với sự góp ý của N.)

Có khi nào mới gặp một người lần đầu tiên, mà bạn có cảm giác như đã từng quen biết người ấy ở đâu đó? Hoặc bạn đang đứng ở một góc phố xa lạ, nhưng lại có cảm giác quen thuộc như đã từng qua đó vài lần? Chuyện ấy diễn ra như một cuốn phim, hay một giấc mơ được lập đi lập lại nhiều lần.

***


Cô nhận được lời nhắn của anh: "Ba giờ chiều thứ bảy. Công viên trung tâm, vào lối cửa tây. Anh sẽ mặc bộ đồ đen và đợi ở ghế đá thứ tư - tính từ bức tượng Thiên Thần. "

Cô đến nơi hẹn khoảng sau ba giờ một chút, và ngồi xuống ghế đá thứ ba. Ghế đá thứ tư đang có người ngồi, nhưng không phải là anh. Bởi đó là một người đàn ông đứng tuổi. Ông ngồi bất động như một pho tượng màu đen.

Buổi chiều tháng ba trôi qua thật chậm. Nắng vướng lại trên các phiến lá của hàng cây ven hồ. Gió lung linh. Vài con chim câu bước đi khệnh khạng quanh chân người đàn ông. Thỉnh thoảng bằng một cái phẩy tay rất khẽ, ông thẩy cho chúng những mẩu bánh vụn.

Cô ngồi xuống gọn gàng trên chiếc ghế đá kế bên. Đôi mắt tròn nâu in hình một dải mây trắng giăng ngang bầu trời. Ở hai đuôi mắt của cô, lấp lánh những hạt nắng, ánh lên từ mặt hồ đằng xa. Trong tay cô là tập thơ cúa Tagore, có hình bìa màu xanh ngọc, xen lẫn những vệt màu xanh lá. Cô định mang đến tặng anh nhân buổi gặp gỡ đầu tiên này.

"Chắc là anh đến trễ một chút. Ngồi đây yên tĩnh một mình cũng hay." Cô mỉm cười rụt rè, như ngại người ta biết cô đang hẹn hò. Cô chợt nhớ anh đã có lần viết "Anh thích nụ cười cúa em."

Cô bảo "Làm sao anh thích được, khi anh chưa nhìn thấy, cũng chưa nghe thấy bao giờ ?"

Anh nói: "Anh có cảm giác, và anh tin vào cảm giác cúa mình."

Anh luôn có cách nói chuyện khiến cô cảm động. Trước anh, chưa có ai nói với cô những lời như thế. Và cô cũng không từng trò chuyện với ai như với anh.

Thuở nhỏ, cô là một đứa trẻ nhút nhát đến câm lặng. Lớn lên, cô tự tạo quanh mình một bức tường vô hình, rất khó gần. Rồi anh đến. Những lời anh nói tựa như những ngón tay, dịu dàng gõ mãi lên cánh cửa. Để rồi một ngày nọ, cánh cửa tâm hồn của cô bật khoá, mở hé ra - vừa đủ để đón nhận anh vào.

Mẹ bảo "Đàn bà yêu bằng tai." Những lời anh nói cứ như một thứ rượu khai vị, nhấp một chút sẽ có cảm giác thèm ăn. Thèm nếm thử một loại trái cấm huyền thoại, mà người ta gọi là "tình yêu".


Hai chiếc ghế đá cách nhau không xa. Trong cái tĩnh lặng của buổi chiều, họ dường như nghe thấy những suy nghĩ của nhau. Người đàn ông không nhìn sang cô, nhưng cái bóng màu trắng nôn nao in vào đuôi mắt ông, cho ông hay: cô đang chờ đợi một người.

"Hồi đó, tôi có quen một người qua mục Tìm Bạn Bốn Phương trên báo. Thư từ qua lại khoảng nửa năm sau, chúng tôi mới quyết định gặp mặt nhau."

Một nụ cười nhẹ như gợn sóng, thoáng qua trên khuôn mặt âm u của người đàn ông.

"Tôi nhắn nàng, tôi sẽ mặc bộ đồ màu đen, và đợi nàng trên cái ghế đá mà tôi đang ngồi đây. Đến ngày hẹn, tôi cố tình đến trễ, lại mặc bộ đồ màu trắng, đeo thêm cặp kính đen và đội cái mũ lưỡi trai. Đến nơi, tôi đã thấy một người con gái ngồi đó, dáng vẻ mong ngóng, đợi chờ."


Cô gái đưa tay vén những sợi tóc xõa ngang mặt. Nắng chiều nhuộm tròng đen mắt cô thành một màu vàng nâu mật. Cô khẽ nhúc nhích sửa lại tư thế ngồi cho ngay ngắn hơn. Cảm giác nôn nao từ hai bàn tay cô truyền vào cái bìa của tập thơ Tagore, khiến màu xanh ngọc thẫm lại, ngả sang màu xanh biển, ngơ ngác.

Chợt một cái bóng trờ đến trước mặt cô. Hắn đứng chắn ngang mặt trời buổi chiều đỏ ối, nên cô không nhìn thấy mặt hắn. Vài giây sau hắn biến mất. Hình như hắn mặc bộ đồ mầu trắng. Hình như hắn đã nhìn cô.


"Tôi đi ngang chỗ nàng đang ngồi. Kín đáo nhìn dung nhan của nàng vài giây. Nhưng thất vọng, bỏ đi. Sau buổi hẹn không thành đó, nàng còn tiếp tục gửi đến hộp thơ của tôi vài lá thư nữa. Nhưng tôi không hồi âm. Nàng tuyệt vọng, buông tay. Tôi thành qủa bong bóng tự do, bay tuốt lên trời. Bay đến một tầng không khí nào đó, áp lực sẽ làm qủa bóng vỡ tan."


Mấy con chim câu như đã no đủ, vỗ cánh bay lên. Không gian thoáng xao động. Nắng chiều như một chất lỏng màu vàng, sóng sánh. Người đàn ông phủi hai tay vào nhau. Chút vụn bánh còn sót rớt xuống mũi giầy, lốm đốm trắng. Ông cho tay vào túi áo khoác lấy ra một chiếc tẩu, nhồi thuốc, châm lửa, bập bập mấy cái. Khói Half & Half thơm ấm tỏa ra chung quanh.


"Tôi chán chuyện tình yêu bốn phương, bỏ đi lấy vợ. Vợ tôi là một người đàn bà đẹp, nhưng lẳng lơ. Chẳng bao lâu sau ngày cưới, tôi phát hiện bà ấy ngoại tình với thằng bạn cùng sở. Không phải một, mà là nhiều lần. Tôi uất quá, thuê người thanh toán cả hai. Chuyện đổ bể, cảnh sát bắt được tay sát thủ. Hắn khai ra tôi. Nhưng luật sư cãi giỏi, tôi chỉ lãnh hai mươi năm tù giam."


Mây trên trời đã bắt đầu ngả sang màu tím, non non như màu bông lục bình. Khi viết cho cô, anh không gọi cô là Vân - tên thật của cô, mà gọi cô là Mây. Anh bảo anh muốn em như một áng mây, tự do, phiêu lãng, thoát khỏi sự cầm giữ cúa một linh hồn cô độc. Mỗi lần mở thư anh ra, chỉ cần đọc lên hai chữ "Mây thương", là lòng cô lại gợn lên một niềm xao xuyến khó tả.


"Những năm tháng trong nhà giam, tôi hối hận về việc chủ mưu sát hạt bà vợ của tôi thì ít, nhưng ân hận nhiều hơn về việc bỏ rơi người con gái trên chiếc ghế đá này năm xưa. Hai mươi năm sống như một con vật bị giam cầm giữa bốn bức tường đá lạnh lẽo, tôi dần dà cảm nhận được cái sâu thẳm của tình yêu. Có thể nói là nhờ cảm giác từng được yêu, mà tôi sống sót qua hai mươi năm đăng đẳng ấy. Ước nguyện duy nhất của tôi khi ra tù là, được ngồi đây, trên chính chiếc ghế đá này, chờ nàng suốt những buổi chiều còn lại của đời mình."


Mặt trời đã xuống thật thấp. Cô có cảm giác như mình sắp hoá thành một bức tượng Thiên Thần thứ hai trong công viên. Hai bàn tay cô lạnh như thạch cao cầm chặt tập thơ Tagore. Màu xanh lơ của hình bìa đã đổi sang màu tím xẫm của biển chiều. Cô bắt đầu có cảm giác nhẹ như muốn rơi. Nếu không cử động, cô sẽ rơi xuống vực sâu dưới chân cô. Cô đứng lên, run rẩy.


"Sáng nay tôi được ra tù. Buổi chiều tự do đầu tiên này, tôi muốn đến đây, ngồi lại trên chiếc ghế đá này."


Người đàn ông chợt thấy một cái bóng đứng ngay trước mặt mình. Trong màu hoàng hôn vàng như lá mùa thu, ông nhận ra khuôn mặt của người thiếu nữ năm xưa. Nàng vẫn thế, chẳng thay đổi gì sau bao nhiêu năm. Cái bớt màu son đỏ to bằng ngọn rau răm, nằm ngay dưới quai hàm vẫn còn đó. Năm xưa, khi thoáng nhìn thấy cái bớt này, ông đã xem như một khuyết tật của nàng. Nhưng bây giờ, cái bớt ấy lại là dấu ấn xác thực để ông nhận ra nàng.

Người phụ nữ chợt cất tiếng nói, với một giọng mà ông chưa từng nghe qua bao giờ, nhưng lại rất gần gũi: "Thưa ông, ông đang ngồi ở chỗ mà tôi đã ngồi trong suốt hai mươi năm qua. Chiều nay tôi bận việc, đến trễ một chút, thì ông đã chiếm mất chỗ của tôi rồi. Ông có biết ... "

Ông vội vã đứng lên, "Tôi biết ... tôi biết mà. Hai mươi năm qua, bà không thấy tôi, nhưng tôi vẫn quanh quẩn chỗ ngồi này thôi. Tôi biết ... Tôi biết .... " Rồi ông quay sang chiếc ghế đá bên cạnh, định mở lời nói với cô gái cũng đang đợi chờ ai đó. "Đây là người thiếu nữ tôi đã hẹn năm xưa." Nhưng ông không thấy cô đâu.

Trên ghế đá, chỉ còn lại tập thơ Tagore, gió đã lật cái bìa sang một bên. Những tia nắng cuối vội vàng ghé xuống đọc trộm đôi dòng:

[i]What shall I bring you?
A light?
A lamp from a secret corner of my silent house[/i]? (*)

----
(*)Tagore, Rabindranath

CV[/font]1623









Ngày trước, tôi hay la cà ở mấy quán cà phê. Đôi khi với bạn, nhưng thường chỉ một mình. Nhấp chút cà phê, hút vài hơi thuốc, và bâng quơ nhìn người đi qua ngoài phố. Người đi qua, thời gian đi qua. Dòng đời cứ vô tình chảy. Còn tôi, ngồi đó như một khóm lục bình tấp lại bên bờ.

Em đến, mang theo một làn gió mỏng - như tà áo tím. Buổi chiều chợt xôn xao. Tôi đứng dậy. Ánh sáng bên ngoài dịu dàng, làm nền cho chiếc bóng của em - lung linh như một ảo ảnh.

Những cái hẹn đầu của tôi thường là ở quán cà phê. Nơi ấy âm ấm những màu nâu huyền thoại. Mầu nâu sóng sánh của tách cà phê, mầu nâu cổ xưa của các bức tường gỗ, và mầu nâu thăm thẳm của đôi mắt người con gái. Dường như, mỗi mầu tượng trưng cho một thời. Bắt đầu cuộc đời là mầu trắng tinh khôi, rồi màu xanh mơ mộng, màu tím trăn trở, màu hồng lãng mạn, màu đỏ đam mê, màu đen u uẩn. Riêng mầu nâu - cà phê - là mầu của la cà, hò hẹn, của gặp gỡ, và chia ly.

Hai muỗng cà phê, hai muỗng cream, hai muỗng đường - ly cà phê nào cũng giống nhau. Nhưng tâm trạng của người thì có khác. Có ngày ngọt, ngày đắng, ngày lờ lợ - không ra ngọt, không ra đắng. Đời là thế mà! (Tôi nói như một người từng trải.) Vậy mà sống bao nhiêu năm trên đời, tôi vẫn ngỡ như mình chưa trải qua cái gì hết. Vẫn ngơ ngác vì bao điều mới lạ. Vẫn vui như trẻ con bởi những điều thật đơn giản. Vẫn có những góc khuất của tâm hồn người tôi chưa từng qua. Vẫn nhìn người chung quanh bằng ánh mắt hiếu kỳ của đứa trẻ mới lớn.

Bên ngoài trời đang mưa. Cảnh vật như một khúc phim tình cảm u trầm, ảm đạm. Những mặt đường lặng câm. Những mặt người buồn tênh - tcs

"Buồn chán" - thú thực, tôi chẳng thích từ này chút nào. Nó cho tôi cảm giác khó chịu, ức chế. Bởi thế, bao nhiêu buồn chán, tôi rũ cả vào chữ nghĩa. Rồi người sẽ nhẹ tênh, như chưa vướng bụi trần. Rồi lại một ngày thong thả - như mây.

Trời vẫn đang mưa. Cách đây mười năm, có thể tôi đã đang buồn. Một nỗi buồn nọ - kia như thời tiết. Nhưng buồn tôi chừ đã lớn, trở thành an phận như mặt đường nằm yên, ngửa mặt hứng những giọt mưa lành lạnh, êm êm - rơi xuống từ một bầu trời khó nhọc, gian truân ...

2415




Biển đêm luôn là một hình ảnh đầy bí ẩn, và đáng sợ. Khi ấy, nước biển đang lạnh dần, gió trở nên tinh quái hơn, và hình hài của biển là một kích thước gần như không giới hạn, vượt qua đường chân trời tăm tối.

Cát đang thiu thiu ngủ, thì cảm thấy một bước chân khẽ khàng đặt trên mình. Rồi đến những bước kế tiếp của hai bàn chân trần mềm mại. Đó là hai bàn chân của một người con gái.

Biển tò mò vội dịu đi những tiếng sóng vỗ xa xôi, gío lặng xuống một chút, và cát cũng thả lỏng người đón nhận những bước chân.

Cô gái đang đi về phía biển.

Gío nghiêng xuống thì thào với Cát:
- Mắt cô ấy mở to, nhưng dường như chẳng nhìn thấy gì hết!

Cát lo lắng:
- Những suy nghĩ của cô ấy đã đông cứng trong đâu

Biển thảng thốt:
- Oh, tôi nghe vài tiếng nói lạnh như đá, vỡ vụn, rơi ra khỏi đầu cô ấy: "... anh ... vĩnh biệt ... "

Cô đến gần Biển hơn...

Cả dải cát chợt lấp lánh - những hạt ánh sáng nhỏ li ti, như phản chiếu lại hình ảnh bầu trời thấp thoáng ánh sao trên cao.

Bàn chân thanh xuân, non dại của cô sắp sửa nhúng xuống làn nước tối tăm, lạnh lẽo

Biển rùng mình, tất cả sóng to sóng nhỏ cùng lắng xuống, im lặng.

Gío hốt hoảng, ngừng lại giữa đỉnh trời.

Hàng triệu hạt cát vội chuyển mình dưới chân cô gái, như muốn hất ngược cô trở vào bờ.

Rồi cả ba: Biển, Gío và Cát cùng thốt lên thứ ngôn ngữ riêng của chúng, nhưng có cùng một nghĩa:

- Đừng, cô ơi!280




Ngày mình mới đặt chân đến đây, cái thành phố ở góc nước Mỹ này, mình thấy rất nhiều hoa. Hoa mọc hầu như khắp nơi, đến nỗi mình cứ tưởng ở đây hoa dại cũng đẹp đến vậy... Sau này mình mới biết rằng, từng khóm hoa ở đây đều có bàn tay người quan tâm chăm sóc; ngay cả những bụi hoa mọc ra từ những kẽ đá chung quanh nhà ai, cũng không phải mọc lên một cách tình cờ, như một loài hoa dại.

Năm đó mình học lớp mười, một cái lớp thật đặc biệt, chì có ba thằng con trai. Một thằng thì lúc nào cũng như ở trên mây; chẳng thèm ngó ai; nên mình cũng không thèm ngó hắn. Một thằng nữa thì trông yểu điệu thục nữ, phát ngán. Thằng thứ ba là mình, từ hồi học lớp chín đã được bọn cùng lớp đặt cho cái nick công tử bạc liêu. Mình không chơi với hai tên có tài, nhưng quái dị kia. Còn lại mười đứa con gái, thì khỏi nói - phá như qủy!

Ngày đầu tiên mình vào lớp, một nàng nghênh mặt lên, phán một câu: "Có vô lộn chuồng không đó?" Thú thực, ngoài những năm tiểu học ngây thơ, đây là năm đầu trung học, mình học chung với con gái, nên hơi mắc cỡ, chẳng nói năng gì, đi thẳng đến chỗ ngồi của hai tên cùng phái. Sau này, mình biết tên của nàng đó là Nhiên. Cũng dân số trong lớp như vậy, bọn mình học chung với nhau hai năm nữa; và cùng trải qua những kỳ thi của quận, của thành phố, rồi lên đến cấp quốc gia. Thân nhau hơn, vui hơn. Ừ, tuổi học trò dường như chỉ có vui; buồn có chăng, chỉ để trang điểm cho ra vẻ cuộc đời.

Và mãi đến những ngày cuối cùng của năm mười hai, mình và Nhiên mới có cái hẹn đầu tiên. Gọi là hẹn hò, phải không, vì đó là lần đầu chỉ có hai đứa với nhau. Hôm đó, không phải là chiếc áo dài trắng Nhiên vẫn mặc đến lớp hàng ngày, mà là một chiếc áo đầm với những chiếc bông to màu sáng thanh nhã. Đó là một buổi sáng cuối tuần bình yên, nắng dịu, mặt đất âm ẩm mát mẻ sau cơn mưa đêm hôm trước. Đó đây, lẩn khuất trong những đám cỏ xanh ven đường, là những cánh hoa dại.

"Nhân hái cho Nhiên mấy cành hoa dại kia đi" Vậy là những cánh hoa đầu tiên mình tặng một người con gái lại là những cánh hoa dại. Bây giờ, nghĩ lại, sao thấy mình dạo đó khờ qúa, chưa biết mua hoa để tặng người ta. "Nhân ơi, ở đó có nhiều hoa dại không?" Trong lá thư gửi cho mình mới đây, Nhiên đã hỏi mình như vậy.

Trả lời sao đây nhỉ?


1660




Một ngày bắt đầu bằng bốn cái chấm
....

như cánh cửa mở ra mưa, ra nắng.


Cánh cửa ấy bây giờ mở ra trơn tru, chứ không rỉ sét kẽo kẹt như trước. Có lẽ vì chủ nhân của nó mở cửa ra ngoài thường xuyên hơn xưa.

Một cánh cửa mở ra, thì cánh cửa khác phải khép lại. Khép lại dĩ vãng, khép lại những điều không muốn nhắc, muốn nhớ.

Bây giờ, tôi không thích đi xa nữa. Mỗi ngày tôi chỉ đi gần, trên những con đường quen thuộc. Tôi cũng không còn ước ao gặp gỡ những người trong mộng. Mỗi ngày chỉ mong nghe giọng một hai người quen quen.

Tôi thích coi những phim phiêu lưu mạo hiểm, thích đọc những truyện trinh thám ly kỳ; nhưng lại cũng thích một mình đi trên những con đường mòn, vắng vẻ quạnh hiu. Có lẽ, đấy là hai mặt của một con người. Người khác có thế không?

Tôi sẽ mở cửa bước ra ngoài, dù trời mưa hay nắng. Tôi sẽ lắng nghe người, dù lời hay vui buồn. Tôi với trời, tôi với người, tôi với tôi. Thực sự, không ai hoàn toàn cô độc. Chỉ cần mở cửa bước ra ngoài.

Yêu thương, giận hờn, ghen ghét rồi sẽ có một ý nghĩa khác xưa. Cần có một ngày nắng ráo, một ngày mưa sa, một ngày gió lộng, để lớp da nhạy cảm làm quen với những đổi thay trong trời.

Sáng nay, tôi mở cửa ra ngoài, để gặp trời đang mưa. Ướt một chút, lạnh một chút, cô liêu một chút. Nhưng lòng tôi yên lành như một đêm mùa hạ. Yên như con đường Ba - mươi lúc sáu giờ sáng. Có thể trong ngày, tôi sẽ lại có dịp nghe thấy giọng của người quen. Có thể tôi sẽ may mắn nhận được một nụ cười. Biết đâu ....

CV


1635









Hôm nay, Thứ sáu. Có phải cũng là ngày Thượng Đế tạo ra con người?

Nghe kể, Thượng Đế tạo ra người đàn ông trước. Sau đó, ngài thấy tội nghiệp, vì trông hắn cô đơn quá. Rình lúc hắn đang ngủ, ngài bẻ một miếng xương sườn, tạo ra người đàn bà.

Như vậy đàn bà, tiền thân là mảnh xương sườn của đàn ông. Và cũng chẳng lạ, khi đàn ông càng lớn tuổi, lúc trái gió trở trời, hắn hay cảm thấy đau đau bên hông - chỗ có mảnh xương sườn cụt.

Chuyện kể: những ngày đầu, khi người đàn ông có bạn, hắn vui, vì không phải một mình lủi thủi giữa Vườn Địa Đàng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, hắn đã nhận ra đàn bà là nguyên nhân của nhiều phiền toái. Bực mình, hắn bỏ người đàn bà vào bao, trả lại Thượng Đế.

Nhưng chỉ được ít hôm, hắn lại cảm thấy trống vắng, và nhớ mảnh xương sườn cụt của mình. Hắn lên gặp Thượng Đế, xin lại người đàn bà, bỏ bao mang về.

Hắn phải tập làm quen với chiều chuộng, dỗ dành, năn nỉ, để đổi lấy những giây phút hạnh phúc bên nàng. Nhưng càng ngày, nàng càng trở nên nặng nề qúa sức chịu đựng của hắn. Lần nữa, hắn lại bỏ nàng vào bao, vác lên trả lại Thượng Đế.

Được một mình, an nhiên tự tại một thời gian. Rồi cái chu kỳ cô đơn, nhung nhớ lại trở về gậm nhấm, bào mòn tâm hồn hắn. Hắn lại đến tìm Thượng Đế, và hân hoan vác về nhà cái bao đựng hạnh phúc lẫn đau khổ của mình.

Nghe đâu, hắn còn trả lại, xin về vài lần nữa, trước khi nghe lời ngon ngọt của người đàn bà: ăn trái cấm, để vĩnh viễn bị đày xuống trần gian - sống chung thân với người đàn bà. Đàn ông bây giờ sờ tay lên cổ, vẫn thấy miếng trái cấm mắc nghẹn lại - thành cục xương nhòn nhọn lồi ra.

Hôm nay, Thứ sáu. Kỷ niệm triệu triệu năm, ngày người đàn ông đầu tiên được tạo ra. Kỷ niệm ngày thân thể và tâm hồn còn nguyên vẹn, chưa bị sứt mẻ, hao hụt, lao đao vì một người đàn bà. Kỷ niệm những ngày vô ưu, chưa thương, chưa nhớ.

"Em đang ở đâu ?! Ơi, mảnh xương sườn cụt của tôi ...."
2416




Đêm nay, căn phòng khách này được sắp xếp lại. Bộ salon, cái tủ chè, cùng những bức tranh sơn mài phải mang cất vào các buồng trong. Nhường chỗ cho chiếc áo quan kê ở giữa phòng. Ánh sáng của hai ngọn đèn neon trên trần nhà, được thay bằng ánh sánh của nhiều cây nến. Trong không khí trộn trạo những mùi nhang khói, trầm hương, hoa tươi, nước thánh, vải xô, gỗ mới, vẹc ni, là những bóng người mặc đồ tang trắng toát. Giữa những cái bóng đứng, ngồi, quỳ, phủ phục đó, có anh. Trông anh vẫn rắn rỏi, như thể pho tượng đồng được gói trong lần vải tang sô chưa nhầu nếp.

Anh đang khóc. Ánh nến soi vào hai giọt nước mắt, trông lấp lánh tựa hai giọt sương ứa ra từ một phiến đá đen thẩm. Không nghe thấy tiếng nức nở, chỉ thấy đôi vai anh run lên nhè nhẹ. Tôi nghĩ, sống trên đời hơn ba mươi năm nay, chắc đây là lần thứ hai anh khóc. Lần đầu là khi anh mới lọt lòng sanh ra, lần thứ hai này là vì mẹ anh vừa qua đời.

Anh tuổi cọp. Nhỏ thó. Lì lợm. Như quả lựu đạn bọc thuốc nổ trong lớp thép đen đủi, lạnh băng. Một đêm mưa tháng tám, tôi mở cửa cho anh vào nhà sau nhiều tháng đi biệt. Anh cởi chiếc áo mưa, lộ ra một vết chém đầy máu. Anh không chịu đi bệnh viện, chỉ buông lời ngắn gọn: "Khâu lại cho tao!". Bàn tay đứa sinh viên năm thứ ba trường Y của tôi, vẫn còn run run trên những đường kim vụng về. Bởi đó là máu, thịt, vết thương, cảm giác của ruột rà thân thuộc. Mặt anh đẫm nước mưa lẫn mồ hôi, và lấm tấm vệt đỏ máu. Da thịt anh đanh lại, nhưng anh không phát ra một tiếng rên đau.

Anh là hình ảnh hoàn toàn trái ngược với tôi. Có lần Bác nhìn tôi, giọng trầm xuống: "Phải chi thằng Hải nó được một phần của con". Còn tôi lại ước có phần nào đó của anh. Hồi chúng tôi còn nhỏ, anh hơn tôi chỉ ba tuổi, người nhỏ con đen đủi, nhưng lại làm con ngáo ộp tôi mang ra dọa đám trẻ đồng trang lứa. Chẳng có đứa nào dám bắt nạt tôi. Cả những đứa to con lớn xác hơn, cũng ngán anh vì anh vừa lì lợm chịu đòn, vừa ngang tàng liều mạng. Anh đẽo cù, dán diều, bắt dế cho tôi. Anh thương tôi như một người em ruột. Rồi anh bỏ học, đi hoang. Thỉnh thoảng trở về, nằm nhà vài ngày, rồi lại đi. Mỗi lần anh trở về, tôi lại thấy anh rắn rỏi, lầm lì hơn. Khi anh ở trần, tôi thấy người anh phô ra đầy những vết thẹo ngang dọc, ghi dấu những chiến tích giang hồ. Vì anh, bác tôi khóc mãi. Nước mắt cứ ướt, rồi lại khô. Buồn lo trong lòng người mẹ kết tinh lại, như ngọc trong trong đá. Bác lại bảo tôi "Ông Trời công bằng lắm con ạ. Mang con đến cho ta, thay đứa con ruột". Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi cùng chết trong một tai nạn. Người thân chỉ có mỗi bà bác goá chồng, cưu mang tôi.

Nhưng Trời hào phóng hơn nữa, khi mang đến cho Bác thêm một đứa trẻ khác. Cũng vào một đêm mưa gió, anh trở về, bồng theo một đứa trẻ, nhỏ tẹo như con búp bê. Thế là, Bác đã hơn sáu mươi, lại phải bận rộn sữa tã cho đứa bé từ trên trời rơi xuống. Tôi hỏi anh muốn đặt tên nó là gì, anh bảo cứ gọi nó là Cúc. Tôi định hỏi, có phải mẹ nó là Cúc, như cái tên xâm trên cánh tay anh không, nhưng thấy mắt anh lạnh qúa, tôi không dám. Tôi ra phường, làm giấy khai sanh cho con bé lấy họ tôi. Và khi đi Mỹ, tôi tìm cách mang nó theo. Một hôm con bé hỏi tôi, cái tên của nó nghĩa là gì, tôi bảo đó là tên một loài hoa, người Mỹ gọi là Daisy. Nó bảo tôi đổi tôi đổi tên cho nó, vì người ta cứ gọi tên nó nghe như chữ cook - nghĩa là người đầu bếp. Thế là nó có tên mới, Daisy.

Daisy đang ngồi kia, cạnh người cha ruột của nó. Nhìn nó trong chiếc áo vải xô màu trắng, thật tội. Nhưng con bé không khóc, mọi thứ chung quanh đây có vẻ như xa lạ với nó. Chắc nó quên rồi những ngày xưa còn bé, quấn quýt bên bà nội. Ánh mắt lạ lẫm của nó đang dán vào con thằn lằn bám trên bức tường vôi trắng.

Bỗng tôi nghe anh nấc lên, khuỵu xuống bên chiếc áo quan "Mẹ ơi! ... tha lỗi cho con! Mẹ ơi ..." Daisy ngơ ngác, rời mắt khỏi con thằn lằn, nhìn sang cha nó. Có lẽ những lời thống thiết của anh, đã làm rung lên một sợi dây tình cảm vô hình thâm sâu, nối liền giữa cha và con. Khuôn mặt con bé chợt biểu lộ điều gì đó, tựa như một nỗi buồn - rất trẻ thơ.



CV1647




Một hôm, có cô gái đứng sau cửa sổ phòng của Gã nhìn ra khu vườn. Tóc ngang lưng, khuôn mặt dịu dàng, áo đầm màu kem. Ngoài vườn là hai khóm hoa cúc trắng gần cửa sổ, ba cây táo cao hơn đầu người một chút trồng cạnh hàng rào, còn lại là một thảm cỏ xanh biếc. Hẳn là cô gái không thể nhìn thấy tôi đang đậu trên cành của một trong ba cây táo ấy. Tôi quá nhỏ bé với cô. Thực ra hình hài của tôi quá nhỏ bé so với cả loài người nói chung. Ngoại trừ Gã.

So với hình dáng gầy gầy cao cao của Gã, tôi lại càng trở nên nhỏ bé hơn. Nhưng tôi biết, trong mắt của Gã tôi không phải chỉ là một sinh vật tầm thường vô nghĩa. Ngay từ lần đầu tiên khi tôi xà xuống đậu trên bệ cửa sổ, tôi biết tôi sẽ là một cái gì đó trong tâm tưởng của Gã. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng nhìn nhau. Tôi nhìn Gã từ bệ cửa sổ. Gã nhìn tôi từ cái rocking-chair bên ly cà phê buổi sáng. Tôi cảm thấy gần Gã hơn bất cứ con người nào. Không phải tôi thích Gã vì Gã đã thết đãi tôi vài hạt gạo, mà bởi vì cái vẻ tĩnh lặng của Gã. Thậm chí đang ngồi trên cái ghế có đôi chân cong cong như chân ngựa gỗ, tôi chưa khi nào thấy Gã đong đưa. Và đôi mắt của Gã cho tôi cảm giác rất bình yên. Gã vẫn nhìn tôi như thể tôi là một con người. Còn tôi chỉ nghiêng đầu nhìn gã bằng một mắt. Khi tôi nhìn cái gì bằng một mắt tròn xoe của loài chim, thì có nghĩa là tôi đang vừa tò mò, vừa cảnh giác. Nói ra thì có vẻ không công bằng, nhưng chưa bao giờ tôi nhìn Gã thân thiện như tôi nhìn đồng loại mình - loài chim.

Đằng sau vẻ tĩnh lặng của Gã ẩn giấu một điều gì đó mà tôi không cảm thấy được. Loài chim của chúng tôi thì đơn giản và vô tư lắm, chứ không sâu sắc và có nhiều nỗi khổ tâm như loài người. Chỉ có một lần duy nhất trong đời tôi xuýt vong mạng vì đèo bồng một nỗi khổ tâm gần giống của loài người. Đó là lần chàng chim bạn bỏ tôi đi theo một bạn tình mới. Ngày ấy tôi buồn bã đến nỗi đã lấy hết sức bay lên thật cao, rồi khép hai cánh lại, chúc đầu lao thẳng xuống đất! Nhưng khi cảm thấy thân gần chạm đất, tôi lại hối hận vào giây phút cuối, nên vội bung đôi cánh ra, đáp xuống an toàn trên đám cỏ xanh trong khu vườn của Gã. Sau biến cố đó, tôi sống cô độc, xa lánh bầy đàn, và chọn cây táo trong vườn của Gã làm nơi nương náu. Nguồn thức ăn chính của tôi là những hạt gạo Gã rải trên bệ cửa sổ mỗi ngày.

Gã cũng sống cô độc như tôi. Quanh năm suốt tháng chẳng ai ra vào căn nhà ngoài Gã. Một ngày hai lần Gã mở hai cánh cửa sổ ra. Lần đầu vào khoảng sáu giờ sáng, Gã pha một ly cà phê, mở cửa sổ, rồi ngồi trên cái rocking-chair nhìn ra khu vườn. Lần thứ hai là lúc đi làm về, ăn uống xong, Gã mở cửa sổ, rồi ngồi vào bàn viết. Gã hí hoáy viết lách gì đó. Cái bàn viết cũng xoay mặt ra cửa sổ, nên từ trên cành táo trong vườn, tôi nhìn thấy sắc diện của Gã thay đổi khi viết. Có khi cây bút của Gã chạy loang loáng trên mặt giấy, chữ nghĩa tuôn tràn theo dòng mực. Khi ấy trông Gã thật hạnh phúc. Có khi cây bút bất động trong tay, Gã đăm đăm nhìn trang giấy trắng. Khi ấy trông vẻ mặt đăm chiêu, ức chế của Gã tôi thấy thương quá. Tôi không hiểu được con người là ở chỗ ấy - chẳng lẽ họ phải viết ra mới cảm thấy hạnh phúc?

Bấy giờ đang là cuối buổi chiều. Cái nhìn của cô gái đã vượt lên trên khu vườn, chạm vào những dải mây mềm như lụa trải dài cuối chân trời. Chợt Gã xuất hiện sau lưng cô gái, và vòng tay quanh người cô. Khuôn mặt cô gái rạng rỡ lên như màu nắng. Tôi tế nhị, quay mặt đi chỗ khác. Lúc ngó lại thì hai cánh cửa sổ đã khép. Đêm bắt đầu xuống xuống chập choạng trên các ngọn cây. Nhưng Gã không mở đèn viết lách như mọi khi. Từ những kẽ lá, tôi nhìn chăm chăm vào ô cửa sổ khép kín, tối bưng. Thỉnh thỏang một cơn gió lướt qua, những chiếc lá chung quanh tôi rung lên nhè nhẹ. Đêm đó, tôi thao thức mãi không ngủ được. Nhìn những giọt sương trên mặt cỏ lấp lánh ánh trăng, tôi nghĩ rằng Gã đang hạnh phúc mà chẳng cần phải viết lách gì cả.

Sáu giờ sáng hôm sau, hai cánh cửa sổ vẫn khép im lìm. Cả ngày hôm ấy, và hai ngày sau đó cửa sổ vẫn khép. Tôi phải đi lang thang kiếm ăn trong các khu vườn lân cận. Nhưng chỗ trú đêm vẫn là cành cây táo trong khu vườn của Gã. Đến buổi chiều ngày thứ tư, khi trở về đậu trên cành táo, ngó hai cánh cửa sổ vẫn khép, tôi như bị cái cảm giác bay lên thật cao quyến rũ. Thế là tôi vỗ cánh bay lên trong ánh chiều tà. Dường như tôi không phải tốn nhiều sức lực lắm, vì các ngọn gió cứ nâng thân hình của tôi lên cao mãi. Cho đến khi nhìn xuống, thấy ba cây táo trong vườn như ba cái chấm màu xanh đen, tôi mới xếp cánh, chúc đầu xuống. Tôi nhắm mắt lại để tận hưởng cái cảm giác rơi tự do. Gió vùn vụt ngang tai. Trái tim nhỏ của tôi như đang bị một nỗi tuyệt vọng lẫn cô đơn thắt chặt lại. Tôi hiểu rằng, tôi đang có cùng cảm giác như lần rơi trước đây, khi người bạn tình của tôi bỏ đi.

Và cũng đến giây cuối cùng, trước khi thân chạm đất, tôi đã kịp bung đôi cánh ra. Khi trái tim yếu ớt của tôi đã tìm lại nhịp đập bình thường, tôi mới mở mắt để nhận ra mình đang nằm yên trên bãi cỏ trong khu vườn của Gã. Ánh sáng vàng nhạt từ cửa sổ phòng Gã hắt ra, in trên bãi cỏ như một niềm vui dịu dàng. Gã đang đứng trong khung cửa sổ nhìn xuống tôi. Chỉ một mình Gã thôi, không có cô gái. Sau một thoáng ngạc nhiên, Gã chợt mỉm cười. Chưa bao giờ tôi thấy Gã cười như thế. Một nụ cười dành riêng cho tôi.


CV1650




Vu Vơ Trong Đêm
___________________________________________________
Nhí


Tôi cười khẩy: nhìn họ, những cặp tình nhân bồng bột. Họ vui đó, khắn khít đó, rồi được bao lâu? Chẳng qua cũng chỉ qua đêm thôi. Rồi mai, rồi mốt, từng lớp bụi đời sẽ đóng băng trên lời thề thốt kia, sự mệt mỏi của công việc sẽ oằn trỉu lên những tiếng yêu đương kia, để cuối cùng, sự đau đớn sẽ dằn vặt họ. Hừ!

Tôi thương hại họ, vì quá mù lòa đã để dính vào cái thứ tình yêu viễn vông kia. Tôi thì khác. Tôi thích sự cô độc. Tôi thích một mình. Tôi thích một mình được ngắm nhìn họ mỗi đêm, cười trên niềm vui tạm bợ của họ, vì họ chính là niềm vui của tôi. Nhìn họ mà nhắc nhở mình. Nhìn họ để cảm thấy đời đầy ma lực, đầy những cạm bẫy, đầy những thứ óng ánh như thủy tinh.

Đêm nay, trời không có sao, nhưng những tia sáng từ ánh đèn điện cũng đủ tạo nên một cảnh lãng mạn. Lãng mạn; là họ nghĩ thế thôi. Chứ tôi thấy rất u tối. Đèn mờ quá. Chắc bóng đã cũ!

- Liên, em nhìn gì vậy?

- Dạ không. Em định mở cửa cho không khí mát vào thôi.

-Oh. Vậy thì em mở đi.

Tôi không dại dột như họ. Đời tự nó đã nặng rồi. Đèo bồng thêm một "nửa kia" nữa, sẽ cong lưng sớm mất. Như chi. T. Lan đó: roommate của tôi. Mười năm với một người. Kể thì cũng keo sơn thật, nhưng tôi không chắc độ nóng ngày mai sẽ như hôm nay , lỡ quá độ keo giãn thì sao? Sự gãy đổ sẽ gây nên sóng gió. Phòng tôi sẽ trở nên lạnh hơn thường mất.

- Liên à, mai em muốn đi Best Buy không?

- Dạ mai em làm rồi chị. Chị cần mua gì à?

- Ờ! Anh Dũng nói cái memory stick nó đựng nhiều memory hơn cái floppy disk. Ảnh...

Rồi, thôi chết! Thần tượng trong lòng của chi. T. Lan đó. Chỉ sẽ kể... và sẽ dẫn đến ca tụng tiếp và liên tiếp về sự vĩ đại của anh ấy. Tôi đã nghe bao nhiêu lần rồi, đến đỗi cái tai cứ giựt giựt mỗi lần tôi lỡ lời khơi dậy chuyện của anh Dũng. Á trời ơi! Chưa có sóng gió mà tôi đã khổ như thế này, sóng dâng mà gió nổi thì chắc có đường tôị.. tái xanh mặt như chơi.

- Q. Mi, chị về rồi huh?

- Hi T. Liên, chi. T. Lan. Khỏe không?

- Mi, trông mặt em bơ phờ vậy. Hôm nay em không ở lại bên thằng Rick sao?

- Tụi em lại cãi nhau nữa rồi chị.

Chi. Mi buồn thiu ngồi xuống giường mình, ôm con gấu trắng vào lòng. Rồi chi. T. Lan sẽ mồi chài cho chi. Mi kể lể, rồi an ủi, rồi nước mắt, rồi giận hờn, rồị.. đủ thứ chuyện con gái - con gái với nhau. Tôi sẽ ôm gối tự dỗ mình ngủ, xem như tiếng chit-chat của hai chị là một bài hòa tấu vậy. Thế đấy! Yêu với đương- gây nên những chuyện không đâu không à. Đời con gái- yêu được bao nhiêu người, có thể chịu đựng được bao lần tim vỡ... mà cứ dấn thân vào? Sighs!

Tôi không phải là họ, và có lẽ vì thế, tôi không hiểu họ tìm được gì với cái người kia. Nhưng tôi hiểu một điều, chi. Mi khóc thì tôi cũng không ngủ được. Chi. Lan buồn thì tôi cũng phải an ủi. Hai chị giận hờn thì tôi lại không dám lên tiếng và cũng thấy bức rức trong lòng. Là vì sao? Cũng vì cái "nửa" của họ làm tôi lao đao như thế này. Họ không đáng rủa hay sao? Tình yêu không đáng để tôi kết tội hay sao? Đáng lắm chứ. Không những tội chứng của chúng thành lập, mà còn phải xử tử nữa à! Nếu tôi mà là một nữ hiệp, tiện tay tôi sẽ chặt đứt hết những sợi tơ tình lòng thòng kia. Vướng víu chân người ta! Cuộc đời sẽ có thêm được một nụ cười - (là của tôi đấy). Nhưng tôi chưa làm được nên cũng chả thèm nhếch môi cười- mà chỉ thể nhếch mép khẩy. [/font]
1631




Ba muỗng đường và một muỗng cà phê - đó là bữa điểm tâm của Ngạc. Trước kia là ba nuỗng cà phê và một muỗng đường. Anh cũng không hút thuốc nữa. Trước đây anh không thể tưởng tượng được rằng có người nhâm nhi cà phê mà không phì phà chút khói thuốc, vậy mà bây giờ anh là người như thế.

Anh và đám bạn đã tập tành ngồi quán cà phê và hút thuốc từ năm anh mười tám tuổi. Tám năm sau, anh cảm thấy mình thay đổi, khói thuốc trở nên vô vị, và quán xá thì tẻ nhạt qúa! Bạn bè anh có người thán phục, có người ngạc nhiên, và cũng có người lo lắng. Họ phục anh vì anh bỏ thuốc qúa dễ dàng, ngạc nhiên vì anh không ngồi quán với họ nữa, và lo lắng vì anh thay đổi đột ngột. Họ hỏi anh: "Có phải vì Nguyệt không?"

Không bận rộn với tình yêu nữa, Ngạc khám phá ra anh có khối việc để làm. Anh nuôi vài con cá cảnh, trồng vài khóm hoa, đăng ký lấy thêm vài tín chỉ nữa ở đại học, và anh bắt đầu viết. Anh viết như thể một hoạ sĩ dở hơi vẽ trên những bức tường bằng gỗ ở một hòn đảo xa xôi. Bài của anh xuất hiện trên một vài trang web, cái nơi mà ai thích viết cũng được hoan nghênh. Độc gỉa chẳng biết gì về anh ngoài cái nick ngắn ngủn. Anh thì xem mỗi bài viết của mình như một con cá vàng, hay một khóm hoa - anh chăm sóc chúng, và đổi lại, chúng cho anh niềm vui. Bây giờ anh mới hiểu tại sao có những người sống một mình với con mèo, con chó của họ. Bởi vì chúng cho họ niềm vui và không bao giờ làm họ đau khổ như con người.

"Nói chuyện nhé ?"
ký tên: Ánh Trăng

Khi đọc cái message ngắn ngủi này, Ngạc mới hay có một cánh cửa đã khép lại sau lưng Nguyệt. Và bây giờ, lại có người đến gõ lên đó. Có nên một lần nữa, mở cánh cửa ra không? Anh tự hỏi mình, và cảm thấy thực sự cô độc. Có một thứ mà những con cá vàng, những khóm hoa, và cả những bài thơ nữa không thể thay thế được, đó là một người. Người đó thơm như hoa, hồn nhiên như cá, và lãng mạn như những bài thơ tình. Có thể anh sẽ hạnh phúc hơn, và cũng có thể anh sẽ đau thêm lần nữa.

Ngạc nắm lấy chốt cửa xoay nhè nhẹ....

1643




Sau vài lần thất bại trên đường tình, Chàng đóng hẳn hai cánh cửa tâm hồn lại. Chàng nhất định quên những gì phải quên, và tạm thời tránh né tất cả những bóng hình định len lỏi vào con tim đã mệt mỏi của Chàng. Ở độ tuổi xấp xỉ ba mươi, tình yêu đáng lẽ phải ngon như là trái táo chín, thì lại có vị chan chát chua chua đăng đắng của một trái táo chưa chín. Chưa chín mà đã vội hái, vội cắn, vội đam mê nên dư vị bây giờ nếu chưa là đắng cay, thì cũng có thể gọi là chua chát. Không biết có sự tương quan nào giữa cảm xúc và vị giác không, mà bây giờ Chàng bỏ nhiều đường vào cà phê hơn trước. Chàng cũng ăn uống ngủ nghê điều độ hơn, và hầu như không còn mơ những giấc mộng ban ngày. Không yêu nữa, Chàng hơi mập ra và trông có vẻ khoẻ khoắn hơn. Chỉ có khuôn mặt là không giấu được những nét như màu bút chì xam xám buồn buồn. Một nét dưới mắt, một nét bên môi. Một trong những cô bạn ngày xưa đã bảo Chàng, em thích nhìn anh cười, mà anh thì lại hay cười. Xa nhau rồi, thỉnh thoảng Chàng lại nhìn vào gương, và gượng cười với chính mình. Nét bút chì dưới mắt, nét bút chì bên môi như tô lên đậm hơn. Buồn hơn.


Hôm chủ nhật tuần rồi, lang thang vào tiệm đồ cũ, Chàng lượm được một bức vẽ cảnh ba căn nhà kho cũ kỹ điêu tàn ở nơi nào đó trong nông thôn Âu châu. Một phần tư phía dưới bức tranh, sau cái hàng rào xiêu vẹo gẫy gập là một khoảng tối. Như thể người vẽ đang đứng trong cái bóng tối ấy nhìn ra đàn chim giăng giăng bay về đậu trên những cành cây không lá bên cạnh các căn nhà kho. Hẳn đó là một buổi chiều cuối mùa thu đầu mùa đông. Bức tranh được vẽ bằng những nét cọ nhỏ nâu nâu xám xám như màu của những cuốn phim về thời Thế chiến. Cái khung tranh thon thả trang nhã, nên khi được treo lên, phòng khách của Chàng không tối đi bởi vẻ ảm đạm của đường nét cùng màu sắc, trái lại từ bức tranh ấy tỏa ra thứ ánh sáng dịu dàng của hội họa. Nhìn bức tranh, Chàng cảm thấy mình đang đứng giữa một buổi chiều rất bình yên. Và chàng cũng cảm thấy như được an ủi. Thế mà cũng có người chọn một khung cảnh điêu tàn như thế để vẽ. Thế mà Chàng cũng bỏ ra ba mươi đô để mua một bức tranh như thế trong một tiệm bán đồ cũ. Chàng tự hỏi, không biết có người con gái nào thích bức tranh này như mình? Nếu có, hẳn mình sẽ yêu người ấy. Chàng mỉm cười với ý nghĩ này. Lại yêu lần nữa!


Chàng còn nhớ, người con gái đầu tiên đến với Chàng cũng vì những bức minh họa của Chàng. Năm ấy Chàng mười bảy tuổi, có một số minh họa trong tạp chí. Nhưng cuối cùng Chàng phải âm thầm ra đi vì tự cảm thấy không đồng điệu với sự tha thiết của nàng. Chàng chưa biết yêu, chỉ biết vẽ những người yêu. Nhưng từ ấy Chàng thôi không vẽ nữa, và bắt đầu có những suy nghĩ về tình yêu. Có thể nói nàng chính là khúc dạo đầu của những tình yêu trong Chàng. Chàng đã yêu, đã đau khổ, đã quyết định bước ra khỏi con đường tình ái gian nan. Hình như Chàng có duyên với mấy cửa tiệm bán đồ cũ. Bởi vì cũng chính trong một cửa tiệm bán đồ cũ, Chàng đã "lượm" được bức chân dung ấy, mang về treo ngay bên cạnh cánh cửa phòng ngủ. Chân dung một người con gái, như người trong mộng của Chàng. Chàng thích tóc ấy, mắt ấy, hai bàn tay ấy, cả nhân dáng ấy. Mỗi ngày đi về, Chàng nhìn chân dung trìu mến, như nhìn một người tình. Một người tình không biết nói, chỉ biết nhìn Chàng bằng đôi mắt phương Đông sâu thẳm. Có vẻ như Chàng đã mệt mỏi với những người thực, nên chọn giao du với chân dung của một người xa lạ. Những khi Chàng đi, đóng cửa phòng, tắt điện, chân dung chìm trong bóng tối, yên lặng. Khi Chàng về, mở cửa, mở đèn, chân dung lại sáng lên một màu phương Đông buồn buồn trầm lặng. Ở bên chân dung, Chàng cảm thấy yên lòng. Có thể vì Chàng được tự do, không cảm thấy bị ràng buộc như với một người có thực.


Yêu, bao gồm cả sự chia xẻ, và ràng buộc lẫn nhau. Có sự ràng buộc nào mà êm ái mãi. Đôi khi trong tình yêu, Chàng cảm thấy như đang đánh mất chính mình. Âm dương, nhật nguyệt, nam nữ... những điều trái ngược lại ghép thành một cặp tròn trịa như vòng cung khép kín. Vì vậy Chàng vẫn nghĩ, hẳn Chàng sẽ yêu người con gái nào cũng yêu bức tranh buổi chiều Âu châu ấy như Chàng. Nghĩ đến điều này, Chàng lại mỉm cười. Nụ cười giăng giăng như đàn chim đang bay về, tìm nơi trú trên những cành cây không lá.1638





trích nhật ký của Nhí


Trước mặt tôi là cả một màu đỏ chói, ánh lên từ mặt nước, trông rất huy hoàng. Tiếng gío vi vu, nhè nhẹ, như ru trẻ thơ vào giấc ngủ. Tôi cảm thấy nơi đây thật thoải mái. Đứng trước cái lạnh của gió, trước khoảng trống của không gian, trước những con sóng đang dìu dắt nhau giữa lòng biển... Biển... Đại Tây Dương... sóng cồn cào... Nhưng tôi lại nghe tiếng dịu êm từ chúng. Ở bên kia bờ, cũng có kẻ đang ngắm biển. Không biết người ấy có cảm giác như tôi không?

- Em không biết.

Tôi nghe tiếng nói của một người con gái. Tiếng tuy thật nhẹ, nhưng cũng đủ cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Tôi đi lên phía những hòn đá. Gồ ghề. Tôi nghe tiếng người đàn ông đáp lại

- Thế em biết gì?

- Em không biết gì cả. Em cứ cảm thấy mình đang đứng trước một hố sâu, một vực thẳm rất đáng sợ.

- ....


Rồi không nghe thấy gì nữa. Tôi thản nhiên bước lên từng hòn đá. Lặng nghe tiếng biển thở. Tôi thích biển, thích làn gió mát đến từ ngoài khơi. Lúc thì lạnh cắt da. Lúc thì nóng hừng hực. Phải, con người tôi cũng thế. Khi này khi khác.

- Một kho tàng em đã tìm thấy. (Cô gái nói tiếp)....Em nghĩ là em đã gặp được một kho tàng. Em đã có được một thứ mà mình rất quý.

- ....

- Em đã tìm được một quyển sách hiếm. Nhưng tiếc....

- ....

- Em không đọc được. Ban đầu, em cứ nghĩ là em sẽ đọc được nó. Nhưng đến bây giờ....

- Đến bây giờ.... (Người đàn ông chép miệng)

- Nó vẫn là con số không đối với em. Hay đúng hơn, nó đã thu mình lại rồi... không muốn em xâm phạm nó nữa...

- Em ví tôi như quyển sách sao? (Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên)

- Ồ không! Anh chính là quyển sách!

- Sách không mở, thì đừng nên đọc nữa. (Người đàn ông hững hờ)

- Sách đang đóng, hay chỉ khép hờ, đợi một bàn tay mở ra?...

- Có thể. (Người đàn ông buông gọn.)

"Quyển sách"! Tôi nghe quen lắm. Hình như người ấy cũng đã từng nói với tôi như thế. "Anh là một quyển sách. Liệu em đọc đươc không?".... Ồ, đúng rồi! Anh là một quyển sách - một quyển sách vô chủ, mà tôi khao khát được làm chủ. Một quyển sách xa vời vợi ... ngoài đại dương.

Tôi không nghe gì nữa. Hoàng hông xuống dần. Tôi thấy dáng một người tho nhỏ, chìm sâu vào bóng tối. Hình như cô ta đang đi tìm chính mình - tìm một người đọc được quyển sách ấy. Có phải vì cô không đọc được ngôn ngữ ấy, hay câu chuyện kể trong quyển sách đã thay đổi?

Tôi rùng mình. Lạnh. Không biết người bên kia đại dương có thể vòng tay qua biển, cho tôi được chút hơi ấm không? Xa quá! Xa hơn cả một gang tay, xa hơn cả những đơn vị đo thời gian và không gian. Mà lại rất gần. Gần như ở ngay trong lòng, trong đời...

... Một tiếng thở dài buông thõng!
1633





Trong dòng họ đông đảo của tôi, người mà tôi ái mộ nhất đến nay vẫn là dì Nguyệt. Dì thông minh, học giỏi, lãng mạn và có nhiều tài. Hồi còn nhỏ, tôi rất thích nghe những câu chuyện kể của dì. Rồi bất chợt, dì vượt biển sang Mỹ, bỏ lại cho thằng cháu một câu chuyện dở dang.

"Ngày xưa, có một vị hoàng tử khôi ngô, tài giỏi hơn người. Trong mắt của chàng, muôn dân thiên hạ chẳng lớn lao gì hơn những hạt bụi. Vua cha qua đời, để lại ngai vàng và vương quốc cho chàng với một điều kiện: trước khi lên ngôi, hoàng tử phải sánh duyên với một người con gái cũng đẹp đẽ, tài hoa như chàng. Nghe qua, tưởng như một lời chúc, nhưng thực sự chẳng khác nào một lời nguyền. Ngày đăng quang ngôi báu cứ bị trì hoãn mãi, vì hoàng tử kiêu căng kia chẳng tìm đâu ra một giai nhân có thể gọi là ngang tài với mình. Bao nhiêu quốc sắc thiên hương được triều thần tiến cử đều bị chàng từ chối. Khát vọng quyền lực dù có mãnh liệt đến mấy, cũng không lấn áp được tính kiêu hãnh của hoàng tử. Thà mất quyền sở hữu một ngai vàng, chứ không thể chấp nhận một nhi nữ ngang tài với mình!

Cho đến khi hoàng tử gặp một cô bé chăn cừu.... "

Mười-lăm năm sau, tôi có dịp đi Mỹ, gặp lại dì Nguyệt. Dì đã xấp xỉ bốn-mươi, nhưng vẫn một mình với trọn vẹn ý nghĩa của từ đó. Tôi vẫn mang trong lòng câu chuyện dì kể dở dang, nên được dịp tôi đòi dì kể nốt câu chuyện cũ. Còn hơn là mong đợi - dì kể cho tôi một câu chuyện khác.

"Dì gặp Trác lần đầu ở quán cà phê - cái quán mà dì thường la cà một mình khi rảnh rỗi. Trong một góc quán dành riêng cho những người thích đàn hát, ngâm thơ, kể chuyện, Trác đã xuất hiện, chơ vơ như thể anh đến từ một thế giới khác. Anh đàn và hát những bản tình ca mà dì chưa nghe bao giờ. Đó là những bài hát về tình yêu, nhưng là thứ tình yêu rất lạ - vừa sắc, vừa ngọt như vết cắt của viên kim cương trên mặt kiếng. Sau này, một cô ca sĩ thành danh cũng nhờ một bài hát của anh đã đưa cô đến với thính gỉa. Có thời gian, chính bài hát ấy được phát đi phát lại trên sóng FM, được hát trong các phòng trà và các quán cà phê. Mỗi người nghe cảm thụ lời tình yêu trong bài hát không hoàn toàn giống nhau. Nhưng có một điều mà ngoài dì, không ai biết rằng tác gỉa bài hát ấy là một tu sĩ!"

Trác gần như được hoàn toàn tự do trải qua một thời gian sống bên ngoài những bức tường kín đáo của tu viện, trước khi anh quyết định khấn nguyện trọn đời. Đó là khoảng thời gian giao mùa giữa mưa và nắng; là chỗ tiếp giáp của cánh đồng trần gian đầy hương sắc và lối mòn nhỏ hẹp, cheo leo dẫn đến suối nguồn siêu nhiên.

Tháng tư. Thành phố ngẩng khuôn mặt khô khốc đón nhận những cơn mưa đầu mùa. Cơn mưa đầu tiên hạt nhỏ và thưa. Mưa bay bay như thể rất vô tình, rơi trên lớp bụi mơ màng của những tháng mùa khô. Rồi phải đợi đến cả gần hai tuần lễ nữa mới có cơn mưa thứ hai. Vẫn là hạt nhỏ, nhưng đã ẩm ướt hơn, thân mật hơn một chút. Cơn mưa thứ ba rơi xuống vào độ cuối tháng tư. Đon đả hơn, nồng nàn hơn , nhưng vẫn còn hương vị ngai ngái của những giọt nước đến từ đầu ngàn. Trác đã gặp Nguyệt lần đầu tiên vào thời gian ấy.

Trong mỗi người, dường như đã mang sãn một hình ảnh tạm gọi là thần tượng trong tiềm thức. Không ai biết thần tượng ấy được tạo nên ra sao, nhưng khi người ta gặp được thần tượng của mình, thì họ sẽ hiểu thế nào là yêu! Một tình yêu duy nhất. Còn lại những mối tình khác chỉ là những cái bóng, không thực! Khi Trác nhìn thấy Nguyệt, và nghe Nguyệt nói một câu thật lòng: "Nguyệt thích bài hát của anh", thì Trác nhận ngay ra rằng: Nguyệt là thần tượng của anh. Và cũng chính điều này, làm lòng anh đau như thể vừa bị rạch bởi một viên kim cương!

Sau đó, Trác tự nguyện xin lên núi, ở cùng với các vị ẩn tu. Anh nhịn ăn một tuần lễ để suy tư và tìm câu trả lời cho tiếng gọi của Chúa. Mùa mưa năm sau, Trác xuống núi, vào thành phố tìm lại Nguyệt.

- Có một điều mà tôi chưa bao giờ kể cho Nguyệt nghe: Cha của tôi ngày xưa đã từng là một linh mục. Nhưng ông đã cởi bỏ chiếc áo dòng, để đi theo cô sinh viên ở ngôi trường mà ông đang giảng dạy. Cô sinh viên đó là mẹ tôi. Có lẽ ý Chúa muốn tôi đi hết con đường mòn cheo leo, mà ngày trước cha tôi đã bỏ dở.

"Sau khi Trác trở lại nhà dòng, dì đã trải qua bảy, tám mối tình khác. Nhưng tất cả chỉ là những cái bóng, không thực! Cuối cùng thì dì tung hê hết, vượt biển sang đây. Có lẽ, ở cái xứ thời tiết băng gía, lòng người lạnh lùng này, dì mới cảm nhận hết được cái đau, cái ngọt của vết cắt trong lòng. Và may ra, cuối cùng sẽ hiểu được thế nào là yêu..."

1262




Mãi đến bây giờ, Quân cũng chưa hiểu tại sao mình lại dửng dưng đến thế khi nhìn cái địa danh xa lạ trên tờ Quyết định bổ nhiệm. Vì lời hứa sẽ phục vụ bất cứ nơi đâu khi ra trường? Vì Hà Di đã theo gia đình ra nước ngoài? Hay là vì nỗi buồn chán sau bao năm học hành, rong chơi trong cái thành phố chật chội, ồn ào này? Quân không tìm được lý do nào xác đáng cả, chỉ biết rằng trong lòng mình có một ước muốn mãnh liệt: ra đi!

Ông trưởng phòng Tổ chức bình thường vẫn trưng ra trước đám sinh viên một bộ mặt lạnh như tiền, nhưng khi chìa tờ Quyết định cho Quân, cũng phải nhếch mép nở một nụ cười thương cảm! Thì ra U Khuất là tên một thị trấn cách thành phố Quân ở hơn hai ngày đường, trước mặt nhìn ra biển mênh mông đến tận chân trời, sau lưng dựa vào dãy núi đá xám xỉn, lạnh lẽo, cây cối mọc lưa thưa. Dân ở đây phần lớn sinh sống bằng nghề chài lưới, một số khác lặn lội đến tận sau rặng núi có chút đất canh tác được để phát nương làm rẫy, còn lại một số ít người sống bằng nghề buôn bán loanh quanh cái chợ ở trung tâm thị trấn. Nơi đây, qủa thực tràn trề cát, gío và ánh nắng mặt trời.

Trường trung học nơi Quân dạy chỉ cách biển vài phút đi bộ, nên ngoài thời giờ dành cho công việc dạy học, vào buổi chiều Quân thường leo lên một ngọn đồi, ngồi dựa lưng vào một tảng đá để đọc sách, hoặc vẩn vơ nhìn những con chim biển đang chao lượn thảnh thơi trong một buổi chiều êm ả. Có một lần Quân đang ngồi như thế, thì nghe một giọng nói ở sau lưng.

- Thày cũng đang chờ một cánh buồm?

Quân xoay người, ngó lại. Đó là Trúc, con của ông chủ tiệm tạp hóa ở phố chợ. Đã là dân chợ, thì dù chợ nhỏ, cũng thường lanh lẹn, tháo vát hơn người. Và nếu là con gái, thì cũng chưng diện hơn, thời thượng hơn con cái của một nông dân, hay một ngư phủ. Mặt trời buổi chiều ánh lên màu nắng mềm mại trên khuôn mặt của một cô bé mười bảy.

Quân chợt nhớ, có lần trong một tiết học, Quân đã kể cho lớp nghe truyện Cánh Buồm Đỏ Thắm. Từ ấy, có lẽ trong mắt cô con gái của ông chủ tiệm tạp hóa, đã phảng phất bóng dáng của một cánh buồm trong mơ.

- Cánh buồm của thày đã lưu lạc mãi tận bên kia đại dương, không biết còn đủ gío để quay về không!

Chắc hẳn, Hà Di đang ở đâu đó trong tiềm thức của Quân khi anh trả lời Trúc như vậy. Trúc tự nhiên ngồi xuống bên cạnh Quân và cùng nhìn về phía biển.

Mặt trời thật dịu dàng trong những khoảnh khắc cuối ngày. Những con chim biển đang chao những vòng rộng hơn, điệu nghệ hơn. Một cơn gío vô tình thổi ngang, nên Quân phải nghiêng người tránh sợi tóc dài của Trúc vướng ngang mặt.

Quân chợt thấy biển đang gợn lên một ngọn sóng rất lãng mạn! Và buổi chiều nay, trong thinh không như có mùi thơm của một loài dị thảo.

- Thày ơi, có phải mỗi người chỉ chờ đợi một cánh buồm duy nhất?

Mấy con chim biển thảng thốt vỗ cánh bay lên cao, rồi tản ra như một ngọn pháo bông trong đêm giao thừa. Quân cảm thấy tâm thần của mình cũng chấp chới với những cánh chim trên kia. Hà Di này, có phải thế không? Làm sao có thể chờ mãi một người không hẹn ngày trở lại?


1651


Powered by Blogger.