Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường
Trát Hoảng, Nhật Bản.



o O o



Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho
đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai
bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn
vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười
giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ
ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu
được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều
đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn
thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

-
Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay
mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có
một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần
đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống,
khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn".

Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu
Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì,
đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:

- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã
đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được
đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước
tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ.

Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người
vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng
giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm
trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn
nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh
giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.



o O o



Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài
câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang
lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.

841




Tôi khá ngạc nhiên cho sự bình tĩnh của chính mình khi biết lý do về sự xuất hiện của tên giết mướn.

"Ai thuê anh đến đây giết tôi vậy?" Tôi chậm rãi hỏi.

"Một kẻ thù của ông", hắn đáp lại, cũng bằng một giọng từ tốn.

Tôi đang tự pha cho mình một ly rượu ngay khi hắn bước vào. Bây giờ với ly rượu trên tay, tôi nói tiếp: "Tôi biết khá rõ về những kẻ thù của tôi. Có phải người mướn anh là... vợ tôi?"

Hắn mĩm cười: "Ông đoán tài thật!"

"Tôi rất giàu", tôi nói, "Nàng muốn tôi chết để thừa hưỡng gia tài phải không?"

Hắn không trả lời câu hỏi của tôi mà bất ngờ hỏi ngược lại: "Ông bao nhiêu tuổi rồi?"

"Năm mươi ba".

"Còn vợ ông?"

"Hai mươi hai".

Hắn chắt lưỡi: "Ông có nghĩ là mình quá dại dột khi mong đợi mọi chuyện sẽ tốt đẹp vĩnh viễn?"

Tôi nhắp một ngụm húyt-ky: "Tôi đã từng nghĩ đến khả năng ly dị sau một hoặc hai năm. Nhưng... thật tình, chưa bao giờ nghĩ đến sự việc phải kết thúc bằng một cái chết."

"Vợ ông là một người đàn bà tuyệt đẹp, nhưng cũng rất tham lam, thưa ông. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên là tại sao ông chưa bao giờ để ý đến điều đó."

Tôi không trả lời ngay mà chỉ đưa mắt nhìn khẩu súng trên tay hắn. Rồi tôi nói: "Tôi phỏng đoán rằng ông đã từng giết người rồi phải không?"

"Tôi không chối điều đó", hắn đáp.

"Tôi có cảm tưởng là ông thích thú công việc này."

Hắn gật đầu: "Công việc này luôn luôn đem lại cho tôi một cảm giác vô cùng thú vị và thật tuyệt vời."

Tôi im lặng nhìn hắn một lúc nữa. Và cuối cùng, tôi nói: "Ông đã ở đây hơn hai phút rồi. Và...tôi vẫn còn sống nhăn!"

"Thưa ông, tôi không có gì phải vội vã", hắn trả lời rất nhẹ nhàng.

Tôi đưa ra một nhận xét: "Có nghĩa là ông để cho tôi được hầu chuyện ông thêm một lát nữa?"

"Vâng. Và chỉ một tí nữa thôi!" Hắn mĩm cười.

"Thế thì tôi có thể mời ông một ly rượu được không?"

"Tôi chưa bao giờ từ chối bất cứ một ly rượu nào. Nhưng xin phép ông cho tôi được quan sát khi ông pha rượu nhé!"

"Ông đừng lo! Tôi không có sẵn thuốc độc ở quầy rượu đâu!"

"Tôi tin lời ông. Nhưng...đề phòng vẫn hơn", hắn lại mĩm cười.

Hắn nhìn tôi pha rượu một cách chăm chú. Rồi sau khi đón lấy ly rượu từ tay tôi, hắn tự thả mình xuống chiếc ghế bành êm ái một cách sãng khoái.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh hắn: "Bây giờ vợ tôi đang ở đâu?"

"Tại một buổi dạ tiệc. Và sẽ có ít nhất một chục người sẵn sàng làm chứng rằng bà ta không hề rời chỗ đó khi án mạng xảy ra cho ông."

"Và cảnh sát sẽ nghĩ là tôi bị giết bởi một tên trộm hay một kẻ cướp?"

Hắn đặt ly rượu lên bàn: "Vâng. Và sau khi bắn hạ ông xong, tôi sẽ lau sạch dấu tay trên cái ly này và đặt nó trở lại chỗ quầy rượu. Rồi trước khi ra khỏi đây, tôi sẽ không quên chùi những dấu tay trên nắm cửa mà tôi đã đụng vào."

Ông sẽ lấy một vài món đồ trong nhà tôi để làm cho cảnh sát thêm tin tưởng là mục đích chính của việc đột nhập này là tính ăn trộm, có phải vậy không?"

"Điều đó không cần thiết, thưa ông", hắn trả lời, "Cảnh sát có thể nghĩ rằng tên trộm đã hoảng sợ sau khi giết ông, liền bỏ trốn ngay mà không kịp vơ vét gì cả."

"Thế ông nghĩ sao về bức tranh ở trên tường kia kìa", tôi nói, "Nó trị giá hơn ba mươi ngàn đô la."

Hắn lia cặp mắt về phía đó một lúc rồi vội vã quay đầu lại nhìn tôi: "Ông đã khá cố gắng đấy. Nhưng...rất tiếc, tôi không muốn sở hữu bất cứ thứ gì - dù chỉ là tạm thời - để rồi thứ đó có thể dẫn tôi tới ghế điện sau này."

Hắn bất chợt mĩm cười: "Ồ! Hay là ông định đề nghị dùng bức tranh đó để...đánh đổi cho sinh mạng của ông?"

"Thú thật là tôi cũng đã có ý nghĩ đó."

Hắn lắc đầu: "Vậy thì xin lỗi ông. Tôi là một kẻ chuyên nghiệp. Và tôi luôn luôn giữ tròn lời hứa với thân chủ của mình."

Tôi đặt ly rượu lên bàn: "Các nạn nhân của ông có khi nào dùng tiền để mua chuộc ông không?"

"Rất là thường xuyên."

"Đã có ai thành công chưa?"

"Tôi rất tiếc là cho đến nay...chưa có một ai!"

Tôi tỏ ra cố gắng: "Ông hãy nhìn lại bức tranh ấy một lần nữa đi! Đằng sau nó có một tủ sắt."

Hắn liếc nhanh về bức tranh một lần nữa: "Thế à! Và nó thì..."

"Và nó hiện có mười ngàn đô la tiền mặt!", tôi cắt ngang lời hắn.

"Cũng khá nhiều tiền đấy, thưa ông." Giọng hắn vẫn tỏ vẻ thản nhiên.

Tôi cầm ly rượu của mình lên và đi về phía bức tranh. Rồi tôi mở tủ sắt, chọn lấy một phong bì màu nâu, đồng thời uống cạn ly rượu. Sau cùng, tôi đặt cái ly không vào tủ sắt rồi khóa lại.

Đôi mắt hắn chăm chú nhìn vào cái phong bì trên tay tôi: "Ông làm ơn đem nó lại đây."

Tôi đặt phong bì xuống bàn, ngay trước mặt hắn.

Hắn nhìn vào phong bì đó một lúc lâu rồi từ từ ngước lên nhìn tôi: "Ông thực sự nghĩ rằng có thể dùng tiền để mua được sự sống của ông sao?"

Tôi châm lửa đốt một điếu thuốc: "Tôi đã không còn có ý nghĩ đó nữa. Có phải chính ông đã nói rằng tiền bạc không thể mua chuộc được ông kia mà?"

Hắn nhíu mày lại: "Vậy tại sao ông lại đưa cho tôi phong bì với mười ngàn đô la đó?"

Tôi cầm phong bì lên và đổ tung ra hết tất cả những gì có trong ấy: "Toàn là những hóa đơn cũ. Tất cả đều vô dụng đối với ông."

Hắn đưa cặp mắt tò mò lên nhìn tôi: "Điều gì làm cho ông nghĩ rằng đống giấy tờ vô tích sự này có thể cứu được mạng ông?"

"Nó cho tôi một cơ hội tiến đến cái tủ sắt và bỏ cái ly rượu vào."

Đôi mắt của hắn liếc nhanh về cái ly rượu còn lại trước mặt hắn: "Nhưng đó là ly rượu của ông. Nó không phải của tôi mà!"

Tôi mĩm cười: "Xin lỗi ông, cái ly đó chính là của ông. Và tôi đang hình dung thấy cảnh sát sẽ rất ngạc nhiên và tự hỏi tại sao một cái ly không lại nằm trong tủ sắt của tôi. Cũng theo như tôi được biết thì trong một trường hợp có án mạng, chuyện lấy dấu tay trên tất cả những đồ vật khả nghi là điều dĩ nhiên."

Hắn nhíu cặp lông mày lại: "Mắt tôi đã không rời khỏi ông môt phút. Ông không thể có thì giờ để đánh tráo ly rượu được!"

"Tại sao không? Cho phép tôi nhắc với ông rằng ông đã hai lần quay qua nhìn bức tranh đó."

Như một phản xạ tự nhiên, hắn lại quay nhìn về hướng ấy một lần nữa: "Nhưng mà chỉ có một hay hai giây thôi mà!"

"Chừng ấy cũng đã quá đủ đối với tôi!"

Hắn hít một hơi dài: "Chuyện đó không thể xảy ra được!"

Tôi cười nhẹ: "Vợ tôi có kể cho ông nghe gì về tôi không?"

Hắn mím môi: "Không nhiều lắm! Vã lại, nghề của tôi có phương châm là không bao giờ thắc mắc về "đối tượng" của thân chủ."

Tôi lắc đầu: "Ít nhất vợ tôi cũng nên cho ông biết là tôi đã bắt đầu sự nghiệp ngày hôm nay bằng nghề ảo thuật từ năm tôi mười hai tuổi chứ!"

Không đợi cho hắn phản ứng, tôi nói tiếp: "Ông sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa khi cảnh sát gỏ cửa nhà ông. Và sau đó, không lâu đâu, ông sẽ có thêm được cảm giác êm ái tuyệt vời trên... ghế điện."

Tôi cảm tưởng ngón tay trên cò súng của hắn sắp bóp lại.

"Tôi tự hỏi ông sẽ đi trốn ở đâu," tôi mĩm cười, "Và liệu ông có đủ thời giờ..."

"Mở tủ sắt đó ra ngay hay là tôi giết ông tức thì!" Hắn cắt ngang.

Tôi bật cười lớn: "Ông không đùa đấy chứ! Cả hai chúng ta đều biết rõ là ngay sau khi tôi mở cái tủ sắt đó là ông giết tôi liền!"

Một phút im lặng trôi qua. Sau cùng, hắn nói: "Ông định làm gì với cái ly đó?"

"Nếu ông không tìm cách giết tôi nữa-và tôi nghĩ là ông sẽ "không", ít nhất là giờ phút này-tôi sẽ đem cái ly đó đến một cơ sở thám tử tư và nhờ họ lấy dấu tay của ông trên đó. Rồi tôi sẽ để kết quả đó trong một phong bì niêm kín, dĩ nhiên là với những thông tin về ông. Cuối cùng, tôi sẽ để lại...cứ coi như là "lời trăn trối" đi, cho một luật sư của tôi rằng trong trường hợp tôi bị chết một cách đột ngột, dù là nó có vẻ giống như một tai nạn, thì hãy trao phong bì đó lại cho cảnh sát."

Hắn nhìn tôi trừng trừng một lúc rồi lên tiếng: "Tất cả những việc đó không cần thiết đâu! Tôi sẽ ra khỏi đây ngay lập tức và ông sẽ không bao giờ còn nhìn thấy tôi nữa!"

Tôi lắc đầu: "Tôi vẫn chọn con đường của tôi. Lúc nãy ông đã chẳng nói là "đề phòng vẫn hơn" mà! Hơn nữa, tôi cần sự bảo đãm cho sinh mạng tôi sau này."

"Tại sao ông không đi báo cảnh sát ngay?" Hắn hỏi.

"Tôi có lý do của tôi."

Hắn cúi đầu nhìn xuống khẩu súng vẫn còn trên tay hắn rồi từ từ cất nó vào trong túi. Hắn ngước lên: "Vợ ông có thể mướn một tay sát thủ khác không khó gì."

"Vâng. Tôi cũng nghĩ là chuyện đó hầu như chắc chắn sẽ xảy ra."

"Như vậy theo dự tính của ông đã vạch ra, cảnh sát sẽ cho rằng tôi là thủ phạm. Và cho dù tôi không giết ông hôm nay đi nữa, tôi vẫn sẽ bị lên ghế điện một ngày nào đó..."

"Tôi rất tiếc là ông đã... nói đúng! Trừ khi..."

Hắn nhìn tôi chờ đợi.

"Trừ khi," tôi chắt lưỡi, "nàng không thể mướn được một kẻ nào khác nữa."

"Tại sao không? Tôi biết ít nhất cả chục người trong nghề của tôi. Họ sẵn sàng..." Hắn chợt dừng lại.

Tôi bật cười: "Tôi phải công nhận là ông rất thông minh đó!" Rồi tôi hỏi:"Lúc nãy ông nói là vợ tôi đang dự một buổi tiêc. Ông có biết chính xác ở đâu không?"

"Tôi nghe nói ở khách sạn "Sơn Tiên". Và bà ta sẽ rời đó vào lúc mười một giờ."

"Mười một giờ à! Thật là tốt! Trời sẽ tối như mực vào lúc đó. Ông có biết khách sạn "Sơn Tiên" ở đâu không?"

"Không, thưa ông", hắn mím môi.

Tôi lắc đầu nhè nhẹ rồi cho hắn địa chỉ.

Hai chúng tôi lại nhìn trừng trừng vào mắt nhau một lúc nữa. Rồi tôi nói: "Tôi nghĩ rằng một người thông minh như ông dư biết cần phải làm một cái gì đó để bảo vệ cho cái tính mạng của mình."

Hắn đứng dậy: "Còn ông thì sẽ làm gì vào lúc mười một giờ?"

"Ở câu lạc bộ như thường lệ...Có lẽ tôi đang chơi bài với năm, sáu người bạn lúc đó. Và chắc chắn tôi sẽ nhận được những lời an ủi của họ khi có người đến báo tin rằng vợ tôi vừa bị...bắn chết."

Hắn im lặng thêm một lát. Rồi đột nhiên, hắn cất tiếng hỏi tôi: "Ông có bao giờ yêu vợ ông không?"

Tôi hướng về bức tranh lúc nãy: "Tôi đã bỏ ra ba mươi ngàn đô la để mua bức tranh ấy vì lúc đó tôi thích nó. Bây giờ tôi đã cảm thấy chán nó rồi. Tôi nghĩ đã đến lúc bán nó đi và mua một bức tranh mới...đẹp hơn!"

Khi hắn đã ra đi rồi, tôi chỉ còn rất ít thời gian để mang cái ly tới sở thám tử tư trước khi đến đánh bài với mấy người bạn ở câu lạc bộ.

Dĩ nhiên tôi đã không đem đi cái ly ở trong tủ sắt.

Tôi làm gì có được sự nhanh nhẹn chớp nhoáng của nhà ảo thuật! Và tôi cũng đâu cần đến nó khi mà tôi đã có cái ly ở trên bàn với chính dấu tay của hắn.

2134








Ngày xửa ngày xưa, trước khi loài người xuất hiện, đức hạnh và những thói xấu sống lơ lửng xung quanh nhau và cuộc sống đối với chúng vô cùng chán nản khi chẳng tìm thấy việc gì đó để làm.


Một ngày nọ, đức hạnh và thói xấu tập trung lại và bàn về một trò chơi nào đó. Thông Minh đề xuất: "Chúng ta cùng chơi trò trốn tìm nào!". Tất cả đều đồng ý và vui vẻ bắt đầu trò chơi. Lý Trí la lớn: "Này các bạn, tôi xung phong làm người tìm, các bạn trốn đi nhé!".

Lý Trí đứng tựa vào một gốc cổ thụ và bắt đầu đếm: "Một, hai, ba…"

Đức Hạnh và Thói Xấu cuống cuồng đi tìm chỗ để nấp.

Dịu Dàng nấp sau mặt trăng.

Phản Bội nấp sau những vườn bắp cải.

Yêu Mến cuộn tròn giữa những đám mây.

Nồng Nàn trốn ngay giữa trung tâm của trái đất.

Nói Dối giấu mình phía sau của tảng đá nằm bên dưới của một hồ lớn.

Tham Lam trốn trong một bao tải…

Và Lý Trí đã đếm đến bảy mươi… tám mươi… chín mươi.

Lúc này, tất cả đều tìm được một chỗ ẩn nấp cho mình, ngoại trừ Tình Yêu. Tình Yêu không thể tìm cho mình một chỗ để trốn. Và đó cũng lý giải vì sao thật khó khăn để che giấu Tình Yêu trong trái tim mình.

Khi Lý Trí đếm tới một trăm, Tình Yêu nhảy đại vào một bụi hoa hồng gần đó và bị những gai nhọn đâm. Tình Yêu cố nén đau mà không lên tiếng nhưng lại được tận hưởng hương thơm quyến rũ của từng đóa hồng…

Lý Trí bắt đầu tìm kiếm. Lười Biếng được tìm thấy đầu tiên bởi vì Lười Biếng không có đủ năng lượng để tìm cho mình một chỗ nấp tốt.

Sau đó lần lượt Dịu Dàng, Nói Dối, Nồng Nàn, Yêu Mến… cũng được tìm thấy, chỉ trừ Tình Yêu.

Ghen ghét với Tình Yêu, Ghen Tỵ đã thì thầm vào tai của Lý Trí: "Tôi biết bụi hoa hồng đang ẩn giấu bạn Tình Yêu đấy".

Lý Trí bước đến gần và tìm kiếm. Lý Trí đã xới tung cả bụi hoa mà chẳng thấy bạn mình đâu bèn sử dụng một cành cây để tìm kiếm và dừng lại khi trái tim của Lý Trí bị những gai hoa hồng làm cho rỉ máu.


Tình Yêu xuất hiện với hai tay ôm mặt và hai dòng máu chảy ra từ đôi mắt. Trong lúc tìm kiếm, Lý Trí đã làm hỏng đôi mắt của Tình Yêu. Lý Trí khóc thét lên: "Tôi phải làm gì đây? Tôi phải làm gì đây? Tôi đã làm cho bạn mù. Làm cách nào khiến cho bạn thấy đường trở lại bây giờ?"


Tình Yêu nói: "Bạn chẳng có cách nào làm cho tôi thấy đường lại. Bây giờ nếu bạn muốn giúp tôi, hãy làm người dẫn đường cho tôi". Và đó là lý do vì sao Tình Yêu là mù quáng và luôn đồng hành với Lý Trí.

1011




John Blanchard rời khỏi băng ghế, chăm chú nhìn dòng người đang ra khỏi nhà ga xe lửa trung tâm thành phố. Anh đang chờ người con gái mà trái tim đã rất quen thuộc với anh nhưng khuôn mặt thì anh chưa từng gặp, một cô gái với bông hoa hồng trên áo.

13 tháng trước đây trong một thư viện ở Florida, khi nhấc một cuốn sách ra khỏi kệ anh bỗng cảm thấy bị lôi cuốn không phải vì nội dụng cuốn sách mà vì những dòng chữ viết bằng bút chì bên lề cuốn sách. Những hàng chữ mềm mại với nội dung chứa đựng một tâm hồn sâu sắc và một trí tuệ sáng suốt . Bên trong bìa cuốn sách, nơi ghi tên người mượn, anh tìm ra tên chủ nhân của hàng chữ, đó là Hollis Maynell . Cô gái sống ở thành phố New York .
Sau đó anh viết cho cô gái một bức thư tự giới thiệu mình và mong cô trả lời, nhưng ngày hôm sau anh đã phải lên tàu ra nước ngoài tham gia cuộc Chiến tranh thế giới lần II. Trong vòng một năm và một tháng sau đó, hai người dần dần tìm hiểu nhau qua thư từ. Mỗi lá thư là một hạt giống được gieo vào trái tim nồng cháy. Một mối tình nảy nở. Anh đề nghị cô gái gửi cho mình một tấm hình nhưng cô gái từ chối . Cô cho rằng nếu chàng thực lòng thì diện mạo của cô đâu có quan trọng gì .

Cuối cùng đến ngày anh từ châu Âu trở về, họ hẹn sẽ gặp nhau lần đầu tại nhà ga trung tâm thành phố New York vào lúc 19h . Cô gái viết : "anh sẽ nhận ra em là người có một bông hồng trên ve áo".

Khi đó, tôi thấy một người con gái bước lại phía tôi, cô ấy có một thân hình mảnh mai thon thả. Những lọn tóc vàng lộn xộn bên vành tai nhỏ nhắn. Cặp mắt cô ấy xanh như những đóa hoa . Đôi môi và cằm cô ta có nét cương quyết nhưng rất dịu dàng. Trong chiếc áo vét màu xanh nhạt cô gái trông như mùa xuân đang tới. Tôi tiến lại phía cô gái và hoàn toàn không để ý là cô ấy không có bông hồng trên ve áo. Khi tôi bước tới, cô gái nở một nụ cười nhẹ nhàng hấp dẫn trên vành môi và nói nhỏ: Đi cùng em chứ, chàng thủy thủ. Khi ấy hầu như không tự chủ được, tôi bước thêm một bước nữa lại phía cô gái, và đúng lúc ấy tôi nhìn thấy Hollis Mayne với bông hồng đứng ngay sau cô ấy. Đó là một người đàn bà đã ngoài 40 tuổi. Bà ta có mái tóc màu xám bên trong một chiếc mũ đã cũ. Bà ta có một thân hình nặng nề, đôi chân mập mạp trong đôi giày đế thấp. Khi đó cô gái trong chiếc áo màu xanh vội vã bước đi. Tôi có cảm giá dường như con người tôi lúc đó bị chia làm hai, một nửa mong muốn được đi theo cô gái và một nửa hướng tới người đàn bà mà tâm hồn đã thật sự chinh phục tôi. Và bà ta đứng đó, khuôn mặt béo tốt với làn da nhợt nhạt nhưng hiền lành và nhạy cảm. Khi đó bỗng nhiên tôi không còn lưỡng lự nữa. Tay tôi nắm chặt cuốn sách nhỏ cũ kỹ giống như cuốn sách trong thư viện trước đây để Hollis Mayne có thể nhận ra tôi.

Đây không phải là tình yêu nhưng là một cái gì đó rất đáng quí, một cái gì đó thậm chí có thể còn hơn cả tình yêu, một tình bạn mà tôi luôn luôn và mãi mãi biết ơn. Tôi đứng thẳng chào người đàn bà, chìa cuốn sách ra và nói, mặc dù khi nói tôi cảm thấy mình bị nghẹn lại vì cay đắng và thất vọng: "Tôi là trung úy John Blanchard và xin phép được hỏi chắc đây là cô Maynell. Tôi rất vui mừng là cô đã có thể đến đây gặp tôi hôm nay . Tôi muốn mời cô dùng cơm tối có được không? “. NgườI đàn bà nở một nụ cườI bao dung và trả lời:”ta không biết việc này như thế nào con trai ạ, nhưng cô gái trẻ mặc chiếc áo vét màu xanh vừa đi kia đã nằn nì ta đeo đóa hoa hồng này trên ve áo. Cô ấy nói nếu anh có mời ta đi ăn cơm tối thì nói riêng cô ấy đang đợi anh ở nhà hàng lớn bên kia đường. Cô ấy nói đây là một cuộc thử nghiệm gì đó."

Chúng ta chắc cũng hiểu được và khâm phục sự sáng suốt của cô gái. Bản chất thật sự của trái tim được nhận ra khi phải đối mặt với những điều không như ý muốn.
286




 khổ trong đời là điều không thể tránh, nhưng sầu thảm lại là vấn đề tự chọn của mỗi người.

Mỗi tháng người quản lý của nghĩa trang đều nhận được một số tiền từ bà mệnh phụ tật nguyền đang được điều trị tại một bệnh viện trong thành phố. Số tiền ấy dành để mua hoa đặt lên mộ người con của bà ta, một chàng trai trẻ đã chết trong một tai nạn ô tô hai năm về trước.

Ngày nọ, một chiếc ô tô đi vào nghĩa trang và dừng lại trước ngôi nhà phủ đầy dây trường xuân, đó là nơi bác quản lý nghĩa trang sử dụng làm văn phòng tiếp khách. Người tài xế bước xuống xe. Ở băng ghế sau, một người phụ nữ lớn tuổi ngồi nhắm mắt bất động, bà ta trông xanh xao như một xác chết.

“Bà ta yếu quá. Không thể ra khỏi xe được,” người tài xế nói với bác quản lý nghĩa trang. ”Xin bác vui llòng lên xe, đưa chúng tôi đến mộ thằng bé con bà ấy. Bà ta cũng muốn yêu cầu bác giúp cho một số việc. Bác thấy đấy, bà ta không còn sống được bao lâu nữa. Bà ấy đã yêu cầu tôi, một người bạn cố cựu của gia đình, đưa bà ấy đến đây để thăm mộ con trai lần cuối.”

“Có phải là quý bà Wilson đấy không?” Bác quản lý đưa mắt nhìn sang bà mệnh phụ ngồi trong xe. Ông tài xế gật đầu.

“Vâng, tôi biết bà ấy.” Bác quản lý gật gù. “Hằng tháng, bà Wilson có gửi tiền cho tôi để đặt hoa cho ngôi mộ của con bà ta.” Bác theo ông tài xế đến bên xe, bước vào hàng ghế sau ngồi cạnh bà mệnh phụ. Hai người lặng lẽ chào nhau qua ánh mắt. Bà ta trông mong manh như cánh hoa tàn úa và xanh xao như một xác ướp, bác quản lý nhận xét thầm. Trong con người của bà ta, tất cả đều đã buông xuôi và từ chối cuộc sống, ngoạit rừ đôi mắt; đôi mắt sâu thẳm mang nặng một nỗi đau thầm lặng và u uất.

“Tôi là bà Wilson.” Bà ta thầm thì. “Hai năm qua, mỗi tháng…”

“Vâng, đúng vậy. Mỗi tháng tôi đều nhận được tiền của bà.” Bác quản lý nhẹ nhàng đỡ lời.

“Hôm nay, tôi đến đây,” bà Wilson cố gắng nói tiếp, “bởi vì các bác sĩ trong bệnh viện nói rằng tôi chỉ sống được vài tuần nữa thôi. Trước khi tôi chết, tôi muốn được nhìn mộ con trai tôi lần cuối. Nhân tiện tôi muốn gặp ông để thu xếp việc gửi tiền đặt hoa cho mộ con tôi sau này.”

Bà có vẻ kiệt sức vì phải nói nhiều. Chiếc xe chầm chậm rẽ vào một ngõ hẹp, tiến dần đến ngôi mộ đứa con trai bà mệnh phụ ấy rồi dừng lại. Bà mẹ tội nghiệp cố sức ghé qua đầu qua ô cửa kính để nhìn ra ngôi mộ của con. Không gian tĩnh lặng, tiếng chim chíu chít đâu đó bên trên những tán cây.

Bác quản lí nghĩa trang lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng. “Thưa bà, tôi luôn lấy làm tiếc vì món tiền bà đã thường xuyên gửi đến để đặt hoa cho ngôi mộ.”

Thoạt đầu bà mệnh phụ có vẻ không nghe được câu nói ấy. Sau đó bà chầm chậm xoay đầu lại.”Xin lỗi ông” bà ta thì thào.” Ông đang nói đến việc gì thế! Con trai của tôi…”

“Vâng, tôi hiểu” bác quản lí dịu dàng ngắt lời. “Bà biết không, tôi là thành viên trong nhóm cứu trợ nhà thờ. Hằng tuần chúng tôi đều tổ chức đi thăm bệnh viện, trại tế bần, nhà dưỡng lão, nhà tù…Ở những nơi ấy, có nhiều người sống cần được quan tâm, đa số họ đều yêu thích hoa. Họ còn có thể nhìn ngắm màu sắc và thưởng thức mùi hương của hoa. Còn ngôi mộ này…” bác quản lí đưa mắt về phía ngôi mộ”…không có sự sống trong đó, không có ai nhìn ngắm và thưởng thức nét đẹp và hương thơm của hoa. Vì thế, tôi…” Bác quay mặt đi và tránh cái nhìn của người mẹ sầu khổ, giọng của bác lạc dần rồi tắt hẳn.

Bà mệnh phụ không nói gì cả, mắt đăm đăm nhìn về phía ngôi mộ của cậu con trai. Dường như hằng tiếng đồng hồ đã trôi qua trong bầu không khí lặng lẽ và ngột ngạt ấy. Cuối cùng bà ta khẽ đưa tay ra hiệu, người lái xe cho xe quay trở về phòng tiếp khách của nghĩa trang.

“Mình đã xúc phạm bà ấy,” bác quản lý đưa mắt nhìn theo, lòng thầm nghĩ. “Đúng ra mình không nên nói cho bà ta biết điều ấy.”

Vài tháng sau, bác quản lí nghĩa trang không khỏi ngạc nhiên trước một cuộc viếng thăm bất ngờ và thú vị. Bà mệnh phụ ấy đã tìm đến gặp bác. Lần này không có tài xế, bà ta tự mình lái xe đến nghĩa trang. Bác quản lí không còn tin vào mắt mình nữa.

“Vâng đã nói đúng, ông quản lí thân mến!” Bà Wilson vui vẻ mở lời. “Về chuyện thưởng thức hoa đó mà! Đó chính là lý do tại sao tôi ngưng gởi tiền cho ông suốt mấy tháng vừa qua. Hôm ấy tôi trở về bệnh viện, không thể nào gạt được những lời của ông ra khỏi tâm trí. Sau đó tôi bắt đầu đặt hoa gởi tặng cho các bệnh nhân trong bệnh viện, những người không đựơc ai tặng hoa cả. Tôi cảm thấy vui khi họ yêu thích và thưởng thức chúng – những cánh hoa tươi đẹp đến từ một người hoàn toàn xa lạ. Điều đó đã khiến họ vui và tin tưởng hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, điều đó đã làm tôi hạnh phúc và vui với cuộc sống.”

“Không có vị bác sĩ nào hiểu được,” bà ta nheo mắt, “phép lạ nào đã khiến tôi bình phục nhanh đến thế. Chỉ có tôi biết được điều ấy thôi!”



1010






Tôi ngồi trong tiệm ăn đợi đến 12 giờ rưỡi trưa thì thằng bạn thân mới tới. Chưa kịp ngồi xuống, hắn đã nói oang oang lên: "Trời ơi! Ông đi lâu quá! Không có ông tôi cứ phải ra đây ăn trưa một mình hoài!"

Tôi nói: "Uống martini phải không?"

Hắn cười: "Ông biết tôi hơn hai năm nay đến tiệm này cũng chỉ uống một thứ đó!" Rồi hắn tiếp: "Nói thật với ông nhé, ông thật là may mắn hơn tôi! Tôi ghét cái công việc chết dí ở cái bàn giấy lắm rồi! Tôi thèm được đi khắp nơi như ông quá!"

Tôi chắt lưỡi: "Mỗi chuyến đi chào hàng của tôi phải xa nhà cả hai, ba tuần thì có gì mà ông phải thích chứ!"

Hắn nhìn tôi ngạc nhiên: "Quen với ông gần ba năm nay rồi, sao bây giờ tôi mới nghe ông than như vậy! Hay là chuyến vừa rồi có gì...không được êm xuôi hả?"

Tôi lắc đầu: "Ngược lại là khác! Đơn đặt hàng nhiều hơn cả dự đoán!"

"Vậy thì có chuyện gì mà ông thẫn thờ quá vậy?" Hắn hỏi.

"Không phải chuyện công việc. Mà là vấn đề sức khoẽ."

"Ông nói giỡn chơi phải không?" Hắn như nhảy dựng lên, "Ông bự con như voi thế này thì bệnh cái nỗi gì!"

"Không! Tôi thì chưa có gì...Chỉ có điều vợ tôi..."

"Vợ ông bị sao?" Hắn hỏi dồn dập.

"Chuyện khá dài dòng. Chuyện bắt đầu từ cách đây khoãng ba tuần, tôi từ xa gọi về để hỏi thăm nàng. Thì nàng than mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, khó chịu trong mình...Tưởng chỉ là cảm cúm bình thường. Nào ngờ...đó là triệu chứng khởi đầu cho một căn bệnh hiểm nghèo..."

"Trời ơi! Bệnh gì vậy?"

"Đó là một căn bệnh từ một loại virus rất hiếm khi tấn công vào con người. Cơ hội để mắc bệnh này là mười triệu người mới có một người bị. Vì hiếm hoi như vậy nên người ta chưa đặt tên bệnh mà chỉ gọi nó bằng tên của loại virus thôi. Mà cái tên khoa học của con virus đó thì dài lòng thòng, tôi chẵng có cách nào nhớ nỗi. Hình như là..."

Bạn tôi cắt ngang: "Nhưng mà bệnh đó nguy hiểm cở nào?"

"Nếu không phát hiện kịp thời thì 'đứt bóng' dễ như chơi!"

" Ông nói 'đứt bóng'?" Hắn há hốc miệng, "Vậy trường hợp vợ ông là phát hiện sớm hay sao?"

"Nhờ trời, cả hai vợ chồng tôi đều được may mắn phát hiện kịp thời."

"Cả hai?" Hắn trợn mắt nhìn tôi, "Nghĩa là...ông cũng đã bị...lây nhiễm?"

"Đúng vậy!" Tôi nói nhỏ lại: "Qua đường...chăn gối!"

Hắn nhắp một hớp rượu rồi hỏi: "Nhưng nhờ đâu mà hai ông bà phát hiện được mình có bệnh đó?"

Tôi bật cười: "Tụi này đúng là gặp may! Tối thứ hai vừa rồi, một ông bạn bác sĩ của tôi ghé thăm khi tôi vừa đi xa về. Ông ta thấy vợ tôi không được khoẽ, liền hỏi thăm và đề nghị nàng đi thử máu. Rồi sau khi phát hiện nàng đã mắc bệnh, ông ta bắt tôi phải thử luôn. Và kết quả như tôi đã nói..."

"Hiện tại y khoa đã có thuốc chữa bệnh này chưa?"

"Vẫn còn đang trong vòng nghiên cứu. Mà ông có biết cả thành phố bảy triệu người dân của chúng ta, chỉ có một ông bác sĩ đang nghiên cứu về bệnh này không?"

"Đó là bác sĩ bạn của ông đó hả?"

"Không! Bạn tôi đã giới thiệu tôi đến bác sĩ chuyên khoa đó. Ông ta ở trên lầu ba trong tòa nhà Crystal gần đây này. Tụi tôi đã đến gặp ông ta và ông ấy nói là thuốc mới mà nhóm của ông đang nghiên cứu có khả năng rất cao trị dứt bệnh này. Nói thật với ông, tôi suýt bật khóc khi nghe tin vui đó."

"Trường hợp của gia đình ông cứ như là chuyện "Tái Ông mất ngựa" vậy!"

***********
Chúng tôi rời tiệm ăn lúc hai giờ. Chia tay bạn xong, tôi đón một chiếc taxi.

Mười phút sau, khi xe dừng lại trước tòa nhà Crystal, tôi đi thang máy lên lầu ba. Khi tôi bước ra khỏi thang máy, hành lang thật vắng ngắt. Giờ này ai cũng đang bận rộn với công việc của mình trong các văn phòng.

Lúc hai giờ ba mươi, cửa thang máy mở và...bạn tôi bước ra.

"Tao chỉ muốn biết chắc chắn đúng là mày!" Tôi nói. Rồi tôi tống một cú đấm trời giáng vào bản mặt của thằng khốn nạn.

2135





Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và yên vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên.

Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng đế lảng quên với việc triều chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại, hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên năn nhà vua nên lo cho dân chúng và chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng.

Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân.

Trước áp lực của bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hoàng hậu bồng con đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng.

Đứa bé nằm bên mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần gian. Khi thấy hoàn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác của người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ đó bằng sự cô đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh.

Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem quân cố chiếm lại thành trì nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng mình đã không nghe lời hoàng hậu khuyên ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vô tội của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngoài thì địch quân vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.

Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía quân xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và với lòng tin thống nhất, nhà vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.

Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã thốt lên rằng:

" Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết mặt !..."

Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hoàng cung với tấm vải thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi đến gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà không nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng:

" Thưa phụ hoàng, con đây !" .

Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ôm người thật chặt vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu. Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng thấy mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ xuống.

Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó và n1009


Powered by Blogger.