Bấy giờ Út mới mười lăm tuổi. Mỗi khi rảnh việc, Út thường chạy đến xem tôi vẽ. Út tỏ ra thích những bức tranh tôi thể hiện cảnh đồng quê bằng cách chấm phá những đường nét giản dị trên các mảng màu thật nhạt. Như cảnh bờ ao với một vài con vịt đứng rỉa cánh, cảnh dòng kinh với một con bói cá cắp mồi bay vụt lên, còn để lại dưới nước một vòng tròn lan tỏa.

     Vẽ chán những cảnh quanh quẩn ở nhà, tôi xoay qua vẽ cảnh mặt trời mọc trên đồng nước nổi. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm. Khi tôi lịch kịch chuẩn bị các thứ bảng màu, giá vẽ... thì Út cũng thức. Tôi ở trên nhà chuẩn bị đồ lề của mình, Út ở dưới bếp nấu nước châm trà cho ngoại. Ánh lửa rưng rức hắt vào mặt Út, bật lên những viền sáng, tự nhiên gợi cho tôi đề tài về thiếu nữ giữa đồng đưng gọi mặt trời thức giấc.

     Tôi nghĩ đến đồng đưng, bởi trước giải tỏa tôi chiến đấu ở vùng Tháp Mười. Những cánh đồng đưng ngút ngát, vào mùa nước nổi bị nhận chìm, trên mặt nước chỉ còn lất phất những đọt lá nào thật cao. Khi mặt trời lên, mặt nước của cánh đồng đưng có màu sắc riêng lạ lắm. Tùy theo sự dày đặc khác nhau của lớp đưng bị nhấn chìm mà sắc màu chuyển động, chuyển động liên tục theo sự phản quang của tia mặt trời ban mai chiếu xuyên qua mặt nước, rọi xuống những cọng đưng tua tủa bên dưới mà dội lại theo những góc gãy khác nhau. Nếu đặt trên nền ấy một chiếc xuồng, một thiếu nữ... biết đâu tôi sẽ được một tác phẩm về sức trỗi dậy hoang sơ đầy lãng mạn.

     Vậy là tôi hăm hở ra đi, hết ngày này qua ngày khác, cố gắng quan sát thật kỹ để nắm bắt cho được thần thái của sắc màu. Tôi kiên trì thể hiện bằng màu trên giấy không biết bao nhiêu lần. Chừng thấy tàm tạm, tôi mới bắt tay vào thể hiện hình tượng cô gái và mặt trời. Lấy ai làm mẫu bây giờ? Tôi nghĩ ngay đến Út. Tôi mới dạm hỏi, Út đã cười bẽn lẽn:

     - Em xấu thấy mồ, làm mẫu hư tranh anh thì sao?

     Ngoại Út ngồi uống nước, hút thuốc nghe vậy gõ gõ ngón tay xuống bàn, nói:

     - Con nhỏ này thiệt! Mày không giúp thì còn ai giúp?

     Út lại cười. Đôi mắt cũng cười. Mái tóc cũng cười. Cái lúm đồng tiền tròn vo cũng cười.

     Đường từ nhà Út ra đồng đưng phải vượt cả một cánh đồng chừng năm bảy cây số; để khỏi mất thời gian của Út tôi bắt đầu vẽ Út với mặt trời vào mỗi sáng ngay trước cửa nhà. Tôi ngồi sau lái, Út ngồi ở mũi xuồng. Tôi phải sắp xếp cho chiếc xuồng nằm hơi xéo tia chiếu của mặt trời. Còn Út thì ngồi xếp hai chân về phía sau, người hơi đổ về phía trước, mặt xoay về hướng mặt trời. Một tay cầm mái dầm thả một cách hờ hững trên đùi. Một tay đưa lên trán như kiểu sắp hất cho mái tóc dài xõa về phía sau. Nội chừng ấy thôi, tôi đã mất đến bốn năm buổi sáng với bảy, tám phác thảo mà vẫn chưa thấy hài lòng.

     Mỗi lần thấy tôi vẽ xong mà lắc đầu, Út lo lắm. Út nhìn tôi, hỏi một cách vô tư:

     - Tại em ngồi mẫu kém phải không anh Ba? Em mắc tật cứ hay ngọ ngoạy chân tay làm anh vẽ không được, phải không anh Ba? Để mai em ráng ngồi thiệt êm cho anh vẽ nghen!

     Tôi giải thích cho Út hiểu rằng cái chính không phải là đường nét mà là sắc màu. Tôi thất bại vì chưa diễn tả được cái đẹp hồn nhiên trong sáng của ánh nhìn trong mắt Út khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu vào. Tôi nói với Út:

     - Út biết không, khi tia mặt trời đầu tiên chiếu vào mắt em, ánh nhìn của em ngời lên ánh sáng rất diệu kỳ, đẹp không thể tưởng được; sang năm, sang năm nữa anh quyết vẽ bằng được mới thôi.

     Sau nhiều lần phác thảo chân dung tại chỗ, tôi quyết định cùng Út ra đồng để xây dựng bố cục giữa thiếu nữ, mặt trời và đồng đưng ngay tại không gian tôi đã chọn. Ba bốn ngày liền, tôi với Út chống xuồng ra đồng đưng để dựng phác thảo. Điều làm tôi quay quắt nhất là chọn tông màu. Thiên nhiên ngời ngợi màu sắc, tôi không làm việc sao chép lại màu sắc ấy. Cái tôi cần thể hiện là phải tìm bằng được linh hồn của sắc màu, sao cho nói lên được sự yên ổn, hoang dã bật thức dậy trong đôi mắt thiếu nữ gọi mặt trời.

     Một hôm, khi đang loay hoay pha màu, tôi bỗng nghe tiếng Út reo lên sung sướng:

     - Sếu về! Sếu về rồi anh Ba ơi!

     Tôi ngoái lại nhìn. Đẹp quá! Đẹp tuyệt vời! Những cánh bay dìu dịu, nhẹ nhàng như đan vào nhau mà chớp ngọn nắng hừng đông. Cả một bức tranh hoành tráng chuyển động sắc màu nâu nhạt trên nền trời xanh xám, ửng lên phơn phớt sắc hồng. Phải rồi. Tìm được tông màu rồi. Tôi cảm động đến lịm người.

     - Sếu về rừng tràm, về đồng năn đó anh Ba. Vô rừng tràm coi chim đi anh Ba!

     Tôi gật đầu với Út. Hai chúng tôi lúc bơi bằng dầm, lúc chống bằng sào, phải gần ba tiếng đồng hồ mới vô đến tràm chim. Những con sếu cổ trụi đứng dầm chân dưới nước như những chấm màu. Thấy người, chúng vỗ cánh bay dựng lên, tạo ra những âm thanh xao xác. Bay được một quãng, chúng lại đáp xuống, điểm màu cho đồng năn buổi sáng. Chúng tôi say sưa ngắm đàn sếu cổ trụi hết cả buổi. Con nào cũng to lớn và đẹp một cách duyên dáng. Con thì cần mẫn dùng cái mỏ dài đào củ năn. Con thì ngẩng cao đầu nhìn mặt trời. Nhiều con vỗ cánh nhảy múa những vũ điệu gọi mời hết sức lạ mắt. Tới trưa, bất chợt một cơn mưa ập xuống. Tôi với Út phải tấp vô rừng tràm, căng tấm vải nhựa ra đụt mưa.Trời cứ mưa mãi, mưa muốn hết cả buổi chiều. Lạnh và đói. Út nói: - Dứt mưa, em lên bờ bao đập rắn mối đãi anh nghe anh Ba!

     Út đập được một xâu mười mấy con. Tôi gom lá tràm khô đốt lên nướng trui. Thịt rắn mối trắng, thơm và ngọt, ăn không biết chán.

     Khi chúng tôi ngồi vào xuồng thì đã xế chiều. Bầu trời vần vũ những đám mây mọng nước. Út giục: - Bơi lẹ anh Ba! Tối là hết thấy đường đó.

     Ai đã sống ở đồng nước mới biết khi tối trời đồng nước mênh mông ngút mắt, không còn biết hướng nào ra hướng nào. Quay phía nào cũng chỉ nước là nước, nước quây chóng mặt. Chúng tôi đã lâm vào cảnh đó giữa lắc rắc mây mưa, giữa mịt mùng bóng đêm vây bủa.

     - Út ơi! Lạc đường rồi phải không?

     - Chớ còn gì nữa. Đâu, ta bơi về hướng có ánh đèn kia kìa. Có gì mình hỏi đường người ta.

     Ngọn đèn coi chập chờn, tưởng gần mà đến được đến đó cũng mất gần cả giờ. Đó là ngọn đèn dầu hôi của một thằng nhỏ thắp lên canh chừng vịt. Thấy chúng tôi, nó ngạc nhiên hỏi:

     - Ủa, anh Hai bị lạc đường sao cà?

     Tôi kể cho nó nghe mọi chuyện. Nghe xong nó nói:

     - Hai anh em từ sớm đến giờ chưa bỏ bụng miếng nào mà chịu thấu sao? Để tui nấu cháo vịt cho ăn.

     Tôi chưa kịp ngăn lại, nó đã vọt lẹ ra gò đất quây vịt, vặn tréo cổ một con. Bầy vịt giật mình kêu quàng quạc. Ăn uống xong xuôi, thằng nhỏ hấp háy con mắt, nói với tôi, giọng tỉnh queo:

     - Tui ngủ xuồng cho, tui có nóp. Anh Hai với đứa em ngủ giường đi. Hồi chiều mắc mưa, ngủ ngoải bịnh à nghen! Tôi từ chối cách mấy nó cũng không chịu. Cuối cùng, tôi đành phải làm theo lời nó, bảo Út lên giường ngủ. Còn tôi, tôi ngồi hút khan hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, chong mắt chờ trời sáng.

     Quá nửa đêm, Út giật mình thức dậy, nói:

     - Anh Ba nằm ké đây mà ngủ. Ngồi đó muỗi ăn thịt à.

     Quả là muỗi nhiều thật. Muỗi cỏ trong đồng nhỏ lăn tăn, li ti, bay xám quanh mình, kêu ve ve như sáo thổi; chúng đốt đau nhoi nhói và ngứa muốn phát điên lên được. Mệt quá, chịu hết xiết, tôi buộc phải phủi chân chun vô mùng ngủ chung với Út. Gần sáng, tôi thức giấc thấy mình đang ôm Út trong lòng; mắc cỡ quá, tôi lật đật ngồi dậy, bước ra khỏi túp lều. Mình thật kỳ, may mà Út ngủ say không biết, chứ không... dám độn thổ cho rồi. Sau bữa đó mấy ngày, tôi hoàn thành tác phẩm. Ngoại Út đứng chống nạnh, dòm dòm một hồi rồi nói:

     - Chú Ba vẽ y chang con nhỏ. Mà coi bộ còn giống hơn con nhỏ. Dòm vô thấy nó man mác như xa như gần. Giỏi thiệt!

     Hết hạn thực tế, tôi chép lại một phiên bản tặng Út. Út mừng húm, đòi ngoại mua khung kiếng lộng bức tranh treo lên vách nhà. Trên vách nhà cặp bằng lá dừa nước xé, còn nguyên sống lá chạy đổ song sóng từ trên xuống, bức tranh nổi lên rất sống động, mặc dù nó chỉ là phiên bản. Cô gái trong bức tranh như đang chớp mắt gọi mặt trời. Mái tóc bay xõa như suối mây, vờn vào không gian thấp thoáng bóng chim, bóng cá, nhòa nhạt bóng nước, bóng trời.

     Bảy năm sau, hội mỹ thuật tổ chức cho tôi một cuộc triển lãm chung với hai họa sĩ khác. Hằng ngày chúng tôi thường đến phòng tranh, ngồi uống nước quan sát người xem, coi họ nhận định tranh ra sao. Một hôm có mấy nhà doanh nghiệp nước ngoài đến, họ dừng lại trước bức Cô gái gọi mặt trời của tôi. Một người nói: - Rất sống động. Tông màu biến hóa kỳ ảo như huyền thoại. Thiếu nữ trong tranh phải là một người sống rất chân tình. Giá mái tóc được bật sáng thêm chút nữa...

     Ông ta đặt cọc để mua bức tranh cao hơn giá treo tranh của tôi rất nhiều. Số tiền đó với gia đình chúng tôi là cả một tài sản. Biết tin này, không hiểu sao vợ tôi lại hỏi:

     - Này anh, cô Út của anh chắc có chồng rồi nhỉ? Bảy năm rồi còn gì!

     Nghe vợ hỏi, tôi sực nhớ đến Út. Nhớ đến buổi sáng chia tay với Út. Út bơi xuồng đưa tôi ra chợ xã. Dọc đường Út kể đủ thứ chuyện về đồng nước. Gần đến chợ, Út chợt hỏi tôi:

     - Anh Ba về thành chắc nhiều con gái đẹp, dám quên ngoại, quên Út lắm nghe.

     Tôi nói đùa với Út:

     - Con gái thành thị coi màu mè sặc sỡ chứ hơn sao được Út mà quên. Đợi ra trường làm ăn có tiền, thể nào anh cũng về nông thôn cưới vợ.

     Út gác mái dầm, nhìn tôi, nói:

     - Dóc tổ! Anh Ba mà chịu cưới vợ quê!

     - Thiệt chớ! Anh sẽ tìm cưới được một cô vợ giống hệt Út vầy nè!

     Út đỏ mặt mắc cỡ, hứ một tiếng rồi từ đó không nói chuyện nữa, chỉ lặng lẽ chèo. Mãi đến khi đã cặp xuồng vào mé chợ, Út mới lại lên tiếng:

     - Anh Ba cho Út tấm hình được không?

     Nghe tôi nói không có tấm hình nào, Út buồn xịu xuống, mắt rưng rưng muốn khóc. Để an ủi Út, tôi rủ Út vô tiệm chụp hình chụp chung hai anh em một tấm làm kỷ niệm.

     Bây giờ nghe vợ tôi nói vậy, tự nhiên tôi thấy mình có lỗi. Tôi ăn ở nhà Út cả tháng trời, vậy mà khi trở về thành đến một lá thư cảm ơn, thăm hỏi cũng không viết được. Đã vậy khi chia tay tôi còn hứa hươu hứa vượn. Lòng đầy ân hận, ngay chiều đó tôi tìm mua mấy món quà, ra bến xe mua vé về thăm Út.

     Tới nơi, cảm giác đầu tiên làm tôi lạnh cả người. Căn nhà vắng đến kỳ lạ. Bức tranh vẽ Út từ vách lá đã chuyển lên bàn thờ. Trời ơi! Út mất rồi sao? Tôi đau đớn lặng người, nước mắt trào ra. Thắp một nén nhang, tôi đứng chết trân trước bức tranh tôi vẽ cô gái gọi mặt trời.

     Sau đó, bà hàng xóm tính tình xởi lởi chạy qua, kể với tôi: - Chú biết không, con nhỏ lạ lắm. Ba bốn đám đến hỏi mà nó không ưng, không chịu đám nào. Với ai nó cũng nói nó có chỗ rồi. Chừng nó bịnh, thấy thương lắm chú Ba ơi! Hễ nằm thiêm thiếp thì thôi, còn thức dậy là ứa nước mắt, hỏi: "Anh Ba có về thăm chưa ngoại?." Lúc đầu ai cũng tưởng nó hỏi thăm thằng Ba anh ruột nó, chừng thằng Ba về, mới biết không phải. Lúc nó chết, thay bộ đồ cho nó, lục trong túi áo cũ thấy có tấm hình chú Ba chụp chung với nó. Chèng ơi! Con nhỏ trông chú Ba mỏi con mắt. Chú thiệt là tệ! Đi gì đâu biệt tăm hơi, không biên cho nó được lá thư!

     Trở về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho vợ tôi nghe, vợ tôi buồn bã nói:

     - Anh ạ! Đừng bán bức tranh nữa. Cả hai đứa mình đều có lỗi với Út. Bán bức tranh đi, mình mắc tội với Út không biết bao nhiêu lần mà kể.

289




Chim báo nước kêu khắc khoải cả đêm. Lìm lịm một nỗi buồn. Vậy thì đâu phải nó báo nước ròng, nước lớn . Chắc nó gọi bạn tình. Mấy hôm rày không hiếu vì sao chim báo nước mỗi ngày mỗi thưa dần tiếng bìm bịp thân quen. Cái anh chàng lầm lì ấy vô đồng đã mấy hôm nay. Chắc anh ta là thủ
phạm! Không biết anh ta ăn gì uống gì , chỉ thấy cứ đi rảo khắp lung , khắp bàu , rồi thỉnh thoảng... ngồi thừ ra trên một doi đất.
Hường nằm vắt tay lên trán , lắng nghe mãi tiếng bịp bịp buồn như tiếng thầy chùa tụng kinh. Rằm tháng mười vừa qua Hường có đi chùa Bà cúng cho chùa hai lít dầu hôi . Chùa buồn hiu trống huếch
trống hoác có gì đâu mà tới ; nhưng người ta đi thì Hường cũng đi , đi để rút một cây xăm cho có vậy thôi. Cốt yếu là để đem dầu cúng cho chùa. Mùa nước lênh láng , nhà chùa kiếm đâu ra củi ? Sư trụ trì thì già lắm. Già còn hơn cả cây săng máu nơi bến sông trước cửa . Nghe nói ngày xưa sư thất tình mới đi tu . Tu riết sư chỉ còn nắm xương bọc da trông cằn cỗi như gốc bần dầm nước.
Hường ngó vào mắt nhà sư thấy tồi tội, muốn khóc . Đời Hường có vui gì . Gần ba mươi mà vẫn héo hắt trên bến sông ngân ngấn nước . Sáng ra khỏi nhà , gặp bến sông. Chiều trở về lại cũng gặp bến sông . Ở không, ngồi chong mắt ngó mông ra cửa cũng chỉ có bến sông ấy - bến sông với cây săng máu trơ trọi thả nghiêng vòm lá , lúc nào cũng nghe xào xạc một điệu buồn u ẩn , lúc nào cũng ngân ngấn nước như sắp òa khóc một nỗi buồn cô quạnh .
Trưa qua , Hường thấy người đàn ông lầm lì ấy ngồi vấn thuốc hút khan dưới gốc cây săng máu. Chẳng thấy đồ nghề gì, chỉ thấy cái giỏ lác để hờ hỏng dưới chân. Anh ta ngồi thừ ra, từ lối gần mười giờ sáng tới gần hai giờ chiều . Chẳng thấy ăn gì , uống gì , chỉ thấy hút khan thuốc giồng. Giữa trưa, Hường luộc một nồi khoai sáp , cũng muốn mời anh ta nhưng lại ngại . Biết người ta thế nào mà mời . Với nữa , chỉ nồi khoai chứ cơm nước gì . Lúc mẹ đi xóm về thì anh ta đã xuống xuồng bơi đi đâu . Chắc lại vô lung, vô bàu bắt chim bìm bịp . Tại sao cứ phải bắt chim chứ . Miệt đồng còn rộng rinh. Thả dăm tay lưới , quăng mấy tay chài cũng đủ kiếm sống qua ngày.
Muốn khá thì cất vó bè hay đóng đáy , vỡ thêm vài công ruộng. Tại sao lại cứ phải bắt chim bìm bịp.
Tiếng chim vẫn nỉ non áo não đâu đó ngoài bến sông . Con nước đang ròng , phải gần hừng đông mới lớn trở lại

o0o

Sáng sớm , Hường phải đi chợ xã bán mấy cần xé hột vịt . Khi về thì trời đã xế trưa , mặt trời chếch bóng cây săng máu gần cả thước . Lạ thật ? Người đàn ông đang ngồi ăn cơm dưới bếp. Mẹ ngồi tiếp anh ta có vẻ như rất thân thuộc . Anh ta ngồi ăn cũng lầm lì , cô độc . Chỉ thoáng nhìn cũng biết, anh ta phải ngoài bốn mươi, tóc dày và cứng , gương mặt xương xương , hai bàn tay thô ráp , cần cổ cao và nổi hai sợi gân như hai ngón tay .
Day lại thấy Hường , anh ta vừa gật đầu chào , vừa nói với âm thổ , như vọng từ trong lồng ngực ra:
- Cô Ba ngồi ăn chén cơm luôn thể ?
Lúc đó tự dưng Hường đỏ cả mặt . Kể cũng ngộ , nhà của mình mà mình lại mắc cỡ . Hường thấy lúng túng, tay chân như thừa ra . Đang tính bỏ đi lên nhà trên, Hường nghe mẹ nói :
- Thì bây ăn với nó một chén cho vui. Nó cũng người làng này chứ xa lạ gì .
Sáng tới giờ Hường chỉ ăn có hai cái bánh ú khi đang chạy ghe trên sông, giờ cũng đã thấy hơi đói. Cô bày ra dĩa mấy trái cam sành , mấy trái quít đường, rồi ngồi ghé xuống mâm cơm. Vừa ăn Hường vừa len lén quan sát anh ta. Mắt đã có vết chân chim. Vầng trán hằn mấy đường nhăn . Râu cằm và râu
mép lún phún như rễ tre. Đôi mắt thăm thẳm , lấp lánh hai đốm sáng sâu hút . Người như vầy là người có bản lĩnh, từng trải. Vậy cắc cớ gì lại đến đây bắt chim bìm bịp ?
Mới tháng trước bìm bịp còn kêu đầy ngoài bờ ô rô, bờ dớn, bờ choại, bờ cóc kèn . Từ khi anh ta xuất hiện, bìm bịp cứ thưa dần. Tối qua chỉ còn nghe một con nao niết gọi bạn.
Đang vừa ăn vừa nghĩ miên man , Hường chợt nghe người đàn ông nói ồ ề:
- Cô Ba ăn đồ ăn ? Cá rô kho tộ ngon thiệt ngon !
Anh ta bẻ đôi con cá rô to như bàn tay, gắp cho Hường khúc đầu. Tự dưng Hường xốn xang cả lòng dạ. Đây là lần đầu tiên trong đời Hường được một người đàn ông gắp đồ ăn cho. Xưa nay Hường chỉ
quen gắp đồ ăn cho mẹ, cho mấy cô bạn đến nhà chơi . Hường chưa bao giờ sống trong cảm giác được người khác chăm sóc , nhất là... người đó lại là một người đàn ông hoàn toàn xa lạ. Chính điều đó làm Hường càng lúng túng, ngượng ngập hơn.
Để lẩy lại bình tĩnh, Hường nói:
- Anh ăn đi, anh là khách mà!
Hường gắp phần cá còn lại cho khách, nhưng do lúng túng miếng cá bị rớt xuống mâm. Rõ là vụng về. Hường cuống cả lên. Người đàn ông lại cất tiếng ồ ê:
- Cô Ba để tui . Tui no rồi .
Nói xong, anh ta xoay sang cắt cam và bóc quít . Hai bàn tay thô ráp mà làm coi gọn bân . Dáng vẻ sần sùi bên ngoài hình như chỏi lại tính nết bên trong . Người như anh không lẽ lại vô đồng bắt chim đem bán, hay bắt chim ngâm rượu ? Nghe nói lóng rày người ta chuộng rượu rắn ngâm với thuốc bắc, chim bìm bịp và hải mã.
Khi Hường rửa xong chén bát trở lên nhà , người đàn ông đã ra đi . Việc anh không chào cô một tiếng làm Hường phật lòng . Hường phàn nàn với mẹ:
- Hình như anh ta đến dây bắt chim ? Hồi hôm này ngoài bến sông, chỉ còn một con kêu thôi.
Mẹ vừa ngoáy cơi trầu vừa nói:
- Nước giật hổm rày, có khi chim vô đồng kiếm ăn.
Hường vẫn thấy giận người đàn ông. Người đâu mà... ra đi không thèm chào ai một tiếng. Cô nói :
- Ổng suốt ngày chui lủi trong bưng , trong bàu. Dám ổng lùng bắt chim chớ còn ai vô nữa?
Mẹ ngồi chỏi chân trên bộ ngựa , nhìn vọng qua cánh đồng bên kia sông , nói giọng khàn khàn:
- Bây ngựa vừa thôi con ơi. Không thấy thì đừng nghi oan cho người ta. Tội chết!
Ừ mà Hường có thấy anh ta bắt chim hồi nào đâu. Chỉ thấy anh ta thui thủi , lần mò đây đó trong lung, trong bàu . Ảnh làm gì ở trỏng ? Mấy năm trước có người ở tận xứ nào kéo vô săn lùng cua đinh, rắn hổ ; công an xã và du kích phải ra tay mới dẹp được họ . Nếu anh ta tới đây bắt chim bìm bịp , chừng nào công an mới tha. Vậy thì anh ta làm gì ? Có ai ở không mà tha thẩn trong lung, trong bàu như vậy . Hường vừa nghĩ vừa xách cây phảng ra chế đất sau nhà.
Ngang qua lùm tre gai nghe xoạt một tiếng , nhìn qua vạt cỏ ống Hường thấy một con hổ ngựa đang quăng mình rượt chuột . Con rắn to và dài thấy sợ . Thân hình nó màu nâu vàng , ban ngày thường nằm nép trên cành cây hoặc ẩn mình trong hang hốc, chỉ đêm xuống mới đi kiếm ăn , khi trườn thì rất nhẹ nhàng, chỉ khi phóng tới bắt mồi nó mới tỏ ra nhanh nhẹn. Con hổ ngựa này chắc ở đâu mới tới. Trước đây trong bọng cây c%
C3205


Powered by Blogger.