Vào lúc năm cùng tháng tận, khí trời miền Bắc rất là giá lạnh. Bắt đầu từ tiết Lập Ðông, hầu như không có lấy một hôm trời nắng, suốt ngày trời ẩm lạnh âm u, gió ù ù thổi lộng trời, nhốt chặt mọi người ở trong nhà. Ngày tám tháng Chạp, trời đổ trận mưa tuyết đầu tiên, phủ kín những con đường mòn trong thôn xã, phủ kín cả đường quan. Mọi người càng không ra khỏi cửa, mà Tết cũng sắp đến rồi, ai cũng bận bịu nấu nướng, muối trữ đồ ăn thức uống chẩn bị đón Tết.
Những lúc thế này, ngoài đường phố vắng tanh. Gió thổi tuyết bay, rét buốt thấu xương. Mới sau bữa cơm chiều trời đã tối sẩm, các cửa hàng cửa hiệu đều vội vã đóng cửa sớm, co ro cúm rúm trong nhà, xúm quanh bếp lửa sưởi và tí tách nhằn hạt dẻ rang
Đúng lúc đó, Vận Nô lại đang bước gấp trên đường phố khoác một tấm áo choàng bằng lụa ren cũ nát rách lỗ chỗ, chiếc áo khoác bay tốc lên, để lộ chiếc quần buộc ống màu phấn hồng. Bên ngoài đôi hài thêu hoa không có giày đi tuyết, cứ thế mà giẫm bừa lên tuyết dầy hàng thước; người rã rời, bước chân líu ríu cô chạy đến trước cửa hiệu thuốc có tấm biểu đề "Hồi xuân nhà thuốc cổ" Tay gõ cửa rất mạnh, miệng cô không ngừng gọi to:
- Chu công công! Chu công công! Chu công công! mở cửa! mở cửa! Chu công công!
Chu công công là chủ hiệu thuốc bắc duy nhất ở thị trấn này, mà cũng là ông thầy thuốc duy nhất ở đây. Vì ông đã cao tuổi nên moi người đều xưng ông là "Chu công công" (Chứ kỳ thực ông có bao giờ làm quan đâu). Vì trời quá lạnh, ông Chu đóng cửa hiệu sớm và đã trèo lên lò sưởi rồi. Nghe tiếng Vận Nô gọi cửa một cách cấp thiết, ông không thể không trở dậy xem sao. Một cậu học việc đã nhanh chân cầm đèn ra mở cửa.
- Chu công công, Chu công công có nhà không? Vận Nô vừa thở hổn hển vừa hỏi.
- Có nhà đấy cô ạ. Nhưng đã ngủ rồi! - Người đồ đệ có tên là "Hai Ngố" trả lời cô
- Xin hãy nói với Chu công công, xin ông đi xem giúp mẹ tôi, xin hãy giúp cho, nhanh lên, nhanh lên! - Vận Nô nước mắt vòng quanh, giọng nói run rẩy, từng đám hơi trắng như mù đọng lại sau mỗi câu nói của cô - Xin ông làm ơn làm phúc cho, mẹ tôi... mẹ tôi không xong mất rồi!
Chu công công đã ra đến cửa, vừa thấy tình cảnh là ông hiểu ngay. Không mảy may chậm trễ, ông quay lại nói với đồ đệ.
- Hai Ngố này, thắp đèn lồng lên, đi theo tôi xem sao.
Chu công công mặc áo lông cừu vào cùng đồ đệ đi theo Vận Nô. Cô gái đi nhanh như chạy nên thỉnh thoảng lại phải dừng chân đứng đợi ông già. Chu công công nhìn theo bóng dáng gầy gò bé nhỏ với đôi chân phong phanh thụt trong tuyết và chiếc áo trùm đầu cũ nát có dính những bông tuyết lấm tấm... bất giác lắc đầu thương cảm, tự nhủ thầm:
- Thật đáng thương, càng nghèo thì càng khổ, mà càng không tránh nổi bệnh tật.
Đã đến cửa nhà Vận Nô, hai gian giột nát, đổ xiêu không che nổi gió mưa, giấy dầu che cửa chính đã rách tả tơi, song cửa cái long đã gẫy sơn cửa bong tróc nứt nở. Xem ra thì hai mẹ con nhà này đã không dễ dầu gì trong năm qua, chẳng nói gì cái tết. Chu công công thở dài bước chân vào nhà. Vừa vào tới nhà ngoài đã nghe tiếng thở khò khè, tiếng rên của mẹ Vận Nô cùng tiếng gọi thều thào:
- Vận Nô, Vận Nô, Vận Nô ơi!
Vận Nô vội chạy tới bên giường, cầm lấy bàn tay bà mẹ gầy guộc giật giật, thò ra ngoài chăn, cô cuống quýt kêu lên:
- Mẹ ơi! con đây, con đã mời được Chu công công về xem bệnh cho mẹ đây!
Chu công công đến gần giường, bảo Vận Nô để dịch chiếc đèn dầu lại. Ông xem sắc mặt của người bệnh, nó đã khô héo và vàng như sáp, hai gò má nhô cao cằm nhọn hoắc. Ông không nói gì, chỉ cầm bàn tay người bệnh, chăm chú bắt mạch. Sau đó ông đứng dậy, ra nhà ngoài kê đơn. Vận Nô theo chân ông lo lắng hỏi:
- Ông thấy thế nào, thưa công công?
- Bà ấy còn ăn cơm gì không?
- Cháu bón một tí cháo, nhưng nôn ra hết. Vận Nô lại trào nước mắt. Chu công công nhìn Vận Nô: da trắng, mày thanh, mắt sáng, miệng nhỏ môi cắn chỉ, khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa... Thật là một cô gái xinh đẹp, nhưng sao số khổ vậy? Ông thở dài một tiếng, nhấc bút vừa kê đơn vừa nói.
- Tôi kê đơn thuốc tạm dùng thử xem sao đây. Cô bé ơi, tối hôm nay tốt nhất là nên mời thím Lý ở cạnh đây sang phụ giúp cùng cô.
- Chu công công! - Vận Nô hoảng hốt kêu lên, quì thụp xuống trước mặt Chu công công, nước mắt vòng quanh - Chu công công, xin công công cứu mẹ cháu! cháu van ông! công công ơi, ông nhất định phải cứu mẹ cháu... ông phải cứu, ông phải cứu mẹ cháu nhé ông ơi...
- Cô gái ơi, cô hãy đứng dậy! - Chu công công đỡ cô một tay, mũi ông cũng cay cay - Giờ tôi đi về bốc thuốc, cô không phải đi theo đâu, tôi sẽ bảo Hai Ngố đem lại cho cô. Sắc ngay thuốc cho mẹ uống nếu uống vào được thì tất cả sẽ còn hy vọng, nếu không uống vào được thì... Chu công công khẽ lắc đầu không nói hết lời - Thôi, ở hiền nhất định gặp lành, cô đừng sốt ruột, sáng sớm ngày mai tôi sẽ đến xem sao.
- Chu công công ông nhất định cứu được mẹ cháu, cháu biết, ông nhất định cứu được mà! - Vận Nô giống như người sắp chết đuối vớ được cọc, cô gửi tất cả hy vọng vào Chu công công. Cô ngẩng mặt nhìn Chu công công một cách khẩn khoản và tuyệt vọng, nước mắt loang loáng trên mặt cô - chỉ mong ông cứu sống được mẹ cháu, cháu tuy không có tiền nhưng có thể suốt đời may vá, suốt đời làm con hầu người ở để báo đáp ông.
- Cô gái ơi, tôi sẽ đem hết sức mình ra cứu chữa cho mẹ cô! - Chu công công thương xót, nói - cô hãy đi vào nhà đi, tôi về bốc thuốc. Nghe kìa hình như mẹ cô gọi, cô vào đi, nói chuyện với bà ấy cho đỡ buồn, đắp chăn ấm một chút kẻo bà ấy bị lạnh đấy.
Đúng là bà mẹ đang gọi Vận Nô giọng khàn khàn yếu ớt. Vận Nô vội lau nước mắt, vái công công mấy vái rồi chạy vào buồng. Chu công công lại lắc đầu, gọi đồ đệ.
- Hai Ngố theo ta về lấy thuốc đi! nhưng chắc thuốc cũng chẳng cứu được bà ấy nữa rồi, chỉ còn trông vào vận may thôi! Đem thuốc đến xong, con hãy mời thím Lý bên hàng xóm đến trông giúp nhé.
Vân Nô đã chạy đến bên giường mẹ cô, ngồi lên mép giường, cô lấy một tay nắm tay người mẹ, sợ hãi kêu lên:
- Mẹ, mẹ ơi!
Người bệnh miễn cưỡng mở mắt ra, cố gượng nhìn cô con gái đang ở trước mặt mình, bàn tay khô gầy bất giác nắm chặt tay cô, bà nói lắp bắp rất khó nghe.
- Vận Nô, mẹ con... không qua nổi nữa... rồi!
- Mẹ ơi! - Vận Nô kêu to một tiếng, gục lên chăn, nức nở khóc, nước mắt tuôn như mưa, cô gọi - Mẹ ơi, mẹ
không được đi, mẹ nhất quyết không được đi, mẹ đi rồi, con phải làm gì bây giờ? thà con đi theo mẹ còn hơn.
- Vận Nô, con ơi đừng khóc! - Người mẹ cố gắng dùng bàn tay không còn hơi sức vuốt lên tóc con gái, bà cố hết sức tập trung thần trí đang dần dần tan tác của mình. Bà còn bao nhiêu điều cần nói, cần phải nói trong những giây phút cuối cùng, nhưng lưỡi bà đã muốn cứng lại, ý nghĩ... của bà đã rối tung lên, bà đau khổ dặn dò - Nghe mẹ nhé, Vận Nô... con... con nhất định phải tiếp tục đi, đến thành X... tìm... tìm... cậu của con, cậu ấy... cậu sẽ chăm sóc con!
- Mẹ ơi, không, không con không cần! - Vận Nô khóc đứt ruột đứt gan - con muốn đi theo mẹ, mẹ đến đâu, con đến đấy!
- Con ơi đừng... đừng nói nhảm! chỗ mẹ đi... con không đến được... không được. Con... con lấy cái... tráp ở đầu giường... mang lại đây... nhanh lên nhé!
Người bệnh tay run run, gắng giơ ra chỉ vào chỗ chiếc kỷ nhỏ kê ở đầu giường, trên đó đặt một cái tráp nhỏ màu đỏ. Trên nền đỏ có hình vẽ "Quan Âm tống tử" nét vẽ bằng nhũ vàng. Nhưng năm tháng đã quá lâu, hình Quan Âm đã mờ lắm rồi, nền sơn đỏ cũng đã rạn bong rơi rụng đi nhiều. Vận Nô tay bưng tráp mà nước mắt vẫn thánh thót rơi, cô biết ở trong đó có một chút trang sức của mẹ cô; khi một mẹ con rời quê hương đến thành X để tính nương náu ở nhà người cậu thì lộ phí chỉ biết trông vào mấy món trang sức này. Đã đi những mấy trăm dặm đường rồi... Mà nay, bà mẹ ngã bệnh, phải dừng lại thị trấn nhỏ này đã hai tháng. Bao nhiêu đồ trang sức đã phải bán để trả tiền nhà, tiền chữa bệnh, Vận Nô không tin là trong tráp lại còn gì nữa. Mà có còn đi nữa thì cũng chẳng làm sao cứu được cô khỏi nỗi đau mất mẹ? cô đặt tráp lại chỗ bà mẹ nước mắt vẫn chảy dài. Người mẹ sờ cái tráp nói:
- Chìa khóa... ở... ở... trong túi áo lót của mẹ, lấy... lấy ra rồi... mở... mở tráp!
- Mẹ ơi - Vận Nô khóc - mẹ giữ sức một tí nào!
- Nhanh lên, Vân Nô, nhanh... nhanh đi, mở... nó ra!- Người bệnh sốt ruột, - nhanh... đi nào?
- Vâng, thưa mẹ - Vận Nô không nỡ trái ý, đưa tay lấy chìa khóa mở tráp ra. Cô nhìn vào trong tráp, chỉ có một chiếc túi thêu bằng đoạn màu xanh lam, ngoài ra không còn gì nữa. Hiển nhiên là đồ vật trong túi kia phải là vật thiết thân cuối cùng của mẹ cô đẩy cái tráp lại chỗ tay bà mẹ - Mẹ ơi tráp đã mở rồi đây ạ.
Bà mẹ chạm tay vào chiếc túi thêu, bà thều thào:
- Mở nó... ra!
- Mở cái bao này ư, mẹ?
- Phải rồi... phải... nhanh đi! Vận Nô!
Vận Nô mở túi, lấy ra một vật và đưa lên xem: đó là một chiếc vòng đeo tay bằng pha lê trong suốt. Vòng pha lê thì không là vật lạ, cái lạ là ở những hình khắc trên đó. Một đôi phượng cuốn quanh, từng nét khắc trên cánh phượng, đuôi phượng, từng chiếc lông vũ trên thân... tất cả đều cực kỳ tinh tế. Pha lê vốn là một loại đá hết sức cứng trong các loại đá, khó điêu khắc nhất, vậy mà chiếc vòng đã được chế tác rất lung linh hoàn hảo, thật là vô cùng hiếm thấy, Vận Nô giơ chiếc vòng lên, nếu không phải là trong hoàn cảnh thế này, thì tất nhiên cô phải vui thích ngắm nghía vật báu hiếm hoi của thế gian đó. Nhưng lúc này cô chẳng còn tâm ý nào nữa, chỉ hơi thầm ngạc nhiên vì từ khi lớn đến nay, cô luôn bên mẹ mà chưa một lần nhìn thấy chiếc vòng.
- Đựa... đưa mẹ! - bà mẹ hổn hển thở gấp.
- Thưa mẹ đây ạ - Vận Nô đưa chiếc vòng vào tay mẹ cô. Bà mẹ cầm chặt chiếc vòng mân mê hoa văn của nó, trong màu sắc pha lên trong suốt có một ánh xanh lam, hết sức nhạt trước ánh đèn dầu đo đỏ, toàn bộ chiếc vòng lại hiện thành màu tía nhạt. Người bệnh nhìn như kiểm tra lại nó rồi tỏ vẻ yên tâm, thở ra một hơi, kéo tay Vận Nô, đặt chiếc vòng vào tay cô. Kinh qua một phen gắng gỏi, bà mẹ hầu như quá mệt mỏi, bà nói thầm thì, tiếng nghe chỉ còn như hơi gió thoảng qua:
- Hãy giữ lấy nó, Vân Nô con, đây... đây là một vật báu... một vật báu. Chiếc vòng này đã... theo... theo mẹ mười mấy năm rồi, con hãy giữ gìn... giữ gìn nó cho cẩn thận. Nghe này, Vận Nô, mẹ... mẹ... mẹ cần phải nói với con... phải nói, về cái vòng... vòng này, nó... nó... ôi... ồi... ài... !
Người bệnh thở hắt ra một hơi, đầu ngửa ra phía sau, bàn tay đang nắm tay Vận Nô bỗng lỏng ra, đầu lăn nghiêng xuống gối, toàn thân lại giật giật và co rúm lại, rồi sau đó không hề động cựa nữa. Vận Nô gào lạc giọng:
- Mẹ... ơi!
Cô chồm lên ôm lấy đầu mẹ ôm thật chặt và lay lắc mãi, miệng không ngớt kêu la:
- Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi!
Nhưng người bệnh đã không trả lời nữa, một sắc máu cuối cùng trên môi đã phai mất hẳn, Vận Nô kêu gào không ngớt, kêu đến kiệt sức hết hơi, một hồi lâu sau, cô đành buông bà mẹ, ngồi thừ người nhìn khuôn mặt không còn một chút sinh khí của mẹ, cô dường như không tin vào giác quan của mình. chẳng lẽ một người vừa mới sống rành rành ra đó mà cuối cùng chỉ còn lại một thân hình bất động không hề nói năng một lời như thế kia ư? Cô ngây thộn, ngẩn người, mê mụ đi. Cô không khóc, cũng không nói gì nữa cả, ngồi như một pho tượng, mắt không hề chớp, chằm chằm nhìn vào người nằm trên giường. Ngoài cửa sổ gió đang rít, hoa tuyết đập vào giấy dán cửa phát ra những âm thanh xào xạc, xào xạc.
Khi Hai Ngố mang thuốc và đưa thím Lý bên láng giềng sang, mới bước vào cửa đã thấy cảnh tĩnh lặng tờ như một bức tranh, người bệnh thì đã tắt hơi từ lâu. Vận Nô thì ngồi ngây như pho tượng bên mép giường, trong tay cầm chặt cứng một chiếc vòng pha lê long lanh quí giá.
o0o
- Vận Nô nghe tôi đi, mẹ cô mất đã hai tháng rồi, cô tính rồi đây ra sao, phải quyết một bề đi, suốt ngày ngồi trong nhà lau nước mắt thì không xong đâu. Khóc mãi ốm người mất, mà cũng chẳng giải quyết được việc gì. Hơn nữa để mẹ cô mãi trong miếu không phải là kế lâu dài, phải đưa linh cữu về quê chứ? hay định chôn ở đây? Hay đi tìm ông cậu rồi bàn cách giải quyết? - Thím Lý ngồi bên cạnh Vận Nô, đặt tay lên vai cô, ân cần khuyên bảo.
- Ôi, thím Lý ơi, quả thật cháu không biết tính thế nào cả! - Vận Nô cúi đầu, không ngừng vặn chiếc khăn lụa trong tay - Trước kia, việc gì cháu cũng biết nghe theo mẹ cháu, bây giờ, mỗi mình cháu là con gái, chẳng biết tính ra sao. Cháu chỉ buồn là đã không đi theo mẹ cháu thôi.
- Cô bé nói dở quá đi, tuổi còn trẻ thế này, biết đâu lại chẳng gặp nhiều may mắn về sau! - Thím Lý kéo tay Vận Nô, nhẹ nhẹ vuốt ve an ủi Vận Nô, có phải trước kia mẹ cháu thường nói đi tìm cậu ở thành X đấy sao? Nay sao cháu không đi?
Trước khi mất mẹ cháu cũng bảo cháu đi tìm ông cậu, nhưng... nhưng... nhưng từ đây đến đó hàng mấy trăm dặm mà cháu thì trong người không có nổi một đồng xu, tiền quan tài của mẹ cháu còn phải nhờ thím và Chu công công, đến tiền thuê căn nhà này của thím cháu cũng đã trả được đâu.
- Thôi nào, Vận Nô, nói đến tiền nhà mà làm gì, hai gian nhà này của thím để không thì cũng đến vậy mà thôi. Cháu phải rời bỏ quê hương, gặp bao nhiêu biến cố thế này, chúng tôi chẳng giúp thì ai giúp? - Thím Lý ôn tồn nói và nhìn Vận Nô thương cảm - Vận Nô ạ, giá mà giúp được cháu một chút tiền thì tốt quá, nhưng cháu biết đấy, thím cũng chẳng giàu có gì...
- Ôi, thím Lý ơi, thím giúp cháu nhiều lắm rồi mà, cháu thật không thể để thím phải tốn kém nhiều cho cháu nữa. Cháu nghĩ... cháu muốn đi may vá thuê để kiếm một chút tiền... - Vận Nô nghẹn ngào nói.
- Không phải nói để cháu nản đâu, Vận Nô này, nếu cháu định may thuê vá mướn để kiếm kế sinh nhai và về quê thì có kiếm suốt đời cũng chẳng đủ. Ở đây là trấn nhỏ nhà cửa thưa thớt, người ít, có ai phải thuê người may vá đâu, họ đều tự làm lấy cả. Chỉ có nhà họ Châu ở phía Tây thành là giàu có, nhưng họ đã nuôi mấy người trong nhà để khâu vá rồi. Thím thấy cách của cháu có lẽ không được đâu.
- Vậy thì... vậy thì... cháu còn biết làm thế nào nữa? Cháu... cháu còn biết ít chữ...
- Cái đó cũng chẳng dùng được có ai mời thầy giáo đàn bà đâu. Vận Nô cúi đầu thấp hơn nữa, đôi mắt đen ngơ ngác dưới mái tóc chỉ che trước trán trông thân thương và tuyệt vọng, hàm răng trắng nhỏ cắn vào môi buồn bực, bứt rứt. Thím Lý nhìn cô suy nghĩ rất lâu rồi chợt như nghĩ được kế gì, vụt đứng lên nói:
- Đúng rồi, Vận Nô thím có cách rồi.
- Gì cơ?
- Thím nhớ cái hôm mẹ cháu mất, cháu có cầm một chiếc vòng...
- Vòng pha lê! - Vận Nô nói
- Phải, vòng pha lê đó có thể có giá đấy...
- Nhưng... nhưng... lúc mẹ cháu sắp đi, còn cố lắp bắp định nói gì với cháu về chiếc vòng này, nhưng đã không kịp nói thì..., mẹ đã bán đi tất cả mọi thứ, chỉ còn chiếc vòng này không nỡ bán, lại nói đó là báu vật bảo cháu phải giữ gìn cẩn thận sợ rằng đó là báu vật gia truyền, cháu không bao giờ dám bán đi đâu!
- Ồ, đó là của báu gia truyền ư? - Thím Lý tự nhiên cụt hứng đứng dậy, chậm rãi bước quanh căn phòng, tay khoanh trước bụng. Lúc sau, thím chợt đứng lại trước mặt Vận Nô.
- Vận Nô này, thím xem chiếc vòng pha lê đó một chút được không?
- Được ạ?
Vận Nô lấy cái tráp đỏ ra, mở khóa, lấy túi thêu và trịnh trọng rút chiếc vòng ra đưa cho thím Lý. Thím cũng cầm lấy một cách rất cẩn thận và chăm chú xem. Chiếc vòng trong vắt, phát sáng long lanh, những nét điêu khắc nhỏ hơn sợi tóc trên đầu, trên cánh trên đuôi chim phượng không khỏi khiến người xem tấm tắc thán phục! Thím Lý suýt xoa sống quá nửa đời người, mới lần đầu nhìn thấy một vật báu hiếm có trên thế gian như vậy! Thím buộc miệng khen.
- Trời, thật là quá đẹp!
- Mẹ cháu cũng nói đó là của quí mà.
- Thôi cất đi đi, không thím cầm cũng lo lắm, chỉ sợ đánh rơi vỡ mất thì chết - Nhìn thấy Vận Nô cất vòng xong, trầm ngâm giây lát, thím lại nói - Thím lại nghĩ ra cách rồi.
- Cách gì cơ ạ?
- Có biết tiệm cầm đồ "Hữu Lợi" ở trấn này không?
- Có ạ - Vận Nô đã hơi xấu hổ vì đến trấn này mới hơn bốn tháng mà đã đến tiệm cầm đồ đó những mấy lần.
- Người coi tiệm ở đó đều rất sành hàng hóa, sao cháu không đem vòng pha lê đến để cầm cho họ lấy một khoản tiền nhỉ? Cháu xem nhé, cầm đồ không giống bán đứt đâu, chỉ cần trước khi đến hạn, mình có thể đưa tiền ra chuộc là đồ của mình vẫn nguyên vẹn về tay mình. Thím tính cho cháu nhé: tốt nhất cháu hãy đi cầm cái vòng để lấy một khoản tiền rồi đi ngay đến thành X mà tìm ông cậu, tìm được cậu rồi, cháu có thể quay về an táng cho mẹ và chuộc vòng của cháu. Đấy như vậy có phải là vẹn cả mấy đường không? Vừa giữ được vòng quí, vừa gặp được cậu cháu.
Vận Nô suy nghĩ một lúc lâu.
- Tốt thì có tốt, nhưng... nếu cậu cháu không chịu đến thì sao?
- Mẹ cháu đã phải cố lặn lội đường xa như vậy để đi tìm cậu, chắc cũng tin là việc có thể thành. Thím nghĩ ông cậu chẳng đến nỗi không nhận một người ruột thịt nghèo như cháu. Với lại, cháu không đi hỏi ông ấy xem, biết đâu ông ấy biết lai lịch chiếc vòng kia! Nếu quả thật đó là vật báu gia truyền thì ông ấy cũng sẽ không để cho nó thất lạc ra ngoài đâu.
Vận Nô cắn môi, nghĩ ngợi cân nhắc rất kỹ, cảm thấy hình như ngoài cách của thím Lý ra, cũng chẳng còn cách nào khác. Nghĩ lại lúc lâm chung, mẹ đã trịnh trọng trao chiếc vòng cho mình như là trong đó có gì bí hiểm lắm, phải chăng mẹ cũng muốn mình nhờ vào nó mà đến được thành X nhỉ? Không, không, mẹ đã nói rõ là phải giữ gìn cẩn thận cơ mà? nhưng bây giờ thì không thể làm gì được nữa rồi. Trong khi nguy cấp không thể không tìm thấy một lối ra! Cô gái cắn răng, gật mạnh đầu:
- Thôi được rồi! Thím Lý ạ, chiều nay cháu sẽ đến tiệm cầm đồ thử xem sao. Hi vọng họ có thể ứng cho cháu một món tiền đáng giá.
Và thế là chiều hôm đó, Vận Nô đã ôm chiếc túi thêu bước vào tiệm cầm đồ Hữu Lợi.
Đi cầm đồ với Vận Nô không có gì là lạ lẫm cả. Từ khi lên đường rời quê hương, mẹ con cô đã từng vào nhiều tiệm cầm đồ rồi. Các tiệm đó bố trí gần giống như nhau: một bức rèm châu treo trước cửa lớn, bên trong cửa là ánh sáng lờ mờ, một bục tủ cao cao, một người trông quầy đứng nấp sau bục tủ, một cái cửa nhỏ để đưa đồ vào cầm. Tuy không còn lạ nhưng Vận Nô vẫn không nói nổi những tâm trạng bức xúc, hồi hộp bất an và hơi xấu hổ. Khi còn ở quê nhà, Vận Nô cũng là một khuê tú trong một nhà có tiếng tăm, ông bố đã từng làm quan ở kinh thành, chỉ vì thời vận không đến, mới từ quan về quê sống bằng nghìn mẫu ruộng tốt của nhà. Cuộc sống cũng vẫn mười phần dễ chịu, Vận Nô vẫn là thiên kim tiểu thơ có a hoàn nhũ mẫu hầu hạ. Lúc đó, cô nằm mơ cô cũng không nghĩ được rằng, một ngày nào đó mình sẽ trở thành người lang thang cơ nhỡ đơn độc trên đường ly biệt quê hương, co ro cúm rúm bước vào tiệm cầm đồ thế này, ôi giá như quê nhà không mắc phải thiên tai, hết hạn đến lụt rồi lại ôn địch... giá mà cha mình không quá hảo tâm phát tán hết cả của cải để cứu người nghèo đến thế, hoặc cha không mất sớm như vậy... giá mà những họ hàng thân thích kia không phải là những tên cùng hung cực ác đã bắt nạt quả phụ cô nhi, hoặc mình còn có một người anh em trai có thể thừa kế nối dõi tông đường... giá mà... Ôi, nếu không có bao nhiêu cái giá mà đó, thì làm sao mà bà mẹ lại chết khổ ở nơi đất khách quê ngườỉ làm sao cô phải cô đơn khổ cực không còn lối thoát thế này?
Vận Nô đứng trước quầy hàng trong lòng đương thổn thức nghĩ ngợi lan man. Người trông quầy nhìn qua cửa quầy, thấy Vận Nô đứng đấy, nét mặt vừa bần thần vừa có vẻ ngượng ngùng. Những người trông quầy thường là loại gặp nhiều hiểu rộng, chỉ cần quan sát qua cử chỉ quần áo của Vận Nô là đã biết cô vốn là con gái nhà giàu chẳng may sa cơ lỡ vận.
- Cô định cầm đồ phải không? - ông ta hỏi một cách ôn hòa.
- Vâng, mời ông xem hàng - Vận Nô thận trọng rụt rè đưa cái túi thêu ra - Xin ông nhẹ tay cho, kẻo vỡ mất.
Người trong quầy rút chiếc vòng pha lê ra, giơ lên ánh sáng, ông ta xem rất chăm chú, hồi lâu dường như giật mình, ngẩng đầu lên nhìn Vận Nô một cách rất nghi hoặc. Ông ta nhìn đi nhìn lại cô gái, ánh mắt rất kỳ dị và đầy vẻ không tin tưởng. Rất lâu sau, ông ta mới đứng dậy hơi có ý căng thẳng và nói:
- Thưa cô, mời cô ngồi sang bên này đợi một chút uống chén nước chè nóng, để tôi còn đưa vòng cho ông chủ nghiên cứu kỹ thêm, chắc cô cũng biết đây không phải là một vật tầm thường?
Quả nhiên là một báu vật rồi. Vận Nô gật gật đầu, theo chân người trông quầy đi sang một gian nhà nhỏ khác, ngồi xuống một chiếc ghế bằng gỗ đàn tía. Người trông quầy cầm vòng đi vào trong nhà, chắc là để cùng ông chủ xem xét đánh giá nó. Vận Nô thấp thỏm ngồi chờ, trong lòng hồi hộp nghĩ đến giá trị của chiếc vòng pha lê, Lát sau, một đồ đệ nhỏ bưng đến cho cô một cốc nước chè thơm ngon nóng bỏng tay; lại một lát nữa, chú nhỏ khác đưa đến cho cô chiếc lồng ấm sưởi tay; chỉ tội không biết là người trông quầy ở đâu mà mãi không trở lại.
Vận Nô uống một ngụm trà, ôm lồng ấm trong vạt áo, và cố công ngồi đợi, cô không ngờ là họ lại nghiên cứu cái vòng lâu đến thế. Cô thấy chú nhỏ vừa bưng trà cho cô chui qua bức rèm và đi ra ngoài phố, cô thấy một con mèo vàng đang gừ gừ trên mặt quầy... chén trà của cô đã nguội hẳn từ lâu.
Cuối cùng người trông quầy cũng đã trở ra, nhưng tay ông ta không có chiếc vòng.
- Thưa cô, cô đợi thêm một chút - ông ta mỉm cười, nhưng ánh nhìn của ông ta lại có vẻ đang dò hỏi xét nét một cái gì thâm thúy lắm - ông Triều Phụng đang xem vòng của cô! Thưa cô, trước nay cô có đến đây rồi thì phải.
- Vâng - nỗi thấp thỏm của Vận Nô tăng lên. Có thể là cô không nên mang vòng đi cầm, hay là cái vòng quá quí, không thể đánh giá được.
- Cô định cầm chiếc vòng đó lấy bao nhiêu bạc ạ?
- Ông xem có thể được bao nhiêu? - Vận Nô bẽn lẽn nói - tất nhiên cũng hy vọng được nhiều một chút, tôi chỉ định cầm độ nửa năm thôi, có khi còn phải chuộc lại cũng nên.
- Ủa - Người trông quầy thốt ra một tiếng và tia mắt ông ta lại chĩa sang phía cô, đánh giá, soi mói cô từ đầu đến chân. Không hiểu tại sao trong đáy mắt ông ta lại còn chứa đựng cái gì đó như là tiếc thương và hồi hộp - chiếc vòng này, chắc hẳn là... chắc hẳn là... đồ gia truyền của nhà cô chăng?
- Đúng là của gia truyền, vì vậy mới cần chuộc lại.
- Ồ, vâng, thưa cô - Người kia vẫn tiếp tục cái nhìn xét nét, làm cho Vận Nô thấy càng áy náy không yên. Nhưng, chẳng biết cô đã nghe ai nói chăng, " cầm đi thì dễ, chuộc về thì khó " chưa?
À, thì ra là ông ta sợ mình không đến chuộc? Vận Nô ôm chặt cái lồng ấm hơn và ngồi thẳng lưng lên.
- Nhất định tôi sẽ đến chuộc, tôi chỉ thiếu có một ít tiền đi đường thôi.
- Cô định rời khỏi đây ư?
- Vâng tôi định đến thành X, để tìm cậu tôi - Vận Nô nói, và cô bắt đầu cảm thấy khó chịu. Cô đến để cầm đồ, chứ đâu phải đến để nói chuyện phiếm, cầm có một cái vòng mà lôi thôi rắc rối thế này ư? Đang trầm ngâm suy nghĩ thì nghe tiếng mành cửa rung lên, chú nhỏ vừa ra phố đã quay lại, đi cùng với hắn là những mấy người đàn ông cao to lực lưỡng. Người trông quầy lập tức rời bỏ cô để đón tiếp những người mới đến, một mặt nói với cô:
- Xin cô ngồi lại một lúc nữa là được.
Ông ta đưa mấy người đàn ông vào phía trong, rõ ràng mấy người này đến không phải để cầm đồ, mà họ là bạn của ông chủ tiệm. Vận Nô tiếp tục ngồi ở đó, bàn tay rỗi việc mân mê cái lồng sưởi nhỏ. Chú nhỏ lại xuất hiện, rót trà nóng cho Vận Nô và đứng luôn bên cạnh đó không đi đâu nữa. Vận Nô tự nhiên cảm thấy rợn rợn, một nỗi sợ hãi kinh khủng kỳ lạ nào đó trùm lên người cô. Bây giờ cô mới mơ hồ cảm thấy như từ lúc bắt đầu đưa ra chiếc vòng pha lê thì mọi việc xảy ra với cô đều trở nên không bình thường. Cô hoang mang nhìn xung quanh, căn phòng lặng ngắt âm u này, bộ tủ quày nặng nề kia, tấm rèm đung đưa theo gió ngoài cửa và chú nhỏ đang đứng tráo mắt canh chừng nó... Nỗi sợ hãi càng tăng lên, đè nặng cô xuống. một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, dần dần dâng lên đầu. Cô đứng bật dậy bảo chú nhỏ:.
- Nói với mấy ông giữ quầy, đưa trả vòng cho tôi, tôi không cầm nữa.
Chú nhỏ còn chưa kịp nói gì thì người trông quầy đã bước gấp ra ngay, theo sau ông ta là mấy người đàn ông lực lưỡng kia và ông chủ tiệm cùng với Triều Phụng. Họ đi thẳng đến chỗ Vận Nô và đứng lại, Vận Nô chợt nhận ra mình đã bị bao vây trong một lớp bình phong bằng người sống, dày đặc rồi. Bốn phía đều là những đôi mắt trợn trạo dữ dằn, và những bộ mặt không có gì là thiện ý. Vận Nô nhìn bọn họ toàn thân bỗng run bắn, miệng lắp bắp nói:
- Các... các ông... định làm gì?
Một người đàn ông bước lên trước một bước, bàn tay hộ pháp của y đột nhiên túm chặt lấy cổ tay cô như một con diều hâu quắp con gà con vậy; một người khác rút ra sợi đây thừng to tướng:
- Các... các ông... các ông sao lại... sao lại... - Vận Nô sợ hết hồn hết vía, mặt trắng bệch ra - Các ông... các ông định lấy vòng... hay định bắt người.
- Cả vòng lẫn người! - một người nói và quặc tay cô ra sau lưng trói nghiến lại.
- Xin... xin các ông tha cho tôi, cái vòng... cái vòng... vòng các ông lấy đi, biếu các ông!
Vận Nô run bần bật, nước mắt lưng tròng. Thật không thể nào ngờ được, đi cầm chiếc vòng đó mà lại bị sa vào cái họa sát thân! cô ngẩng mặt nhìn người coi quầy cầu cứu:
- Thưa ông, xin ông làm ơn làm phúc, xin ông làm ơn làm phúc!
Nước mắt thành dòng rơi xuống đôi má trắng bệch của cô, thân hình nhỏ nhoi của cô bị quay tròn trong tay bọn công sai lực lưỡng để cho cái dây thừng to lớn quấn chặt cô lại. Trông cô thật quá nhỏ bé đơn độc đáng thương xót
- Chà, cô gái ạ - người coi quầy hơi có vẻ xúc động chép miệng một tiếng, nói với Vận Nô - thật không phải với cô, nhưng tôi không có cách nào cứu cô được, tôi phải phục tùng mệnh lệnh, phải theo việc công. Ai bảo cô đem vòng ra cầm nào? Tất cả các nhà cầm đồ chúng tôi đều đã có bản vẽ của chiếc vòng đó đấy!
- Cái vòng đó... cái vòng đó... cái vòng đó thì có gì là không tốt? - Vận Nô cãi lại, cô tức run người, nước mắt lã chã:
- Đừng hỏi nữa, đi theo chúng ta! Đừng ở đây mà vờ vịt! - một tay công sai kéo dây trói trên mình cô - Thật không thể nhận ra được tên kẻ cắp lại là cái cô xinh xắn thế này!
- Kẻ cắp - Vận Nô giật nảy mình, lúc nào cô mới nhận ra mấy người cao to lực lưỡng kia chính là bọn công sai chuyên đi bắt người của phủ huyện, răng cô đánh lập cập, mắt mở to đến hết mức - Trời ơi! tôi đã làm kẻ cắp bao giờ?
- Lại còn cãi nữa! cô muốn nói thì gặp quan huyện mà nói! - bọn họ giải cô đi ra cửa. Ngoài cửa tiệm đã có một đám đông những người hiếu sự đang xúm xít đứng xem, chỉ chỉ trỏ trỏ bàn tán xôn xao làm cho Vận Nô vừa xấu hổ, vừa sợ hãi, vừa buồn bực, vừa phẫn nộ. Cô chỉ muốn chết đi cho rảnh. Cô khóc nức lên:
- Thế tôi đã ăn cắp cái gì cơ chứ?
- Những thứ khác thì chưa biết, nhưng cái vòng pha lê kia thì đích là ăn cắp của nhà họ Châu ở phía Tây thành rồi! họ đã báo quan từ mấy tháng trước kia, đã vẽ lại hình và đưa các nơi tra xét từ lâu rồi, còn cô ăn cắp những thứ gì nữa thì tự ra mà nói ở ngoài công đường!
- Vòng pha lê! Vòng pha lê! - Vận Nô đau đớn kêu, ngửa mặt lên trời, mặt lại nhòe nước - Trời ơi, cái vòng pha lê chết người kia, Mẹ ơi, mẹ đưa con cái vòng đó, rốt cuộc là có ý gì đây?
Ông Trình Chính là huyện thái gia đã phải thăng đường, ông ngồi trên đài cao nhìn Vận Nô đang quì trước mặt. Vận Nô bị bắt hôm qua và bị giam suốt đêm ở nhà lao đàn bà, đã khóc sưng đỏ cả hai mắt, đầu tóc rối bù. Mặc dầu chẳng phấn son, không chải chuốt, ở cô vẫn toát lên vẻ sáng sủa, thanh thoát ưa nhìn. Đôi mắt trong sáng, nét mặt thẳng thắn thật thà, cô không mảy may mang dáng nét gì có vẻ yêu ma tà khí. Ông Trình Chính vốn là một quan thanh liêm, trước nay đều sáng suốt minh bạch, xem xét sự việc rạch ròi công tâm. Nhìn Vận Nô ông quả không dám tin cô là kẻ cắp, trước nay ông vẫn tin vào khoa " xem tướng mặt" nếu cô gái quì trước mặt ông mà đúng là kẻ cắp thật thì thuật xem tướng của ông kể như hỏng cả.
Nhưng cái án này, thật đúng là làm người ta phải bó tay. Nhà họ Châu ở phía Tây là nhà giàu nhất huyện, ông chủ đã qua đời, có chàng công tử tên là Châu Trọng Liêm, tuổi còn trẻ mà đã thạo văn sành thơ, nổi danh là "tài tử" Chỉ vì cha Trọng Liêm trước đã sớm lạnh nhạt với con đường sĩ hoạn, khi qua đời dặn lại con chớ tham danh lợi, đừng ra làm quan; thế nên chàng trai này chưa bao giờ tham gia khoa cử, chỉ quản lý việc nhà, trông nom ruộng đất, phụng dưỡng mẹ già. Trình Chính nhậm chức quan huyện tại đây đã nhiều năm, chứng kiến sự khôn lớn của Trọng Liêm yêu thích chàng vì giỏi thơ văn, để kết thành bạn vong niên của chàng. Nhà họ Châu gặp cướp khoảng 4 tháng trước đây, nghe nói nửa đêm có một toán người trèo tường vào, có thể bọn chúng đã dùng hương có thuốc mê làm cho cả nhà mê mệt đi rồi cướp mất cái tráp đựng trang sức của phu nhân (mẹ Trọng Liêm). Họ Châu ra báo quan có nói, những vật khác mất đi không tiếc lắm, chỉ tiếc mỗi chiếc vòng pha lê trong tráp; đó là vật báu vô giá, hy vọng tìm lại được. Thế là, Trình Chính hạ lệnh cho thợ vẽ lại hình trạng chiếc vòng rồi phân phát đi khắp các tiệm cầm đồ và tiệm bán vàng bạc ngọc quí trong vòng một trăm dặm để truy bắt tội phạm. Theo kinh nghiệm của ông thì bọn cướp nhất định không giấu được lâu, sẽ phải mang bán những của cải chúng cướp được. Hơn nữa, có thể bọn chúng cũng không biết giá trị của chiếc vòng kia và phải mang đến tiệm cầm đồ để định giá. Đến nay, quả nhiên ông đã đoán đúng, chiếc vòng pha lê xuất hiện rồi. Nhưng điều làm ông rất ngạc nhiên và khó hiểu là người đi cầm chiếc vòng đó lại là một cô gái nhỏ yếu đuối đáng thương đến thế! Quì trước công đường và đang cố cầm nước mắt, trông cô như một con dê nhỏ đang sắp bị giết thịt.
- Triệu Vận Nô! ngẩng đầu lên! - ông thét.
Vận Nô ngoan ngoãn ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn Trình Chính, nước mắt vẫn chưa khô, trông rất khổ sở tội nghiệp, nhất là đôi mắt đen sáng nhưng tuyệt vọng, trông cô không giống kẻ cắp tí nào.
- Chiếc vòng pha lê này có phải chính cô mang đến hiệu để cầm cố không? - Trình Chính tay giơ chiếc vòng tai họa kia, nghiêm giọng hỏi:
- Vâng, thưa ngài.
- Cô lấy nó ở đâu? Phải nói thực, không được nói một câu nào dối trá.
- Thưa, đây là của mẹ tôi cho ạ.
- Mẹ cô đâu.
- Mẹ tôi đã mất cách đây hai tháng rồi ạ.
- Bà ấy lấy chiếc vòng ở đâu ra?
- Thưa tôi không biết ạ.
- Phải nói thật!- Ông quan huyện cầm khẩu gỗ đập chát rất mạnh xuống bàn.
- Quả thật tôi không biết, thưa ngài! - Vận Nô bị tiếng đập bàn làm giật nảy mình, nhìn lên một cách cực kỳ buồn bã khiếp hãi, không thể nào nói nổi nữa.
- Cô là người bản địa phải không?
- Không ạ, thưa ngài. Hơn 4 tháng trước chúng tôi mới đến đây, vốn định đi vào thành, nhưng vì mẹ tôi ngã bệnh phải ở lại đây. Hai tháng trước mẹ tôi mất. Trước khi qua đời, mẹ tôi đã cho tôi chiếc vòng này.
Bốn tháng trước họ đến đây, phủ họ Châu cũng gặp cướp bốn tháng rồi, thời gian khá trùng khớp, có vấn đề đây... ông Trình Chính nghĩ thầm, nhưng vẫn chưa nắm được điểm chính. Ông lại nhìn kỹ Vận Nô, cô gái tuy vừa bị kinh hoàng giật thót nhưng vẫn giữ được cung cách lễ độ của đại gia. Cũng có thể cô ta chưa biết lai lịch chiếc vòng này thực.
- Truớc khi mẹ chết, cô đã từng thấy chiếc vòng này chưa?
- Thưa chưa ạ.
- Khi cho cô chiếc vòng, mẹ cô nói thế nào?
- Mẹ tôi nói đó là một báu vật, bảo tôi phải giữ gìn cẩn thận, mẹ tôi còn nói đây là đồ vật đã có từ lâu trong gia đình, với lại mẹ tôi còn nói... còn nói là...
- Còn nói cái gì! nói ra mau! - Trình Chính lại đập bàn.
- Ồ! thưa ngài! - Vận Nô lại giật nảy mình, run lẩy bẩy nói - Mẹ tôi nói sẽ bảo một số việc liên quan đến chiếc vòng nhưng chưa kịp nói thì đã tắt thở mất rồi! - Vận Nô nói và quá đau lòng, cô lại trào nước mắt. Lấy khăn tay lau mắt, rồi cô ngẩng lên.
Rồi cô ngẩng lên trời, thầm gọi mẹ không biết bao lần, cuối cùng cô tuyệt vọng, khẽ kêu thành tiếng - Mẹ ơi, cứu con! Mẹ ơi giúp con! mẹ hãy bảo cho con biết thế này là thế nào?
Nhưng trời xanh lồng lộng ai biết được mẹ cô đang phiêu bạt ở nơi nào?
Ông Trình Chính chăm chú nhìn cái bóng hình nhỏ bé đó, ánh mắt lộ chút cảm động và nghĩ suy, một ý nghĩ chợt nảy ra trong óc ông. Tay chống cằm trầm xuống trong giây lát, nhìn lại Vận Nô lần nữa, ông nói:
- Cô là người ở đâu?
- Thưa, ở Hà Nam ạ.
- Cha cô mất rồi ư?
- Thưa, vâng ạ.
Ra vậy, một quả phụ dẫn con gái từ đất Hà Nam xa xôi chạy đến đây, là vì cái gì? Vụ án ở nhà họ Châu kia, không thể là do đàn bà gây ra được phải là một bọn cướp rất hung tợn trên giang hồ. Nhìn cô con gái thì biết mẹ cô chắc là xinh đẹp và cũng còn khá trẻ, khoảng 37, 38 là cùng. Trẻ chưa qua, già chưa tới, đàn bà ở tuổi đó là khó đứng được nhất, vậy có thể chiếc vòng pha lê đó là một món tặng phẩm chăng?
- Nghe đây, Vận Nô, cô không được nói dối, mẹ cô bình thường đi lại với những ai?
- Chúng tôi không quen ai cả, thưa ngài, chỉ có Chu công công xem bệnh cho mẹ tôi và thím Lý ở hàng xóm, ngài có thể cho đòi họ đến để hỏi. Chúng tôi chỉ đi qua đây thôi, nên không có bạn bè gì ạ.
- Nói bậy! - Trình Chính nổi cáu, không nhịn được ông đập bàn một hồi! - Đồ quí của nhà họ Châu bị mất làm sao rơi vào tay mẹ con cô. Trong việc này nhất định phải có uẩn khúc nào đây, cô không chịu nói thật, chẳng lẽ để ta phải dùng hình tra khảo? Phải nói thật đi, mẹ cô tại sao lại quen được bọn cướp đó?
- Ối trời, thưa ngài! - Vận Nô chợt như bừng tỉnh, lòng cô trào lên uất hận đến run người, cô ngẩng đầu nhìn thẳng vào Trình Chính, quên cả nỗi khiếp đảm và sợ sệt, cô hăng hái nói một cách đĩnh đạc - Trước kia cha tôi xuất thân khoa cử, từng đỗ đầu hai bảng, nhiều năm làm việc ở Hàn lâm. Nhà họ Triệu chúng tôi là nhà có tên tuổi, nếu không bị trời làm hết hạn đến lụt, rồi ôn dịch, cha chết, đầy tớ gia đình kẻ chết người bỏ đi, gia đình sa cơ thất vận, tàn bại trong nội mấy năm... thì đâu đến nỗi chúng tôi phải lưu lạc đến đây? Mẹ tôi tuy không phải danh môn tài nữ, nhưng cũng là một phu nhân đại gia có học hành, biết lễ nghĩa, ngài cho rằng mẹ tôi nhẹ dạ kết giao với bọn giặc cướp ư? Thưa ngài! quả thật là tôi không biết nguồn gốc của vòng pha lê, xin ngài minh xét! Nhưng xin ngài muôn vạn lần, đừng làm oan uổng cho mẹ tôi, bà mới chết thi thể còn chưa lạnh ngài đừng làm cho người chết phải mắc oan!
Trình Chính nghe cô gái kể lể một hồi, nhìn khuôn mặt chan chứa nước mắt của cô, không biết sao, ông cũng không nén được lòng trắc ẩn. Cô gái nhỏ này, tiếng nói lại đĩnh đạc gọn gàng... nghe ra rõ ràng không giống con gái nhà quê dốt nát mà giống như người xuất thân ở nơi cao sang quí hiển. Một cô gái như thế này thật khó mà ghép vào vụ án trộm cướp Trình Chính nhíu mày suy nghĩ ông hết sức lúng túng. Nếu ông không phải là người làm việc thực sự cầu thụ, nếu ông là một quan mê muội thì sự tình đó đã không rắc rối. Dẫu sao thì đã đầy đủ nhân chứng vật chứng, cứ nhắm mắt mà quyết hai bài, khép vụ án lại, thế cũng là xong. Nhưng mà nhưng mà... đúng như Vận Nô nói đó, đừng làm cho người chết hàm oan!
- Vận Nô!
- Dạ, thưa ngài.
- Ngoài chiếc vòng pha lê này, mẹ cô còn cho cô đồ trang sức khác không? - Trình Chính hỏi nếu có thể tìm được vài vật trong danh sách những đồ bị cướp thì người chết có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không rửa hết nhục.
- Thưa, không có ạ, chúng tôi chỉ còn mỗi thứ này thôi.
- Tại sao chỉ còn mỗi đồ trang sức này thôi?
- Bẩm lão gia, khi mẹ tôi ốm, chúng tôi phải đem đồ trang sức đi cầm hết rồi.
- Cầm ư? đã cầm những thứ gì?
- Dây chuyền vàng, hoa tai bằng hồng ngọc, vòng tay bằng mã não... với lại các loại nhẫn mặt đá quí... tôi không nhớ hết được nữa ạ.
- Ai mang đi cầm.
- Thưa là tôi ạ.
- Cầm ở tiệm nào?
- Thưa, vẫn cầm ở tiệm Hữu Lợi ạ.
- Thôi được! - Ông Trình Chính nói to - Hôm nay bãi đường ở đây, người đâu, giải Vận Nô đi, cho người đến ngay tiệm Hữu Lợi rút tất cả những đồ của Vận Nô về đây. Cho truyền Chu công công và thím Lý ngày mai đến công đường đốt chất! Bãi đường!
Sau khi bãi đường, Trình Chính trở về thư phòng trong Nha môn để nghỉ ngơi. Ngồi tựa vào chiếc ghế bành, ông uể oải bóp đầu suy nghĩ. Đã làm bao nhiêu vụ án, chưa thấy vụ nào lạ lùng như thế này. Chiếc vòng pha lê tai họa kia đang lấp lánh tỏa hào quang trên bàn, thật là đẹp mắt; Trình Chính bất giác đưa tay cầm nó lên ngắm nghía, đôi phượng nằm trên mặt vòng, đầu đuôi tiếp giáp nhau, cùng cưỡi đám mây lành, đập cánh muốn bay lên... đúng là một của báu thật đẹp! Ông tấm tắc khen mà cũng không nén nổi một tiếng thở dài: con người đã bỏ ra bao nhiêu công phu vào những bảo bối này mà cũng không tiếc công tranh giành trộm cắp, phạm tội vì nó. Vậy mà những báu vật này nói cho cùng là gì chứ? Nói một cách chặt chẽ ra thì chúng chẳng qua chỉ là những hòn đá mà thôi! Ông ta cầm chiếc vòng trong tay, tự nhiên nói một mình.
- Vòng pha lê ơi! vòng pha lê ơi! nếu mi đúng là một món báu vật thì mi phải đem đến điềm lành, tin vui chứ không nên làm tội phạm và tai nạn, phải không?
Đang trầm ngâm cảm khoái thì có kẻ dưới vào bẩm báo rằng:
- Bẩm lão gia, công tử họ Châu đã đến!
Trọng Liêm, ông Trình Chính đã sớm cho người báo cho chàng biết việc tìm ra vòng, có thể vì vậy mà chàng đến chăng? Trình Chính lập tức cho mời, Trọng Liêm bước vào phòng. Chàng trai này không những khá về văn thơ chữ nghĩa mà người cũng đẹp đẽ khôi ngô, ngũ quan đoan chính, thần thái phong lưu. Trình Chính thường nói với phu nhân rằng mình có ba đứa con trai, không đứa nào bì kịp Trọng Liêm cả mà lại tiếc rằng mình không có con gái để gả cho Trọng Liêm, chàng này con mắt quá cao kén chọn rất ghê gớm, đông bất thành, tây bất tựu, vì vậy cho đến bây giờ vẫn chưa buồn đính hôn với ai.
- Bác Trình ạ, nghe nói bác đã tìm được vòng pha lê của nhà cháu! - Trọng Liêm vừa vào đã cười hi hi; đối với Trình Chính vì thân nên đã không câu nệ lễ nghĩa nhiều; từ trước đến nay đều gọi Trình Chính là " bác".
- Không phải nó đây hay sao? - Trình Chính đưa chiếc vòng trong tay cho Trọng Liêm - cháu đến đúng lúc quá, hãy xem cho kỹ đi có phải chính là vòng mà nhà cháu bị mất đây không?
Trọng Liêm đón lấy chiếc vòng, ngồi xuống ghế trước mặt Trình Chính, người nhà đã rót trà cho chàng, Trọng Liêm xem xét kỹ lưỡng rồi ngẩng lên mặt chàng tươi rói.
- Không sai tí nào, đúng là cái vòng đó rồi bác ạ. Đây là vật báu gia truyền mà! mất rồi lại thấy thật là hiếm có! mẹ cháu nhất định phải mừng lắm. Từ khi bị mất vòng pha lê này, mẹ cháu cứ phàn nàn than tiếc với cháu hằng mấy tháng trời! thế cuối cùng là bác đã có cách gì bắt được bọn kẻ cắp đó.
- Không phải một bọn, mà chỉ là một tên thôi - Trình Chính lắc đầu nói nhỏ.
- Một tên? đơn thương độc mã mà dám gây án sao hả bác? - Trọng Liêm rất lạ lùng hỏi - chắc chắc phải là tướng cướp ba đầu sáu tay dọc ngang sông biển.
- Cháu có muốn gặp mặt tên cướp khét tiếng ba đầu sáu tay đó không? Trình Chính bỗng thấy thú vị nổi hứng lên nói - tên tội phạm này ngoan cố, cứng đầu lắm, hắn lại còn biết nói đạo lý nữa. Hắn một mực không chịu thừa nhận vật báu đó là do ăn cắp, kiên trì nói vòng pha lê này là báu vật của nhà hắn. Nếu không phải là chính cháu báo án thì bác cũng đã tin lời hắn rồi. Nếu cháu không ngại thì đối chất với nó một chút xem sao? Vốn trước bác đã định mời cháu ra công đường đối chất, nhưng lại e rằng ngoài đó vẫn nhiều những cung cách rườm rà, sợ cháu không quen.
- Hay quá - Trọng Liêm tỏ vẻ hơi hăng hái - cháu thấy tò mò về tên phạm nhân này rồi đấy, bác cho người giải hắn ra đây cháu được xem xem hắn là nhân vật ghê gớm đến thế nào.
Trình Chính lập tức cho người giải Vận Nô đến nhìn Trọng Liêm ông nghĩ: anh chàng này có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra phạm nhân lại là một cô gái bé nhỏ, yếu đuối như thế. Ông cũng rất muốn xem Trọng Liêm ngạc nhiên đến thế nào!
Vận Nô đã được dẫn đến, cô cúi đầu đi vào cửa và đứng lại chờ đợi với nét mặt buồn thương, ấm ức và sợ sệt. Trình Chính đã dặn trước, nên cô không phải đeo gông, không bị trói. Nhưng vì trải qua mấy tháng buồn lo vất vả và mấy ngày vừa qua chua xót, ấm ức, kinh hoảng nên hình dung cô vẫn tiều tụy, da mặt cô xanh tái. Tuy nhiên vẻ tiều tụy xanh xao đó cũng không giấu nổi nét đẹp thanh tú của cô. Cô đang đứng yếu ớt như cây liễu mong manh trước gió và trắng xanh như búp sen mới nhú lên mặt nước.
- Đó là phạm nhân - Trình Chính nói với Trọng Liêm - Chiếc vòng là do cô ta đem đi cầm đấy!
Trọng Liêm nhìn Vận Nô, bất giác mở to mắt sững sờ. Nếu như ông Trình Chính thật sự có cho giải một quái vật ba đầu sáu tay đến đây thì chàng cũng chỉ có ngạc nhiên đến thế! chàng đã hoàn toàn ngây ngất cả người, nhìn Vận Nô không hề chớp mắt.
- Vận Nô! - Trình Chính hét - vị này là công tử họ Châu, người mất vật báu. Vòng pha lê đã được công tử nhận diện kỹ rồi, xác định là của nhà họ Châu bị cướp mất. Bây giờ người có còn gì để nói không?
Vận Nô ngước mắt nhìn Trọng Liêm một cái rất nhanh nhưng cái đó đã biểu đạt hết những điều chứa chất trong lòng cô: thảm thê, oán hận tuyệt vọng phẫn uất không đường giải thoát.
- Tôi còn nói gì được nữa? - cô nói trầm trầm như là tự nói với mình, đầu cúi xuống, thấy rõ ràng mình không còn khả năng nào thoát tội, đến người mất cũng đã cố tình khẳng định đó là vật của nhà họ bị mất thì mình còn nói gì nữa? Cô cảm thấy chán nản cùng cực, tự dưng nói như muốn vặc lại - Những cái mà tôi biết thì tôi đã nói hết rồi. Bây giờ đã có người mất của, có vật bị mất, lại đã bắt được cả kẻ cắp thì các ông muốn xử thế nào là tùy các ông, tôi còn nói gì được nữa?
- Vận Nô! - Trình Chính nghiêm giọng quát - Không được cãi bướng.
Vận Nô rùng mình, ngẩng đầu lên cô lại lướt mắt qua Trọng Liêm và Trình Chính một cái, nước mắt trào ra, cô cúi xuống cắn chặt răng vào môi, không dám nói một lời nào nữa.
- Cháu có câu gì muốn hỏi cô ta không? - Trình Chính hỏi Trọng Liêm.
- Có ạ. - Trọng Liêm quay sang Vận Nô, vẻ thảm thương tủi cực và dáng điệu như có gì khó nói trong lòng của cô làm cho chàng rất động lòng. Chàng đã không thể rời mắt khỏi khuôn mặt thanh tú của cô, giọng chàng tự nhiên buông ra cực kỳ dịu nhẹ - Thưa cô, cô đừng sợ, cô chỉ cần nói chiếc vòng này từ đâu đến tay cô là được mà!
- Tôi có thể nói được sao? - Vận Nô buồn rầu hỏi lại.
- Làm sao mà không được nhỉ? - Trọng Liêm nói,
Thế rồi Vận Nô bắt đầu lấy giọng nho nhỏ buồn buồn kể lại một lần những sự việc đã nói ở công đường. Nói rồi, cô ngước mắt nhìn Trọng Liêm rụt rè nói thêm.
- Hay là, chiếc vòng của nhà công tử với chiếc này có thể không hoàn toàn giống nhau. Có thể nó có một chút xíu phân biệt chăng mà cũng có thể là người thợ kia đã làm thêm một chiếc vòng nữa gần giống vòng nhà công tử thì sao?
Trọng Liêm bắt đầu hơi do dự, tự nhiên cầm chiếc vòng lên xem kỹ lại. Đúng thế, biết đâu chiếc vòng ngày lại không phải là vòng của nhà mình bị mất thì sao? biết đâu nó là đồ vật của nhà cô ấy thật thì sao? Sự hiểu lầm này không đáng làm ra to chuyện. Vậy mà... vậy mà... vậy mà đem một cô gái ngoan của nhà người ta mà giam vào nhà lao? Nhìn cô gái yếu ớt run rẩy tưởng như gió cũng thổi bay được thì chịu sao thấu sự nặng tay của bọn ngục tốt, chịu sao thấu cảnh cơm tù, nhà đá? Hơn nữa năm nay trời lại quá lạnh, có khi chết cóng cả con người ta thì sao? Hơn nữa nếu để người ta mắc oan thì tấm thân mỏng manh kia chịu sao nổi nhục hình? Càng nghĩ càng thấy không đúng, càng nghĩ càng muốn lần khân, Trọng Liêm thấy không thể dừng được, chàng đứng dậy nói với Trình Chính.
- Thưa bác, cháu muốn đem chiếc vòng này về nhà để hỏi mẹ cháu xem, Bác biết chiếc vòng này vốn là của mẹ cháu, nên cháu cũng không thường xem xét nó, chưa chắc đã nhận được thật chuẩn. Nói như cô gái này cũng hơi có lý. Vạn nhất mà sai thì sự ấm ức của cô ấy không nói làm gì, nhưng sự sai đó nó còn tổn hại đến danh dự của người ta nữa! đó chẳng phải là việc đùa đâu, thưa bác?
Trình Chính nhướng lông mày nhìn Trọng Liêm rồi lại nhìn Vận Nô, định nói gì đó nhưng lại thôi. Xem ra, Trọng Liêm vẫn còn là một thư sinh trẻ tuổi mà! chàng thực sự nghi ngờ chiếc vòng là không đúng hay là đã động lòng trắc ẩn thương tiếc cho người đẹp đang mang tội? Trình Chính không để lộ cảm giác của mình, ông vỗ vai Trọng Liêm cười cười:
- Cũng nên làm như vậy Trọng Liêm ạ cháu cứ mang vòng này về nhà đi, hỏi phu nhân xem. Mất của là việc nhỏ, làm oan người là việc lớn, đúng không?
- Vâng ạ. - Trọng Liêm cất vòng đi, bất giác nhìn lại Vận Nô một cái, cũng vừa đúng lúc Vận Nô đang len lén nhìn chàng. hai luồng mắt vừa chạm vào nhau. Trọng Liêm chợt thấy trong tim rung lên một cái. Còn Vận Nô đã nhanh chóng cúi đầu nhưng một luồng cảm giác e thẹn đã dâng lên làm ủng đỏ đôi má xanh tái của cô, Trọng Liêm có vẻ bức xúc, chàng vái ông Trình Chính một cái thật thấp, nói:
- Thưa bác, cháu xin phép về để sớm làm ra sự việc cho mọi người được yên tâm ạ.
- Được bác cũng không giữ cháu nữa, bác đợi tin của cháu!
- Với lại - Trọng Liêm quay nhìn Vận Nô, chần chừ một chút rồi nói - không nên quá bắt ức cô gái này, trong tình hình như bây giờ, cô ấy chưa phải là tù phạm, chẳng nên đối đãi như bọn tù thường, bác bảo có đúng không?
- Tất nhiên, tất nhiên - Trình Chính đáp liền và dặn người đem Vận Nô đi. Trước khi dời chân cô lại ngước nhìn Trọng Liêm một lần nữa, mắt cô vẫn chan hòa lệ nóng nhưng ánh mắt chứa chan bao nhiêu là cảm kích, khẩn cầu, uất ức, hy vọng và biết bao ẩn ý không nói thành lời... Trọng Liêm lặng người dựa vào khung cửa, đờ đẫn trong giây lát. Sống đã gần 20 năm, lầu đầu tiên trong đời chàng cảm thấy trong tim căng ứ lên những cảm xúc mới mẻ: chua xót, dịu dàng, thương cảm, xao xuyến, bâng khuâng...
Trọng Liêm vừa trở về nhà đã vội vã xộc ngay vào nội viện, không đợi a hoàn bẩm báo, chàng cứ thể bước vào phòng phu nhân. Bà đang hướng dẫn các bà già và a hoàn chuẩn bị vật phẩm, đèn đóm để đón Tết. Nhìn thấy con xồng xộc đi vào, tưởng là xảy ra việc gì to tát, bà không khỏi giật mình, đứng ngay dậy, sốt ruột hỏi:
- Có việc gì hay sao?
- Ôi, không có gì - Trọng Liêm dừng bước cảm thấy mình có phần đểnh đoảng nên tự nhiên lắp ba lắp bắp, nhìn thấy bọn các bà già và a hoàn, chàng như muốn nói, lại do dự cắn môi...
- Thôi cho các ngươi lui đi! - bà mẹ cảm thấy sự ấp úng của con trai nên đã ra lệnh cho bọn họ ra ngoài, khi họ đã đi hết, bà mới hỏi - Có việc gì nào? Lại đánh mất thêm thứ gì nữa ư?
- Không, trái lại kia! - Trọng Liêm nói và rút ra chiếc vòng pha lê lấp lánh - Mẹ, mẹ nhìn này chiếc vòng của nhà ta bị mất có phải là đây không?
- Ôi, đã tìm được rồi ư? - Bà mẹ vui mừng kêu lên, cầm lấy chiếc vòng - Sao thế này được? Chính là vòng của nhà ta đây rồi! vòng này vốn gọi là "vòng pha lê song phượng" tìm được thật là quá may mắn, thứ khác mà mất cũng thôi, nhưng chiếc vòng này thì quả là vật báu vô giá đấy.
- Mẹ ơi - thấy đồ vật được chứng thực Trọng Liêm cảm thấy chán ngán, cau đôi lông mày lại - Mẹ cũng chẳng chịu xem kỹ lại xem rốt cục có phải là vòng của nhà ta hay không, có bị nhần lẫn chút nào không? Có khi hai chiếc vòng mới nhìn thì tương tự như nhau, nhưng sự thực thì lại không hoàn toàn giống nhau đâu! mẹ xem lại có đúng không?
- Sao thế, Trọng Liêm? - Bà mẹ băn khoăn nhìn đứa con trai - chiếc vòng này là báu truyền mấy đời của nhà mẹ đấy. Ngày xưa ông ngoại con có ba vật báu: Thứ nhất là vòng pha lê song phượng này, thứ hai đôi bình pha lê như ý, trên mặt khắc đôi rồng, gọi là " song long pha lê như ý" còn vật thứ ba là một đôi bình pha lê gọi là song lân pha lê. Ba vật này gọi là tam bảo pha lê. Về sau "song long pha lê như ý" đem cho cậu của con, "song lân pha lê" thì làm của hồi môn của dì con, còn vòng "song phượng pha lê" thì làm của hồi môn cho mẹ. Đồ vật như vậy, hỏi mẹ nhận nhầm thế nào được? Một ly cũng không nhầm, đây chính là chiếc vòng của nhà ta bị mất, chỉ trừ...
- Trừ thế nào? - Trọng Liêm sốt ruột hỏi:
- Chỉ cái túi thêu là không phải của nhà ta trước kia mẹ đựng nó trong hộp bọc bằng gấm, bọn chúng đã vứt cái hộp đó đi mà thay bằng cái túi thêu này.
Trọng Liêm tiu nghỉu ngồi dựa vào cạnh bàn chàng nhìn chiếc vòng pha lê một cách thất vọng chẳng còn biết làm gì, lơ đãng mân mê dây tua của chiếc túi thêu, bà mẹ chăm chú nhìn con, thắc mắc:
- Con làm gì vậy? Trọng Liêm? Tìm được vòng đáng lẽ phải vui chứ sao con lại như người mất hồn mất vía thế? hay uống hụm nước đi, con có vẻ mệt rồi?
- Đợi một chút mẹ ơi - một luồng ánh sáng loé lên trong óc Trọng Liêm, chàng đã nghĩ ra một ý gì mới - Mẹ nói là tam bảo pha lê kia có một đôi "song long như ý" một đôi “song lân pha lê”, phải không ạ?
- Phải rồi.
- Thế tại sao chiếc vòng này lại có một chiếc mà không phải là một đôi?
- Ồ, con hỏi không sai đâu - Bà mẹ suy nghĩ một lát rồi hơi mỉm cười, từ từ ngồi xuống ghế, đôi mắt ánh lên nét vui vẻ như đang chìm đắm vào hồi ức. Cuối cùng, bà nhìn con trai, tủm tỉm - vòng pha lên này vốn trước cũng là một đôi đấy.
- Thế chiếc kia đâu rồỉ - Trọng Liêm hấp tấp hỏi:
- Mẹ tặng cho người ta rồi - bà mẹ khẳng định.
- Tặng ư? tại sao? tặng ai cơ ạ?
- Ôi chà, việc này nói lại dài dòng lắm - bà mẹ dựa lưng vào ghế, lấy chiếc gối kê tay ôm vào lòng, nhìn Trọng Liêm và vẫn cười tủm tỉm. Trọng Liêm thì nóng lòng như lửa đốt mà bà mẹ thì cứ chậm rãi ê à mãi! Chàng kéo một chiếc ghế thấp dùng để gác chân, ngồi xuống đó và giục.
- Đó là việc của 17, 18 năm trước r1238
Có một tiệm bán hoa nọ thật lớn ở đường Trung Sơn Bắc. Tiệm bày la liệt những loại hoa quí, chậu kiểng và hòn non bộ. Chủ tiệm là ông già họ Trương đầy nghệ sĩ tính và khôi hài. Ông ta mở tiệm không phải để kiếm lời như thiên hạ mà là để thưởng thức hoa và chiêm ngưỡng khách mua hoa. Hàng ngày, ông ngồi chết trong tiệm để thực hiện cái mục đích đó.
Hôm ấy là mùa đông. Mưa bay lất phất. Khí lạnh làm tê cả da người. Đường sá vắng tanh. Suốt ngày ông Trương chỉ ngồi co rút một mình, không bán được một đóa hoa. Mãi đến lúc trời nhá nhem tối, ông mới thấy một cô gái từ hẻm cạnh nhà đi ra, vẻ mặt buồn buồn. Người con gái này quá ư quen thuộc. Nàng ngày nào cũng đến trước tiệm ông chờ xe bus. Sáng đi chiều về. Ăn cơm tối xong đi mãi đến khuya mới về lại. Ông Trương có cảm tình đặc biệt với nàng, không hiểu vì lý do gì. Rất có thể vì nét mặt nhu mì, dễ thương cũng có thể nhờ cái dáng trầm lặng phảng phất buồn và mái tóc đen mượt. Ông thường ví nàng như một đóa hồng vàng. Hoa hồng nào ông cũng thích, nhưng hoa đỏ quá sặc sỡ không giống nàng mấy. Hoa vàng tao nhã, có một vẻ đẹp chiều sâu và quí phái mới giống nàng được.
Gia đình nàng có lẽ nghèo lắm, chỉ cần nhìn cách ăn mặc cũng đủ biết. Trời lạnh buốt thế này mà chỉ mặc chiếc áo lông trắng và cái robe ngắn màu xanh lợt. Hai má và mũi đỏ lên vì lạnh. Những bước đi thật khoan thai và dịu dàng chứng tỏ nàng chẳng hề biết lạnh. Thân hình thon nhỏ và mái tóc bay bay trong gió trông càng đẹp, dễ thương vô cùng. Ông Trương rất thích mẫu người này, mẫu người giống con gái ông hiện còn ở lại Trung Hoa Lục Địa.
Chiều nay khi đi qua tiệm, nàng dừng lại ngắm hoa. Cặp mắt đen sáng ấy bỗng nhiên mờ đi như bị mây hay sương mù che khuất. Nàng cúi xuống thở ra thật nhẹ Tại sao nàng buồn? Thích một đóa hoa mà không có tiền mua ư? Ông Trương đứng dậy, tiếng khua động cái ghế làm nàng bỏ đi lập tức.
Mưa vẫn rơi nhè nhẹ. Không gian lờ mờ. Trời về đêm càng buồn, nhất là buôn bán ế. Ông Trương đi tưới nước hoa, cắt tỉa lá héo rồi lấy cái lọ cắm màu đen và một bó hồng vàng. Hai màu sắc này hòa hợp có một ý vị kín đáo và tình tứ lạ thường. Vừa cắm, ông vừa nghĩ đến người con gái tiều tụy và cô độc ấy.
Tiếng chuông cửa reo lên, ông Trương mừng rỡ. Có được một người khách đến mua hoa lúc này thì còn gì quý bằng. Ngước đầu lên, ông thấy một thanh niên cao gầy đang đẩy cánh cửa, do dự nửa muốn vào, nửa muốn không. Ông liền đứng dậy, tươi cười đón khách:
- Cậu mua hoa à? Mời cậu vào xem.
Người thanh niên tần ngần, một lúc sau mới bước vào. Chàng ta trạc độ 22, 23 tuổi. Mái tóc đen rối bù lấm tấm những hạt nước mưa. Đôi mắt lớn nổi bật dưới hai hàng lông mày đậm. Gương mặt sáng láng, lanh lợi, nhưng đượm vẻ buồn và chứa chút ngạo nghễ, bướng bỉnh. Chàng khoác chiếc áo blouson màu cà phê, tay và cổ đã bị sờn. Chiếc quần cao bồi bó sát cặp chân dài đã ngả thành màu trắng. Đôi giày rách đầy bụi và sình. Trông chàng rất bụi đời và có một tâm trạng lo lắng. Chàng đảo mắt nhìn các loại hoa rồi ngập ngừng:
- Cháu muốn một ít... một ít hoa.
Ông Trương nhỏ nhẹ:
- Cậu thích loại nào ạ?
Chàng nhíu mày rồi mím môi quan sát, đoạn nhún vai đáp:
- Cháu cũng không biết nữa!
- Thôi vầy nhé, cậu cho tôi biết mua hoa để làm gì: cắm bình, trồng vào chậu hay làm quà cho người khác?
- Dạ, làm quà.
Nhìn vẻ mặt bối rối đầy lo lắng, ông Trương đoán có lẽ người thân chàng đang nằm bệnh viện nên hỏi:
- Làm quà cho bệnh nhân à? Nếu vậy thì cậu nên mua hoa bách hiệp, nếu không thì hoa lan, cúc, vạn thọ, hoa mã đề, thái dương...
Cặp mắt đen chớp lia lịa nhìn quanh phòng:
- Không phải thế, để cháu suy nghĩ đã.
Nhìn bình hồng vàng mà ông Trương vừa cắm, chàng vui hẳn lên như vừa tìm thấy một chân trời mới, liền reo to:
- Đúng rồi, hoa hồng vàng. Chỉ có hoa vàng mới hợp với nàng được. Cháu muốn mua một ít hồng vàng. Mỗi ngày bác có thể để cho cháu một bó được không?
- Mỗi ngày à?
Ông Trương thích thú nhìn chàng. Vẻ mặt ấy bây giờ không còn một chút buồn mà tràn đầy tươi vui và hy vọng.
- Thưa cậu, chuyện gì chứ chuyện ấy thì quá dễ.
- Nhưng thế phải trả bao nhiêu tiền mỗi ngày? Cháu xin gởi trước nhé.
Thái độ và giọng nói chàng có vẻ khinh thường tiền bạc. Chàng thọc tay vào túi áo blouson lấy ra cái bóp đã rách và xẹp lép.
- Cậu vui lòng cho tôi biết mỗi bó cần bao nhiêu hoa?
- Dạ, hai mươi hoa.
Nhìn cái bóp nghèo nàn ấy, ông Trương hồ nghi:
- Hai mươi hoa? Tiền tính từng hoa, mỗi hoa là ba...
Ông liếc chàng rồi hạ giá:
- Một hoa hai đồng.
Chàng giật mình như bị kim chích:
- Bác nói sao? Một hoa hai đồng à? Như vậy, hai mươi hoa là bốn mươi đồng, một tháng phải mất những một ngàn hai! Cháu chưa mua hoa bao giờ, không ngờ mắc như vậy. Cháu không mua nổi!
Chàng bỏ bóp vào túi, vẻ buồn khi nãy trở lại trên mặt làm cặp mắt u buồn. Chàng ra đến cửa, quay đầu lại nói:
- Xin lỗi, cháu đã làm phiền bác nhiều!
Ông Trương vội gọi:
- Khoan đã cậu.
Chàng dừng lại.
- Cần gì mỗi ngày cậu phải mua hai mươi hoa như vậy?
Ông Trương cũng không hiểu tại sao mình có thái độ vồn vã ấy. Có thể vì trời mưa buồn vắng khách, cũng có thể bởi cái tính thật thà của chàng làm cảm động lòng ông. Bởi vậy, ông quyết định giúp chàng phen này dù lỗ cũng được.
- Cậu chỉ cần mua mười hoa đủ rồi. Làm quà đâu cần số lượng, chỉ cần mình có lòng là được.
Chàng đưa tay vuốt nhẹ mái tóc bù nhìn thẳng vào mặt ông:
- Nhưng mà... nhưng mà... cháu vẫn không đủ tiền để mua mười đóa như bác đề nghị.
- Cậu có được bao nhiêu tiền để mua?
Chàng lấy cái bóp ra lần nữa, đếm đi đếm lại một lát:
- Cháu chỉ có 320 đồng!
320 đồng! Nó cần phải để lại một ít để đi xe hay dùng vào việc cần thiết khác. Ông quay sang nhìn bình hoa. Mấy ai có thể định được giá hoa. Hoa nở kịp thời thật là vô giá. Ngàn vàng chưa mua được một đóa. Kẻ nào trị giá hoa bằng tiền thì kẻ ấy không còn biết giá trị của hoa. Tuy nhiên một khi hoa héo thì chẳng ai thèm bỏ tiền ra để mua, dù với một giá rẻ ế như cho chăng nữa. Giá trị của hoa thay đổi theo thời gian. Bởi vậy ta tạm cho là hoa héo đi để cậu ta còn mua được hầu làm một món quà vừa ý. Ông quyết định:
- Tôi chỉ lấy cậu 250 đồng thôi, để cậu còn chút ít mà tiêu dùng. Mỗi ngày tôi sẽ bao sẵn cho cậu mười đóa. Hôm nay bắt đầu lấy chưa?
Chàng mừng quýnh lên:
- Ô, bác bán cho cháu 250 đồng sao?
- Vâng! Cậu muốn loại hoa nào, còn búp, vừa hé nở hay nở lớn?
Chàng vẫn ngờ là mình nghe lầm:
- Ồ... Cháu...
Cuối cùng, chàng mới nói được:
- Cháu muốn loại hoa vừa nở vài cánh.
Ông Trương vừa lựa hoa vừa nói:
- Loại ấy đẹp lắm, để tôi bao cẩn thận cho cậu nhé.
Bỗng nhiên chàng lại cản:
- Ồ, thưa bác chờ chút đã!
Ông Trương ngạc nhiên:
- Sao, còn chê nữa à?
Mặt chàng đỏ lên vì thẹn:
- Dạ, không phải... Cháu... cháu nhờ bác trao hoa giùm?
- Trao hoa giùm cậu?
Ông Trương lộ vẻ không mấy hài lòng. Mặc dù ông vẫn nuôi sẵn vài người để đưa hoa hộ cho khách hàng, nhưng ai cũng nhờ như thế thì phiền phức quá! Thấy ông lưỡng lự, chàng vội trấn an!
- Thưa bác, trao hoa không xa đâu. Căn nhà 43/5 ở hẻm bên cạnh đây mà. À mà không, số 43/3 chứ không phải 43/5, tặng cho một cô gái...
Ông Trương đã hiểu. Trong trí ông hiện lên hình bóng người con gái nhu mì dịu dàng ấy với cặp mắt mơ mơ buồn... Hoa hồng vàng! Chàng thanh niên này biết chọn hoa và có ý nghĩ phù hợp với ông lạ! Không nén được xúc động, ông Trương tươi hẳn lên, mở to mắt nhìn chàng. Trong cái bảnh trai của chàng ta có chút bướng bỉnh. Trong cái tính ngay thẳng chứa đựng sự ngạo nghễ, nhiệt tình lẫn liều lĩnh và e thẹn của kẻ còn non sữa. Ông chịu chàng hết mình. Chàng và nàng thật là xứng đôi vừa lứa. Quân tử lúc nào cũng sẵn sàng giúp người. Vài bước đi là mấy!
- À à, tôi biết rồi. Cô bé có mái tóc đen thật dài và con mắt lớn đó chứ gì? Cô ta thường đi ngang qua tiệm tôi lắm.
Chàng mừng rỡ:
- Dạ, đúng rồi, chính nàng đó. Bác bằng lòng giúp cháu?
Ông gật đầu:
- Được, được mà. Cậu muốn tôi hằng ngày đem qua lúc nào?
- Thưa bác, buổi tối. À mà không, tối nàng đi làm. Thôi sáng đi, mỗi sáng bác nhớ giúp giùm cháu.
- Vâng, mỗi sáng tôi sẽ giúp cậu. Vậy thì ngày mai bắt đầu chứ gì?
Chàng trả tiền:
- Dạ, xin phiền bác!
Ông Trương nhắc:
- Cậu nên viết vài chữ trên danh thiếp gởi cho nàng chớ?
Chàng tươi cười:
- Dạ, nhờ bác, suýt nữa cháu quên mất!
Chàng đưa tay vuốt tóc, ngồi xuống nhìn tấm danh thiếp ông Trương đưa. Suy nghĩ một lát, chàng bắt đầu viết:
Hoa thơm vài đóa
Chúc cô vui nhiều
Một người chưa quen ái mộ cô.
Nghê Quán Quần
Thân tặng
Chàng đứng dậy đưa tấm danh thiêp cho ông Trương:
- Thưa bác, như thế là đủ lắm rồi?
Thì ra, chàng chưa hề quen với cô bé ấy. Thật là thằng con trai lố bịch và bướng bỉnh quá:
- Mỗi ngày đều viết y thế này sao?
- Dạ!
Ông Trương nhìn thẳng vào mặt chàng:
- Thôi được, chúc cậu sớm thành công!
Chàng cười. Màu đỏ của thẹn thùng nhuộm đỏ hai má. Chàng cúi đầu chào rồi quay mặt đẩy cửa đi ra, bước vào giữa mưa và gió lạnh. Ông Trương tiễn chàng cho đến khi khuất mới vào. Đứng tựa quầy hàng, ông lắc đầu rồi mỉm cười. Lòng ông cảm thấy lâng lâng vui và ấm áp. Một lúc sau, ông đi lựa mười đóa hồng vàng đẹp nhất đưa lên nhìn. Thấy có vẻ ít quá, ông thêm vào hai đóa nữa rồi lại cười đắc ý. Ông lấy sợi dây vàng, buộc tấm danh thiếp vào bó hoa thật chặt, không quên thắt thêm một cái nơ hình con bướm. Ông đi lấy cái bình không đổ đầy nước rồi ngâm hoa vào đó. Sớm mai, công việc đầu tiên là phải đưa bó hoa nầy đi. Lùi ra sau ba bước, ông gật gù:
- Nhớ nhé, phải gắng thi hành xong nhiệm vụ. Mi ra đi tức mang theo quả tim của người con trai đang muốn được yêu.
o0o
Lại một ngày mưa! Du Lâm ngồi dậy, bước xuống giường nhìn mưa bay bay qua khung cửa sổ. Mưa dai dẳng thế này đến bao giờ cho dứt! Nàng thở ra thật dài. Mưa cứ mãi lất phất. Gió rít không ngừng. Thế mà sáng nào cũng phải cắp sách đến trường tối lại đi làm thì còn gì buồn bằng. Thêm vào đó, bầu không khí gia đình không mấy yên vui. Mẹ đau nằm một chỗ, bài vở nhiều không có thì giờ học, công việc làm ăn không mấy vừa ý... Và, bác Lâm, cái ông khỉ đó nữa!
Nàng lắc đầu thật mạnh, muốn xua đuổi hết ý tưởng buồn trong lòng. Cuộc đời là một chuỗi ngày phiền não không làm sao tránh được. Sáng nay có giờ học, đừng đến trễ thì kỳ lắm. Nàng hấp tấp sửa soạn bữa điểm tâm. Mẹ nàng đã thức dậy, từ phòng ngủ mệt mỏi đi ra. Trời trở mưa và gió nên chứng bịnh phong thấp của bà phát nặng, không thể đứng thẳng người được!
Ngồi vào bàn ăn, bà nhìn con lo lắng:
- Tối qua, ông Lâm đến thăm gia đình mình đó con.
Nàng hỏi lại:
- Bác Lâm hả mẹ?
- Lâm, mẹ biết con không thích chuyện này, nhưng theo mẹ thì nên lấy ông ta đi con.
Nàng sụp mắt:
- Thưa mẹ!
- Từ khi cha con chết, cuộc sống mẹ con mình khốn đốn vô cùng. Con vất vả chạy ngược xuôi mà tiền chẳng thấm vào đâu với nhu cầu chi tiêu cần thiết. Mẹ lại bệnh hoạn hoài. Thấy con khổ, mẹ đau lòng vô cùng. Bởi vậy con nên bằng lòng làm vợ ông ta đi. Tuổi ông ta có lớn, nhưng được cái tính thật thà...
Lâm cướp lời mẹ:
- Thưa mẹ, bác Lâm không phải là mẫu người đàn ông con thích. Mẹ con mình gắng chịu khổ, chờ con tốt nghiệp đại học...
- Con lại nói khùng nữa rồi. Còn hai năm nữa mới tốt nghiệp đại học, chừng ấy chắc gì mẹ còn sống để hưởng hạnh phúc đó?
Du Lâm buồn bã nhìn mẹ Nàng rất sợ phải nghe những lời ấy của mẹ:
- Đừng nói vậy mẹ, để cho con thời gian suy nghĩ kỹ đã.
- Con suy nghĩ một năm rồi đâu phải chưa?
- Cho con một khoảng thời gian nữa đi mẹ.
Bà rưng rưng nước mắt:
- Con à! Mẹ nào muốn ép uổng con, nhưng mà hoàn cảnh gia đình mình thật đơn chiếc, túng thiếu. Con gái trước sau gì cũng phải lấy chồng, có được một tấm chồng như ông Lâm sẽ được hạnh phúc, khỏi lo lắng khổ sở. Bây giờ không yêu, mai mốt sống với nhau lâu ngày sẽ yêu, có gì đâu mà suy nghĩ? Đừng kén chọn lắm vậy con. Ông Lâm có chỗ nào xấu, đáng chê đâu.
- Con có nói với mẹ ông ta là người xấu bao giờ đâu. Con chỉ nói rằng mẫu người đàn ông trong mộng không phải là ông.
Bà mỉa mai:
- Hứ, mẫu người trong mộng! Đó là một thằng thanh niên bảnh trai, dũng cảm ngồi trên ngựa trắng đến tặng cho con một bông hồng chứ gì?
- Có lẽ như vậy đó mẹ!
- Thôi, con gái của mẹ đừng có mơ mộng khùng như vậy nữa! Con nên nhớ rằng mình đang sống trong xã hội loài người với những thực tế tranh giành từng chén cơm manh áo thì mộng mơ chỉ là những viễn vông vô ích. Mẹ đồng ý với con rằng làm người ai cũng mộng mơ, nhưng mộng mơ có bao giờ trở thành sự thật đâu?
Nàng thở ra, đứng dậy lấy sách vở trên bàn:
- Con phải đi học kẻo trễ giờ, khi về mẹ con mình sẽ bàn tiếp.
Tiếng chuông reo to. Mẹ nàng vội vàng vào phòng và dặn:
- Nếu ai đòi nợ, nói với họ là mẹ vắng nhà nhé.
Lâm lắc đầu, miễn cưỡng đến cửa. Trong trí đang chuẩn bị phải nói thế nào để chủ nợ chịu hoãn lại vài hôm. Kéo cửa ra, nàng ngơ ngác!
Người đứng bên ngoài không phải kẻ đến đòi nợ mà là ông Trương, với bó hồng trên tay và gương mặt đầy vui vẻ. Nàng thấy lạ:
- Thưa ông hỏi ai ạ?
- Tôi là chủ tiệm bán hoa. Có người khách hàng nhờ tôi mang bó hoa đến tặng nhà này.
- Nhưng... nhưng mà, tặng ai vậy, thưa ông?
- Tặng cho cô đó.
Nàng nghi ngờ:
- Có lẽ ông chủ đã lộn nhà?
Mặt ông Trương càng tươi hơn:
- Làm gì lộn được. Người khách ấy nói rõ ràng lắm.
Nàng cụt hứng, nghĩ thầm:
- Như vậy là cái thằng cha già Lâm mắc dịch này chứ còn ai. Thật đúng là già dê học đòi chơi mode trẻ con!
Nàng tiếp bó hoa và hỏi:
- Thưa ông, phải người khách ấy có dáng mập mạp không ạ?
- Ô, không phải đâu, đó là một thanh niên trẻ khá bảnh trai. Tôi đoán chắc là sinh viên.
Ông Trương quay đi, không cần để ý đến sự phản ứng của Lâm. Nàng phân vân nhìn bó hoa rồi lấy tấm danh thiếp lên xem:
Hoa thơm vài đóa
Chúc cô vui nhiều
Một người chưa quen ái mộ cô.
Nghê Quán Quần
Thân tặng.
- Trời mới biết Nghê Quán Quần là ai?
Mẹ nàng ló đầu ra hỏi:
- Ai vậy con?
- Có người gởi tặng con bó hồng vàng.
- Người ấy là ai?
- Con không biết nữa! Con đâu có quen biết gì họ.
Nàng đi lấy bình cắm và thầm nghĩ:
- Có lẽ người trong mộng xuất hiện không chừng!
Đổ nước vào bình rồi cắm hoa. Những ý tưởng mộng mơ nối tiếp trong lòng đã nhuộm má nàng đỏ hồng, má nàng trông dễ thương và đẹp.
Một bó hồng đột ngột mang đến như muôn ngàn câu nói tình tự, kín đáo làm cho nàng suốt ngày bần thần nghĩ ngợi. Người sinh viên ấy ở đâu lại để ý đến mình? Bạn học hay một lần nào đó gặp trên đường đi, trên xe bus? Mà sao chàng biết nhà mình? Có lẽ hỏi thăm người trong xóm hay theo dõi không chừng. Có lẽ thế này, có lẽ thế nọ, hàng trăm cái có lẽ lờn vờn trong trí nàng suốt ngày. Thế rồi hôm sau, thêm một bó hồng nữa. Tâm hồn nàng càng trở nên rối loạn vô cùng. Ngày thứ ba, thứ tư, thứ năm... từng bó, từng bó kế tiếp đến tay nàng. Khắp nhà lúc nào cũng ngào ngạt mùi thơm. Thấy vậy, mẹ nàng nghiêm nghị bảo:
- Con nói thật với mẹ đi. Nghê Quán Quần có phải là bồ của con không. Vì nó mà con không bằng lòng lấy ông Lâm chứ gì?
- Thưa mẹ, con đã nói là không hề biết người này. Người ta đã viết trên tấm danh thiếp như vây mẹ còn không tin sao?
- Biết đâu đó là mánh lới của con và nó để che mắt mẹ.
Nàng phân trần:
- Con đã nói không biết thật mà!
- Người ta đã tặng hoa một tuần rồi mà chưa ra mặt cho con biết sao?
- Dạ chưa.
- Nếu vậy thì chắc thằng này bị bịnh thần kinh rồi. Con nên cẩn thận đó nhé. Con người mang chứng bịnh ấy thì ai có thể đoán biết việc làm của họ được!
Du Lâm im lặng, quay đầu nhìn bình hoa trên bàn - Bịnh thần kinh! Dám người này mang chứng bịnh đó lắm. Tuy nhiên, nàng mong mỏi được quen biết người đó.
Nữa tháng trôi qua, ngày nào Lâm cũng nhận được một bó hồng. Niềm vui của nàng bây giờ là mỗi sáng nhận được một bó hồng, chỉ mong có thế. Cứ mỗi sáng thức dậy nàng hồi hợp chờ tiếng chuông reo. Sợ rằng, một ngày nào đó, chuông không reo nữa, hoa hồng không còn xuất hiện. Nàng không sợ người tặng hoa mắc bệnh thần kinh mà chỉ sợ hoa không còn đến. Tính tình nàng cũng đã thay đổi nhiều: mỉm cười một cách vô cớ, làm việc gì thì hỏng việc ấy. Ca hát vu vơ và ngớ ngẩn vô cùng. Sự thay đổi đó không tránh được cặp mắt tò mò của mẹ.
- Coi bộ trên mấy bó hồng có mang vi khuẩn của bịnh thần kinh. Mẹ sợ con đã bị lây bịnh thần kinh rồi!
Hoa hồng chẳng những làm mẹ con Du Lâm lo lắng ăn không ngon, ngủ không yên mà còn làm cho ông Lâm lo sợ.
- Theo tôi những việc lạ lùng thế này không phải là việc lành đâu, nên báo cho cảnh sát biết để họ còn có cách ngăn chận.
Nàng vội cản:
- Việc ấy chẳng quan hệ gì đến bác. Hơn nữa, cháu thiết tưởng rằng chẳng có gì phải đáng lo cả.
Ông nheo mắt:
- Cô nói sao? Không có việc gì đáng lo à? Bộ cô không sợ hả?
Mắt nàng sáng lên. Mặt đỏ hồng thật dễ mến:
- Sợ à? Ai lại đi sợ những đóa hoa đẹp đẽ ấy?
Nàng lại cười lớn. Tiếng cười tưởng chừng những mũi tên đang bắn vào tim ông già Lâm. Ông ta biết thân phận mình không thể sánh được với bình hoa ấy nên đàng lặng thinh!
Hai mươi ngày rồi, người tặng hoa cũng chẳng hề biết. Lâm không còn chịu nổi nên đến tiệm ông Trương rụt rè đẩy cánh cửa bước vào.
Đứng giữa rừng hoa thơm ngát, nàng e ngại hỏi:
- Dạ, tôi có tí việc định hỏi ông chủ.
- Có việc gì xin cô cứ tự nhiên.
Ông ngắm nghía nàng lộ vẻ đắc ý rồi nghĩ thầm:
Hoa hồng thật hiệu nghiệm hết sức. Chúng đã nhuộm đỏ hai má và làm sáng cặp mắt nàng. Gương mặt cũng mất đi nét u buồn xa vắng. Thật thuốc tiên cũng không bằng mà!
Lâm khẽ hỏi:
- Ông thường mang hoa đến nhà tôi?
- Vâng, việc này tôi biết!
- Ông có thể cho tôi biết địa chỉ người mua hoa không?
Ông Trương thành thật:
- Xin lỗi cô, tôi không biết địa chỉ cậu ta ở đâu nữa! Cậu ấy đặt mua hoa hồng trong một tháng, trả tiền trước. Mãi đến hôm nay, tôi vẫn chưa thấy trở lại.
Nhìn thấy vẻ thất vọng trên gương mặt dễ thương ấy, ông bèn an ủi:
- Nhưng theo tôi, thế nào cậu ấy cũng trở lại sau khi những bó hoa nầy giao hết.
Nàng e lệ:
- Khi nào... khi nào cậu ấy đến, ông làm ơn... làm ơn...
Ông Trương tươi cười ngắt lời:
- Tôi biết mà. Tôi sẽ bảo cậu ấy một mình đem hoa đến nhà cô.
Mặt nàng đỏ lên, quay đầu lại chạy nhanh ra cửa. Ông Trương nhìn theo cười mãn nguyện. Nàng vội vã đi trong gió rét, mặt nóng ran lên. Bây giờ là ban đêm, nàng phải đến trạm xe bus để đi làm. Nhìn đám người cho xe, rất có thể là người này, cũng có thể người kia! sao chàng không đến, nàng đã mong mỏi từ lâu rồi!
o0o
Một tháng trời trôi qua, ông Trương đã giao đến bó hoa cuối cùng. Suốt ngày, ông chỉ ngồi chờ chàng thanh niên ấy đến. Mãi cho đến một hôm chủ nhật thật đẹp trời, ông Trương ngồi mơ mộng viễn vông về chuyện tình của chàng thanh niên tặng hoa với người con gái được nhận. Bao giờ Quán Quần đến, ông sẽ nói rằng:
- Cậu cứ trực tiếp mang hoa đến tặng đi. Cô ta đang chờ cậu đó.
Ông muốn được mục kích thái độ của chàng khi nghe câu nói này. Xem thử chàng sẽ vui mừng đến mức nào. Sẽ hoảng lên hay giật mình? Trong trí ông lại hiện lên khuôn mặt của Quán Quần và Du Lâm. Thật hai đứa xứng đôi vừa lứa vô cùng!
Ông phải chuẩn bị cho thêm chàng một bó hồng vàng nữa mới được. Lần đầu tiên đến nhà người con gái chưa quen làm sao tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Bó hồng ấy sẽ giúp chàng được tự nhiên hơn. Ông Trương chuẩn bị xong bó hoa theo ý nghĩ. Nhưng mà, chờ mãi từ sáng tới chiều, Nghê Quán Quần chẳng thấy tăm hơi gì đâu cả! Chẳng lẽ chàng quên mất cái vụ tặng hoa này sao? Hay là, đã chạy theo một cô gái khác đẹp và giàu sang hơn? Bao nhiêu hoài nghi thì bấy nhiêu thất vọng trong lòng ông không sao xua đuổi hết. Ông buồn chán thở ra, không biết ngày mai mình còn nên tiếp tục giao hoa như vậy nữa không.
Tối hôm đó, ông Trương đã hết hy vọng chàng thanh niên ấy đến. Tức và buồn, thêm vào đó trời mưa liên miên suốt ngày nên ông cảm thấy cuộc đời mình vô vị quá. Ông liền bảo mấy người giúp việc lo dọn dẹp đóng cửa vì trời u buồn và mưa hoài như vậy thì chẳng còn khách nào đến mua hoa nữa. Ông vừa định đóng cửa thì có bóng một người thanh niên từ bên kia đường vội vã băng qua vào tiệm. Đầu tóc chàng ướt cả nước. Ông Trương trố mắt:
- Ô, cậu đến đó hả?
Người ấy chính là Nghê Quán Quần. Cách phục sức của chàng vẫn giống như một tháng về trước, không có gì thay đổi. Chỉ khác một điều là trông chàng có vẻ giận dữ lắm. Chàng hung hăng hỏi:
- Cháu muốn đến hỏi bác là có trao hoa giùm không?
- Sao không? Không sót một ngày!
Chàng nhướng mày:
- Vậy bác đã giao ở đâu?
Ông Trương nhíu mày, hơi ngớ ngác:
- Cậu hỏi gì kỳ vậy? Thì tôi mang đến nhà cô gái mà cậu đã dặn đó.
- Cô nào? Bác đã trao cho cô nào mới được?
- Thì cô ở hẻm bên cạnh này chứ còn cô nào nữa. Dãy nhà bên phải đếm đầu hẻm đến căn thứ ba. Cô sinh viên có cặp mắt to và mái tóc đen dài đó.
Chàng dậm chân gào to:
- Trời ơi, sai hết ráo rồi! Cháu muốn tặng cô bé căn nhà thứ tư, tên là Ức Mai.
Ông Trương đứng sững. Đúng là trong hẻm đó có một cô gái ăn mặc lõa lồ, thường phơi của quí, làm vũ nữ. Có lắm ông lớn, sang mua hàng tá hoa đến tặng, và đón rước dài dài. Ức Mai, như vậy tên cô nàng là Ức Mai! Giá trước kia, ông biết tặng hoa cho người này thì ngàn vàng cũng không nhận. Bao nhiêu vui mừng khi nãy đã biến mất. Giọng ông nặng và đục:
- Cậu nói tôi giao sai à?
- Chớ còn gì nữa không sai? Hôm nay cháu gọi điện thoại, người ta bảo chẳng hề nhận hoa hòe gì cả làm mất mặt bầu cua hết!
Ông Trương lắc đầu lẩm bẩm:
- Nhưng mà, tôi quả quyết không thể nào sai chỗ được.
Quán Quần càng bực hơn:
- Bác nói thế có chắc không?
- Chắc chứ! Không tin, cậu cứ đến nhà tôi nói hỏi xem có nhận được hoa của cậu suốt tháng nay không?
Chàng nhớ lại những gì đã viết trên tấm danh thiếp rồi kêu trời:
- Trời ơi, thế mà còn ký tên nữa chứ! Sự lầm lẫn này thật tai hại quá! Cái nhà ấy sao cũng có con gái cho rắc rối thế này. Bác nói từ đầu hẻm, đếm vào căn thứ ba phải không? Phải đến giải thích vụ này mới được!
- Cô đó cảm ơn những bó hoa của cậu lắm. Theo tôi nghĩ, khi đến thanh minh vụ này, cậu nên mang thêm một bó hoa nữa để lúc nói chuyện được tự nhiên hơn. Cậu đừng lo chuyện tiền bạc, bó này tôi sẽ biếu cậu đó.
Chàng nhận bó hoa mà trong lòng chẳng vui tí nào. Cúi đầu chào ông Trương rồi quay ra cửa. Ông Trương dặn thêm:
- Cậu nên giải thích uyển chuyển một chút kẻo con gái mới lớn lên họ mắc cở đó nhé.
Quán Quần không cần để ý lời dặn dò ấy. Chàng chỉ mong đến gặp mau người con gái đó, giải thích chừng một hai câu là xong chuyện, không cần dài dòng vô ích. Chàng bước thật nhanh vào hẻm, đứng đếm đến căn nhà thứ ba. Đây là một căn nhà trệt. Cạnh nhà này là biệt thự lớn, có vườn hoa rộng của Ức-Mai. Chàng ấn chuông, đưa tay vuốt nhẹ lên bó hoa và đứng chờ.
Cánh cửa mở, người con gái có nước da trắng nõn nà, gương mặt hiền lành phúc hậu nhìn Quần. Nàng đang buồn vì bác Lâm hiện có trong nhà, bàn tính với mẹ ép buộc cuộc hôn nhân. Vừa trông thấy người thanh niên cao ráo đẹp đẽ với bó hồng trên tay, mặt nàng trở nên xanh mét rồi từ từ đỏ hồng. Quán Quần cũng thất sắc, chàng không ngờ vụ đi giải thích này lại khó gấp trăm vạn lần, không dễ như đã tưởng! Chàng vội lấp bắp:
- Ô, chào cô! Tôi... tôi là... Nghê...
Người con gái trước mặt chàng trông đẹp, nhu mì và dễ thương lắm. Cặp mắt ngơ ngác lẫn hoảng sợ như con nai giữa rừng vừa nghe thấy tiếng động. Đôi môi run run. Cái vẻ sợ sệt rụt rè, xen lẫn vui mừng và oán hận làm cho người đối diện phải thương hại và ngây ngất. Quán Quần không còn nói được nữa, chỉ đứng trân trân nhìn. Một lúc lâu, chàng mới lấy lại được bình tĩnh, gắng thực hiện mục đích đã định:
- Thưa cô! Tôi là... là Nghê Quán Quần!
- Dạ, em biết.
Lâm cũng bắt đầu tỉnh mộng. Nàng không biết tính sao trước sự viếng thăm bất ngờ của chàng, nhất là trong nhà đã có sẵn ông khách hắc ám. Mời vào nhà thì không xong, ra ngoài cùng chàng nói chuyện thì khó coi quá. Đaang lúc nàng còn đang do dự thì mẹ đến cửa hỏi:
- Ai vậy con?
- Thưa mẹ, anh Nghê Quán Quần đó mẹ.
Rồi nàng quay qua giới thiệu với chàng:
- Đây là mẹ em.
Nhìn bó hồng trên tay Quán Quần, bà hiểu ngay rằng chính thằng khùng này đã phá hoại cuộc hôn nhân của con bà với ông già Lâm. Và, chính nó đã làm cho con Lâm si si khùng khùng. Bà nhìn chàng, nghiêm giọng:
- Thì ra là cậu. Cậu đến đây làm gì vậy? Tôi cho cậu biết con gái tôi không phải hạng lăng loàn trắc nết, không bao giờ giao thiệp với những người lạ như cậu. Cậu vui lòng về đi!
Lâm hoảng sợ:
- Thưa mẹ!
Nàng quay người, lùi ra sau một bước đứng cạnh Quán Quần như để bảo vệ chàng và chứng tỏ cho mẹ biết là hai đứa đã tâm đầu ý hiệp. Nàng nói nhanh:
- Mẹ nói gì kỳ vậy? Anh Quần bạn thân thiết của con chứ nào xa lạ gì!
- Hứ, thật quá mà. Hai đứa mày âm mưu gạt cả mẹ!
Lâm nháy mắt ra hiệu cho Quán Quần, ánh mắt thật trăm ngàn lời nói khó hiểu. Quán Quần, đứng sững, quên mất mục đích đến đây của mình. Mẹ Lâm thì rối rắm, không biết mấy đứa nhỏ này đang chơi cái trò trống gì nên liền bảo:
- Thôi hai đứa vào trong nhà đi, đừng đứng ngoài cửa người ta trông kỳ lắm. Kể hết đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe đi coi.
Quán Quần như cái máy lủi thủi theo vào nhà. Chưa kịp nói gì, ông Lâm ngồi chờ trong nhà tức muốn điên lên nên chạy ra phình cổ hỏi:
- Mày là cái thằng mang bịnh thần kinh, mỗi ngày tặng hoa đó chứ gì?
Bị chọc tức, chàng quay qua hỏi Lâm:
- Ông này là cha em phải không?
- Đâu phải, ông ta là... là...
- Tôi là chồng tương lai của Du Lâm.
Ông Lâm ễnh cái bụng nước lèo, dương dương tự đắc. Quần nhìn Lâm không chớp. Lý nào một người con gái đẹp đẽ thùy mị thế này đi gả cho cái thằng già ngu đần ấy? Cái nhìn của Quán Quần đã làm cho Lâm rưng rưng nước mắt. Nàng đưa mắt van này ông Lâm:
- Bác Lâm, sao bác nói bậy như vậy? Cháu đã chấp nhận làm vợ bác bao giờ đâu?
Già Lâm càng tức hơn, chỉ vào măt. Quần:
- Em không bằng lòng lấy tôi mà lấy thằng khố rách này à? Cái mạng của nó biết đã tự nuôi nổi chưa huống hồ gì nói chuyện nuôi em. Lấy nó, em chỉ có nước thành ma chứ không còn sống làm người!
Quần không còn chịu nổi, tiến đến trước mặt ông Lâm nheo mắt:
- Đồ già mất nết!
Ông Lâm vênh mày phẫn nộ:
- Mày nói ai đồ mất nết chứ?
Giọng chàng càng đanh thép:
- Tôi nói ông. Tôi nói con cóc bẩn thỉu mà muốn ăn thịt con ngỗng thật quá khôi hài!
Ông Lâm tái mặt:
- Mày nói gì? Mày nói ai là con cóc? Mày là thằng lưu manh ở đâu đến đây ăn nói hồ đồ vậy? Cái tướng ăn mặc như thằng ăn xin thế này mới đúng là con cóc bẩn thỉu muốn ăn thịt ngỗng. Bây giờ phải cút mau, nếu không tao kêu cảnh sát bắt cho xem.
Quán Quần sùng máu:
- Ông đừng có ăn nói hàm hồ như thế nghe chưa. Ông phải giải thích cho tôi nghe nghèo là nhục sao? Tôi nghèo nhưng có chí, vừa làm vừa học đến bậc đại học như người. Tôi biết cố gắng và khắc phục mọi gian khổ để tạo tương lai cho mình. Tôi còn trẻ, còn đủ sức và thì giờ để tạo sự nghiệp, giúp ích xã hội. Trọc phú như ông làm nên cái trò trống gì?
Chàng quay sang Lâm, nói nhanh không cần suy nghĩ:
- Em bằng lòng theo thằng cha trọc phú này hay theo anh, một thằng khổ rách để cùng nhau sáng tạo cuộc đời?
Lâm hết sức khâm phục lời nói của chàng, lời nói đầy khí phách. Nàng chơm chớp mắt tỏ ý ưng thuận, chẳng cần đắn đo gì khác. Không nghĩ đây là lần gặp gỡ đầu tiên, phải tìm hiểu lai lịch của chàng. Nàng cứ ngỡ đã quen chàng tự lâu lắm và hiểu nhau rất nhiều. Nàng đến bên chàng âu yếm nhìn. Quán Quần xúc động vội ôm chặt eo nàng. Ông Lâm muốn lộn gan lên đầu:
- Trời ơi, thật là hai đứa điên!
Ông quay qua mẹ Lâm tỏ vẻ hách dịch:
- Xin lỗi bà Châu, tôi không ngờ con bà có hành động lố bịch như vậy mà không biết mắc cở. Vợ tôi phải là người đàn bà gương mẫu không phải hạng gái mất nết hư thân như vậy. Thôi, chuyện hôn nhân chấm dứt luôn.
Bà Châu thở ra, nhìn ông Lâm ngoe nguầy ra cửa và thầm nghĩ:
- Ông cứ mang cái thùng nước lèo đó đi đi, tôi cóc cần. Con tôi có mất nết, hư thân mặc kệ, có người săn sóc và yêu thương rồi. Chúng nó sẽ sáng tạo cuộc đời hoàn toàn mới.
Bà đóng xong cánh cửa, quay lại vẫn miên man trong lòng:
- Thằng này đẹp trai, cái vẻ đầy khí phách này chắc chắn sẽ làm nên công sự. Rất may là ta chưa làm nên lỗi lầm, chưa cướp hạnh phúc của hai đứa.
Nhìn cặp tình nhân vẫn còn đứng chết giữa nhà, bà cố dùng giọng lạnh nhạt:
- Thôi chớ, cô cậu đứng đó hoài sao. Mời anh con vào ghế ngồi đi Lâm.
Bà lui vào phòng, khép cửa lại.
Bên ngoài, Quán Quần và Du Lâm nhìn nhau ái ngại vô cùng. Bây giờ họ mới cảm thấy thật xa lạ. Sự việc xảy ra vừa rồi như một cơn mộng không bằng! Hai người nhìn nhau một lúc, ánh mắt xa vời lẫn thẹn thùng khó tả. Quán Quần ấp úng:
- Anh nghĩ... anh nghĩ...
Mà nghĩ cái gì nhỉ? Chẳng lẽ giờ này còn đem chuyện lầm nhà ra nói với nàng ư? Nhìn vẻ mặt đẹp và dễ thương ấy, chàng biết mình không thể nào nói được!
Lâm tiếp bó hoa trên tay chàng, giọng gợi cảm:
- Anh nghĩ gì vậy? Ngồi ghế nghỉ đi. Em muốn cắm hoa vào bình ngay bây giờ.
Nàng cắm xong bình hoa, đặt lên bàn cười duyên:
- Sao anh nghĩ ra cái trò tặng hoa hồng này cho em? Sao anh biết em thích hồng vàng?
Chàng thẹn đỏ mặt. Cúi đầu xuống, nàng lại hỏi:
- Anh bắt đầu để ý đến em tự bao giờ?
Bắt đầu tự bao giờ? Ai mà biết! Chàng chỉ biết buổi tối hôm ấy cách đây một tháng, lần đầu tiên cùng mấy người bạn đặt chân đến vũ trường. Dưới ánh điện màu, chàng đã mê mệt một vũ nữ lừng danh có sắc đẹp quyến rũ. Bây giờ lại đối diện với Lâm, cặp mắt to trong sáng ấy có một sức thu hút khác thường, không giống vẻ quyến rũ của Ức-Mai. Tự nhiên chàng cảm thấy mình trở thành nhỏ bé, nghèo nàn và thơ ngây quá! Chàng hơi bực, tự trách mình sao đi theo một cô vũ nữ như vậy. Nhưng, nếu không có cô vũ nữ đó, làm sao giờ này gặp được Du Lâm. Họa chăng có do trời xui khiến!
Chàng ngước lên nhìn nàng. Mặt vẫn còn đỏ và đầy vẻ ngượng ngùng. Chàng đáp thật nhỏ:
- Em hỏi làm gì câu ấy? Có lẽ anh đã để ý em từ ngày khai thiên lập địa đến giờ!
Nàng im lặng, nhìn chàng đắm đuối. Hai người mỉm cười, nụ cười sâu thẳm còn hơn ngàn câu nói. Bình hoa hồng trên bàn như cũng đang cười. Mùi thơm ngào ngạt dâng khắp căn phòng.
o0o
Ngày hôm sau, ông Trương ngồi trong tiệm nhìn Quán Quần đẩy cửa bước vào. Chàng e thẹn chào:
- Dạ, chào bác ạ!
- Vâng, chào cậu.
Chàng không giấu được nỗi vui mừng trên mặt:
- Thưa bác còn nhớ cháu không?
- Sao không? Cậu là người trách tôi trao hoa hồng không đúng chỗ!
Chàng cười đắc chí:
- Ha ha! Mục đích của cháu đến đây hôm nay báo tin để bác mừng là hoa hồng trao rất đúng chỗ.
Ông Trương cũng cười:
- Tôi biết mà. Tôi biết đúng chỗ trăm phần trăm.
Chàng mở to mắt nhìn ông Trương. Không hiểu trong vụ trao hoa này, ông ta có âm mưu nào không? Nhưng thôi, có hay không đâu còn đặt thành vấn đề. Vấn đề quan trọng là những đóa hoa đo đến nơi thật đúng chỗ mà chính chàng cũng không ngờ được, phải gắng giữ lấy sự thành công ấy.
Chàng cảm ơn rồi xin phép đi ra khỏi tiệm Thinh-Thinh. Có người ở hẻm bên cạnh đang chờ chàng trở lại.
Tiễn chàng cho đến khi khuất. Ông Trương trở vào cầm bình tưới hoa. Vừa tưới, ông vừa hát. Nhìn bồn hoa hồng vàng, ông gật đầu cười mãn nguyện.
HẾT1539
Bích Ðàm tháng tám, người đông như kiến cỏ khắp mọi nơi: trên cầu treo, trên mặt hồ, trên thuyền, trong quán trà, đâu đâu cũng thấy người . Còn những dòng người mới lại ùa đến như nước .
Tôi ngồi bên hồ nhét hết tóc vào trong mũ bơi . Mặt trời buổi chiều khiến đầu óc tôi choáng váng . Mặt nước hồ xanh thẳm đang vỗ đập như mời chào tôi . Duy Khiết cứ dậm chân ngay bên cạnh tôi, cổ vươn dài ngó nghiêng chung quanh, mỗm làu bàu oán thán không ngớt .
- Anh trai chết tiệt này, hẹn rồi mà không đúng giờ, chẳng thể tin tưởng chút nào, để xem sau này em còn giúp đỡ anh nữa không ?
Tôi nhìn Duy Khiết . Mỗi cô ấy bĩu rõ to, bím tóc tết đằng sau cứ lắc qua lắc lại, nghe những lời trách móc của cô khiến tôi vừa buồn cười vừa bực mình . Chẳng trách nào chiều nay cô ấy lao vào nhà tôi như một trận cuồng phong, cứ nằng nặc đòi tôi đến Bích Ðàm bơi, hoá ra là anh trai cô ấy đang làm trò! Nhưng đã đến đây rồi thì đành vậy, tôi cũng phải vui chơi cho thoả thích!
Hè này đây là lần đầu tiên tôi đi bơi .
- Này, cậu đi mà đợi anh trai cậu, mình đi bơi đây! – Tôi nói rồi đứng dậy đi về phía hồ nước .
- Ấy, đừng có vội thế, anh ấy đã đến rồi . Mình đã thấy rồi! Này này, gà gô, đừng có chạy đấy!
Thật đáng chết! Cô ấy lại gọi tên huý của mình trước bàn dân thiên hạ như thế này . Chuyện là vì lúc còn nhỏ tôi thích bắt chước tiếng cục cục, cho nên cha tôi gọi đùa tôi là gà gô . Tên của tôi rất hay thế mà chẳng ai thèm gọi . Cho đến lúc lớn mới đổi cách gọi . Nhưng đến bây giờ cha vẫn thường gọi tôi vài tiếng gà gô . Chẳng biết tại sao Duy Khiết nghe thấy bèn gọi gà gô loạn cả lên . Tôi trợn mắt lên, hất tay nói:
- Anh ấy đến thì mặc kệ anh ấy, có liên quan gì tới mình đâu ? – Tôi nói xong rồi ngụp xuống nước . Nước hồ mát lạnh khiến tôi thấy sảng khoái . Tôi ngụp cả đầu xuống nước và bơi ra chỗ sâu . Tôi đổi kiểu bơi ngửa, nằm trên mặt nước . Ánh nắng chiếu vào mắt tôi, nhưng rất ấm áp và dễ chịu . Tôi nhắm mắt lại, cố tận hưởng ánh mặt trời huy hoàng, làn nước hồ mát mẻ và thế giới tươi đẹp .
“Tõm” một tiếng, có cái gì rơi ngay bên cạnh tôi làm nước bắn hết lên mặt . Tôi lật người nhìn . Ðó là miếng vỏ bưởi . Tôi ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Duy Khiết đang vẫy tay với tôi . Và vẫn tiếp tục ném vỏ bưởi . Tôi bơi tới, lặn về phía bờ, sau đó bỗng ngoi lên . Duy Khiết vẫn đang tìm tung tích của tôi trên mặt nước, tay cầm một miếng vỏ bưởi không biết phải ném về hướng nào, mồm chửi bới lung tung:
- Cái con nha đầu đáng chết! Cái con nha đầu đáng ghét, đáng xuống địa ngục này!
Tôi leo lên bờ . Duy Khiết giật thót mình và tôi không nhịn được cười . Duy Khiết cũng sững người trong tích tắc và cùng cười theo . Bên cạnh Duy , tôi thấy có hai thanh niên, một người là anh trai của Duy Khiết – Duy Ðức, một người còn lại tôi không quen . Cười xong Duy Ðức đi tới, gật đầu với tôi rất lịch sự, cứ như thể một nhà giáo cấp một vậy . Tôi cũng buồn cười nhưng kìm nén lại được . Anh chỉ người con trai bên cạnh và nói với tôi:
- Ðây là bạn học của anh, Nhậm Trác Văn, vừa mới gặp trên cầu - Rồi anh quay sang Trác Văn nói – Ðây là bạn học của em gái mình tên là Giang Tú Di! – Tôi nhìn Nhậm Trác Văn . Anh ấy với dáng người cao, vai rộng, đôi mắt sáng như đang vẻ đăm chiêu suy nghĩ cứ như là một triết gia vậy . Chỉ nhìn thoáng qua, khuôn mắt này với tôi hình như đã quen ở đâu rồi . Tôi không khỏi nhìn kỹ anh, cho đến khi phát hiện anh nhìn tôi không chớp mắt tôi mới vội vàng quay đi, trong lòng chửi thầm một câu – “xúi quẩy!” . Hơn nữa bộ dạng ướt lướt thướt trong bộ đồi bơi của tôi như thế này mà gặp người lạ tôi cảm thấy không được tự nhiên . Tôi quấn chặt chiếc khăn bông vào người hỏi:
- Hai anh cũng đến đây bơi sao ?
- À . - Duy Ðức lắp bắp . – Anh nghĩ mời em Giang và xá muội của anh đến quán trà uống nước mát!
… “Em Giang và xá muội” ăn nói mới hay làm sao cứ như đang trên sân khấu vậy . Ðồng thời khuôn mặt đỏ bừng lên của anh ta khiến tôi không hứng thú . Tôi lấy làm lạ tại sao người thoải mái như Duy Khiết lại có một ông anh trai gò bó đến như vậy . Tôi lắc đầu nói:
- Em không khát, em thà đi bơi còn hơn! – Tôi quay đầu nói với Nhậm Trác Văn:
- Anh có đi bơi không ?
- Không! – Anh lắc đầu và cười . – Anh không biết bơi .
Không biết bơi thật kếm cỏi! Ðặt biệt lại là một anh chàng có vóc dáng như vậy! Tôi dướn mày định quay ra hồ nhưng Duy Khiết đã chặn tôi lại:
- Ðừng có bỏ chạy, gà gồ! Mình đề nghị mọi người đi bơi thuyền!
Tôi trợn mắt lên với Duy Khiết, trong lòng nghĩ: Cũng được . “Gà gồ”, cái tên này cũng không đến nỗi tầm thường lắm, nếu không cứ để mặc cho cô ấy gọi lung tung như vậy thì còn ra cái gì . Trác Văn đang ngây người nhìn mấy đứa trẻ nghịch nước . Nghe thấy giọng của Duy Khiết thì đột ngột quay lại, nhìn tôi chằm chằm, sau đó lại nhìn Duy Khiết, cười ngượng ngùng:
- Bơi thuyền anh cũng không biết!
- Chỉ cần thuyền không lật là được mà! – Duy Khiết không nhẫn nại . - Thế naỳ nhé, chúng ta thuê hai thuyền, anh hai và Tú Di một chiết, em và vị này một chiết . Nếu anh thực sự không biết bơi thuyền thì để em chèo cho, đảm bảo anh không phải uống nước đâu!
- Anh thấy, anh thấy . – Duy Ðức nhăn nhó . – Anh thấy chúng ta thuê chiếc lơn đi .
Duy Khiết lườm anh trai một cái, tự lẩm bẩm:
- Ðồ vô dụng, thảm hại quá đi thôi! Ðược rồi, thuyền to thì thuyền to .
Tôi nhìn Trác Văn, không nén nổi sự tò mò:
- Vì sao anh không họ chèo thuyền rồi bơi lội ? Ði bơi đi, chúng em sẽ dạy anh .
- Không . – Anh cười không được tự nhiên . – Anh cũng đồng ý chèo thuyền to!
Thật đen đủi, gặp phải hai anh chàng không xương này, chỉ bằng từ bơi một mình còn hơn! Tôi thấy không vui trong loòng . Nếu người con trai cao lớn này là anh em của tôi thì tôi nhất định sẽ lôi xuống nước và cho uống no nước . Thuyền đến, Duy Khiết leo lên đầu tiên, suýt nữa vướng vào dây thừng và lộn nhào . Tôi và Duy Ðức tiếp tục lên thuyền . Nhậm Trác Văn cũng nhẩy lên thuyền nhẹ nhàng . Thuyền hơi chòng chành, Trác Văn túm lấy cánh buồm để giữ thăng bằng . Ðột nhiên tôi phát hiện cánh tay trái của anh chừa hề sử dụng mà duỗi đời bên cạnh mình . Tôi buột mồm hỏi:
- Tay trái của anh sao vậy ?
Anh nhìn tôi một cái, thần sắc tỏ ra kỳ quặc, sau đó dùng tôi phải vỗ vào tay trái nói:
- Nó là đồ bỏ đi!
Tôi chợt hiểu, hoá ra tay trái của anh ấy đã bị tàn phế, chẳng trách nào anh không chịu đi bơi và chèo thuyền! Vẻ khinh thường biến đi mất và thay vào đó là sự thông cảm . Tôi gật gật đầu nói:
- Có phải bị bại liệt không ?
- Không . – Anh nhìn tôi . – Là vì một chiếc diều gió .
- Diều gió ? – Tôi hỏi, đầu hơi hoảng loạn .
- Ðúng, một chiếc diều gió, một chiếc diều gió đầu hổ .
- Ôi! – Tôi thở mạnh, nhìn chằm chằm vào anh . Chẳng trách nào trông anh quen như thế . Thế giới này thật nhỏ làm sao! Ố! Tôi nước nước bọt, nói một cách khó khăn: - Anh là Phúc!
- Ðúng! – Anh cười rất thoải mái: - Em không thay đổi nhiều lắm, gà gô, ngoài việc từ một cô nhóc trở thành một thiếu nữ . Anh thấy em từ dưới nước lên bờ là cảm thấynghi ngờ rồi nhưng anh không dám nhận . Chuyện đã lâu rồi mà! Nếu không phải là cô Hứa gọi một tiếng gà gô thì anh thực sự không dám tin .
- Anh, bàn tay của anh vẫn không khỏi sao ? – Tôi hỏi một cách khó khăn, quả thực không cười nổi .
- Mẹ anh đã hại anh, nhưng nó cũng không ảnh hưởng đến anh lắm . – Anh nói nhẹ nhõm và vẫn cười, sau đó nói: - Tính khí của em vẫn thế, cứ thẳng thắn bộc trực như xưa .
Ồ . – Tôi dựa vào thành thuyền, tay nắm chặt lấy lan can . Hai anh em Duy Khiết kinh ngạc nhìn tôi và Nhậm Trác Văn . Tôi xưa nay hay dài dòng vậy mà bây giờ chẳng nói gì . Tôi lấy làm lạ là sao Nhậm Trác Văn lại có thể cười được, lại còn hứng thú nói đến tính khí của tôi ? Tôi nhìn trân trân vào cánh tay tàn phế của anh, trong lòng thấy đau xót, cả buổi chiều vui vẻ đi mất tiêu .
***
Sáu tuổi đối với mọi người là cái tuổi chẳng hiểu biết gì . Nhưng cha thường nói người xưa tám tuổi làm quan, mười tuổi được bái làm tướng vậy thì tôi cũng chẳng kém tuổi làm quan là bao nhiêu . Vậy mà tôi chỉ biết trèo cây bắt chim . Lội bùn bắt lươn, cùng lũ trẻ con xung quanh trèo núi chạy chơi khắp cánh đồng . Tôi sẽ nói cho mọi người ổ chuột đồng ở đâu, tôi sẽ cầm đuôi rắn doạ lũ trẻ con . Tôi biết ở đâu có thể tìm me dại . Tôi có thể phân biệt đâu là nấm độc đâu là nấm không độc . Nhưng nếu có người hỏi tôi một cộng một bằng mấy thì tôi không cần suy nghĩ trả lời ngay bằng một vạn .
Lúc đó cha tôi dạy trung học ở nông thôn . Chúng tôi đều sống ở ký túc xá của trường học . Xung quanh toàn là gia đình của các đồng nghiệp của cha . Tôi nhớ lũ trẻ con hơn năm mươi mấy đứa, trong đó bọn con trai chiếm đa số . Tuy mẹ tôi dùng hết cách để dạy dỗ tôi thành một đại gia khuê tú nho nhã vậy mà tôi ngày càng nghịch ngợm hơn . Tôi thích tụ tập với bọn con trai, suốt cả ngày đùa nghịch bẩn thỉu . Mẹ tôi tức lên dùng thước đánh cho tôi một trận, những đòn roi không đau không ngứa . Ðó chẳng có tác dụng gì với tôi . Duy có hai lần mẹ tôi đánh thực sự . Một lần là vì tôi tè lên thảm len phơi ngoài sân của dì Trường, một lần khác là vì anh Phúc .
Anh Phúc chính là con trai của bác Nhậm, bác Nhậm là người lao công của trường . Tuy anh ấy xuất thân thấp hèn nhưng lại là đầu lĩnh của bọn trẻ con trong trường . Một là vì anh ấy lớn tuổi nhất, hai là anh ấy đã học tiểu học rồi . Thứ ba là anh có tác phong của anh hùng . Thứ tư anh ấy có bà mẹ không bao giờ hiểu đạolý và dữ dằn . Nếu ai trêu anh Phúc là bà không hề do dự chạy ra tóm lấy đứa bé đó dúi xuống vũng bùn . Vì mấy nguyên nhân này mà anh Phúc trở thành thủ lĩnh của chúng tôi . Nhưng ấy ấy không thích chơi với tôi vì tôi là con gái mà lại nhỏ hơn .
Hôm đó, bẩy tám đứa trẻ chúng tôi đang thả diều trong vườn trường . Tôi có một chiếc diều đầu hổ lớn nhất và rất đắc ý dương lên khoe mọi người . Nhưng khi những chiếc diều linh tinh kia bay lên cao chỉ còn là một chấm đen thì chiếc diều đầu hổ xinh đẹp của tôi vẫn kéo lên trên mặt đất . Tôi, đầu tóc mướt mát mồ hôi muốn thả nó lên nhưng dù tôi chạy như thế nào đi nữa thì chiếc diều vẫn không chịu bay lên khỏi đầu tôi . Những đứa bé khác bắt đầu cười nhạo tôi . Tôi càng nóng ruột thì càng chẳng làm được việc gì với chiếc diều . Lúc này anh Phúc đến . Từ nãy đến giờ anh xem chúng tôi thả diều vì anh ấy không có chiếc diều nào để thả .
- Ðể anh giúp em thả nhé, gà gô! – anh nói .
Tôi do dự một lát rồi đưa ống dây cho anh . Anh hướng gió và cất diều lên chẳng cần chạy mà diều vẫn bay lên . Tôi bắt đầu vỗ tay hoan hô . Anh vừa tháo dây vừa đi vòng quanh sân trường . Tôi chạy theo sau anh ấy và gọi . - Trả lại em, em muốn tự thả . Nhưng hứng thú của anh ấy nổi lên càng đi nhanh và không chịu đưa cho tôi . Tôi bắt đầu chửi anh ấy, những đứa bé khác lại bắt đầu cười tôi . Chính vào lúc này dây chỉ mắc vào cành cây . Cái cây đó mọc cạnh bờ tường rào . Tôi dậm chân hét lên:
- Anh làm hỏng diều của em rồi! Bắt đền em đi!
- Ðừng lo . – Phúc thong thả nói: - Anh leo lên tường gỡ ra cho em!
Bức tường không hề cao . Chúng tôi thường leo lên tường để ngắm trăng . Ý của anh Phúc là leo lên tường rồi trèo lên cây . Khi anh leo lên đến tường, tôi cũng leo lên theo . Nhưng chưa đợi được anh Phúc leo lên cây thì dây diều đứt . Chiếc diều đầu hổ xinh đẹp kia theo gió bay đi mất . Tôi ngửa đầu nhìn cho đến khi bóng diều mất hút, rồi oà khóc, dậm chân ăn vạ:
- Anh đền em chiếc diều đi, chiếc diều đầu hổ của em . Anh trả lại cho em! Trả lại cho em đi!
- Anh làm một cái khác cho em nhé! – Anh Phúc nói với vẻ khổ sở và khiêm nhường .
- Em không cần, em không cần! Em cần chiếc diều đầu hổ của em cơ!
- Bay mất rồi thì làm sao! – Anh Phúc nói . Lũ trẻ dưới bức tường vỗ tay sung sướng . Tôi tức đến nỗi lú lẫn, Không hề suy nghĩ gì dơ tay đẩy anh phúc một cái . Anh ấy đang chuẩn bị tụt khỏi tường thì cái đẩy của tôi khiến anh ấy mất thăng bằng, ngã xuống đất . bỗng dưng tôi cũng thấy sợ . Nhưng nghĩ đến anh ấy cũng không thèm để ý đến cú ngã này nên tôi tụt xuống . Ðang còn định tiếp tục khóc lóc ăn vạ, thì dáng vẻ của anh Phúc khiến tôi sững sờ . Anh lồm cồm bò dậy, mặt tái xám, đau đến nỗi lè cả lưỡi, không nói câu nào mà chỉ lảo đảo đi về nhà . Chỉ một lúc sau, mẹ anh ấy bèn xộc tới . Lũ trẻ nhìn thấy bà mẹ yêu quái bèn lủi đi hết và còn nói:
- Gà gô đẩy đấy ạ!
Mẹ anh Phúc véo tai tôi, khóc lóc:
- Ðồ nhãi con, trả lại thằng Phúc cho tao! Tao sẽ liều với mày!
Vụ cãi cọ giằng co này kéo dài nửa tiếng đồng hồ cho đến khi mẹ tôi biết chuyện và đến . Trước tiên cứu tôi ra khỏi bàn tay của người phụ nữ hung dữ đó, sau đó nói ngọt để an ủi bà ta và đòi đi xem vết thương của anh Phúc . Tôi thừa cơ lui về nhà . Cha đang ngồi chấm bài, nhìn thấy tôi gật đầu hỏi:
- Lại gây tai hoạ rồi phải không ?
Tôi im lặng, trong lòng không còn suy nghĩ gì về chiếc diều kia nữa mà canh cánh chuyện của anh Phúc . Không lâu sau, mẹ vội vàng bước vào, nói với cha:
- Cổ tay của thằng bé bị gãy rồi, có lẽ là trật khớp . Em nói với họ là bằng lòng bỏ tiền thuê kiệu đưa thằng bé đến bệnh viện trong thành phố nhưng họ không chịu mà cứ đòi giết gà sống tế thần, mời đạo sĩ đến tụng kinh và còn làm mấy mâm cơm nữa . Em không nhỏ nhen bỏ món tiền làm những việc này, chỉ có điều cái tay cũa thằng bé không xong rồi, anh xem làm thế nào đây ?
Cha bỏ cây bút xuống, đẩy gọng kính lên cao:
- Người nhà quê chẳng hiểu biết gì cả, để anh đi nói với họ .
Cha mẹ thương lượng mấy lần, cuối cùng hoàn toàn thất bại . Họ chỉ tin vào thần linh và đạo sĩ chứ không tin bác sĩ . Kết quả mẹ tôi bỏ một khoản tiền lớn để bồi thường, cho họ đi mời đạo sĩ làm phép . Sau đó mẹ quay về nhà, trói tôi vào chân giường bằng sợi dây thưòong to và giận dữ đánh tôi một trận bằng dây cao su . Tiếng khóc của tôi và tiếng khấn bái của đạo sĩ hoà lẫn vào nhau . Chưa bao giờ mẹ tôi lại nóng giận như vậy . Tôi bị đánh đến nỗi toàn thân tím bầm, khóc khản cả tiếng mẹ mới dừng tay . Cha giải thoát cho tôi, bế tôi lên giường, thở dài nói:
- Con còn nhỏ, đánh thế cũng nặng rồi .
- Anh không biết, thằng Phúc là đứa trẻ thông minh . Bây giờ số phận tàn tật suốt đời rồi, em cũng dằn vặt cả đời ấy chứ! Mẹ nói và đến giưòong đắp chăn cho tôi, xoa nhẹ lên vết roi hằn trên tay tôi . Thấy mắt mẹ khóc, tôi cảm thấy đau lòng vô cùng . Ðêm đó tôi thút thít suốt cả đêm . Còn ở ngoài sân, tiếng giết gà, tiếng tụng kinh cũng ồn ã suốt cả đêm . Trời sáng, mẹ anh Phúc sang, nhẹ nhàng khúm núm đến không ngờ:
- Thằng Phúc cứ đòi tôi sang nói lại hai bác đừng có đánh gà gô, không phải con bé nó đẩy đâu mà cháu nó tự ngã .
Mẹ tôi nhìn tôi một cái, có lẽ trách tôi sao không nói sớm . Còn cha xoa đầu tôi, nói với mẹ anh Phúc:
- Ðánh cũng đã đánh rồi, thôi cho qua đi! Nhưng thằng Phúc thế nào rồi ?
- Không còn đau nữa, tối nay giết thêm một con gà nữ là xong! - Người đàn bà đó cười hì hì .
Nhưng tay anh Phúc không hề khỏi . Lúc anh ấy treo tay tìm tôi thì tôi lại trốn đi . Tôi thấy xấu hổ khi gặp anh ấy chỉ vì cú đẩy chết tiệt đó . Mẹ nói rằng tôi trở nên ngoan ngoãn và lặng lẽ . Trên thức tế đó là lần đầu tiên tôi tự vấn lưong tâm . Ngược lại, anh Phúc thường đến tìm tôi đi chơi . Lần nào anh ấy cũng cười hì hì nói:
- Em đừng giận anh nữa, lúc mẹ đánh em anh cũng không hề biết mà!
Vì chẳng để ý đến anh ấy cho nên anh ấy cứ tưởng tôi vẫn còn không vui vì mất chiếc diều kia . Một hôm anh nói với tôi:
- Ðợi anh khỏi tay rồi anh nhất định làm chiếc diều cho em, đền em một cái, cũng là đầu hỏ, được không ?
Hơn một tháng sau, chúng tôi dọn nhà vào thành phố, đến nay cũng mười bốn năm rồi . Tôi không ngờ rằng bây giờ lại gặp anh trên hòn đảo nhỏ, bên cạnh bờ Bích Ðàm này .
- Ðang nghỉ gì thế hả ? - Nhậm Trác Văn hỏi tôi .
- Làm sao anh lại đến Ðài Loan ? – Tôi hỏi .
- Hoàn toàn là ngẩu nhiên . Anh theo chú ra đây . Chú anh đến đây buôn bán . À, quên mất không nói với em, sau này anh vào thành phố học tập, ở nhờ nhà chú . Chú là nhà buôn . Cha mẹ anh không còn nữa rồi .
- Bàn tay này, anh chưa đi khám sao ?
- Sau khi vào thành phố, có đến bác sĩ khám nhưng không còn hy vọng gì nửa ?
- Này! – Duy Khiết đột nhiên không chịu được nữa kêu lên . – Hai ngưòi làm sao thế ? Trước đây quen nhau à ? Ðừng quên có hai người này nữa đấy .
- Mười mấy năm trước chúng tôi ngày nào cũng chơi với nhau . - Nhậm Trác Văn cười và nói . - Thật không ngờ hôm nay lại được gặp nhau!
- Những chuyện như thế này thì nhiều lắm . – Duy Khiết nói một câu đầy vẻ triết lý . - Ðời người do bao nhiêu cái ngẫu nhiên tích tụ lại mà thành .
- Sau khi em đi, anh thực sự làm một chiếc diều gió đầu hổ . Tất nhiên là bằng một tay, cứ chờ em về rồi cho em, những em đã không quay trở lại .
Tôi muốn cười những không cười nổi . Mãi lúc lâu sau mới nói :
- Chiếc diều gió đầu hổ đáng chết, em mong mình không có chiếc diều đáng ghét đó nữa . Nhưng tay anh…
- Thôi, đừng nhắc đến cánh tay này nữa, anh chẳng để ý đến đâu! – Anh ngắt lời tôi và cười . Anh cười thật thoải mái .
- Em rất muốn nghe, diều gió và cánh tay này liên quan đến nhau như thế nào! – Duy Khiết nói và chau mày với anh trai . Anh chàng gò bó cứ như một quả hồ lô không mồm, cứ ngây người ngồi đó hết nhìn tôi lại nhìn Nhậm Trác Văn . Tôi kể chuyện chiếc diều gió . Duy Khiết gật đầu đi lên phía mui thuyền quẳng chiếc khăn tắm vào khoang, đột nhiên nói với Nhậm Trác Văn:
- Tái ông thất mã, ai biết đâu không phải là phúc ? – Sau đó Duy Khiết nhảy tùm xuống nước, nhô cái đầu lên gọi với lên thuyền:
- Anh ơi, anh còn không xuống bơi à, còn ngồi đần ra đó làm gì ?
Duy Ðức quay ra tròn mắt nhìn em gái . Còn tôi lại đỏ mặt lên một cách vô cớ .
Một năm sau, vẫn vào tháng tám .
Tôi đang ngồi hành lang đọc sách . Tiếng bước chân nhè nhẹ đi tới . Tôi vờ như không biết và tôi nghe thấy một giọng nói sau lưng:
- Anh tặng em một thứ, em thử đoán xem là cái gì ?
Tôi ngoảnh đầu lại . Nhậm Trác Văn đang ôm một thứ rất to .
- A ha! Diều gió! – Tôi kêu lên và bật dậy như trẻ con . - Diều gió đầu hổ! Anh mua ở đâu thế ?
- Tự làm lấy đấy, bằng chiếc tay này! – Anh cười sau đó nói rất hàm súc - Chiếc giều gió bay mất mười lăm năm trước đây đấy, em có cần không ?
- Tôi giật lấy chiếc diều gió, kêu toáng lên:
- Ðương nhiên là cần, anh vốn nợ em cơ mà!
- Lẽ nào em không nợ anh cái gì ?
Tôi đỏ mặt lên, giơ tay ra cho anh .
- Cho anh đấy, anh chặt đi!
Anh cười . – Anh sẽ gìn giữ cánh tay này và cả chủ nhân của nó .
Tôi cầm diều lên, chạy ra ngoài . Bên ngoài kia, làn gió vi vu chào đón tôi . Ðúng là một ngày đẹp trời để thả diều .1935