyết định này của ông Phán. Cũng phải thôi. Anh, một sinh viên vừa buông bút sau bài thi tốt nghiệp cuối cùng, đã khoác vội áo lính đi thẳng vào chiến trường. Và sau vài lần sốt điêu đứng và dự dăm ba trận đánh chưa rõ mặt địch, đã bị thương. Người ta lôi anh từ dưới hố B52 bầm dập và tứa máu: vội chuyển anh ra Bắc.

Và lần đầu tiên trong đời, hăm hở cầm quyết định bước vào nghề dạy học, nghề mà anh say mê, quý trọng và được đào tạo đến nơi đến chốn. Bởi thế, lúc đó với nghề, anh là tên lính mới tò te, nào đã biết mô tê chi các ngóc ngách của đời sống nhà trường, mà hiểu nổi dụng tâm của ông Phán? Mãi ba năm ròng rã, anh mới thấm thía sự ngu ngơ của mình trong việc chấp hành quyết định “đi dự giờ, rút kinh nghiệm một thời gian” đó của ông. Nghĩa là, trong ba năm đó, trừ những lúc sốt lăn sốt lóc, người ta coi anh như là người chưa có việc làm, đúng hơn là một thứ nhân lực dự phòng cho mọi thứ công việc đột xuất thường xảy ra không tên không tuổi ở một nhà trường. Xếp hàng mua gạo, thịt, bổ củi tập đoàn, dọn phòng thí nghiệm, đánh kẻng báo giờ… vân vân và vân vân.

Cho đến lúc, trong anh kỳ hết mọi ước mơ, mọi ý nguyện trở thành giáo viên giỏi mà anh hằng ngưỡng vọng, ôm ấp từ ngày làm đơn thi vào ngành; đến nỗi, những trang tích luỹ dày công, những đề cương nghiên cứu lâu dài, trước kia anh quý như vàng, giờ đây đã trở nên vô vị, vô nghĩa hết sức, nằm đóng bụi nhện chăng ở xó góc, chỉ còn mỗi tác dụng duy nhất là giúp anh nhóm lên ngọn lửa đủ luộc chín hai phần lon gạo cho hai bữa ăn của người độc thân trong mỗi ngày chủ nhật không có tập đoàn.

Thế mà sự cay cực vẫn chưa buông tha. Có một lần, có lẽ do thiếu người, người ta cho anh đi coi thi, một kỳ thi có giá trị nội bộ. Lúc đó trường còn ở nơi sơ tán của mười năm trước, trên một vùng đồi hoang dại đầy sim mua và lá đuôi chồn. Trước ốc vẫn là những dãy nhà tranh, bàn ghế là những thân cây đẽo bằng rựa rìu nham nhở vội vàng. Hẳn nhiên, không đủ bàn ghế cho giáo viên; trong vòng năm mươi phút của một tiết giảng, giáo viên phải đứng. Nhưng anh, con người chưa được một giờ đứng lớp, không thể có thói quen đứng liền ba giờ của mỗi buổi thi. Anh mệt rã rời, chân nặng trĩu, cột sống cứng đờ, buộc phải tìm chỗ gập người một tí. Và anh bẻ một nắm sim ngay cửa lớp, lót lên mặt luỹ chắn bom xưa kia, tựa người nửa ngồi nửa đứng lên đấy.

Bây giờ thì anh tin rằng, trong những tháng năm đó, dù ở xó xỉnh nào, đôi mắt ông Phán vẫn theo dõi anh. Đúng cái thời khắc con người đỡ mỏi đôi chút do thay đổi tư thế, thì ông Phán đi ngang, đôi mắt sâu ẩn dưới hai vệt lông mày rậm và thô trên khuôn mặt xương sạm, khắc khổ đã như một tia chớp liếc xéo qua người anh.
Buổi trưa, anh được lệnh đến phòng hiệu trưởng. Vừa thấy bóng anh ở ngưỡng cửa, ông đã “phang” té tát:

Rằng đồ tư tưởng tiểu tư sản, không chịu rèn luyện gian khổ, rằng hành động của anh là cố ý bôi nhọ chế độ, nhà trường, rằng đất nước còn nghèo, vừa ra khỏi chiến tranh, chuyện không có bàn ghế là thường tình, sao hàng bao nhiêu con người không ai bẻ lá xuống đất như anh? Rằng các anh bây giờ được thế này là sướng nhất hạng, chứ hồi tôi đi dân công chống Pháp, phải hái lá rừng làm bát, bẻ cây rừng làm đũa, đêm xúm quanh mo cơm không đèn đóm, có khi gắp thức ăn mà gắp phải đất sỏi, nào ai kêu ca chi mô? Vừa nói, một bàn tay của ông ngửa ra, khum lại làm bát và bàn tay kia đưa ra hai ngón tay tượng trưng cho đôi đũa, rồi và không khí vào miệng để mô tả cho bữa cơm giữa rừng đêm cách đây ba mươi năm. Lúc đó, anh thấy đôi mắt ông như bốc lửa, khuôn mặt sắt lại, tái nhợt và thấy rõ cả những chiếc răng giả, rung rung như chực văng ra khỏi miệng cùng những tia nước bọt.

Thế là, từ đó ước muốn được làm một giáo viên đứng lớp bình thường cũng trở nên xa vời, trở nên tăm tối và vô vọng, nói chi đến chuyện trở thành giáo viên giỏi? Bất kỳ cuộc họp lớn nhỏ nào, anh cũng được ông Phán nhắc ra như một kẻ chậm tiến, một gã cá biệt, đến nỗi chính anh cũng nghi ngờ lẫn mình và bỗng thấy mình là gánh nặng đến mệt mỏi của cái tập thể này.

Không ai lường được mọi chuyện xảy ra sau này. Chính ông Phán đã dụng tâm đẩy anh vào ngõ cụt, giết chết mọi ước mơ, lại cũng chính ông Phán, bất ngờ chìa bàn tay ân nhân mở cho anh một đại lộ, tâng bốc anh tận mây xanh, khoác lên người anh những hào quang loá mắt…

Cơn sốt rừng trở lại với anh dày hơn, thậm chí có quãng nó đến hàng ngày như cơm bữa. Những lúc như thế, bạn bè phải đắp chồng lên người anh hai ba lớp chăn bông, và một thanh niên to khoẻ nữa nằm sấp, đè chẹn lên mình anh cho đến khi cơn sốt dịu xuống.

Thảo là người phụ nữ hiếm hoi của tổ anh, nàng trầm lặng dịu dàng và dễ mến. Nàng không rực rỡ, hấp dẫn người ta ngay lập tức, nhưng lại ẩn giấu một vẻ đẹp khoẻ khoắn, thâm trầm. Với làn da nâu sáng, mịn bóng và thân hình thon rỏi, mọi công việc vào tay nàng trôi chảy như không. Trên gương mặt mỏng manh nhẹ nhõm thường biểu lọ những nét gắng gượng của sự khuôn phép gương mẫu trong lối sống của mình. Anh cho rằng đó là do cương vị mới của Thảo, người đảng viên duy nhất của tổ, vừa mới được kết nạp tháng trước, có bổn phận coi sóc dìu dắt phần hồn của mấy anh chàng lông bông này.

Bây giờ nhớ lại, anh thấy đó là một buổi chiều đáng nguyền rủa, một buổi chiều chó chết, đã âm thầm đẩy cuộc đời anh vào cảnh “khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt!”. Thường thì chủ nhật nào chí ít cũng có vài anh chàng ở lại. Quái quỷ xui khiến thế nào, hôm ấy chỉ còn lại mỗi mình anh và Thảo. Bởi chỉ còn hai người nên Thảo nhận việc thổi cơm luôn giúp anh. Rủi là anh lên cơn sốt ngay tại phòng nàng, trong khi ngồi đợi cơm, tò mò ngắm gian phòng con gái bày biện ngăn nắp, đẹp đẽ với tấm ri đô hoa nền nã che chỗ ngủ với bàn làm việc bên ngoài, và mặt tường dán đầy ảnh những cô bé, cậu bé khôi ngô, bụ bẫm cắt từ hoạ báo nào đó ra. Thảo không còn cách nào khác là dìu anh lên giường, đắp cho anh tấm chăn bông và úp mình đè ghì lên người anh, như mọi lần thấy các anh chàng trong tổ vẫn làm, để vật lộn cùng cơn sốt đang nghiêng ngửa đất trời.

Cho đến bây giờ, anh không biết gì cụ thể, không nhớ gì cụ thể nữa. Phải! Hình như không có cái ranh giới ấy, cái ranh giới giữa cơn sốt điên đảo với cơn cuồng nhiệt bạo liệt sau đó. Bởi chúng chỉ cách nhau có một lần chăn bông! Mà thực ra, cái chăn bông ấy cũng tuột đi đâu từ lúc nào. Anh chỉ còn nhớ mang máng là lúc đó, bàn tay thô ráp, tái xạm của anh nắm phải bàn tay mảnh dẻ, mềm mại của nàng, đôi môi khô khát nứt nẻ của anh bắt gặp đôi môi đẫm ướt, dịu ngọt của nàng; và cả thân hình hạn hán, háo nước của anh tan biến trong cái bao la mát mẻ và thanh xuân của nàng… Ngoài ra, anh không còn biết một cái gì khác, kể cả việc ông Phán đẩy cửa bước vào lúc nào. Anh chỉ thực sự tỉnh lại nhờ một linh tính nào đó lay thức. Khi đó, trên bộ mặt khắc khổ, thiểu não của ông Phán có những nét rất khó tả, vừa giễu mỉa, tinh ranh ác độc, vừa thoáng một nét cười thoả mãn của kẻ vừa lập được “chiến tích”. Nghe nói ông là chúa trong việc rình bắt các vụ hủ hoá và nhận định bọn học sinh gái có thai.

Lúc đó, hai người chỉ kịp kéo hai góc cái chăn bông bấy giờ bị lăn xuống đất, che lên nửa mình. Anh thì hết sức hốt hoảng, lo lắng cho Thảo. Nhưng anh thấy rõ là nàng ngồi im, đầu cúi xuống, mái tóc dày và dài thường đánh thành hai lọn buông trước ngực, giờ sổ tung, tựa hồ có một chiếc khăn đen phủ lên người khiến anh không nhìn rõ được sắc mặt của nàng.

Ông Phán lạnh lùng chìa cho anh tờ biên bản, mà giờ nhớ lại, hình như nó đã được đánh máy sẵn theo mẫu, chỉ việc điền tên đương sự là xong. Anh ký vào chỗ của mình như một cái máy và ngơ ngác không biết nên xử sự thế nào. Cho đến khi ông Phán sắp bước ra, anh bỗng líu giọng, lắp bắp van xin:

- Chúng tôi… yêu nhau. Tôi… yêu cô ấy… lâu rồi. Anh thông cảm… bỏ qua cho…

Ông Phán nhìn lên mái nhà, nháy nháy đôi mắt sâu hoắm và cười rung cả những chiếc răng giả, tưởng như ông rất thông cảm cho sự lầm lỡ, vụng dại do bồng bột của hai con người tuổi trẻ yêu nhau.

Ông Phán đi khuất rồi, quay lại anh nhận ra Thảo khóc. Nàng khóc tức tưởi, đôi vai trần khẽ rung lên từng đợt nhỏ. Nàng khóc như thế rất lâu, khiến anh bồn chồn xót xa. Lúc đó anh ngỡ mình hiểu được những giọt nước mắt khổ tâm ấy.Và anh chợt thấy mình thô bỉ, đểu cáng hết sức, nhơ nhuốc hết sức. Anh vò đầu, bứt tai tự phỉ nhổ mình, đay nghiến nhiếc móc mình đã đẩy nàng vào chỗ mất mát, đẩy một cô gái, một đảng viên trong trắng vào chỗ hoen ố. Anh bỗng thấy thương nàng, một tình thương của kẻ “trót nhúng chàm”, và sẵn lòng làm hết thẩy để phẩm chất chính trị của nàng được toàn vẹn.

Nhưng sau này, khi mọi sự trong anh vỡ lẽ, anh lờ mờ nhận ra rằng, Thảo khóc không phải vì thế. Có lẽ nàng khóc vì sự đồng bóng, sự vô nghĩa của những ảo vọng mà nàng bị huyễn hoặc và phải đổi bằng sự trinh trắng con gái để vươn tới, nhưng khi đạt được rồi, chợt thấy thần tượng của mình sụp đổ như một thứ bong bóng xà phòng? Cũng có thể nàng khóc vì thương hại anh, thương hại một anh chàng tốt bụng, ngu ngơ và dại dột trước cạm bẫy của trò đời? Hay nàng khóc vì quá vui sướng khi biết chắc mình tai qua nạn khỏi; đó là nước mắt của kẻ chết đuối vớ được cọc?

Sớm hôm sau, anh được mời lên phòng hiệu trưởng.

Khác với một trận sấm sét bổ xuống đầu và một kỷ luật nghiệt ngã buộc anh thôi việc, đồng thời Thảo bị khai trừ ra khỏi Đảng như anh tưởng tượng, ông Phán nhũn nhặn mời anh ngồi, rót nước mời anh uống, rồi đưa giấy bút cho anh, bảo thuật lại “quá trình yêu nhau” của hai người. Anh cảm động và bốc lên phóng to những cảm mến thường ngày của mình với Thảo, khao khát mong sao nhờ nó mà giảm nhẹ kỷ luật cho nàng.

Khi đã khoá chắc chắn tờ “kiểm điểm” có tính tự thuật của anh vào tủ hồ sơ bằng sắt, ông Phán hạ giọng:

- Tôi là tôi tâm lý lắm. Trai chưa vợ, gái chưa chồng yêu nhau, tìm hiểu nhau, cái “sự ấy” đôi khi xảy ra là thường tình, có gì mà kỷ luật với kỷ liếc!

Ông dừng lại cười hà hà, khuôn mặt dúm dó như khóc, những chiếc răng giả rung rung, như sắp rơi ra. Cuối cùng, giọng ông hạ thêm nữa:

- Miễn là… anh chị cưới nhau.

- Dạ, chúng em đội ơn anh suốt đời ạ!

Anh nói nhanh, sung sướng nhiệt thành đến suýt nữa hôn lên bàn tay gầy gò đen đúa, vàng xỉn khói thuốc của ông khi ông đưa tay cho anh bắt lần cuối. Và khi sắp bước đi, anh còn bị ông kéo lại, đặt tay lên vai và thì thầm vào tai rất thân tình:

- Này, “lấy vợ thì cưới liền tay”, ông bà xưa chẳng bảo thế là gì? Hả? Ha ha ha… Cưới đi! Mai cả hai lên đây, tôi cho giấy mà đi đăng ký, nghe? Ha ha ha…

Ông nói, cười và bỗ bã vỗ lên vai anh cái vỗ đầy yêu thương, sắp xếp lo toan của bậc cha chú trước tương lai con cháu, khiến anh mừng hú, chân bước trên đường bằng mà cứ lâng lâng như bay trên mây…

Đám cưới đầm ấm và tưng bừng. Những anh chàng “đực rựa” của tổ anh cứ nhẩy lên như con choi choi, nhường hết tiêu chuẩn trà thuốc cung cấp cả quý cho đám cưới của anh. Thuở ấy không có “cuốc lủi” đâu, nhà nước cấm tiệt, chỉ có rượu dâu, rượu sim của nhà máy rượu Bồng Lai sơ tán, cất ủ trong những cái chum sành to tướng, sóng sánh màu hổ phách, uống vào tiếng cười nào, ánh mắt nào cũng chung chiêng, lung liêng… ông Phán vui vẻ hơn cả, uống hàng bát “bê năm hai”, miệng luôn khen ngợi anh và Thảo hết sức đẹp đôi, rằng anh rất tốt số.

Đúng là anh tốt số. Sau ngày cưới, anh không những không bị kỷ luật thôi việc, hay đầy đi làm tạp vụ như anh lo sợ, mà ngược lại, anh được bố trí giảng dạy ngay, điều mà anh mong ước đến cháy bỏng ruột gan hàng chục năm nay. Thảo cũng vậy, nàng chẳng bị ai cật vấn, xét nét gì.

Anh hoàn toàn mãn nguyện, hạnh phúc khi thấy Thảo sắm sửa, lo xa những thứ cần thiết cho phụ nữ sinh nở. Có lẽ nàng cũng thế. Chỉ nỗi là, đôi khi anh bắt gặp nàng có vẻ như sực tỉnh bàng hoàng, thảng thốt một nỗi buồn lặng lẽ. Và điều đó càng khiến anh tỏ rõ sự âu yếm chiều chuộng nàng hơn nữa, mong thời gian bù đắp phần thiếu hụt tình yêu chưa có trước đây của hai người. Đã không ít cặp thành vợ thành chồng rồi mới thành tình yêu đôi lứa đó sao?

Nhưng anh không ngờ chính thời gian đã phản bội anh, chính thời gian đã làm cho cái hạnh phúc non nớt mà anh vun vén, chăm chút đã tan vỡ không phương cứu chữa. Bởi thời gian không mang trong nó trái tim người. Thời gian lạnh lùng, vô tâm và nghiệt ngã. Thời gian phũ phàng, tàn nhẫn, cứ ngày, giờ, phút, giây, năm tháng răm rắp biến hoa thành quả, không xê dịch.

Phải. Bất chấp cả sự lo lắng kín đáo của nàng, thời gian đã làm một quả bom nổ không thành tiếng, và cuối cùng, găm một mảnh vỡ không cách chi mổ phẫu được, lặn đâu đó trong ngực trái anh.

Một đêm, đang khuya, anh chợt nghe mơ hồ trong giấc ngủ tiếng Thảo rên nhè nhẹ. Anh mở mắt và bắt gặp nàng đang ôm bụng co quắp, mồ hôi vã ra. Anh và bạn bè vội võng nàng lên trạm xá trường cấp cứu, ai cũng nghĩ đến nàng bị động thai. Nhưng ông y sĩ trạm trưởng, to lớn và thô giáp như một gã lực điền, xem qua và lạnh lùng bảo: “Phải chuyển lên tuyến trên gấp, ở đây không có phương tiện”. Khi đó anh em ai cũng hoảng hốt vì nghĩ đến một căn bệnh hiểm nghèo nào đó, vội ba chân bốn cẳng thay nhau võng nàng vượt mấy quả đồi đất sỏi và mấy quãng khe lầy lội sau mùa mưa, kịp đến bệnh viện khi gà vừa gáy sáng.

Người ta đưa nàng vào phòng sản phụ. Và lát sau, cùng với mặt trời đỏ ối, như một cái mâm lửa, đội rặng cát nhô lên từ phía biển, hắt những tia vàng chói rực rỡ đầu tiên lên hành lang và những bức tường trắng, là tiếng oa oa non nớt của mầm sống chào đời. Cô y tá trực đêm ló khuôn mặt tái nhợt, đôi mắt thâm quầng sáng lên, nói hớn hở cái điều mà cô nghĩ là anh hẳn sướng phát điên lên: “Con trai! Con trai” rồi biến mất, để lại anh hoá đá… Mấy thằng bạn vô tư vô tâm, quên hết mệt nhọc, cứ ôm lấy anh mà lay mà đấm, mà thụi, mà nhảy tưng bừng, mà cười ha hả, mắng yêu: “Thằng khỉ, tẩm ngẩm mà đấm chết voi! Chúng ông chịu mày đấy”. Anh cười mếu máo, nắm miến cưỡng những bàn tay chúc mừng của họ trong sự ngọt ngào của quả bồ hòn chẹn ngang họng: Vợ anh đã sinh con chưa đầy năm tháng, tính cả cái buổi chiều “chết tiệt” ấy.

Một cuộc chiến tranh lạnh không tuyên bố và không hạn định đã xảy ra giữa hai người. Nói của đáng tội, giai đoạn đầu, khi Thảo còn trong kỳ “nằm bếp”, anh đã cố xử sự để nàng hoàn toàn yên tâm.

Bởi sâu xa, anh sợ một cơn hậu sản có thể gây nguy hại đến tính mạng nàng. Anh vồn vã, chầm vập cả mẹ lẫn con như không hề có chuyện gì xảy ra.

Nhưng, một lần, có lẽ chính sự chăm sóc vồ vập ấy khiến Thảo nhạy cảm được ý nghĩ của anh, hay chính nàng thấy kéo dài việc xưng tội với anh là có lỗi lớn trước con người độ lượng quá đỗi, đã khẽ khàng nói trong nước mắt và hoảng hốt nhìn đứa con đỏ hỏn như sợ nó nghe thấy: “Xin anh tha tội… Em có lỗi lớn với anh… Nhưng mà… em thương anh, em yêu anh!…”. Anh nhìn sắc mặt tái nhợt vì mất máu khi sinh nở, vẻ yếu đuối dại khờ khi van xin của nàng, và nhìn cái thân thể trứng nước, tím tái như con chuột con của thằng bé, nói át đi. “Bậy nào! Cá ai vào ao ta là cá ta, phải không cún con?”. Anh nói nựng và áp môi vờ hôn lên vừng trán nhỏ xíu đầy lông tơ của thằng bé, để tâm nàng dịu lại. Lúc đó anh hoàn toàn không ngờ rằng nó là “tác phẩm” của ông ấy…

Song, mọi gắng gượng, mọi bù đắp âm thầm của Thảo đều trở nên vô hiệu, vô nghĩa. Nàng thực sự yêu anh, thương con, nhưng không sao gắn bó được hai người. Và đặc biệt không sao tẩy rửa được ám ảnh khủng khiếp vì nỗi dại dột đem sự trinh trắng thiêng liêng của thân con gái dâng cho quỷ ác, để đổi lấy danh vọng hão huyền.

Con anh, từ khi lấy vợ, đúng hơn là từ cái buổi sáng tờ “kiểm điểm” của anh được khoá vào tủ sắt, được ông Phán đối xử như người tâm phúc, ông biểu dương, ca ngợi anh mọi nơi mọi lúc, như một điển hình mẫu mực về “chí tiến thủ cách mạng”. Rồi anh nhanh chóng được cử làm tổ trưởng chuyên môn, được đề nghị cho đi học một lớp chính trị dài hạn, chuẩn bị cho đội ngũ “kế cận”… và được bao nhiêu thứ khác. Đến nỗi anh ngỡ đấy là sự thật, là chính sức vóc của anh. Và anh thầm cám ơn người ân nhân già nọ đã có lúc phát hiện ra đúng tài năng của con người anh. Có lẽ vinh quang đạt được không chút mồ hôi và mang nặng hàm ơn ấy, đã khiến anh tự nhu nhược mình, mềm yếu để ém giữ tình yêu và hạnh phúc mong manh ấy.

Anh và Thảo, cả hai tiếp tục tự dối mình và cùng dối mọi người trước tình yêu và hạnh phúc gia đình, để rồi suốt mười lăm năm trời cùng nhau sống cô độc dưới một mái nhà, trên một cái giường chật hẹp. Cuộc hôn nhân đã trở nên một cuộc góp gạo thổi cơm chung lâu dài và tẻ nhạt. Đêm đêm, anh chủ động quay mặt đi một hướng khác, và thức đến khuya một mình. Thực ra, mọi chuyện hoàn toàn không hẳn như thế. Anh thừa biết sau này, nghĩa là sau ngày có nhau, Thảo rất yêu anh. Nhưng anh, với mặc cảm của kẻ bị lừa gạt, bị đánh bẫy, anh sẵn lòng dang tay trừng phạt. Đêm, nàng thở dài âm thầm, và nén khóc. Đôi khi trong khuya vắng, nàng cũng kín đáo, vờ ngủ say vô tình xoay người quàng tay qua ngực anh, ôm lấy người anh như là mê ngủ. Anh đã tỉnh táo, tôn trọng cơn “mê ngủ” ấy của nàng, khẽ khàng lần gỡ cánh tay đang ôm ấp ngực mình và lặng lẽ dịch người ra một chút.

Người ta mời Thảo báo cáo ở các hội nghị điển hình về sinh đẻ có kế hoạch khi con nàng năm tuổi, mười tuổi, rồi mười lăm tuổi…

Có lẽ, lỗi ở bà mụ. Bà mụ vô tâm cho ra đời một thằng bé không đủ tháng, rồi chính mụ cố tình nặn thân hình có những nét mà thoáng nhìn cũng đủ cho anh ngứa mắt. Khuôn mặt choắt đau khổ với đôi mắt sâu và hàng mày rậm, cộng với màu da mai mái, xin xỉn, từ thủa chập chững biết đi, đã không để lòng anh yên. Đôi khi anh bàng hoàng ngơ ngác không sao cắt nghĩa được vì đâu Thảo không lầm lỡ với một gã cha căng chú kiết nào đó, lại lầm lỡ với ông Phán, mà giờ đây, dưới mắt anh là một lão già hom hem và quỷ quyệt? Và điều này khiến anh âm thầm một nỗi đắng cay xót buốt không thôi khi nghĩ rằng mình chẳng khác con chim cà cưỡng ngu ngơ để suốt đời nuôi nấng con cho một lão tu hú xảo trá. Thằng bé càng lớn, anh càng đau khổ. Bởi trước mắt anh, càng ngày nó càng phô ra cái thân thể xương xẩu khô khan của ông Phán. Từ cái dáng nó ngồi học bài chồm hỗm bên bàn như ông Phán ngồi ở phòng làm việc, đến lời ăn, tiếng nói, dáng đi… Tất tật như hiện diện một ông Phán hàng ngày ở trong nhà. Vẫn biết thằng bé hoàn toàn không có chút tội tình chi, nhưng không hiểu sao anh bực bõ đến mức sẵn sàng đá đít, bạt tai khi kiếm được cớ.

Thằng bé hình như vừa lọt lòng đã hiểu được thân phận mình, nó sống lặng lẽ và khép nép, tuồng như nó cố thu nhỏ mình lại, cố như không có mặt nó trong ngôi nhà đã vắng lặng này. Bây giờ, thằng bé đã mười lăm tuổi, khoẻ mạnh và rắn rỏi lên đôi chút. Và hình như nó học được ít nhiều tâm tính anh, nhất là khả năng miệt mài đèn sách đêm đêm. Điều anh không ngờ được là giờ đây, khi nó đã ý thức được nhiều điều, thì trong mắt nó, anh là người cha đáng kính và mẫu mực, là thần tượng mà nó vươn tới bởi tài cao học rộng. Đôi khi chỉ một mình Thảo, nó khoe: “Mẹ ơi, cha bảo con phải giải hết các bài toán này” hoặc: “Mẹ ơi, cha bảo học xong con thi vào ngành vật lý”… Hẳn nhiên, những lúc như thế, nàng chỉ nhìn con, buồn im lặng.

Dẫu thế, với anh, nó vẫn là một lão Phán con, vẫn là một ung nhọt ở nơi sâu kín không ai hay biết, suốt đời mưng mủ nhức nhối mà không sao bung vỡ được; vẫn là một mảnh đạn nằm sâu trong đáy ngực, mà mỗi lời bóng gió xa xôi hay vô tình của người đời, là như một lần trở trời, vết thương lại sưng tấy âm ỉ buốt nhói. Có lẽ tận chót đời, tận ngày xuống lỗ, nỗi đau nhức ấy, mối hận đời ấy sẽ vẫn không buông rời anh, không tha anh…

Anh đã đối diện tháng ngày với chính mình, với nỗi ê chề đau đớn của mình, với những gì huyễn hoặc của mình, với vết thương không có miệng của mình. Và, không hiểu sao lại sinh cái sự đốn mạt ấy. Hay là sự thèm khát xác thịt mà bao năm ức chế khi đêm đêm nằm bên vợ, để bây giờ cần được giải thoát?

Hay chính vì cô ta? Cô ta đọc được nỗi cô đơn trường cửu trong anh và sẵn lòng sẻ chia? Cũng có thể cô ta chỉ là ngọn gió phóng túng, thổi vô tình ngang qua cuộc đời nhiều uẩn khúc của anh, thắp bùng lên trong anh quyết tâm “trả món nợ đời” đeo đẳng bao năm? Không biết nữa. Có điều chắc chắn là, nhờ cô ả mà anh hiểu rằng, đàn bà có lẽ có nhiều loại, có người sinh ra để làm vợ, nhưng có kẻ sinh ra chỉ giỏi làm nhân tình. Cô ta là giáo viên trường anh. Chồng cô ta ở xa, một năm mười lăm ngày phép và vài ba lần tranh thủ, còn thì cô nàng là của anh. Nhưng giữa anh và cô nàng, dẫu thế, cũng không được bừa bãi. Hai người tuân thủ một quy ước nghiêm ngặt: Mỗi lần cô vào văn phòng, thoáng qua chỗ làm việc của anh, mang theo trên lọn tóc buộc cao để hở cả cổ và gáy làn da trẵng nõn, một dải vải đỏ tươi màu hoa mười giờ, ấy là lời nhắn mời, lời thông báo, rằng đêm ấy chồng cô không về và trời cũng không có trăng. Phải là đêm không trăng, bởi cái khu tập thể đông đúc và trống trải ấy, nếu sáng trăng, anh không thể quay lại lần thứ hai mà không bị phát giác.

Bao giờ cũng thế, anh đi một vòng, ghé thăm chỗ này chỗ kia, nói dăm ba câu chuyện phiếm giết thời gian, cho đến khi xung quanh lác đác tắt điện, anh mới ghé vào chỗ cô nàng.

Anh nhắc cô về tình hình của lớp, về những học sinh cá biệt, và cuối cùng, vấp phải cái đuôi mắt đen láy, đẫm ướt cái nhìn đắm đuối của cô nàng nháy lên, như một tia chớp chém qua người anh, thì anh làm bộ ngáp dài, chào ra về, để ít phút sau đó, nhẹ nhàng và kín đáo quay trở lại, lách qua cánh cửa khép hờ như một làn gió…

Ra khỏi khu tập thể giáo viên trời đã khuya, mọi ngả đường tĩnh mịch và hoe hoắt. Anh bước đi trong làn gió đêm mơn man dịu nhẹ, phảng phất đâu đó nơi môi, nơi mắt, nơi tóc và cả hai bàn tay mùi da thịt cô nàng lưu luyến. Anh rẽ vào lối ngõ tối om, hun hút quanh co với những thân cây xoan, mít và vú sữa sù sì mọc lồi lõm mà do thói quen nhận ra nhiều hơn là nhìn thấy chúng; cố đi thật chậm để lấy lại nhịp thở bình thường trước khi vào nhà. Dẫu sao, anh vẫn có chút gì đó áy náy về hành vi vụng trộm nhẫn tâm của mình trước người vợ bị anh cầm tù bao năm.

Ngôi nhà của anh cuối chót con hẻm, lọt thỏm trong một xó vườn cây cối um tùm, còn le lói ánh đèn. Hẳn là thằng bé chưa ngủ, thường sau học nhóm về, nó còn đọc sách đến khuya. Còn vài chục bước chân, anh lấy lại vẻ xốc vác, vội vã như thể mình vì lỡ câu chuyện phải về muộn.

Nhưng khi vào đến khoảnh sân bé nhỏ, lạo sạo đất sỏi, anh linh cảm có cái gì không bình thường, bởi các cửa sổ đều đóng kín, và từ trong nhà vọng ra những mẩu đối thoại ngắn ngủn và nén nấc với nhiều cung bậc lạ tai mà anh nghe không rõ. Anh dừng lại, và bước nhẹ trên mười đầu ngón chân của lính trinh sát, đến áp nhẹ vào liếp lâu ngày bị nắng kéo thưa nhiều chỗ. Và anh chết lặng…

Trên chiếc ghế băng đặt quay mặt vào, hai bóng người đang ngồi run rẩy, đầu cúi gằm như đang sám hối. Người thứ nhất anh sớm nhận ra là Thảo, trong bộ váy ngắn nàng thường mặc ngủ, để hở cả ngực, vai và hai cánh tay trần. Cái cơ thể ấy anh đã từng hoan hỉ ôm ấp trong suốt cả tuần trăng mật cách đây mười lăm năm. Dẫu thời gian dài đã đi qua, nàng có già đi đôi chút, trên gương mặt và dọc hai mu bàn tay rám nắng nổi gân, nhưng toàn bộ một cơ thể đàn bà không bị nhọc nhằn bởi sinh nở và nuôi con dại nhiều lần, đã giúp cho nàng giữ được vẻ đầy đặn khả dĩ, nếu không muốn nói là gần như nguyên xưa. Còn người kia, mãi giờ căng óc anh mới lờ mờ nhận ra dáng hình ông Phán, với quần cụt áo may ô, đang lẩy bẩy tội nghiệp trong mớ cơ bắp teo tóp, nhão nhoét, gân guốc và tối mò. Trước mắt hai người, bên cạnh chiếc bàn làm việc của anh, thằng con anh, mặt rắn đanh căng thẳng, mắt trợn trừng, một tay vo tròn mớ quần áo (hẳn là của ông Phán), tay kia đang cầm bút ghi chép, như là lấy khẩu cung, hay định ghi biên bản . Anh cố nén một cái gì đó dâng lên trong ngực, như là sự lẫn lộn của ghen tuông và tức giận.

- Các người… Các người sống như vậy mà được à? -Thằng bé rít qua kẽ răng như một ông già - Cha tôi miệt mài ngày đêm với công việc, để cho các người…

- Mẹ van con! Mẹ xin con!… Người đàn bà ngẩng mặt lên, nghẹn ngào giơ hai bàn tay với những ngón dài run run van xin về phía thằng bé - Mẹ xin lỗi con. Không phải vậy đâu. Mẹ khổ lắm. Mẹ khổ trăm đường. Con chưa hiểu được đâu…

Thằng bé nghiêng mặt đi, vẻ chịu đựng đau khổ để tránh cái nhìn van lơn của mẹ nó, ông Phán lợi dụng dịp đó, định chộp gói quần áo trong tay thằng bé.

- Không được! Muốn phi tang chứng cứ hả? Các người chờ đây, cha tôi về hẵng liệu! Thằng bé hét lên, nhưng là tiếng thét của một đứa con trai sắp vỡ giọng và cố nén để bốn bề không ai nghe thấy, thành ra nghe the thé rất buồn cười.

Ông Phán giật thót mình trước tiếng thét của thằng bé, đến ngồi lại tư thế cũ. Còn Thảo, sau lần muốn giãi bày cùng con, giờ bộ mặt nàng dửng dưng, tuồng như đầu óc nàng còn để đâu đâu, khiến anh nén tức lộn ruột.

- Té ra, các người toàn sống giả dối.

Thằng bé bắt đầu cuộc giáo huấn ấp úng của trẻ con cố rặn cho giống người lớn. Nhưng, không hiểu sao, cả ông Phán, vợ anh và cả anh ở ngoài này nữa, đều giật thót, hoảng hốt và co rúm lại. Đến lúc đó, anh chợt nhận ra chính anh, tự lúc nào đã quỳ mọp xuống trên hai đầu gối. Và, cũng không hiểu sao, anh không thể đứng dậy, không dám đưng dậy, lòng mềm đi bởi một nhu cầu sám hối trước vị quan toà là lẽ phải và sự trong trắng con trẻ của đời…

- Có phải ông…

Không biết thằng bé định nói tiếp câu gì, nhưng ông Phán đã nhanh nhảu đỡ lời:

- Phải, phải! Bác là hiệu trưởng. Chính bác đã bồi dưỡng và giới thiệu mẹ cháu, chính bác đã nâng nhấc ba cháu. Và cháu chính là… ông Phán chợt hạ giọng rất thấp, xun xoe. Cháu ngoan lắm; cho bác mang lại cái quần. Hì hì…

- Không được!

Hình như, đến lúc đó, ông Phán sực nhớ là phải bất khuất trước kẻ thù, liền gầm lên, bắn ra cả tràng nước bọt lẫn hàm răng giả:

- Mày không được làm nhục tao, làm nhục một thầy giáo… mày… mày…

Ông vừa nói vừa lắp bắp đưa lòng bàn tay ấn lại hàm răng giả vào miệng. Thằng bé trố mắt nhìn, rồi cười khẩy:

- Không có thầy giáo như ông!

Chao ôi, thằng quỷ! Anh thầm thét lên, và chồm dậy giật tung cánh cửa. Thằng bé vừa thoáng thấy anh, như bất ngờ trông thấy hung thần, nó ngây đực, há hốc miệng một giây, bọc quần áo ông Phán rơi xuống bàn. Nó khép nép lùi vào xó góc, lấm lét nhìn anh, ấp úng:

- Con xin lỗi cha. Con thấy… Con nghĩ…

Anh bước vào nhà, liếc xéo qua hai con người, và đi thẳng vào buồng trong. Không hiểu sao cơn ghen tuông và tức giận đã không cho anh nghĩ ra được một lời nào. Ông Phán lợi dụng dịp đó, quăng mình ra cửa, biến mất. Còn vợ anh, gần như không một ý thức nào, trơ lì như một bức tượng bán thân, thậm chí trên nét mặt nàng ánh lên sự đắc thắng. Suýt nữa anh hét lên: “Đồ đĩ!”.

Khi anh trở ra, thằng con trai đã đi ngủ, Thảo vẫn ngồi đấy, lặng im, mái tóc dầy phủ cả bờ vai, nhưng khuôn mặt nhiều nét đau khổ của nàng rắn rỏi nhìn anh trong một cái nhìn giải bày rất lạ. Lần đầu tiên sau mười lăm năm chung sống, anh mới bắt gặp ở nàng cái nhìn ấy. Nó không chút nhẫn nhục, chịu luỵ âm thầm bao năm, mà tuồng như đau đáu một nỗi niềm trách móc hờn giận, rằng anh là con người độc ác, ích kỷ và cố chấp, anh đã giam hãm, cầm tù một cơ thể đang thì xuân sắc trẻ trung nhất đời một người đàn bà trong hàng chục năm trời ròng rã, trong khi mình, như một tín đồ, hành hương trên bao mối tình vụng trộm, rằng anh chẳng biết gì cả, nàng yêu anh không gì sánh được, muốn hiến dâng cuộc đời và tình yêu duy nhất cho anh dù bị anh đối xử tàn tệ, rằng với ông Phán, đó là sự lầm lỡ, dại dột của nàng thời con gái xa xôi… Và rằng, giờ đây, nàng không muốn anh trượt dài thêm nữa trên con đường đi tìm lạc thú để trả thù nàng, trả thù cuộc hôn nhân với nàng. Và nàng đã quyết định đánh thức trái tim anh, đánh thức tình yêu trong anh bằng việc nhử ông Phán vào một màn kịch do nàng sắp sẵn, chỉ mình nàng biết, cốt để anh chứng kiến. Nhưng rủi thay, anh chậm chân hơn thằng con trai…

Tự nhiên, anh chết đứng trước cái nhìn đau đáu ấy của nàng, và chợt thấy mình dơ dáy, sống sượng và tàn nhẫn, thiếu nhân cách vị tha của người lính.

Và, lần đầu tiên anh nhận thấy thương mình, thương vợ và bao sinh linh lầm lạc tội nghiệp. Rồi, như một cử chỉ nhận lỗi, anh đặt tay lên vai Thảo. Thật lạ lùng, từ khối tượng bằng thịt phụ nữ ấy, chợt rung lên và bật tiếng khóc thút thít. Anh khẽ đỡ nàng đứng dậy, và nàng liền gục đầu vào ngực anh, oà khóc nức nở…

Anh dìu Thảo ra giếng, tự tay giội từ từ từng gàu nước mát lạnh lên cái thân thể còn khá đầy đặn của nàng. Nàng cười. Lần đầu tiên sau quãng đời chung sống, nàng vừa vuốt nước trên mặt vừa cười rúc rích như trẻ con. Đấy là một đêm mùa hạ, trời không trăng, nhưng đẫm mướt những vì sao chín mọng treo lúc lỉu khắp vòm trời thẳm sâu, thoáng đãng và mượt như nhung…







Nguồn: http://vnexpress.net
Người gửi: Half Moon
Người đăng: Nhật Huy

1649


Powered by Blogger.