"Lạy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ" Ngày ấy quen nhau, nhà tôi biết tôi là con chiên ngoan đạo, biết tôi là thiếu-nữ thánh-thiện ngây thơ, biết tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên đã cám dỗ tôi bằng mọi cách, đã bao quanh tôi bằng những chiếc vòng đủ màu sắc làm tôi mờ mắt, làm tôi quên mất những điều tâm-niệm khi tôi trưởng thành. Nhà tôi lúc ấy chỉ là anh chàng ngoại đạo biết yêu người có đạo nên tôi đoán sau một đêm mất ngủ, sau một đêm tính toán cộng trừ, nhân chia cuộc đời, đã xoay ngược cái kim đồng hồ, xoay hẳn 180 độ để bước trên con đường từ Chùa dẫn đến nhà thờ một cách thật la ngay ngắn, trang nghiêm, đàng hoàng. Nhà tôi đã tự tham dự những khoá học giáo-lý ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế mà tôi không hề hay biết, vì cái chiêu bài dụ dỗ của nhà tôi lúc đó nên... "Ngây thơ tôi nào có biết gì, đến khi tôi hiểu thì tôi đã... làm lỡ đời tôi...". Thật đấy quý vị ạ, chàng lúc đó rất siêng năng đi nhà thờ, rất siêng năng tham dự những buổi tĩnh tâm trong mùa Chay Thánh. Chàng đưa tôi đi hết nhà thờ này đến nhà thờ khác, từ những Thánh lễ cổ-truyền ở nhà thờ Đắc-Lộ đến những buổi giảng phòng ở nhà thờ Huyện-Sĩ, nếu quý vị ở vào địa vị tôi lúc đó chắc cũng như tôi chứ chẳng khác gì. Sáng Chủ-nhật nào chàng cũng đạp chiếc xe đạp lóc-cóc từ Khánh Hội sang mãi bên Trương Minh Giảng, con đường thật xa để đưa tôi đi lễ. Một hôm con bé còn đang say sưa ngủ, bỗng bị Mẹ gọi dậy vì chàng của tôi đã đến. Nhìn đồng hồ trên tường... trời ơi! mới có 4g sáng mà chàng đã đến để đưa tôi đi lễ, rõ khổ cho tôi vì chàng chẳng nhớ đến giờ giấc của các Thánh lễ. Tôi, Mẹ nhìn nhau lắc đầu. Mặc chàng ngồi ở phòng khách tôi lên lầu ngủ tiếp mặc kệ Mẹ cằn nhằn, lúc ấy tôi vẫn là con bé thích ăn, thích ngủ nên cái sự "ngoan đạo" quá đáng của Chàng làm tôi bực mình. Những lúc như vậy, tôi có cằn nhằn, thì chàng lại lên giọng đạo đức một cách thật dễ thương: - Tại anh thích đưa em đi lễ thật sớm, sáng sớm đi lễ mình cầu nguyện Chúa dễ nhậm lời hơn... Trời ơi! nghe một người ngoại đạo nói như thế làm sao mà không thương cho được? không rung động cho được phải không quý vị? Cái điệu này các Cụ còn bị lầm huống gì tôi. Đã vậy lúc đó cái gì chàng cũng cho tôi là Nhất, nào là Em ngoan nhất, em hiền nhất và em cũng dễ thương nhất nữa... Cuộc đời là những gì không trọn vẹn, cuộc đời là những gì không như ý, cho dù tôi vẫn không nghĩ đến chuyện trăm năm gá nghĩa cùng chàng. Nhưng rồi định mệnh đã đẩy đưa chúng tôi ra đi, đưa chúng tôi đến một chân trời mới. Trước khi đến chân trời mới, chúng tôi đã dừng chân ở đảo Pulau Bidong. Ở đây, mọi người đều phải tham gia những công tác của đảo trước khi đi định cư ở một nước khác. Vì có giọng nói ngọt ngào chứ không chua như bây giờ nên lúc đó tôi đã được chọn làm xướng ngôn viên của đảo, với sáng đọc tin tức, chiều đọc bản tin nhắn người vượt biển, trong khi chàng của tôi sau giờ làm việc ở văn phòng, chàng đã học thêm giáo-lý ở một nhà thờ bé nhỏ trên đồi. Cứ thế, gần 3 tháng chúng tôi rời đảo để sang Mỹ với nhiều mộng mơ nơi vùng đất Tự-do mà biết bao nhiêu người đang ước ao đặt chân đến. Như tôi đã nói, "đời không như là mơ nên đời thường giết chết mộng mơ", thật đúng như câu hát mà tôi thường nghe ngày xưa. Từ Los Angeles, chúng tôi đi Dallas, từ đó chúng tôi về Lawton bằng một loại máy bay nhỏ như một loại xe bus dưới đất vì thỉnh thoảng phải hạ cánh để bỏ khách xuống. Đến phi-trường Lawton, nhìn quanh thật ngỡ-ngàng, phi-trường vắng vẻ tiêu điều như một phi-trường Pleiku mà tôi đã ghé đến ngày xưa. Chúng tôi được một Linh-Mục VN ở nhà thờ Lawton đi đón, tôi lúng-túng bước xuống trong chiếc áo dài may trên đảo dùng để mặc trong ngày đi định cư. Gió lồng-lộng, tà áo tôi bay phất phới như bay mất những ý nghĩ đẹp mà tôi đã có trong đầu trước khi đặt chân đến bên này. Vị LM đưa chúng tôi đến căn nhà mà nhà thờ đã thuê cho chúng tôi trong những bước đầu ở đây. Bước vào trong, tôi thất vọng, chán nản, nhìn giường chiếu, đồ đạc chung quanh làm tôi buồn muốn khóc nhưng không dám khóc vị sợ làm nản tâm hồn chàng. Cái nóng ở đây không giống cái nóng ở Saigòn nên làm tôi khó chịu, cái quạt nước dưới cửa sổ chạy ầm-ĩ làm tôi trằn trọc mãi. Chàng nằm dưới đất, tôi trên giường, đêm đêm có tiếng dế mèn, có tiếng ếch nhái kêu inh-ỏi làm tôi buồn não-ruột, đã vậy thỉnh thoảng lại có tiếng nổ ầm đâu đó từ một căn cứ quân-sự làm tôi hoảng hốt giật mình, cứ tưởng như mình còn đang ở VN, đang sống trong thời gian chiến tranh pháo-kích. Một vài ngày sau đó, chàng được rửa tội để chính thức là người có đạo như tôi, để chính thức cùng tôi bước vào nhà thờ một cách đàng hoàng không e-ngại. Chúng tôi may mắn được nhà thờ chuẩn bị mọi thứ cần thiết mà một đám cưới phải có tại Thánh đường, cũng như tiệc mừng mà bất cứ đám cưới nào cũng có. Xúng-xính trong chiếc áo cưới rộng hơn mình đã được những người khéo tay thâu hẹp lại làm tôi cay đắng. Trong Thánh lễ, Cha giảng gì tôi chẳng nghe rõ, tôi chỉ biết tôi đang cô đơn, tôi chỉ biết tôi và chàng là 2 kẻ lạc-lõng không người thân. Cha mẹ tôi đó, anh chị em tôi đông lắm, họ hàng tôi thật nhiều, bạn bè tôi cũng thật là đông, nhưng sao không một ai bên cạnh? Tôi tủi thân, mũi tôi cay nồng, nước mắt tôi bắt đầu rơi từ từ xuống má, xuống môi. Khi Cha bảo chúng tôi nắm tay nhau, chàng xiết nhẹ tay tôi, cái xiết tay của chàng như an-ủi, như vỗ-về từ nay chỉ còn có tôi và chàng sánh bước trên đường đời đã làm tôi khóc sướt mướt% Tiệc cưới của chúng tôi gồm những món ăn do một nhà hàng Tàu đảm trách mà nhà thờ đã bỏ tiền ra để khoản đãi trong đám cưới của chúng tôi. "Ơn ai mang lại từ trời..." Vâng, ơn ai mang lại từ trời!..." Sau đám cưới chúng tôi là vợ chồng, sáng sáng đi học anh-văn, chiều thả bộ đến nhà những người VN mới quen biết. Nhưng có những sáng Chủ-nhật trời mưa thật to, mưa tầm mưa tã, không áo mưa, không dù che, chúng tôi đành phải ở nhà đọc kinh. Bởi tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên cảm thấy không yên lòng những sáng như vậy. Nhà tôi đã phải ngồi đọc với tôi đúng 150 kinh tức 3 chuỗi tràng hạt trước khi bước xuống giường. Nhà tôi lúc đó ngoan lắm nên bảo sao nghe vậy. Hai chúng tôi cùng đọc, nhưng không biết đọc được bao lâu, được bao nhiêu lần tôi cũng quên không đếm và khi nhớ lại thì nhà tôi đã quên hết mọi kinh, chẳng còn nhớ được kinh nào. Tôi cũng không còn cái uy của người vợ mới cưới hay của người yêu bé nhỏ như xưa nên nhà tôi hình như quên cả con đường dẫn đến nhà thờ... Nhưng, tôi vẫn là tôi, dù con đường từ nhà đến nhà thờ có xa cách mấy, dù tay bồng tay bế, tôi cũng không bao giờ bỏ một Thánh Lễ nào nên tôi tự hào tôi là người ngoan đạo, cho dù tôi hiểu cái ngoan đạo của tôi không giống với cái ngoan đạo của quý vị, nhưng tôi đã tìm về tôi của những ngày xưa cũ. Bởi thế, những lúc giận nhau, những lúc giận nhà tôi đến tím gan, tím ruột nhưng vẫn cứ phải bấm bụng làm lành để "chúng mình" cùng nhau dắt con đến nhà thờ tham dự Thánh lễ cho phải phép đạo. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, tôi thấy tôi tức nhà tôi, tức tôi, tức luôn cả đời, chỉ vì cái giáo lý mà nhà tôi học ngày xưa không đủ vững, chỉ vì cái kim đồng hồ của nhà tôi quay ngược quá nhanh thành ra ngày hôm nay tôi mới khổ đến như thế. Đã vậy, những lúc đi nhà thờ, gặp điều gì không vừa ý là về nhà hết ý-kiến này đến ý kiến nọ làm tôi nhức cả đầu, làm tôi phát giận để 2 đứa cãi nhau chí-choé. Những lúc như thế, nhà tôi phân bua: - Có vậy mà em cũng giận, anh chỉ nói sự thật chứ anh đâu có bôi bác gì mà em nổi nóng. Chúa đâu có bảo mình phải đồng loã với những gì mà mình cho là không đúng đâu? Em rõ là vô lý. Đấy, nhà tôi là một trong những ông chồng theo đạo vòng vòng như vậy đấy quý vị ạ. Bởi thế, biết tính nhà tôi không còn "ngoan đạo" như xưa nên tôi cũng chẳng dám để nhà tôi ngồi gần ba tôi vào những sáng Chủ-nhật sau Thánh lễ bao giờ, vì ba tôi cũng là người có nhiều ý-kiến, cho dù Ba tôi chẳng thuộc cái loại "Lậy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ" như nhà tôi, nhưng sáng Chủ-nhật nào sau khi đi lễ về đều nghe Ba Mẹ tôi cằn-nhằn nhau: - Khiếp, sáng nay Cha giảng gì mà lâu thế không biết, Ba đếm đúng 120 chữ "Tôi" trong bài giảng của Cha, Cha giảng gì lung-tung, Ba chẳng hiểu gì cả. Mẹ tôi tức lắm kêu lên: - Cái ông này rõ hay, chẳng có ai như ông cả, không có lần nào đi lễ về mà đừng có bới móc hay châm biếm, lần nào đi lễ về cũng có chuyện để nói, đi lễ vậy thì ích gì? Khi tôi nhắm mắt đưa chân đi với nhà tôi trên con đường mà tôi hy-vọng và cứ nghĩ tôi có thể giúp nhà tôi tìm ra chân lý, hoặc cải hoá được nhà tôi theo cái định-lý ngoan đạo mà tôi ước mong. Nhưng thật khổ cho tôi với cái đạo tự tâm mà nhà tôi đã tự vạch cho riêng mình. Quý vị không thể nào hiểu nổi những đau khổ của tôi khi phải đương đầu với những chuyện lười biếng của nhà tôi. Nếu có bảo nhà tôi đi xưng-tội, nhà tôi lại oang-oang: - Anh thấy anh đâu có tội gì mà phải xưng? Tôi nhăn mặt: - Sao lại không? này nhé! tội nói dối vợ, tội xạo với con, tội ăn vụng, tội lười biếng, thiếu gì tội phải xưng... Nhà tôi cười vớt vát: - Ừ, thì em biết hết tội của anh rồi, em xưng tội giùm anh đi, nhưng nhớ đừng có xưng tội ăn vụng đó, anh không có ăn vụng bao giờ cả, ăn vụng là chết với bà làm sao anh dám. Nghe nhà tôi nói tức anh-ách. Ngày xưa chưa lấy nhau, nhà tôi đâu có ngại đường xa, dù có phải qua mấy cái dốc cầu vẫn cứ thấy nhẹ nhàng như thường, vẫn cứ năn-nỉ để đưa tôi đi lễ, đi nhà thờ, đi nghe giảng... thế nhưng, khi lấy được vợ rồi thì con đường có gần cũng hoá xa, mà mình thì cứ phải mỏi miệng dịu dànng như Thánh nữ để năn-nỉ ỉ- ôi, lôi kéo để dẫn bằng được "Sa-tăng" đến nhà thờ nhờ Chúa cảm hoá. Nhiều lúc giận quá tôi phải nói: - Mình kỳ ghê đi, hồi chưa lấy người ta mình đâu có lười như vậy? Lấy được rồi quên hết nhà thờ, nhà thánh. Biết mình như thế, có trải chiếu hoa, có lót vàng dưới chân cũng không thèm lấy mình đâu. Người gì mà lười như vậy không biết nữa. Mai mốt chết, người ta lên thiên đàng đừng có nắm chân người ta đó, nắm chân người ta đạp xuống cho mà coi. Vâng, đấy là cái sai lầm mà tôi không thể làm lại từ đầu. Đấy là cái vấp ngã mà tôi không thể đứng lên để quay đầu lại. Bởi thế tôi cứ hỏi lòng, lấy phải ông chồng theo đạo vòng-vòng như tôi đã là một vấn đề nhức đầu huống gì lấy phải ông chồng ngoại đạo, mỗi người một bàn thờ, mỗi người một lời kinh thì làm sao hạnh-phúc? thì làm sao hợp ý trong cuộc sống hằng ngày? Bởi cái lỗi lầm không bao giờ sửa được như một vết chàm in đậm trên da thịt đã đưa tôi đến kết luận sau cùng, nếu sau này, các con tôi lớn lên, chắc chắn tôi sẽ bảo các con đừng nên lấy người theo đạo vòng-vòng như bố và cũng đừng lấy người khác miền như Mẹ mà hãy "Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn"... phải thế không quý vị?...
2705
Hai câu nói trên đã được truyền miệng qua các cụ, qua miệng mẹ tôi như kinh tụng hằng ngày, lúc đó tôi chưa hiểu đời, hiểu người cho lắm, thành ra câu nói trên hình như không nhập tâm tôi cho mấy, cho dù trong lòng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lấy một anh chàng ngoại đạo nào đó khi lớn lên.
Ngày xửa, ngày xưa, ngày mà tôi chỉ là một thiếu nữ ngây thơ, thánh thiện, thánh thiện vô cùng để có thể trở thành một nữ tu như bao nhiêu nữ-tu khác trong tu-viện. Thế nhưng, đời không như là mơ nên đời đã giết chết giấc mơ của tôi, giấc mơ trở thành nữ-tu mà tôi hằng ao ước. Cũng vì trời không chiều lòng nên tôi đã trở nên Tôi của hiện tại, nghĩa là tôi của những bổn phận, của những trách nhiệm như bao nhiêu người đàn bà chung quanh.
2C tôi không kìm được những giòng nước mắt rơi như suối đổ, tôi không kìm hãm được những tiếng nấc nghẹn-ngào tấm tức từ ngày tôi ra đi. Tôi khóc đến nỗi Cha phải ngừng giảng, mọi người bàng hoàng lo lắng nhìn chúng tôi kinh-ngạc. Tôi khóc như chưa bao giờ tôi khóc, tôi khóc như bị cha mẹ ép duyên... Nhưng rồi, Thánh lễ cũng qua đi, tôi đã là của chàng, chúng tôi là của nhau, mọi người ân-cần đến ôm chúng tôi với những lời chúc tốt đẹp nhất. Họ hàng, anh em chúng tôi bây giờ là những người xa lạ, là những người không ruột thịt, là những người chúng tôi chưa hề quen biết, họ đã bao bọc chúng tôi qua sự trìu mến, qua tình con người giữa con người, qua tình anh em cùng một Chúa trên cao.
Thế là tôi xa thành phố ấy, xa một cách thật bất ngờ vội vã, không kịp một lời chào, không kịp một chia tay khi sự hỗn loạn về chính trị, về đất nước trong cơn mù mịt. Tất cả như quay cuồng, như bão táp... Người người rủ nhau ra biển, người người rủ nhau tìm đường vượt biên giới, băng qua rừng sâu, băng biển dữ để tìm một lối thoát mà tôi là một trong những người bị cuốn hút trong giòng sông lịch sử đó.
Khi tất cả mọi chuyện tạm ổn định. Khi còn đang tranh tối, tranh sáng với những đường lối chính trị vừa thay tên đổi chủ, tôi trở về thăm lại thành phố cũ, thành phố của một thời kỷ niệm ngọt ngào để tìm, để kiếm những gì còn vương vãi hay rơi xót ở một góc xó nào, nhưng tìm hoài vẫn không gặp, vẫn không thấy... Đi ngang ngôi nhà cũ của mình nay cũng đổi chủ cho dù không bán, không sang nhượng. Hai cây dừa cảnh trồng 2 bên cổng không còn nữa, cây leo 1 bên tường với những chiếc lá to như chiếc dù con chỉ còn lác đác vài lá trên cao, cái xích đu nằm 1 góc sân thường ngồi một mình trong tối nhìn trăng sáng trên đầu những ngọn thông nay cũng không còn... Tất cả như bị đảo lộn, như trống trơn, nhìn lên căn gác lửng của những tối học bài, của những đêm không ngủ cắn bút tập làm thơ, của những đêm hốt hoảng nhìn hỏa châu chiếu sáng một góc trời... kỷ niệm nhiều quá, kỷ niệm chênh vênh trên những cành ổi của những trưa hè im lặng, vừa học bài vừa cắn dòn những trái ổi xanh chưa kịp chín... Tuổi thơ tôi, hạnh phúc tôi đã bỏ lại đằng sau, bỏ lại một cách vội vàng không dự đoán như những tình cảm nào đó cứ lẽo đẽo theo sau nhưng tôi cứ ngu ngơ không quay lại, tại tôi kênh kiệu hay tại tôi chưa đủ lớn, chưa đủ trưởng thành trong tôi để đưa tay bắt lấy.
Những bước chân như không định hướng cứ thả dài trên cát, bãi biển ít người qua lại... ngoài xa thật xa, cù lao xanh mù mịt tít ngoài khơi với ngọn hải đăng cô độc, sừng sững chứng kiến những đổi thay như chứng kiến một ngọn sóng thần vừa đổ ập lên bờ, cuốn tất cả nụ cười hạnh phúc ra khơi. Ghềnh Ráng vẫn vậy, những tảng đá to như rêu mốc nằm kềnh lên nhau như thách đố thời cuộc. Những con sóng vẫn ồ ạt đập mạnh vào những tảng đá dưới chân núi, dưới ghềnh làm bắn tung toé nước như vô tình không biết đến cái đau ngút ngàn của người đang đi tìm kỷ niệm, đang bị kỷ niệm đùa cợt như nắm cát đang từ từ rơi qua kẽ những ngón tay cho dù cố nắm thật chặt, nhưng không nắm nổi, không giữ được cho mình. Suối tiên không còn nước ồ ạt như xưa, chỉ còn róc rách tuôn trên những tảng đá không đều nhau tạo thành những âm thanh buồn bã. Leo từng bước, lách luồn qua những bụi gai, len lỏi mãi rồi cũng lên được đến mộ Hàn Mặc Tử. Con đường cheo leo vẫn khó đi như ngày nào. Đứng bên mộ nhìn ra biển, nhìn ra khơi, vài chiếc thuyền con lênh đênh trên sóng, nhìn lên đỉnh núi, một thế giới riêng biệt cách ngăn với thế giới bên ngoài, nhìn quanh nhìn quẩn, những chùm chà là chín quả nằm giữa những bụi gai vẫn ở chỗ cũ như không thay đổi, nhưng cũng không còn làm cuống quýt, hăng hái lần mò len vào bụi gai để hái cho bằng được những chùm chà là đen bóng đang nằm xoải theo sườn núi, mặc kệ người khác cứ phải cuống quýt lo âu đưa tay chụp đỡ, hay lại nhõng nhẽo vòi vĩnh những trái cây rừng muốn ôm đầy tay.
Tất cả như những chiếc lá rừng bị gió cuốn đi, như bọt biển tan vỡ rồi lại từ từ cuốn ra xa. Tất cả như xa ngoài tầm với, như một thất vọng, hụt hẫng, cứ đeo theo bên mình để rồi kết tụ lại thành những nỗi buồn cứ bị giằng co, xâu xé, héo mòn dần như những con mọt đang gậm nhấm những cuốn sách hay, đã bị bỏ quên trong hộc tủ.
Một ngày của 30 tháng 4 đi qua như một cuồng phong quét sạch mọi sự bình an, mọi hạnh phúc. Tất cả như chơi vơi, bồng bềnh trên biển cả mênh mông, không phương hướng. Sài Gòn ngơ ngác buồn đau, Sài Gòn thê lương ảm đạm, Sài Gòn chít khăn tang để tang cuộc tình, để khóc người ra đi, khóc người ở lại. Khóc như khóc cho cái tên Sài Gòn đang bị niêm phong, đang bị truất phế... Sài Gòn ngày ấy tội nghiệp, Sài Gòn thoi thóp, chỉ còn nghe những tiếng thở dài, những tiếng thầm thì to nhỏ nơi những quán cóc, nơi những góc đường. Sài Gòn mất dần niềm tin, Sài Gòn không còn hy vọng...
Nhưng!... Sài Gòn như một đốm lửa trong đống tro tưởng đã tàn lụn, đã tất ngấm... Sài Gòn lại bùng lên. Cái tên Sài Gòn lại chễm trệ trên môi người ra đi, trên môi người ở lại... nhưng Sài Gòn bây giờ sao xa lạ quá, SG không còn là SG của ngày xưa. SG không còn êm ả, trữ tình ngày nào, SG bây giờ vội vã hơn, tất tả hơn, xô bồ hơn, bụi bặm hơn và hình như mưa, nắng cũng thất thường hơn.
Sài Gòn từ từ biến mất phía dưới, nắng chiếu qua khung cửa sổ của máy bay, tôi nhếch người ngồi dựa vào thành ghế, sửa lại thế ngồi để tránh cái nắng đang chiếu vào mặt.
- Xin lỗi, cô vừa về thăm nhà?
Giật mình nhìn sang bên cạnh:
- Thưa vâng
Người bên cạnh bắt chuyện:
- Cô về thăm nhà thường xuyên lắm phải không?
- Dạ không, đây là lần đầu, thế còn ông? chắc ông cũng đã về nhiều lần:
- Không, tôi cũng như cô, đây là lần tiên tôi về thăm nhà sau 20 năm.
Tôi mỉm cười im lặng, người đàn ông ngồi bên cạnh lên tiếng tiếp:
-Từ khi lên máy bay đến giờ, tôi thấy cô cứ đăm chiêu nhìn ra cửa sổ đã lâu, chắc là cô đang nhớ Sài Gòn phải không?
Tôi lắc đầu:
- Nếu nói nhớ SG thì chẳng có gì để nhớ nữa, chỉ thấy tiếc nuối thôi. SG bây giờ khác lạ quá, không giống ngày xưa nữa. Tôi có cảm tưởng như mình không có chỗ đứng khi trở về. Thấy mình lạc lõng...
Chợt thấy mình nói hơi nhiều, bộc lộ cảm nghĩ của mình hơi nhiều với người khách đồng hành bên cạnh nên mỉm cười chữa thẹn:
- Xin lỗi ông nhé, đó chỉ là cảm nghĩ riêng của tôi thôi.
- Không không, cô nhận xét đúng, SG bây giờ thay đổi nhiều, nhanh quá đến nỗi tôi không thể tưởng tượng được, nhưng đó chỉ là bề mặt, SG đàng sau cũng vẫn lam lũ, nghèo khổ không đủ ăn, đủ mặc... à, Cô về kỳ này định bao giờ trở lại?
Tôi đăm chiêu nhìn ra cửa sổ:
- Có lẽ còn lâu lắm, tôi có cảm tưởng SG không có chỗ cho tôi nữa, ông biết không? đi giữa thành phố SG mà mình có cảm tưởng như đi giữa một nơi thật xa lạ, không quen thuộc, không liên hệ, đi giữa phố đông người nhưng mình lại cảm thấy cô đơn, cái cô đơn không giống cái cô đơn của mình ở ngoại quốc, cái cô đơn ngay tại quê hương mình thấy xót xa, thấy thương mình, tội nghiệp mình lắm. Có lẽ tại tôi đa cảm nên cái nhìn có vẻ lệch lạc, buồn cười lắm phải không? Thế còn ông, ông về lần đầu thấy thế nào? vui chứ?
Như một thói quen, người đàn ông đưa tay vào túi móc gói thuốc ra, rút một điếu, ngập ngừng vài giây rồi lại bỏ điếu thuốc vào chỗ cũ, giọng chậm rãi:
- Đêm qua ngồi một mình ở quán cafe, không hiểu sao tôi lại cứ dằn vặt mình bằng những câu hỏi nếu ngày ấy tôi đừng đi thì tôi sẽ ra sao? hay nếu lần này tôi đừng trở về... phải chi tôi đừng trở về thì hơn.... nhưng, dù sao thì cũng đã trở về, dù sao trở về lần này cũng tốt, để mình có thể nhìn kỹ mọi sự việc hơn, để hiểu rõ người, hiểu rõ mình hơn... có lẽ cô và tôi cùng giống nhau trong cái nhìn của người trở về...
Nghe tiếng nói đều đều của người ngồi bên cạnh như tâm sự, như kể lể, phân bua làm lòng tôi chùng xuống. Tôi im lặng, người ngồi bên cũng im lặng. Cái im lặng như hai con đường song song, cứ đi hoài trên lộ trình như quen, như xa lạ... Tất cả chìm vào im lặng. Máy bay đi vào vùng tối, hình như là đêm của một không phận nào đó nên bên ngoài trời đen thẫm. Mọi người trong tàu mệt mỏi ngủ vùi trên tuyến đường dài. Người đàn ông đứng lên với lấy cái gối, cái chăn ở hộc tủ phía trên trao cho tôi, ân cần:
- Cô mệt không? lạnh không? Nhắm mắt một tý cho khoẻ. Chuyến bay còn dài lắm.
Tôi mỉm cười, đưa tay đỡ lấy cái gối, cái chăn đắp trên tay người đồng hành bên cạnh. Nhìn người đàn ông cúi xuống lấy quyển sách trong túi xách dưới chân, tự dưng thấy mệt mỏi, thấy ngậm ngùi, tự dưng thấy thèm một bờ vai để dựa, để kê đầu....
Xoay người nhìn ra của sổ, kéo tấm chăn đắp kín phía trước, kéo che cả hai vai mình... bên ngoài trời vẫn tối, những vì sao lấp lánh trong bầu trời đêm, dựa đầu vào khung cửa... một vì sao băng vừa đổi chỗ, quá nhanh không kịp đọc một lời nguyện ước...
Nguyenthitehat