Thiếu nữ ngập ngừng đứng trước một tiệm bán bút trong một khu thương mại. Để chắc ăn, cô nhìn lại địa chỉ trong miếng giấy nhỏ cầm tay rồi mới bước vào cửa tiệm.

Đó là một tiệm chuyên bán bút và những đồ linh tinh sách vở học trò... Tuy tiệm tương đối nhỏ, nhưng lối trang trí khá mỹ thuật, với những tủ kính bày biện cơ man những loại bút khác nhau. Bên cạnh điểm tô thêm mấy hình tượng làm bằng crystal, soi dưới ánh đèn, trông càng lung linh, đẹp mắt...

Thiếu nữ lang thang nhìn một cách lơ đãng những cây bút nằm ngăn nắp. Có nhiều loại mang những nhãn hiệu nàng không hề biết tên, nhưng bên cạnh là một giá tiền cắt cổ. Bỗng dưng, nàng chú ý đến một cặp bút được đặt ngăn nắp bên nhau, bên cạnh điểm tô bằng một cái tháp bảy từng bằng thuỷ tinh trong suốt. Vốn là người giầu tưởng tượng, hay nhân cách hoá, nàng mỉm cười khúc khích nghĩ rằng: Chà, trông "cặp vợ chồng" này đẹp đôi nhỉ? Lại còn được gần tháp thờ Sá Lợi Phật nữa, tha hồ mà thích nhé!

Còn đang lăng quăng với những ý tưởng tào lao Một gã bán hàng, mặt mũi bảnh bao, diện một bộ complet mầu đen. Trên cổ treo lủng lẳng một chiếc cà vạt màu vàng chói. (Hình như bộ quần áo mới cắt chỉ mặc lần đầu hay sao mà thấy hắn có vẻ hơi cứng trong mỗi bước đi, cộng thêm tiếng sột soạt của vải mới làm cho hắn trông nửa quê mùa, nửa thời thượng. Nếu nhìn kỹ hơn một chút, cộng thêm sự tưởng tượng phong phú - một cách ranh mãnh - có lẽ, trông hắn hơi giống... cây bút mực mầu đen, viền vàng..) Mon men, đến gần, hắn hỏi han:

"Này cô, cô cần giúp gì không?"

Thiếu nữ giật mình quay lại, nhưng không chú ý lắm đến hắn, mà lại nhìn suốt vào bên trong như có ý tìm kiếm. Ngập ngừng, thiếu nữ cất giọng:

"Xin lỗi, có... Bút Chì ở đây không ạ?"

Gã nhìn thiếu nữ một thoáng rồi nhanh nhẩu trả lời:

"Ồ... Tưởng gì... Bút chì ở đây thiếu giống. Cô muốn mua bao nhiêu cũng có... (chỉ tay về cuối phòng, trên một cái kệ gần sát đất, ngổn ngang nhiều phong bút chì được để trong một basket bằng nhựa). "

Thiếu nữ hơi đỏ mặt lúng túng:

"Không...., không! Tôi muốn hỏi.... anh Bút Chì cơ! "

"À... Bút Chì chưa tới.. Nhưng có tôi (vỗ ngực), Bút Mực. Thằng kia, (chỉ một tên đang ngồi ủ rũ góc phòng) Bút Lông. Chúng tôi có thể giúp cô được điều gì chăng? "

Một thoáng thất vọng trên đôi mắt thiếu nữ:

"Không..., không! Cám ơn ông... "

Nói rồi, nàng dợm bước quay lưng...

Bút Mực tỏ vẻ hơi khó chịu, cho rằng mình - dân " bút mực" - ngon thế này mà cả đến một cô gái rất... tầm thường cũng chỉ nhìn mình bằng một cái nhìn thoáng qua... Hắn gọi giật:

"Này cô! "

"Hử? "

Hơi cao giọng, hắn hỏi:

"Thằng Bút Chì có cái gì mà cô phải thích? Nó chỉ là loại bút... hạng bét trong tất cả các loại bút. Chỉ cần bỏ ra một đồng cũng có thể đem về cả chục cây. Còn tôi đây nè... (vỗ ngực), Bút Mực, đã ngon rồi, lại còn có cái mác "Mont Blanc" ....

Thiếu nữ đỏ bừng mặt vì câu nói thô lỗ của gã bán hàng. Nàng cau mày, tỏ vẻ bất mãn, ngắt ngang:

"Ông này ăn nói hồ đồ quá đi thôi! Tạo sao ông lại... "dám" gọi người ta bằng  thằng? "

Bút Mực cáu tiết:

"Không gọi nó bằng thằng thì chẳng lẽ lại phải gọi nó bằng "Ông - Cố - Nội" chắc? Nó là bạn... hạng bét của tôi thì tôi muốn gọi bằng gì mà chả được! "

Thiếu nữ nhìn Bút Mực bằng đôi mắt đầy thất vọng, khuôn mặt khẽ chao đi, nàng thấp giọng:

"Phải rồi, mỗi người đều có sự tôn trọng riêng với đối tượng của họ. Tôi cũng thật vô lý khi đã nói lên những điều đó.. (đổi giọng tâm sự, khuôn mặt nàng hơi hồng lên vì thẹn). Tôi thích.... Bút Chì (nàng kiểm duyệt bớt chữ anh ) vì dễ vẽ..., dễ bôi... Nhất là người ưa viết như tôi thì lại càng phải thích lắm! (đôi mắt trở nên mơ màng...) Tựa như tâm thức hay khởi lên những ý niệm, cái nào đẹp thì giữ, cái nào xấu thì bôi đi... Đâu có như bút mực, viết xong, muốn bôi đi phải để lại trên tờ giấy của tâm thức một dấu mực đen xì... Xấu xí lắm cơ! Lại nữa, những loại bút có "mác " như ông thì lại càng nên... xa tránh, vì ngã mạn to hơn núi Tu Di, chỉ tổ làm cồng kềnh thêm tâm thức mà thôi! "

Bút Mực mù mịt, giọng bối rối:

"Cô đây mới thực ăn nói hồ đồ... Cô nói cái gì tôi chẳng hiểu?! Cái gì là Ngã mạn? Gì là núi Tu Di? Đang nói chuyện nọ, cô xỏ chuyện kia... Thiệt tình! Cô làm tôi muốn weng beng luôn cái đầu! "

Thiếu nữ cười khúc khích:

"Thì tôi đang nói... ông đó! Mù mịt, hồ đồ! Chỉ có cái " mác " bên ngoài, còn tâm thức thì.... rỗng tuếch!"


Nói rồi, nàng quay lưng bỏ đi... Bút Mực:

"Này cô! "

"Gì nữa đây? "

Tằng hắng, Bút Mực nói:

"Nếu tí nữa thằng Bút Chì... (vội bịt miệng, len lén nhìn thiếu nữ, sợ nàng lại cau mày, nổi đoá như lúc nãy...) À quên..., (tằng hắng) Nếu tí nữa... Bút Chì có đến, cô muốn nhắn gì không? (hắn cũng cẩn thận, bắt chước nàng " kiểm duyệt" chữ thằng)

Thiếu nữ tư lự... Khuôn mặt nghiêng nghiêng, hàm răng cắn nhẹ lấy môi dưới:

"Thật ra, tôi cũng chẳng có điều gì quan trọng để nhắn cả. Chỉ vì tình cờ đi ngang qua đây muốn ghé thăm thôi. Nhưng nếu được, xin ông nhắn lại lời này:  Có Con-Múa-Rối ghé qua..."

.......

" Ta là Con-Múa-Rối,
Quậy cho đời thêm vui,
Múa theo đời biến hoá...
Trùng trùng duyên nghiệp thôi....."



Chiêu Hoàng




1640




"Đợi tôi với.... Bác tài ơi, đợi tôi với..."

Con bé vừa chạy, vừa la bải hải khi thấy chiếc xe bus bắt đầu chuyển bánh. Tiếng gọi lanh lảnh như một niềm thất vọng gấp gáp sắp đổ ập xuống đầu, cùng với tiếng chân chạy thình thịch của nó làm cho túi vải đeo đập liên tu sau lưng. Tiếng kêu bay bắn đi, nhanh hơn bước chân chạy, lọt thẳng vào tai bác tài xế. Ông ngoảnh lại, nhìn thấy một con bé khoảng 13,14 tuổi cùng với bà mẹ đang gấp gáp chạy về phía mình, hai tay nó quơ quào loạn xạ cố gây thêm sự chú ý của ông.

Chiếc xe bus mới dợm bánh, nay từ từ dừng lại. Bác tài bấm nút mở cửa chờ nó đến. Khoảng vài phút sau, con bé đã đứng trên bậc tam cấp của xe, nó vừa thở hổn hển, vừa tụt cái túi đeo sau lưng lục tìm vé đưa cho bác tài. Một số khách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ ấy. Một bà với khuôn mặt khó đăm đăm nhìn nó không mấy gì thiện cảm, gắt:

"Thôi, nhanh lên đi cho người ta nhờ. Đã hẹn giờ giấc đoàng hoàng rồi mà lại còn trễ. Đúng là...người Việt Nam!"

Bà nói thế, tựa như bà là một người ngoại quốc nào đó chứ không phải người Việt. Nhưng rõ ràng bà cũng là người đồng hương cùng nói một ngôn ngữ với nó. Khuôn mặt bà loè loẹt, dị dạng do sự "tân trang" sửa chữa quá nhiều nên trông có cái vẻ khó tính một cách dị thường. Một số người Việt khó chịu khi nghe bà nói câu đó. Họ quay lại nhìn bà, nhưng chẳng ai nói gì. Con bé thì cuống cuồng trình vé rồi đảo mắt một vòng tìm chỗ ngồi ghi trên tấm giấy. Ánh mắt nó đậu ở một ghế còn trống gần cửa sổ. Bên cạnh, có một gã đàn ông đang ngồi lơ đãng...

Phải mất thêm vài phút nữa mọi thứ mới êm suôi. Con bé chen vào chỗ trống duy nhất đã dành cho nó. Nó ngồi thở dốc, nhưng khuôn mặt đầy khích động và vui sướng. Nó nhìn ra ngoài cửa sổ, đưa tay vẫy vẫy người thiếu phụ đang trông theo với một nét lo lắng rõ rệt hiện trên nét mặt:

"Má.. Con đi nghe má.... Không sao đâu mà. Con thương má... "

Nói rồi. Nó chu miệng, dán vào kiếng xe, hôn chùn chụt:

"Bye má... "

Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Tiếng bà mẹ trẻ nói với theo:

"Cẩn thận nghe con. Tới nơi nhớ điện thoại má liền nghe... "

Chiếc xe từ từ đi nhanh dần, để lại người mẹ trẻ trên bến xe. Nó nhìn theo cho đến khi bóng bà khuất sau một khúc rẽ, lúc đó nó mới thở phào. Sửa đổi lại thế ngồi cho ngay ngắn, kéo cái bịch đeo trên lưng xuống để trên đùi. Khuôn mặt nó rạng rỡ vui tươi. Có lẽ, nó đang cần phải nói. Nói thật nhiều để đổ tuôn ra những khích động trong nó. Nó lén nhìn gã đàn ông ngồi cạnh - Người đồng hành với mình đây - Nó nghĩ thầm. Trông mặt gã có vẻ... hơi dữ bởi những nét nhăn đậm trên trán và ở đuôi con mắt như những vết cắt. Gã có một vết sẹo dài chém từ góc tai trái xuống tới cằm. Đôi mắt gã hơi giảo hoạt, bất lương. Nhưng hề gì. Con bé nhìn thấy ai cũng như nhau. Nếu không nói là mọi người đều rất tốt. Nó chẳng biết gì về thế giới bên ngoài mái nhà nó thường sống, mà trong đó một bà mẹ trẻ, góa bụa luôn luôn gìn giữ nó một cách quá quắt tới độ nó cảm tưởng mình đang sống trong ngục tù. Phải nói mãi, năn nỉ mãi và quả quyết cả hơn ngàn lần "sẽ không có chuyện gì xảy ra" để mẹ nó xiêu lòng, cho nó lấy một chuyến xe đò đi dự một khóa tu tập cấm phòng ở ngôi chùa cách xa nhà khoảng sáu tiếng lái xe.

"Má à. Thiệt tình là con không hiểu sao má lại không cho con đi chớ. Má đưa con ra bến xe, con ngồi trên xe đò một mạch. Tới nơi đã có người trong chùa ra đón con rồi. Ở hai ngày là lại có người đưa con ra bến xe, con lại về với má mà... "

"Mày đi xa xôi dữ vậy. Không có người kèm sao đi tới nơi? Lỡ giữa đàng có chuyện chi thì tao biết tính sao đây chớ? Thôi, bỏ qua đi!!. (Dỗ dành) Đợi tới chừng má xin nghỉ được vài ngày thì má sẽ đi với con nghe."

"Chời! Má!! Đợi má nghỉ thì qua thời tu tập còn đâu nữa, lên trển làm chi không biết!"

Nhì nhằng, năn nỉ gần cả tháng, sau khi đã điện thoại lên chùa cả chục lần, bà mẹ mới bằng lòng đóng tiền và ghi danh cho nó. Mới sáng mơi này, trước khi đưa con ra bến xe, bà cũng còn cẩn thận, thắp nén hương lầm rầm khấn vái:

"Nam mô A Di Đà Phật. Xin trời Phật độ trì. Xin ngài Quan Âm gia hộ cho đứa con khờ khạo của con đi tới nơi, về tới chốn. Mọi điều dữ đều tai qua, nạn khỏi. (Rồi bà kể lể ỷ ôi tựa như đang nói chuyện với một người bằng xương, bằng thịt đứng trước mặt). Con chỉ có đứa con duy nhất. Từ ngày ổng mất cho tới nay, con không dám bước thêm bước nữa, mọi tình thương con đều dành cho nó hết. Nó khờ khạo, bé bỏng, cần được những bàn tay yêu thương che chở. Xin ngài độ trì cho nó đi đường bình an."

Nói xong, người mẹ trẻ vái thêm ba vái, rồi kính cẩn cắm mấy nén hương vào lư, trong khi đó, con bé sốt ruột chờ đợi ngoài cửa:

"Má ơi... Đi chưa má, trễ quá rồi đó nghe!"

Bà mẹ gắt khẽ:

"Thì từ từ chớ. Mày hối như hối tà, hối ma vậy!"


*

Xe bắt đầu ra xa lộ. Dòng xe cộ ngược xuôi, hối hả tăng theo với sự vui mừng của con bé. Nó nhìn đồng hồ. Mới có ba giờ trưa. Chắc khoảng chín, mười giờ tối mới tới nơi. Khoảng sáu giờ chiều thì xe sẽ ngừng lại ở một thành phố nhỏ cho khách ăn uống, xả hơi, đi đứng cho dãn gân cốt. sau đó đi tiếp chừng bốn tiếng nữa là tới. Ở đó đã có một chị Phật tử trên chùa sẽ đón nó tận bến. Chời. Sao mà vui thích chi đâu á!

Nó kẽ liếc nhìn gã đàn ông và mỉm cười với gã bằng một nụ cười đầy thiện cảm. Gã cũng nhìn nó, nhếch mép. Gã có thể nghe được mùi hương trinh nữ của nó thoang thoảng, cộng thêm vì ngồi quá gần, gã nhìn thấy được cả những sợi lông măng trên đôi má không son phấn. Gã còn nhìn sâu qua cổ áo, thấy được thấp thoáng một phần ngực trắng hồng. Trong gã, nổi lên một dục tâm bất chính. Gã lân la làm quen:

"Đây là lần đầu tiên cô em đi xa một mình?"

Con bé trả lời bằng một giọng khích động:

"Phải. Và điều này làm em rất sung sướng!"

Nói rồi. Con bé luyên thuyên kể về cuộc hành trình của nó. Tuy ngắn ngủi, chỉ có hai ngày. Nhưng đối với nó quả là một cuộc "cách mạng" vĩ đại, vì nó có thể thuyết phục được má nó, chứng tỏ cho má nó biết rằng, nó đã lớn!!

Gã đàn ông gật gù:

"Phải rồi. Thế giới bên ngoài thật đẹp. Đáng lý em phải biết nó sớm hơn nữa..."

Con bé mở tròn đôi mắt nhìn gã, hỏi bằng một giọng ngây thơ:

"Thiệt hả ông? Sớm hơn là bao sớm?"

"Như tui nè. Tui ra đời năm mới có chín tuổi mà đâu có chết chóc chi đâu. Đâu có bị gì..."

Con bé nghe gã nói thế. Nhưng ánh mắt nó bỗng đậu lên vết thẹo chém trên má trái làm cho mặt gã thêm dữ, ánh mắt nửa ngờ vực, nửa tò mò:

"Còn cái sẹo này là ông bị sao vậy?"

Gã đưa tay sờ cái sẹo. Ậm ừ..

"Cái này hả? Thì hồi đó...bị bệnh. Đưa vô nhà thương mổ gấp nên còn lại vết thẹo..."

Hắn nói dối trơn tru như mỡ. Vết thẹo đó, một thời dành gái, đánh nhau với nhóm băng đảng khác nên bị chém. Nhưng, hề gì. Con bé nói gì nó chả tin. Lại nữa. Gã đang nghĩ cách làm thế nào để có thể chiếm đoạn con nhỏ trước khi nó đi đến nơi muốn đến. Trông nó tinh khôi như một viên ngọc quý. Càng tinh khôi lại càng gợi cảm và làm cho gã kích thích hơn nữa. Gã chỉ có một cơ hội duy nhất là ở trạm dừng xe giờ cơm chiều. Gã nhìn con bé thèm thuồng như con quỷ thèm ăn thịt người. Trong đầu óc gã đầy tính toán. Nhưng gã hiểu, dù có ngây thơ cách mấy, nếu không khéo làm cho con bé sợ nó sẽ lánh xa. Bây giờ nó đang vui, là một cơ hội rất tốt để tạo thêm tình thân và lòng tin tưởng ở nó.

Bằng một giọng thân mật, gã gạ gẫm:

"Nè em. Tí nữa tới giờ ăn chiều, xe đò sẽ ngừng lại ở một thành phố nhỏ. Để tui đãi em một bữa cơm làm quen nghen."

Con bé ngước mắt lên nhìn gã, cảm động:

"Cảm ơn ông. Nhưng má em có gói theo thức ăn nhiều lắm. Lại nữa. Em ăn chay..."

Gã dở giọng ngang tàng, bất chấp:

"Thì ăn mặn một bữa có sao đâu. Trời, Phật có phạt mình vì tội ăn mặn đâu mà lo!!"

Con bé trợn tròn mắt. Tưởng như mình không thể tin được đôi tai đang cắm trên cái đầu nhỏ bé của nó khi nghe gã nói những câu như thế. Nó cãi:

"Ý cha! Không được đâu ông à. Em không có ăn mặn được đâu, vì má nói, phải giữ gìn cho thân tâm trong sạch trước khi thọ "bát quan trai" đó!"

Gã tò mò:

"Thọ bát quan trai là cái gì vậy hả? Sao tui thấy mấy cái đạo, cái nào cũng rắc rồi, hà rằm. Luật này, luật nọ... Nhức cái đầu!"

Con bé toét miệng cười rồi giải thích:

"Đức Phật nói một phật tử tại gia cần phải làm lễ thọ bát quan trai một tháng ít nhất một lần. Nếu lên chùa để thọ thì tốt lắm, bằng không làm ở nhà cũng được. Thọ bát quan trai là mình hứa với đức Phật một ngày, một đêm giữ đủ tám giới cấm, và chỉ ăn một bữa trưa mà thôi. Trong lúc thọ giới, thì ráng giữ gìn tâm ý được trong sạch mà nhất là không phạm các giới mình đã hứa..."

Gã nghe con bé nói vậy, tuy chẳng hiểu gì thêm, nhưng cũng ậm ừ cho qua:

"Thôi. Nếu vậy, em cho tui đãi em một ly nước được không? Chắc là ly nước thì ông Phật cho chứ gì?"

Con bé cười toét miệng:

"Được chứ! Nước thì được uống thả dàn. Chỉ sợ uống nhiều...bể bụng thôi!!"

Sau câu nói đó. Con bé cười khúch khích. Nó bắt đầu huyên thuyên kể về những gì nó thích và những người thân chung quanh nó. Lối kể chuyện của con bé thiệt là không mạch lạc chút nào. Từ chuyện này, nó nhảy qua chuyện khác cái rụp tựa như nó đang vất vả chạy theo cái tâm thức thay đổi luôn luôn trong đầu nó. Nó đang nói đến người mẹ, rồi lại nhảy qua con bạn thân đang khổ sở, buồn sầu vì đã không được đi theo nó. Rồi nó lại tưởng tượng tới cảnh chùa và buổi tu tập trong hai ngày sắp tới. Hình như nó nói chuyện mà không cần sự trả lời của gã. Nó nói một thôi, nghe chừng hiểu được gã đang chán phải nghe nó nói, nên quay lại hỏi gã:

"Còn ông. Ông cũng đi chùa hả?"

"Không. Tôi đi có... công chuyện..."

Mà công chuyện gì kia chứ. Gã là một gã lang thang, sống đầu đường xó chợ. Ai mưới gì thì làm nấy. Trong quá khứ gã đã từng liên hệ tới băng đảng và giết người. Gã là một kẻ vô thần, không tin vào bất cứ ai ngoại trừ mình. Mà chính gã, đôi khi gã cũng chẳng tin lấy chính mình, vì nhiều lần toan tính đều bị trật lất. Đôi khi gã trộm nghĩ, cuộc đời ưa chơi khăm gã, đì gã miết tới độ gã không thể ngóc đầu lên nổi. Hôm nay, còn lại một ít tiền trong túi, gã định làm một cuộc hành trình qua một thành phố khác coi có gì khá hơn chăng, tình cờ lại gặp được con bé. Gã nhìn con bé thòm thèm. Lâu lắm rồi gã chưa được làm tình.

Ý nghĩ đó làm cho lòng gã rạo rực. Gã lén thò tay trong túi, sờ thấy được mấy viên thuốc kích thích tình dục nằm cồm cộm mà gã có được do một thằng du côn trả công gã trong lần khuân vác đồ cho nó tuần trước. Định bụng, tí nữa, trong giờ nghỉ lao ăn chiều, gã sẽ lén bỏ một viên trong ly nước của con bé. Ý nghĩ đó làm cho gã cảm thấy rạo rực và khó chịu ở phần dưới. Gã nhìn lén con bé. Lúc này, nó đang dựa đầu vào thành xe ngủ gà, ngủ gật. Chắc hẳn, sau một lúc nói chuyện liên tu, nó đã hết chuyện để nói và bắt đầu mệt.

Xe lao đi vun vút như nuốt lấy đường dài. Nhưng với gã, sao gã cứ thấy thời gian trôi qua chậm như rùa. Gã xoay trở luôn luôn. Mùi hương thơm nồng của con bé cứ tỏa ra thoang thoảng. Nếu như không có người chung quanh, có thể gã cũng đã làm bậy, xé quần, xé áo con bé ra rồi. Nhưng gã cũng phải cố. Cố gắng kìm giữ cái "con quỷ dâm dục" trong gã.

Cuối cùng rồi xe cũng ngừng lại ở một thành phố nhỏ. Mặt trời đã bắt đầu ngả bóng. Người tài xế nói oang oang, nhắc nhở trong khi mọi người lục tục xuống xe và tản mát vào trong những quán ăn:

"Xin bà con cô bác vui lòng trở lại đây sau 45 phút. Xe sẽ bắt đầu chạy lại đúng một tiếng nữa."

Con bé đứng phắt dậy. Gã cũng đứng lên theo nhắc nhở:

"Nè cô em. Cô em đi theo tui nghe. Ngay dưới kia có cái quán ăn ngon lại rẻ tiền. Họ cũng dễ dãi lắm nghe. Vô trỏng, tui sẽ nhờ nhà hàng hâm cơm dùm cho cô em và xin đãi cô em ly nước..."

"Được mà. Nước thì em uống được. Nhưng... (ngập ngừng) Hay khỏi cần nhờ vả người ta hâm cơm chi. Em sợ phiền họ đó ông à. Mình đã không mua gì của người ta mà lại còn làm phiền người ta nữa!!"

Sợ con bé đổi ý. Hắn dễ dãi:

"Được. Cô em tính vậy cũng tốt..."

Gã đi theo sát con bé, như sợ nó bỗng biến mất. Còn con bé vẫn ngây thơ chẳng biết gì. Nó đeo cái túi trên lưng trở lại, theo dòng người xuống xe. Trong tâm nó thấy cái gã đàn ông này thật tốt. Mới có gặp vài tiếng trên xe đã giúp đỡ nó đủ thứ. Cả hai vào một quán vắng. Gã ép con bé vào một chiếc bàn ở góc quán, cố lấy giọng tự nhiên:

"Mình ngồi đây cho phẻ. Ăn uống xong là ra xe liền kẻo trễ nghe."

Con bé nhìn quanh. Lòng hơi lo âu:

"Ông à. Sao mình vô quán này vắng quá. Em thấy ai cũng vô cái quán gần xe, quán này xa xe quá, ông đưa em vô đây làm chi?" 

Gã nói khỏa lấp:

"Chà... Sao cô em không biết gì hết. Quán vắng họ mới làm nhanh được. Cô em vô quán đông sợ kêu đồ ăn, làm chậm, ăn không kịp đó!"

Nghe gã nói như vậy, thấy có lý, con bé khe khẽ kéo ghế ngồi xuống. Đối diện với nó là gã đàn ông khắc khổ với khuôn mặt có vết sẹo dài. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng của một buổi chiều gần tàn. Trông mặt gã thật đáng sợ, con bé có cảm tưởng như gã đang manh nha muốn nuốt trửng lấy mình. Vừa có ý nghĩ đó. Con bé bỗng cảm thấy hối hận tột cùng. Sao lại đi nghĩ xấu cho một người đã từng tốt với mình đến thế? Nó sụp đôi mắt xuống lâm râm cầu nguyện. Nó sám hối những tư tưởng xấu mà nó vừa dành cho gã.

Người bồi bàn bưng ra hai ly nước lạnh và hỏi họ cần ăn gì. Gã đọc tên một món ăn rẻ tiền nhất. Vừa lúc người bồi quay đi, gã đàn ông đã nhanh như cắt, bỏ một viên thuốc nhỏ mà gã vừa xé ra từ một cái túi giấy. Gã ngoáy ly nước cho thật điều rồi đẩy về trước mặt con bé, trong lúc nó đang cúi xuống cầu nguyện và sám hối:

"Nè. Có nước cho cô em đây!"

Con bé ngước lên. Nhìn gã bằng một đôi mắt thiên thần, đầy sám hối. Nó thong thả lôi ra trong túi của mình một phần cơm trắng trộn với muối mè, nó để ngay ngắn trước mặt với ly nước gã vừa đẩy về phía nó. Chắp hai bàn tay lại nguyện khẽ:

"Nguyện cho thức ăn và nước uống này biến thành những thức trân vị và thánh thủy dâng lên chư Phật mười phương. Và xin nguyện cho con và toàn thể pháp giới chúng sanh, có được một đời sống tinh thần và vật chất thong dong, hồi tâm vào đạo và khi mãn báo thân này được vãng sanh vào cõi tịnh độ của Ngài."

Đôi mắt con bé khép hờ. Khuôn mặt trong sáng thánh thiện của nó cùng câu nguyện trước khi ăn làm cho gã cảm thấy mình như vừa bị ai xáng cho một cú trúng đầu tới tối tăm mặt mũi. Trong một vùng tâm thức sâu thẳm nhất, gã nhìn thấy được khuôn mặt đứa con gái của gã, cũng khoảng bằng tuổi con bé ngồi trước mặt. Nhưng đó là một khuôn mặt tím bầm đầy những khổ đau của độc dược mà nó đã dùng để tự tử khi biết được trong bụng mình đang cưu mang một bào thai không có người thừa nhận. Đứa con gái gã chết tức tưởi ngay sau đó vài giờ.

Gã bống kêu rú lên khi nhìn con bé từ từ nâng ly nước lên môi, cùng lúc, như một phản xạ tự nhiên, tay gã vung lên, gạt mạnh vào ly nước, chiếc ly tuột khỏi tay con bé rớt xuống nền nhà vỡ tan. Gã nhìn thấy đôi mắt ngạc nhiên của con bé:

"Ồ... Ly nước đã đổ... (Ngước nhìn gã như nói một lời an ủi). Nhưng không sao ông ạ. Chắc chắc ông đã được ban phước lành vì em đã chú nguyện trong ấy rồi...."


Nhưng dường như gã không còn nghe con bé nói gì nữa.  Gã lảo đảo đứng lên, chân tay thừa thãi, lóng cóng làm đổ nốt ly nước của mình trên bàn, lắp bắp:


"Tôi...tôi... tôi xin... lỗi em.  Có lẽ...không cần nữa...."


Nói rồi, gã đi thẳng một mạch ra cửa.  Để lại con bé ngồi ngơ ngẩn, chẳng hiểu có chuyện gì mà gã phải đi gấp tới thế?


*


Khoảng một tiếng sau.  Chiếc xe bus lại bắt đầu chuyển bánh.  Nếu có người để ý kỹ sẽ thấy trên xe còn một ghế bỏ trống bên cạnh chiếc ghế con bé đang ngồi...



1654






Ngày tôi còn bé. Tôi có một ấn tượng rất mạnh khi nhìn thấy một bức ảnh vẽ một chú bé nằm tòng teng trên một mảnh trăng lưỡi liềm giống như chiếc võng. Một tay chú cầm chiếc cần câu. Đầu cần móc một trái tim nhỏ bé. Tay kia chú co lại làm gối, một chân thỏng xuống và chân kia co lại trên chiếc võng sáng ngời.

Vì một chân thò ra ngòai chiếc võng, nên tôi có cảm tưởng chiếc võng đang đong đưa. Mỗi nhịp võng, chú lại đánh rớt một trái tim son xuống phía dưới. Có lẽ chú đang vui, vì hình như chú đang cất tiếng hát, giọng hát trẻ thơ không có bài bản, vang vang trong đêm vắng, có lẽ chú nghĩ gì thì hát nấy, lời hát trong sáng phát ra từ tâm thức trẻ thơ của chú....

Đang cất cao tiếng hát. Bỗng dưng trong không gian có một tiếng gầm lớn làm rung chuyển cả những vì sao đang lấp lánh nghiêng tâm lắng nghe. Không gian rung động, các vì sao xôn xao, và mảnh trăng lưỡi liềm đang nâng đỡ chú cũng ngơ ngác ngừng lại....

Trên bầu trời bao la rộng lớn, bỗng xuất hiện một khuôn mặt giận dữ của một vị thần. Tiếng hát của chú đã làm ông thức giấc. Mặt ông đỏ rực lên như lửa vì giận, rồi chuyển thành xanh lè pha chút tím xẫm.. Hai con mắt mở to lộ hẳn ra ngòai. Râu tóc ông dựng đứng một mầu hung hung như râu ngô. Hơi thở ông mới nóng làm sao, ông phì ra như một ống khói tầu có thể đốt hết mọi vật chung quanh ông....

Chú bé sợ quá hét lên một tiếng lớn rồi rơi tòm xuống dưới - nơi mà những trái tim chú vừa đánh rơi trước đó - Chú rơi như một cánh lá, chao đão trên không.  Chiếc cần câu cũng vuột khỏi tay chú rơi theo, trái tim hóa ra muôn ngàn trái hỏa châu tỏa ra như pháo bông rơi lả tả theo chú....

Chú cứ rơi... Một điều kỳ diệu là chú không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Chú thích thú khi thấy mình đang bay lượn lờ trong không gian, tựa như một cánh diều của mấy đứa trẻ trên cánh đồng cỏ nội. Chú kêu lên một cách thích thú: "Ồ... tuyệt... thật tuyệt diệu!"

Có một vật gì rơi đốp lên đầu chú. Nhìn lại thì đó là một trái tim son... Chú cười lên khanh khách và đặt nó trên ngực mình. Lập tức, trái tim chui tọt vào lồng ngực. Ngay sau đó, chú không còn cảm thấy mình rơi nhẹ nhàng như cánh lá nữa. Ngược lại, chú bị rớt xuống với một vận tốc nhanh khủng khiếp. Nhanh tới độ chú có cảm tưởng không gian chung quanh chú đều đồng lọat mang vào đôi hia bảy dặm chạy vù vù qua tai.

Chú kêu lên một tiếng lớn. Đồng thời chú nhìn thấy khuôn mặt hung thần ác độc đang nhìn chú mỉm cười...

*

Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những chuyện tưởng tượng trẻ con ngày xưa. Tôi nhận ra được một điều rất hiển nhiên. Hình như những niềm vui, nỗi buồn, sự âu lo, những tai họa v..v.. đều là những điều mà ai cũng phải trải qua trong cuộc sống. Nó chính là "cái bóng" của tâm thức. Mà đã gọi là cái bóng thì nó chẳng rời ta bao giờ...

1096




Đêm đông lạnh lẽo chúa sinh ra đời,
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa...


Tiếng nhạc Giáng Sinh réo rắt hắt ra từ một tiệm bán đồ chơi với cơ man những món quà cho trẻ con. Đêm nay đêm Giáng Sinh, ngày Chúa ra đời dưới máng lừa khiêm tốn. Mọi nơi, mọi chốn, ai ai cũng vui mừng, hớn hở, chào đón con Thiên Chúa giáng trần, đem lại niềm Hạnh Phúc, an vui cho trần thế

Trên góc phố nhộn nhịp đầy ánh đèn chớp tắt với dòng người hối hả qua lại. Trên từng khuôn mặt ít nhiều thấp thoáng một niềm vui và một nơi chốn để trở về. Duy có Khôi, thằng bé bán vé số, tuy cũng trộn lẫn trong đám người hối hả ấy, nhưng nó lại có một tâm trạng bơ vơ, lạnh lẽo và buồn sầu. Ước mơ của nó là làm sao có thể bán hết được mấy tập vé số trên tay để có chút tiền đem về phụ giúp với gia đình. Giọng nó đã khản vì mời chào, nên chỉ có thể quơ quào, đụng chạm vào những người đang hối hả ngược suôi, cố gây sự chú ý của họ để mời mua vài tấm vé cầu may.

Bầu trời bắt đầu có thêm nhiều vì sao mọc, tối thẫm. Khôi chẳng bán thêm được tấm vé nào. Nó cảm thấy lạnh, đói. Muốn quay trở về, nhưng nghĩ đến cái xó tối tăm, với người chị đang bị bệnh, Cha chắc giờ này vẫn còn đạp xích lô, mẹ vẫn còn ngồi bán hàng rong ở các vỉa hè chắc chưa về. Nghĩ đến gia đình làm nó có thêm sức để nấn ná lại trên vỉa hè đã bắt đầu thưa người...

Khôi đi dọc theo vỉa hè. Cố lấy giọng tươi tỉnh mời chào khách qua đường. Nó đi lang thang xuôi về con phố, niềm thất vọng làm nó muốn òa khóc. Mấy tập vé còn nguyên trong túi áo. Hình như đêm nay ai cũng quá bận, bận tới độ họ không còn được chút thì giờ để có thể khởi lên một ít lòng thương hại nhỏ nhoi đối với thằng bé.... Thất thểu, lang thang, vừa đi nó vừa khóc rấm rức....

Bước chân nó trôi vào một khu nhà với con đường và hai hàng cây yên tĩnh rồi ngừng lại trước một khung cửa sổ. Nơi đó, có thể nhìn thấy ánh đèn ấm cúng và một hình ảnh từ trong nhà hắt ra. Trong góc phòng, cây thông lớn giăng đầy những ánh đèn nhiều màu chớp tắt như những vì sao. Bên cạnh là con bé đang loay hoay ngồi chơi một mình....

Khôi dí sát mặt mình vào khung cửa. Hơi ấm toát ra làm có thèm thuồng. Một sự ghen tức bỗng nảy sinh trong tâm. Nó đập mạnh bàn tay lên khung cửa. Nghe tiếng động, con bé ngẫng lên, chợt nhìn thấy thằng bé, nó bỏ đồ chơi, chạy đến bên khung cửa. Cả hai nhìn nhau, chỉ cách có một miếng kính mà là hai cuộc đời hoàn toàn khác biệt. Con bé có mái tóc quăn quăn tự nhiên, khuôn mặt bầu bĩnh với đôi mắt to đen. Nó nhìn thằng bé một lúc rồi chợt nhớ đến bức thư vừa nắn nót viết cho ông già Noel hôm qua, xin ông gửi cho nó một người bạn trong đêm Giáng Sinh - "Chắc là người này đây"  - Nó toét miệng ra cười, khuôn mặt hớn hở:

- Có phải anh mới từ nhà ông già Noel đến không?

Qua tấm kính dầy. Khôi chẳng nghe con bé nói gì, nó hỏi lại:

- Em nói gì cơ? Cho anh vào chơi tí nhé? Vừa nói, nó vừa gục gặc cái đầu...

Thấy Khôi gục gặc đầu, con bé rộn lên trong lòng một niềm vui. Nó biết ngay  đây chính là món quà nó xin. Con bé kêu lên:

- Anh chờ Bé một chút. Bé đi gọi Vú

Rồi nó tất tả quay lưng:

- Vú ơi.... Vú ơi.... Mở cửa cho bạn em vào. Nhanh lên!

Người Vú già đang ngồi ngủ gục trước cái TV mở lớn, nghe con bé kêu giật mình, ngơ ngác chạy ra hỏi:

- Ai? Ai là bạn của Bé? Khuya rồi, sao lại có bạn đến chơi hả?

Giọng con bé nghiêm trọng:

- Phải đấy. Bạn của Bé là một Thiên Thần. Chỉ có Thiên Thần mới đến vào giờ này thôi. (Giục giã) Vú ra mở cửa ngay, kẻo bạn em bị lạnh...

Cả hai trở lại phòng khách. Người Vú nhìn thấy một đứa bé trai khoảng mười hai tuổi, mặt mũi tuy lem luốc nhưng không dấu được nét thông minh với đôi mắt trong sáng đang đứng ngoài khung cửa sổ. "Lại một đứa trẻ đáng thương đây" Người Vú nghĩ thầm, trong tâm bà khởi lên một mối thương cảm. Bà lẳng lặng mở cửa:

- Vào đây cháu. Nhanh lên, kẻo lạnh.

Hai đứa bé gặp nhau, hân hoan. Con bé nắm lấy tay Khôi kéo đi:

- Có phải anh từ chỗ ấy tới không? Anh đi đường xa có mệt không?

Khôi chẳng hiểu con bé hỏi gì. Nhưng nó cứ gật bừa:

- Mệt chứ!

Con bé lại hỏi:

- Anh có đói không?

Khôi lại gật:

- Đói chứ!

- Anh tên gì?

- Khôi. Còn em?

- Bé tên Ngọc.

Người Vú già lẽo đẽo theo sau, nhắc nhở:

- Bé này, bạn của Bé chỉ có thể ở chơi khoảng một tiếng thôi. Bé còn phải đi ngủ kẻo chút nữa Ba Mẹ về đánh đòn đấy!

- Vú ơi, đừng lo. Ba Mẹ hôm nay đi "ball" về trễ lắm. Vú cho bạn em ăn đi...

Sau khi ăn uống no nê. Hai trẻ trở ra phòng khách với đám đồ chơi trên mặt đất. Ngọc khoe:

- Bé có nhiều đồ chơi lắm. Anh thích chơi thứ gì?

- Anh thích một cây kiếm dài đeo lủng lẳng bên hông. Anh thích làm "Hiệp sĩ Nhật"

Ngọc ngẩn ra:

- Bé chỉ có đồ hàng và búp bê thôi. Hay mình chơi trò vợ chồng nghe?

- Trò vợ chồng chơi làm sao?

- Thì anh giả làm chồng, Bé giả làm vợ. Mình có con búp bê làm con.

- Rồi sao nữa hả?

- Rồi mình phải gọi nhau "anh ơi", "em ơi",  bế bồng búp bê ru nó ngủ. Bé thì làm cơm, anh ngồi xem báo. Giống như Ba Mẹ Bé thường làm ấy mà!

- Như vậy thì chán lắm. Anh thích chơi trò đánh nhau cơ!

Con bé mặt xụ xuống một đống, phụng phịu:

- Chơi đánh nhau thì chán lắm. Bé thích chơi đồ hàng hơn...

- Thôi được.... (cằn nhằn) Bé...phiền quá à...

Mặt con bé tươi lên. Nó có sự tượng tưởng rât phong phú. Một cách rất tự nhiên, nó reo lên:

- Ơ... Anh ơi, em bé khóc kìa, anh dỗ nó đi. Bé còn đang làm cơm nè...

Khôi luống cuống, bồng con búp bê trên tay:

- Dỗ làm sao hả em?

- Thì cứ hát "ầu ơ...ầu ơ..."  đó mà. (Reo lên) À, chắc nó đang đói, anh lục trong thùng đồ chơi lấy bình sữa nhét vào miệng nó ấy!

- Được.... được....

Khôi chạy lại thùng đồ chơi, lục loạn xạ một hồi kiếm được cái bình sữa bé tí, nhét vào miệng con búp bê đang há sẵn thành một vòng chữ o. Trong khi con bé loay hoay bày một số đồ hàng ra đất. Nó để hai cái tô nhỏ trong có vài sợi kim nhũ lấy từ cây thông trên một cái bàn nhựa con con, nhỏ xíu:

- Có đồ ăn rồi nè. Anh ăn đi!

Khôi quăng con búp bê qua một bên. Trịnh trọng nâng cái tô bé xíu lên ngang mày, giả giọng nói ồm ồm:

- Bé cho anh ăn cái gì mà...óng ánh thế?

Con bé cười toét miệng, nhe cái hàm răng sún:

- Bé nấu hủ tíu cho anh ăn đó...

- Nhưng không có đũa hả Bé?

- Thì anh cứ dùng hai ngón tay giả làm đũa ấy mà...

- Ờ... phải, phải...

Nói rồi, Khôi lấy hai ngón tay vờ làm đũa và thức ăn vào miệng. Xong nó nhắm mắt để thưởng thức rồi "À" lên một tiếng lớn:

- Tuyệt. Bé nấu hủ tíu ngon lắm.

Con bé sung sướng ra mặt vì lời khen. Nó le te chạy đi lấy hai cái ly nhỏ xíu đặt lên bàn:

- Sữa của anh đây!

Khôi cự nự:

- Ơ... Lớn rồi, mình không có uống sữa...

- Vậy thì uống gì?

- Uống cô ca nhé?

- Thì đây. Cô ca...

Khôi dốc ngược ly cô ca vào miệng, giả vờ kêu ực...ực... Xong, nó quăng ly qua bên, đề nghị:

- Bây giờ anh giả làm hiệp sĩ nhé?

Nói rồi, nó chạy tới thùng đồ chơi, vô ý, dẫm toẹt lên con búp bê đang nằm bên cạnh tới móp cả tay. Nhưng hề gì, búp bê không khóc gì cả, cứ mở mắt thao láo, miệng vẫn bú bình sữa rất sung sướng. Nó lục tung trong thùng tìm một cây kiếm hay một khẩu súng, nhưng chẳng thấy. Bỗng nó reo lên:

- A, đây rồi!! Nó dơ lên cao một cây đũa có đính ngôi sao trên đỉnh. Ngọc cười lớn:

- Ha...ha...ha.... Đó là cây đũa thần của bà tiên mà!!

Khôi khua khua cây đũa lên không trung, ra dáng một hiệp sĩ khệnh khạng nói lớn:

- Không sao. Ta là một hiệp sĩ có cây kiếm thần trừ gian, diệt bạo đây!!

Cả hai trẻ cùng cười ròn rã. Lâu lắm rồi Khôi mới có được những giây phút trẻ thơ như thế. Nó cảm tưởng như nó vừa sống dậy, bắt lại nhịp đập tươi mát của trái tim non tinh khôi.


o O o

Cuộc đời cứ thế đổi thay. Qua biến cố 75, Khôi trôi dạt theo con tầu định mệnh. Định cư ở một mảnh đất mới. Cuộc đời chàng quẹo quặt qua một con đường thênh thang đầy cơ hội vươn lên. Nay chàng trở thành một kiến trúc sư rất thành công và nổi tiếng. Gia đình chàng đã được đoàn tụ. Người chị luôn ốm đau, bệnh tật cũng lập gia đình. Riêng chàng vẫn cô đơn. Con tim thương yêu vẫn hoài vọng về một hình ảnh thơ ngây năm nào. Bao nhiêu mùa Giáng Sinh trôi qua là bấy nhiêu năm Khôi tìm kiếm lại hình bóng cũ. Dù tuyệt vọng, nhưng chàng vẫn nhất định không lấy vợ để mong tìm cho được cô bé tóc quăn, tốt bụng ngày xưa. Một lần chàng trở về quê hương, tìm lại ngôi nhà cũ với cánh cửa sổ rộng, được biết sau 75 đã bị đổi chủ. Người chủ cũ chẳng biết trôi dạt phương nào...

*



"Một lần nào, cho tôi gặp lại em..
Đôi môi ấy, đến nay còn hồng?..."
(Thơ Du Tử Lê)


Ba mươi năm sau, cũng trong một đêm Giáng Sinh với dòng người hối hả ở một thành phố lớn xa xôi bên nước Mỹ. Người đàn ông đứng tuổi đang vội vã bước qua những gian hàng bày biện cơ man các món quà đắt tiền, chàng cố tìm kiếm một món quà đặc biệt để tặng cho cha mẹ nuôi tốt bụng, cũng là người bảo trợ cho chàng. Còn đang chần chừ chưa quyết định thì bỗng một hình ảnh đập vào mắt chàng. Con bé con, với mái tóc quăn tự nhiên, khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt trong đen đang đứng phụng phịu trước một gian hàng bán đồ chơi đủ loại. Trên tay cầm chặt một thanh kiếm dài, nước mắt đoanh tròng chực rơi trên má. Bên cạnh, người mẹ đang dỗ dành:

- Con gái ai lại chơi kiếm bao giờ? Thôi, bỏ lại đi. Ông già Noel đã mua cho con một con búp bê bự ở nhà kìa. Mình về thôi...

Con bé òa lên khóc:

- Hụ...hụ...hụ... Nhưng con thích cái này cơ!

Có điều gì đó bóp nghẽn lại làm người đàn ông lặng đi, tê điếng. Chàng nhìn người thiếu phụ. Một vài nét thân quen nào đó còn loáng thoáng trên khuôn mặt. Cánh cửa của quá khứ bỗng mở tung, chàng nhớ lại như in hình ảnh một mùa giáng sinh năm nào. Tim chàng nhói lên một niềm đau tê tái. Người mà bao nhiêu năm nay chàng kiếm tìm một cách tuyệt vọng đang đứng trước mặt chàng đây! Rất gần, nhưng cũng thật xa vời. Mọi hy vọng mong manh gần như bị đốt sạch.

Ngọc ơi, sao anh gặp em trong những khoảng thời gian éo le mà anh không thể nắm bắt? Một là quá sớm, hai là quá trễ... Suốt cuộc đời anh chỉ là một chuỗi kiếm tìm. Để hôm nay tình cờ gặp lại, trong một tình huống không thể sửa đổi được nữa. Em vẫn là em - Một hạt ngọc quý giá mà anh đã không ngần ngại đánh đổi cả đời mình - nhưng vẫn còn quá sức xa vời tầm tay anh với... 


CH
1648






Gã vẫn ngồi đấy. Khờ khạo và chờ đợi. Khuôn mặt hốc hác vì đói, đôi mắt thất thần. Thỉnh thỏang gã lại mỉm cười, rồi lập tức cau mày, khó chịu. Có khi gã chửi đổng một cách vu vơ, rồi rú lên như con thú bị thọc tiết.

Hiển nhiên là thế. Trong đầu óc gã cả ngàn ý niệm phụt lên liên tiếp. Mỗi ý niệm loé lên - nếu có đủ thời gian phổ ra thành hành động - thì nó cũng chớp nhoáng như một nháy mắt. Nhưng không có nghĩa tâm thức gã không nhận được điều ấy, chỉ có điều, vừa nhận được ý niệm này thì đã quên phứt mất ý niệm trước, vì vậy mà hành động trở nên hồ đồ, khi cười, khi khóc, khi giận dữ, khi hiền lành, khi đau khổ, khi hạnh phúc.

Này nhé. Gã biết mình đang đói, nhưng lại không biết phải làm gì cho hết đói. Một thiếu nữ đi qua. Chao ơi, nàng hiền dịu và đẹp như một nàng tiên. Tà áo trắng của nàng phớt qua gây lên một làn gió thoảng.


“Kìa, Cô tiên...”


Thiếu nữ dừng lại sau tiếng kêu tựa như con thú bị một vết dao đâm. Đôi mắt nàng mở lớn nhìn gã. Tội nghiệp làm sao. Nàng khẽ khàng đặt một chiếc bánh bao vào tay gã rồi mỉm cười. Gã chộp lấy định đưa lên miệng, nhưng hốt nhiên ý niệm khác lại loé lên trong tâm tưởng, gã chợt thấy chiếc bánh chính là cục xà-bông gã cần từ bao nhiêu lâu nay. Gã vội vã cầm chiếc bánh xát vào tay, chân. Tưởng tượng đang trầm mình vào một dòng nước mát lạnh với những bọt xà phòng óng ánh. Chiếc bánh bị vỡ ra do sự cọ xát. Gã thấy phần nhân thịt phía trong.... Lại một ý niệm khác, cùng với sự giận dữ sầm sập kéo đến: Ồ, đây chính là quả lựu đạn bà chằng vừa đưa cho ta. Thật là quá sức không thể tưởng tượng nổi. Thiên hạ thật xấu xa, đáng ghét... Ta phải đánh con mẹ này cho vỡ mặt nó ra... Bằng tất cả sự giận dữ sôi lên sùng sục, gã hét lên be be, quăng chiếc bánh bao vào mặt thiếu nữ. Chưa đã giận, gã còn quăng đất, cát, sỏi đá vào người nàng... Thiếu nữ hốt hỏang lùi lại nhiều bước... Miệng nàng méo xệch với đôi mắt đã bắt đầu ướt vì sợ... Nàng vội vã quay lưng. Không dám ngóai lại. Nhưng vẫn không quên ý niệm cầu sự bình an cho gã.

Gã cười khóai trá khi thấy con mẹ điên kia đã bỏ đi. Ta là một ông vua không ngai, Là một thiền giả. Ta có nhiều quyền lực và tất cả những người chung quanh đều sợ ta. Á à... Thế mà chúng lại bảo ta điên. Phải không nhỉ? Ha...ha...ha... Chính chúng mới thực điên! Thật là buồn cười và ngây thơ đến đần độn. Tất cả - ngọai trừ ta - đều là những người điên, đang quay cuồng sống trong guồng máy vô hình của Thời-Gian.

Vài phút trôi qua. Khi gã vừa thiu thiu ngủ trong cơn đói, bỗng đâu lại nghe tiếng rú của chiếc xe cảnh sát sầm sập tới. Người đâu mà bu đông thế kia? Gã không hiểu họ coi gì mà những cặp mắt cứ đổ dồn vào gã. Không một ai dám đến gần, họ đứng thành vòng tròn vây gã vào giữa. Nhìn quanh. Chỉ có gã. Gã cười sằng sặc.. Ha...ha...ha... Đã bảo mà. Ta là một ông vua không ngai, những người bu chung quanh chính là thần dân của ta đấy. Họ đang khép nép đứng chờ mệnh lệnh ta ban... Mà. Ô kìa, con mẹ chằng điên hồi nãy vừa mới bỏ chạy sao nó trở lại để làm gì nhỉ? Cái đứa manh nha đã từng có ý tưởng giết ta mà ta đã khởi tâm từ bi tha thứ cho nó. Thấp thoáng, một số cảnh sát vẹt đám đông bước vào. Gã bỗng tức đến uất nghẹn khi hiểu ra một điều chính con mẹ đó đã gọi cảnh sát đến bắt gã...


Tiếng người nữ loáng thoáng:

“Thật tội nghiệp quá đi thôi. Cháu đã gọi cảnh sát để đưa ông ta vào bệnh viện. Ông ấy ở ngòai này chỉ thêm vài ngày nữa thì đói và chết mất...”


Gã rít lên:

“Khốn nạn! Cả một lũ giả dối!”

Cơn giận làm gã lồng lên như một con thú dữ. Chưa kịp làm gì thì bốn, năm người cảnh sát ập đến. Họ vật gã xuống đất rồi khóa chéo khuỷu tay một cách rất lẹ làng... Cơn đói làm gã yếu sức, không vùng vẫy được mấy đỗi. Một người mặc áo trắng dài xuống tới gối đến bên và đẩy vào bả tay gã một mũi chích. Gã từ từ rơi chơi vơi vào một vùng mù sương lãng đãng....



Ở đây. Không gian thật yên lặng đến rợn người, thỉnh thỏang chỉ nghe được tiếng hú dài chen lẫn với tiếng cười sằng sặc từ những phòng kế bên. Gã nằm trên chiếc giường phủ drap trắng. Chung quanh gã, từ tường vôi đến chiếc bàn con bên cạnh giường đều là một mầu trắng muốt. Chỉ có khung cửa bên phía trái cho gã nhìn thấy một vùng trời xanh xanh với những cụm mây trắng đong đưa. Từ giường bệnh, gã nhìn qua khung cửa. Hình như nó hơi bị lệch thì phải. Chẳng có ai ở đây. Hình như gã vừa được nói chuyện với Chúa. Chúa là ai? À. Không phải. Gã vừa nói chuyện với một người mặc áo chùng đen với cuốn kinh nhỏ trên tay. Nghe chừng ông ta không phải là Thần Chết đến bắt gã…

Mà sao gã lại nhớ nàng đến thế nhỉ? Sự nhớ thương làm gã khóc lên rưng rức...

Có một cành cây thấp theo gió đập vào cửa kính làm tâm thức gã chợt nhớ lại một vài hình ảnh của căn chòi nhỏ. Có một cái bồ đoàn mà gã chính là người ngồi trên bồ đoàn ấy mỗi đêm...

Rồi sao nữa nhỉ? Tại sao ta lại ở đây? Ôi, sao gió thổi dữ vậy? Gió động hay tâm động? Không biết cành cây kia có bao nhiêu lá? Những chiếc lá mầu xanh lục như viền mắt người thiếu nữ. Đôi mắt với tròng nâu đen sâu thăm thẳm mà cả tâm hồn ta đã bị chìm đắm trong ấy. Nàng là ai? Ồ, nàng đẹp tuyệt trần... Hummm.... Một thiền giả không nên đắm vào nữ sắc. Tại sao không? Có thể đó là những nghiệp quả chín muồi.... Hừ, chỉ là biện luận, tất cả, chỉ là biện luận thôi...

Có tiếng kẹt cửa. Một người nữ y tá bước vào. Lại một bà tiên hiền dịu đến cứu ta đây. Gã nhìn bà tiên với giọt nước mắt lưng tròng, thổn thức:

“Nàng đã bỏ ta đi mất rồi...”

Cô y tá vẫn hoay hoay làm việc của mình. Cô xem lại hồ sơ bệnh lý, hý hoáy biên chép... Rồi bỏ mấy viên thuốc trong một cái ly nhựa nhỏ, nói trống:

“Tới giờ uống thuốc rồi...”

“Cô đã nói chuyện với Nàng chưa?”

Cô y tá trả lời bừa, cho qua:

“Chưa...”

“Vậy cô hãy đi nói với nàng rằng ta rất yêu nàng và vẫn chờ đợi nàng về...”

“Vâng. Nhưng thuốc đây. Ông uống đi...”

“Uống để làm gì?”

“Để khỏi bệnh.”

“Tôi có bệnh gì đâu mà cầu khỏi?”

“Thì ông cứ uống trước đi đã...”

“Không. Cô phải nói tôi biết tôi bị bệnh gì?”

“Bệnh Điên.”

“Ha... ha... ha...”

“Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy!”
>“Vậy cô tỉnh hay điên?”

“Tôi không điên!”

Gã nhắc lại lời cô y tá vừa nói ban nãy:

"Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy! Ha...ha...ha...”

Đôi khi, gã rất sáng suốt, đối đáp với người đối diện một cách sắc bén như một thiền giả đã tu tập từ lâu, nhưng có thể, vì một lý do nào đó, mà hốt nhiên trong tâm gã bị bung ra như nước vỡ bờ, tất cả những tư tưởng đều đảo lộn, tùng phèo; ý nghĩ chạy quanh co, vòng vèo như con đường đi quanh dốc núi. Chợt phụt, chợt tắt, ngớ ngẩn, nhớ trước, quên sau...


Một cách máy móc, cô y tá nhét mấy viên thuốc vào miệng gã rồi đưa cho gã một ly nước. Gã uống ừng ực. Cảm thấy dòng nước mát trôi dần vào cơ thể. Gã vẫn còn cảm thấy nực cười trước sự ngớ ngẩn của cô y tá. Gả xòe răng cười và thì thầm ra vẻ rất bí mật:

“Ta cho cô biết một điều. Chớ đừng để lộ cho ai. Ta chính là... là...”

Nói tới đây. Hốt nhiên gã không nhớ gã là ai. Một ý niệm khác lại loé lên trong đầu. Chà. Cái khung cửa kia thật đáng ghét làm sao. Nó chói chang đến nhức mắt. Rồi gã bỗng run lên bần bật khi ý tưởng một lát nữa thôi, mặt trời sẽ nổi lên đốt gã. Gã rú lên thảm thiết. Nằm vật xuống rồi lấy mền trùm kín mặt:

“Nó sẽ đến. Nó đến đốt ta đấy... Hu...hu...hu...”

“Ai đến?”

“Thì nó chứ ai?”

“Nó nào?”

“Làm sao ta biết được!”

Nói xong, gã cười lên rinh rích. Cho rằng mình đối đáp với tiên nữ một cách rất thông minh. Gã vỗ hai bàn tay vào nhau nói như người nhập vào một cơn mộng du sâu thẳm:

“Để tôi nói cho cô một điều rất kỳ thú. Thiên hạ ngu lắm! Họ không biết cách sống, chỉ bôn ba, bận bịu vào những thứ vật chất cỏn con, mất thì giờ vô ích…. Cô xem này. Khi tôi vỗ tay, sẽ tóe ra những đốm sáng. Đó chính là những ánh sáng trí tuệ đấy! Có những đêm trăng sáng, sau khi xuất thiền, vuốt dọc theo cánh tay, ánh sáng tóe ra như lân tinh. Những kết quả ấy làm tôi càng hứng khởi và tu tập tinh chuyên hơn. Vì không có thầy, nên sự tập luyện của tôi chỉ chấp vá qua những sách vở. Đến một hôm thì có một điều lạ xảy ra. Thỉnh thỏang phần bụng dưới bị nóng ran và cứng ngắc, nó nhộn nhạo, khó chịu vô cùng. Càng tu tập, bệnh càng nặng, đôi khi trong lúc ngồi thiền tôi như muốn phát cuồng vì dục vọng nổi lên đùng đùng. Cho tới một ngày kia.... Ôi, đó chỉ là một ngày chín muồi của căn bệnh, tôi bị vấp vào giọng cười khanh khách của một nữ nhân, tiếng cười cưu mang cả một mùa xuân tươi mát. Nàng đẹp như huyền thọai, da thịt nàng mát và mềm như lụa, nàng đến tình cờ như một ngày mưa, ra đi khi đêm vừa tắt... Tâm thức tôi tan hoang như một bãi chiến trường. Nàng đi đâu? Nàng về đâu? Hay đó chỉ là những tâm tưởng hoang loạn trong tôi?”

Chẳng ai trả lời gã. Người y tá dường như đã quá quen với những cảm xúc bất chợt của bệnh nhân. Nàng làm đầy đủ bổn phận rồi bước ra khỏi phòng. Trước khi đi, nàng đặt trên bàn ngủ một cái máy nhỏ bằng bàn tay, dặn dò một cách ân cần:

“Hình như ông là một Phật tử? Ở đây, chúng tôi may mắn có được một số máy Niệm Phật do ngôi chùa phát tâm bố thí. Ông có thể bật lên nghe. Họ niệm Phật nghe như hát... Chỉ khỏang năm phút nữa là ông sẽ ngủ. Tôi xin chúc ông ngủ ngon, và có đầy mộng đẹp...”

Tiếng nàng nhẹ nhàng thanh thóat. Gã tung mền, nhìn người vừa phát ra âm thanh ấy. Có phải Nàng đấy không? Nàng đã trở về? Phải chăng?

“Em... Em ơi...”


Cánh cửa khép lại đã lâu. Gã nghe câu niệm Phật liên tục và bàng bạc phát ra từ chiếc máy nhỏ xíu. Tiếng niệm kết thành một màn sương lãng đãng, thành một cái nền trên vùng tâm thức hoang tưởng. Gã thấy mình chơi vơi trong vùng tâm thức ấy. Gã đi qua nhiều con đường với đèn xanh, đèn đỏ chi chít dòng xe cộ ngược, xuôi. Nhưng chẳng có một chiếc xe nào đâm vào gã cả. Tiếng niệm Phật vẫn đều nhịp theo bước chân. Nhận ra mình đang đi ngược về quá khứ. Những quá khứ dường như rất xa mà cũng rất gần như những sợi lông mi trên mắt nên chẳng mấy ai nhìn thấy được chúng một cách rõ ràng. Ấy vậy mà gã lại thấy, tựa như gã đã tách ra làm hai, một nửa đứng nhìn cái nửa kia đang quay cuồng trong vọng tưởng. Gã thấy cái chòi mà trong đó chính gã đang say sưa đi vào những cơn vọng định. Thích thú cho rằng mình đã chứng đắc được nhiều thứ và chấp vào những thứ cỏn con ấy. Chợt nhớ lại lời dạy ân cần của vị sư già:

"Này con. "Biết" chưa phải là "Ngộ". Mà "Ngộ" chưa phải là "Chứng đắc". Hãy suy tư và quán tưởng thêm về điều này."

Lời dạy rất giản đơn, nhưng sao tới giờ mới hiểu một cách rõ ràng đến thế? Gã đã mỉm cười hóm hỉnh về những háo thắng của chính mình. Lại thấy mình trôi thêm về quá khứ, trở thành một đứa bé con sống dưới một mái chùa với vị sư già khụ, nơi đây lồng lộng những cát, gió của biển. Nhưng gã vẫn không ngừng ở đấy, vẫn đi như người đi ngược chiều gió. Nhiều mảnh đời chắp vá từ vài kiếp liên tiếp nối nhau, từng mảnh, từng mảnh, như những bức hình nhiều màu lộn xộn phụt lên...



Rồi bỗng nhiên, ở một tầng mức sâu thẳm nào đó, Gã bỗng nhận thấy một cái gì vừa sụp đổ, để lại một khoảng không gian thênh thang mà tầm nhìn của gã không còn bị giới hạn nữa. Một niềm vui òa ngập như nước vỡ bờ. Gã bỗng biết được một điều hiển nhiên rất đơn giản. Mình là tất cả. Một giải nắng tung tăng nhảy múa dưới ánh Mặt Trời. Một con chim đại bàng với đôi cánh rộng. Một mặt nước xanh biếc dưới vực sâu. Một con cá nằm dãy chết trên mặt cát. Một vì sao vừa tắt trên cao...
Người sinh ra, kẻ chết đi, đây đó xôn xao sự sống và nỗi chết, chập chùng, biến hiện qua những niềm vui, nỗi buồn bất tận...
Mọi sự, mọi vật đều biến chuyển không ngừng, chập chờn như giấc mộng....

* * *

Nửa đêm hôm ấy, có một bóng người lẳng lặng rời bỏ khu nhà thương điên. Hành trang duy nhất của ông là một cái máy niệm Phật rất nhỏ bé cùng với bộ đồ bẩn thỉu, rách nát trên người. Nhưng chỉ có ông mới cảm nhận được tâm ông rất tinh khôi như người vừa thoát kiếp. Ông đi đâu. Nào ai biết được!

1007







Lão ăn mày nghe chừng rất mệt mỏị Tóc bệt lại vì mồ hôi và bụi đường. Lão đứng tần ngần trước một căn nhà 2 tầng khang trang, sạch sẽ với cổng sắt cao gần đến nóc nhà. Nắng đã tắt trên những góc phố, ánh đèn đường le lói, thê lương, ảo não đâu đâỵ Thê lương như tâm hồn lão khi nghĩ về đến căn nhà ọp ẹp được vá víu bằng những tấm carton cuối một con hẻm nhỏ hôi thối, mà trong đó, lúc nhúc gồm gia đình thằng con trai lớn cùng với người vợ và 5 đứa con nhỏ. Chúng nó cũng khổ lắm, lão nghĩ, thằng con thì đi đạp xích lô cả ngày, con vợ đi bán hàng rong. Trẻ con, từ lớn nhất 12 tuổi đến 6 tuổi đều túa ra ngoài đường, xin được gì thì xin, bằng không thì cũng thất thểu đầu đường, xó chợ, hoặc có khi đói quá, làm càn trở thành dân ăn cắp vặt là chuyện thường...

Cảm thấy mình đã già yếu không giúp gì được con cháu mấy đỗi, nhưng lão cũng hăng hái tham gia "đi làm" (ăn mày) may ra, nếu không giúp được gì cho gia đình con lão, nhưng ít nhất cũng có được cái ăn, đỡ đi một gánh nặng...

Lão đói lắm. Từ sáng giờ chưa có được một hạt cơm trong bụng. Xin ăn ở chợ cả ngày cũng chỉ được vài đồng khiêm tốn từ lòng hảo tâm của những kẻ giầu có, dư tiền bạc, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu... Thất thểu, chân thấp, chân cao, lão trở về nhà, lòng ngao ngán không biết tối nay có gì để ăn không....

Và hôm nào cũng vậy, lão đều đi ngang qua ngôi nhà nàỵ Nó giống như một chiếc răng vàng trong hàm răng đen cờm cỡi, mốc thếch.... Cũng vậy, ngôi nhà 2 tầng này được xây lên ngay đầu một con ngõ tối tăm của dân nghèọ... Đây là ngôi nhà của một gã công an Bắc Việt vào Nam sau 75, nghe đâu, trước giải phóng, gã đi là một anh bộ đội chân chất, chỉ biết rừng rú và súng đạn. Sau khi đã giải phóng được đất nước, nhờ có công bỏ hết thời thanh xuân của mình để giải phóng đất nước, gã có được một chân làm công an xã trong cái xóm nghèo nàỵ... Lần lần, gã biết được thế nào là "quyền lực", nhất là quyền lực đối với những người dân quê quá sức nghèo khổ của khu xóm tạm nhạp nàỵ.... Nghe chừng gã cũng biết tận lực được những quyền hạn của mình, nên ngày càng làm ăn khấm khá....

Lão ăn mày thường gặp gã luôn, cái mặt bì bì và rất phách lối, nhưng gã lại có đứa con gái cũng khá xinh, ngược lại với cha, cô rất vui tính, cởi mở và biết thông cảm. Nhưng dẫu có vui tính và cởi mở thế nào, người trong xóm cũng vẫn e dè chẳng ai dám đến gần trò chuyện với cộ...

Lão ăn mày chần chừ..., đứng xớ rớ. Bụng muốn gõ cửa, hy vọng gặp cô con gái xin ít cơm thừạ Ngẫm nghĩ mông lung, đôi lần định dợm bước bỏ đi, sau lại thấy tiêng tiếc, biết đâu lại gặp được cô con gái tốt bụng kiạ.... Cuối cùng, lão cũng quyết định bấm chuông.....

Tiếng chuông ré lên làm lão giật bắn mình, sợ hãi, chỉ muốn quay lưng bỏ chạy thì lão nghe thấy tiếng lẹt xẹt của đôi dép kéo lê trên nền đá hoạ Một cụ già, có lẽ ngoài 70, trông có vẻ đễnh đãng và phúc hậụ Đôi mắt kèm nhèm nhìn, ngó ra cổng. Cụ mặc một chiếc áo cánh trắng và một chiếc quần satin đen. Cụ ngừng lại trước chếc cổng sắt. Hai khuôn mặt già nua, chỉ cách nhau mỗi cái cổng, nhưng lại là 2 cuộc đời, 2 thế giới khác xa nhaụ..

Giọng bà cụ đặc sệt Bắc Kỳ:

- Bà cần hỏi ai thế???

Lão ăn mày lúng túng, rồi thấp giọng van lơn:

- Lạy cụ. Con đói lắm. Xin cụ chút cơm thừa ăn hôm naỵ..!!!

Bà cụ nhìn lão ăn mày một chập. Hình như vẫn chưa hiểu đối tượng muốn gi, rồi lần trong túi áo chiếc chìu khoá, lách cách mở cổng, đễnh đãng hỏi:

- Hử??? Bà nói gì cở??

Lão ăn mày kiên nhẫn:

- Xin cụ cho con ít cơm thừạ..

Cánh cửa mở rộng... Cụ bà nhìn thấy một bà lão te tuạ Khuôn mặt thiểu nãọ Người hơi run run vì đóị Quần áo lem luốc, dính đầy vệt dơ và đất cát. Khuôn mặt bà cụ bỗng vui hẳn lên, Cụ cho rằng, Chúa vừa gửi đến cụ một người bạn đâỵ Cả ngày cứ ở trong nhà một mình, cụ buồn lắm. Con cái thì có việc riêng của chúng nó, chẳng đứa nào có thì giờ rảnh chơi với cụ. Đột nhiên, hôm nay có một bà lão ở đâu tự nhiên đến gõ cửa, cụ mừng khôn siết..... Nắm ngay lấy tay lão ăn mày kéo sềnh sệch vào nhà:

- Vào đây đã.... Muốn ăn gì thì để tôi đi lấỵ Trong nhà có nhiều đồ ăn lắm cơ!!! Nhưng bà phải hứa là ở lại chơi một chốc nhé, đừng đòi về vội, tôi ở nhà một mình buồn lắm đấy!!!

Lão ăn mày hơi tưng hửng về thái độ quá sức thân thiện của cụ bà... Nhưng cũng len lén bước vàọ Lưng lão khom hẳn xuống, làm như nếu lão đứng thẳng lên, thì có lẽ nhiều bụi đất sẽ rớt xuống nền đá hoa sáng choang vậỵ.... Theo chân bà cụ, lão vào đến phòng khách. Cụ bà lôi sềnh sệch lão ăn mày đến chiếc ghế sofa, ấn lão ngồi xuống vui vẻ bảo:

- Bác ngồi đây một chút. Chờ tôi xuống lấy đồ ăn cho bác sơị Đừng đi đâu đấy nhá... Tôi sẽ lên ngaỵ...

Ngồi lại một mí`nh trong phòng khách. Lão ăn mày len lén đưa mắt nhìn quanh. Đó là một căn phòng bày biện những thứ thật đắt tiền, nhưng lỏng chỏng, chẳng cái gì hợp với cái gì... Hình như chủ nhân khoái thứ gì thì đem về trưng thứ ấy, không cần biết nó có hài hoà với nhau không. Có lẽ đó là tất cả "chiến lợi phẩm" của gã công an hút máu mủ của dân lành và của đám đàn em mỗi lần cầu cạnh, xin xỏ ở gã một điều gì. Nhìn kỹ, thấy cũng có những đồ vật rất đẹp và quý, nhưng vì tất cả đều tạp nhạp, trưng bày lại không biết cách nên trở thành một "kho chứa đồ" hơn là một phòng khách. Chỗ góc phòng, kê một tủ kiếng cổ làm bằng gỗ lim bóng, trưng bày hầm bà làng đủ thứ bên trong. Từ những con búp bê nhắm, mở mắt, đến những chai rượu đắt tiền. Góc bên cạnh là chùm chìa khoá, kìm, búa, vài phong thuốc lá 555, Dunhill v.v..

Ngay giữa phòng là một bộ ghế salon kiểu của Ý mầu kem. Bên cạnh đó là một chiếc xe gắn máy nằm kềnh càng choán gần hết một góc phòng. Trên tường, treo vài bức tranh sơn màị Một bức hình Bác với bộ râu (giả), khuôn mặt Bác hơi choắt lại vì buồn (?). Bên cạnh là một bức hình cô đào Madona hở gần nửa bộ ngực trông rất hấp dẫn....

Tiếng dép lại lẹp xẹp trở về. Bà cụ cầm trên tay đầy thức ăn. Khuôn mặt vui vẻ, cụ bảo:

- Tôi chỉ tìm thấy được từng này thôị Tôi đem lên tất cho Bác. Ăn đi nhé, xong rồi chúng mình thong thả nói chuyện....

Cụ để xuống bàn 2 cái bánh chưng và vài chiếc bánh ú. Mắt lão ăn mày sáng lên. Nước miếng trong miệng tự động trào rạ... Lão vội cầm lấy chiếc bánh ú ăn lấy, ăn để. Bà cụ ngồi bên cạnh kiên nhẫn chờ đợị Ăn độ một lát, nghe chừng cơn đói đã vơị Lão ăn mày rón rén xin thêm:

- Cụ có nước uống, cho cháu xin một lỵ...
- À.... Phải rồị... Tôi quên khuấy đi mất...!!!

Nói rồi, cụ lại xuống bếp đi lấy nước cho lãọ Sau khi ăn uống no say, cụ bắt đầu gợi chuyện. Ban đầu, lão ăn mày còn e dè. Sau vui chuyện nên ra chừng có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Hỏi ra mới biết họ là người cùng quê, nhưng lão thì di cư vào Nam năm 45, làm ăn cũng khá. Cho đến khi bắc quân "giải phóng" miền nam. Sau vài lần đổi tiền của nhà nước với mục đích bần cùng hoá nhân dân, thì lão trở thành dân bần cùng nhất của hạng bần cùng. Chăng biết làm gì với tuổi già, lão đành phải làm nghề ăn mày vậỵ..

Biết được lão ăn mày là người cùng quệ Rất mừng rỡ và thích thú như gặp được lại người thân, xưa cũ vậỵ Cụ bà cũng cởi hết ruột gan ra kể lể:

- Ôi chao... Bác không biết.... Hồi còn ở ngoài Bắc. Chúng tôi cũng thuộc dân bần cùng, khố đế lắm cơ... Đời sống rất cực khổ Tôi cũng đã từng làm nghề ăn mày đấy chứ. Nhưng khốn một nỗi là ngoài ấy ai cũng nghèo, chẳng có đồng dư nào cho hạng ăn mày cả, nên chúng tôi phải xoay ra đi mót lúa, củ khoai, của sắn dưới ruộng, hoặc đi vớt tôm, tép.... Cực nhọc cả ngày, đôi khi cũng chẳng có được đủ ăn.... (thở dàị..) Hoá ra, bác cũng là người cùng làng đấỷ?? Quý hoá quá... Nếu không vào Nam sớm có lẽ chúng ta đã là bạn thiết rồi đấy!!! Hôm nay, có ít bánh. Tí bác cứ đem tất về cho các cháu sơi nhé...

Mặt lão ăn mày tươi hẳn lên. Bắc chước cụ bà, lão cũng giở giọng Bắc kỳ (nhưng đã pha Nam):

- Quý hoá quá !!! (nhấp nhổm). Thôi cũng đã trễ, cụ cho cháu xin về, và đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháu nhé???

Hơi thất vọng, bà cụ nài nỉ:

- Ấỵ... Sao lại vội vềthế??? Ở lại chơi tí đã.... Chuyện chưa xong mà...!!!

Nói xong, cụ bà nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của lão ăn mày, tâm cụ nhuốm lên một niềm thương cảm sâu xạ... Cụ muốn cho lão một ít tiền hay bất cứ gì để cho lão bớt khổ. Khốn nỗi, cụ chẳng bao giờ có tiền trong túị... Các con có bao giờ đưa cụ tiền để làm gì, vì thức gì trong nhà cũng có. Cụ nhìn quanh nhà, định kiếm một vật gì có giá trị đem biếu lão ăn mày... Nhưng vật gì cũng gồ ghề, đồ sộ cả, cho lão cụ lại sợ bị lôi thôi với thằng con....

Cụ còn đang ngẫm nghĩ, tìm cách giúp lãọ Trong khi lão ăn mày cứ nhấp nha, nhấp nhổm đòi về, mắt lão chỉ dán chặt vào trong mấy chiếc bánh chưng và bánh ú cụ vừa bưng lên. Nhưng cụ bà vẫn chưa cho thế là đủ, lòng cụ nhớ lại những ngày cùng khổ ngoài Bắc mà thương bạn đứt ruột... Chẳng hiểu con bà sao giời thương, vào Nam, làm ăn gì mà khấm khá, cụ mới có được một đời sống đầy đủ thế nàỵ. Cụ muốn chia sẻ bớt niềm vui sướng của mình cho "người bạn thiết" mới quen.... Tần ngần, nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bạn, nhìn sâu vào đôi mắt mờ đục của bạn. Rồi như có một quyết định loé lên, một điều gì thoáng qua trong đầụ Khuôn mặt hớn hở, cụ bà bóp khẽ bàn tay nhăn nheo của bạn tha thiết bảo:

- Bác ngồi đây chơi một tẹo nhé... (nhấn mạnh). Nhớ chờ tôi về.... Tôi sẽ đi kiếm tiền cho Bác mua gạọ....

Lão ăn mày vẫn chưa biết chuyện gì. Trong lòng, chỉ muốn từ giã bà cụ tốt bụng rồi đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháụ Tưởng tượng khuôn mặt hớn hở của chúng lão bỗng rộn lên một niềm vuị... Định từ chối phứt để rời đây cho sớm. Nhưng chưa kịp nói gì, thì cụ bà đã lúp xúp đi thẳng ra cổng...

Ngồi lại một mình, lão sốt ruột chẳng biết tính saọ Nhìn quanh quẩn. Muốn lên tiếng gọi mà chẳng biết gọi aị Sự sợ hãi cứ ùn ùn trở về tăng theo cấp số nhân. Sợ rằng, lỡ có người nào về thấy lão trong nhà một mình thì có lẽ sẽ lôi thôi tọ... Nhiều khi còn phải ngồi tù nữa là đằng khác... Nghĩ đến đó, lão toát cả mồ hôị Không còn do dự gì nữa, lão quyết định đứng phắt dậy, quơ mấy cái bánh, túm hết vào vạt áo rồi thoát ra cửạ...

Đi được mươi bước đường thì thấy cô con gái của gã công an mặt hớt hơ, hớt hải, lao ào vào trong nhà như một cơn lốc, rống cổ kêu lớn:

- Mẹ ơị..... mẹ ơiiiiiiiiiiiiiị... Bà Nội đang ở ngoài đường làm ăn mày kìaaaaaaaaaaạ...!!!
2089






Thiên hạ thường gọi tôi là "thằng khờ". Nhất là đám con nít trong xóm, cứ hễ khi nào tôi ra đường một mình chúng cũng đều xúm vào trêu ghẹo, nhẫn đến có đứa quá khích động liệng cả đá vào tôi nữa:



"Ô kìa, ra mà coi thằng khờ tụi bay ơi!!"



Những lúc bị chúng bắt nạt, đánh như thế, tôi thường khóc rống lên, ôm đầu chạy tuốt về nhà:



"Mẹ ơiiiii..... Mẹ ơiiiiii..... Chúng đánh con đau quá....Hu...hu...hu..."



Lần nào cũng vậy, mẹ đều xót xa, ôm tôi thật lâu trong lòng cho đến khi tôi cảm thấy ấm áp, an lạc:



"Mẹ đã dặn con bao lần mà con vẫn không nhớ. Chớ nên ra đường chơi một mình mà không có mẹ. Chúng sẽ ném đá và làm con đau đớn. Con nhớ chưa?"



"Con nhớ! Híc..híc..híc..."



"Ngoan lắm. Nào cho mẹ xem con bị đau đâu."



Nói rồi. Bà tỷ mỷ nhìn từng phân vuông trên da thịt tôi, sờ đầu, nắn tay, chân v.v.. để chắc chắn tôi không bị bầm vập, trầy sướt chỗ nào.



"Mẹ ơi. Thằng khờ là gì hở mẹ?"



"Có nghĩa là một đứa trẻ vì một lý do nào đó mà đầu óc nó phát triển rất chậm - như con vậy - Con năm nay đã mười hai tuổi, nhưng não bộ của con chỉ bằng một đứa trẻ lên năm. Lại nữa, đôi khi một vài bộ phận trong cơ thể không nhận được tín hiệu từ não bộ, hoặc nhận một cách sai lạc, nên hành động trở thành vụng về, lệch lạc rất nhiều. Cơ thể thì phát triển một cách bất bình thường, dị dạng. Một vài cơ quan trên người bị teo lại hoặc lệch đi. Như miệng con hơi bị méo, lệch hẳn qua một phía. Đầu óc thì khi nhớ, khi quên. Bộ óc không đủ khả năng để nhớ được một chuyện mới xảy ra vài ngày trước đó. Những tư tưởng thì cứ nhảy lên liên tục, hết ý niệm này nối tiếp với ý niệm khác. Niềm vui, nỗi buồn luân chuyển luôn luôn, phát sinh ra những hành động hồ đồ khi khóc, khi cười không thể kiểm soát nổi..."



Mẹ nói dài quá, tôi chẳng hiểu gì. "Não bộ", "phát triển", "cơ thể bất bình thường" v.v.. và nhiều từ khác... Tất cả những ngôn từ ấy đều rất trừu tượng đối với tôi. Tóm lại, tôi chỉ hiểu đại khái "thằng khờ" chính là tôi, mười hai tuổi, nhưng chỉ bằng một đứa bé lên năm. A ha… Như vậy cũng tốt lắm chứ! Chả thế mà lúc nào tôi cũng được mẹ đặc biệt chăm sóc. Thỉnh thoảng còn thấy mẹ vừa ôm tôi vào lòng vừa khóc nữa...



Mẹ rất thương tôi. Tôi chỉ thấy bằng cảm giác.  Rõ rệt nhất về tình yêu bà dành cho tôi là bà thường ôm tôi vào lòng, để tôi co gọn người trong lòng bà, nghe hơi ấm từ ngực bà truyền sang, cảm nhận được tình yêu bà dành cho tôi thật bao la. Đôi khi sung sướng quá, tôi cứ chỉ muốn mình mãi mãi là một đứa bé năm tuổi, mãi mãi là thằng khờ của mẹ.





Về ngoại hình - dưới con mắt cực kỳ chủ quan - tôi tự nghĩ có lẽ mình trông không đến nỗi tệ. Đôi mắt hơi lớn. Miệng bị lệch nên lúc nào cũng hở, rãi rớt cứ chảy ra ròng ròng mà tôi chẳng hề biết, vì vậy mà ngực áo lúc nào cũng ướt. Mẹ phải đeo thêm cho tôi một cái yếm cho đỡ lạnh ngực. Mẹ biết tôi rất thích mầu sắc nên cái yếm nào cũng đầy mầu xanh, đỏ, tím, vàng v.v.. (Những cái yếm này nhiều khi cũng làm trò cười cho thiên hạ). Tôi thích nhất cái yếm có hình cầu vồng ngũ sắc, vì tôi luôn luôn nghĩ rằng mình từ đó mà ra. Thật tuyệt diệu khi được sinh ra từ một vùng đầy mầu sắc như thế!

Mặc dù tôi là con trai, nhưng mẹ tôi lại cắt tóc bum bê (chắc mẹ chỉ biết cắt một kiểu đó thôi!). Đằng trước là một mảng tóc che cái trán ngang xuống tới chân mày. Khuôn mặt hơi vuông, nên với kiểu tóc như vậy trông tôi lại càng ngờ nghệch. Đôi tai hơi to quá khổ, vểnh ra phía trước. Một đôi lần, nhìn ngắm mình trong gương, tôi thấy mình cũng đẹp trai lắm nên hay mỉm cười và...làm điệu với chính mình...

Tôi không đến trường. Mẹ bảo đang xin cho tôi vào một ngôi trường cho những trẻ em khuyết tật, nhưng vì trường quá xa nhà, đưa đón không tiện nên mẹ giữ tôi ở nhà luôn. Chỉ một tháng một lần, đưa tôi đi bác sĩ và lấy thêm thuốc mà thôi.

Những lúc rảnh, mẹ thường lôi những quyển sách tập cho tôi nhận diện qua hình ảnh.



"Xe đâu?" Mẹ hỏi.


 
Tôi nhìn một lúc rồi chỉ vào chiếc xe mẹ đă dạy rất nhiều lần.



"Giỏi lắm.  Xe mầu gì?"



"Mầu... mầu..."



Tôi cố lục tung trong đầu những ngôn từ mà mẹ vừa dạy trước đó coi cái mầu của xe là mầu gì. Chà. Cả tỷ thứ nhảy lung tung trong đầu mà bất ngờ tôi chưa thể nhận diện ra cái nào là cái nào... Hưm... Mầu gì nhỉ?



"Mầu?" Giọng mẹ nhắc nhở..



"Mầu.... xanh..."



"Sai rồi! Mầu đỏ đấy chứ. Nè. Trái táo này cũng là mầu đỏ. Nhớ chưa?"



Tôi bá lấy cổ mẹ:



"Mẹ ơi.  Cái xe cũng là trái táo hở mẹ?"



"Ưm... Không phải đâu. Cái xe này chỉ cùng màu với trái táo thôi.  Nó không phải  là trái táo.  Nhớ nhé!"

Tôi ngồi dựa hẳn vào ngực mẹ, nghe hơi ấm từ ngực bà truyền qua. Âm thanh từ môi bà bay ra như mơ, như thực.  Bà nói cái gì mà nhớ với quên? Tuyệt nhiên tôi không thể nhận ra bà đang nói gì.



"Nón đâu?"



Tôi mệt mỏi, không muốn suy nghĩ gì nữa hết, chỉ bừa vào một cái hình trong quyển sách đầy những hình ảnh và mầu sắc. Mẹ kêu khẽ:



"Không phải đâu! Đó là con ngựa.  Con ngựa có bốn cái chân và một cái bờm ở trên đầu.  Con nói đi. Con ngựa!"



"Con ngựa...".  Tôi lặp lại một cách máy móc.



"Ngoan lắm..."

Mẹ biết tôi đă mệt và bắt đầu lười biếng suy nghĩ. Nên bà yên lặng. Nhìn mông lung qua khung cửa sổ sáng lòa những nắng. Tôi thương đôi mắt mẹ. Mắt mẹ to, có mầu nâu hạt dẻ, hun hút một chiều sâu khó hiểu. Lần nào nhìn sâu vào mắt mẹ,tôi chỉ muốn ngụp lặn thật sâu trong đôi mắt ấy. Tôi thấy được nỗi buồn mênh mang, mênh mang…


Gia đình tôi rất nghèo. Chỉ có hai mẹ con sống trong một căn phòng nhỏ. Mẹ không bao giờ nhắc đến cha tôi, tôi cũng chẳng bao giờ hỏi mẹ về %3
BCha, vì đối với tôi, tất cả đều rất mơ hồ, lãng đãng.  Tôi chỉ biết có Mẹ và không gian riêng tư rất hạn hẹp trong căn phòng nhỏ này.  Chỉ cần đi tung tăng vài bước là hết phòng. Góc bên kia là bếp. Mẹ ngăn một cái hàng rào gỗ cao để tôi không vào được. Mẹ bảo phòng khi hỏa hoạn. Tôi chẳng hiểu hỏa hoạn là gì. Nhưng mẹ cấm tiệt tôi không được bén mảng đến khu ấy.

Ngoài ra, tôi có thể ngồi lui cui chơi một mình cả ngày với mấy món đồ chơi lỉnh kỉnh.  Tôi rất thích cây súng ngắn, làm bằng một loại gỗ khá nặng, trông y như thật, rất đẹp mắt. Những lúc tâm hồn bấn loạn, bất an, nhất là những lúc lên cơn, tôi như người nhập đồng, la hét, lăn lộn, và trở nên rất dữ tợn. Cơn giận dữ ùn ùn xô tới như cơn bão, tôi đập phá bất cứ gì ở trong tầm tay. Một lần, tôi dùng cây súng bổ xuống đầu mẹ phọt máu, nhìn thấy máu chảy dài trên mặt mẹ, tôi càng thêm điên tiết, dữ tợn hơn. Tôi nghe Mẹ kêu "ối" một tiếng lớn rồi nhào tới ôm chặt lấy tôi vào lòng, càng dãy dụa, mẹ càng ôm tôi chặt hơn. Như một người thợ săn thiện nghệ, bà lôi ở đâu ra một ống chích, đẩy nhẹ vào mông tôi. Một lúc, cơn điên dần dần hạ, tôi từ từ chìm vào giấc ngủ... Lúc đó, người đàn bà trẻ mới có thì giờ nhìn đến vết thương mình...

Cứ hễ ba giờ chiều là mẹ phải đi làm. Chẳng hiểu mẹ làm gì nhưng về trễ lắm. Không bao giờ tôi biết mẹ về lúc nào. Cứ trước khi đi làm, mẹ đều căn dặn chỉ một điệp khúc tới độ tôi đã thuộc lòng:

"Thức ăn mẹ để sẵn trên bàn, khi nào con đói thì ăn nhé. Buồn thì mở TV lên xem hay lấy sách hình ra học. Buồn ngủ thì cứ leo lên giường ngủ nhớ chưa? Mẹ sẽ về!!"

Tôi yên lặng gật đầu. Mẹ ôm tôi vào lòng hôn lên má rồi lặng lẽ ra cửa khóa lại. Để chắc ăn tôi không chạy ra ngoài chơi, bà còn cẩn thận khóa thêm một ổ khóa khác phía bên ngoài.

Đời sống của tôi dường như chỉ khép kín ở bốn khung vuông, ngăn cách hẳn với thế giới bên ngoài. Nhưng chẳng hề gì vì tôi đã có một thế giới rất riêng tư - ngay cả mẹ cũng không biết - không phải tôi muốn dấu mẹ, nhưng tôi thực không biết nói sao để diễn tả cái thế giới ấy, một thế giới của không gian thênh thang và kỳ diệu, biến đổi theo từng ý niệm tâm thức khởi lên, lẫn lộn, từng mảnh chắp vá và có rất nhiều mầu sắc...




*



Một buổi sáng. Sau khi tắm rửa, chải đầu, mẹ mặc cho tôi một chiếc áo mới:



"Hôm nay mẹ sẽ đưa con lên chùa làm lễ quy y..."



Tôi không biết quy y là gì. Nhưng vẫn im lặng, thõng tay để mặc mẹ mặc quần áo cho mình.



"Mẹ còn muốn thày ban phép lành cho con và nhất là xin được sám hối tất cả những lỗi lầm mẹ đã tạo..."

Tôi thực chẳng hiểu mẹ nói gì. Tựa như mẹ đang nói chuyện với một bóng ma nào đó. Nhưng bằng cảm xúc bén nhậy của mình, tôi biết lúc đó mẹ đang rất buồn, đôi mắt mẹ đong đầy những khổ đau. Tôi có thể nhìn thấy được long lanh, hạt nước mắt sẵn sàng tràn ra khoé mi. Tôi nhìn bà ngẩn ngơ:



"Sao mẹ lại khóc thế?"



Mẹ tôi quẹt vội giọt nước mắt vào cánh tay áo, ôm tôi vào lòng âu yếm hỏi:



"Hôm nay được mặc áo mới. Con có thích không?"



"Con thích!" Tôi máy móc trả lời rồi hỏi lại:



"Mình đi chơi đâu hả mẹ?"



"Thì hồi nãy mẹ nói con rồi. Hôm nay mình lên chùa..."

Mặc dù vẫn chẳng hiểu chùa là gì, nhưng tôi giữ im lặng, vì nếu có hỏi thêm thì câu trả lời của mẹ càng làm tôi mù mịt. Tuyệt nhiên, tôi chẳng có một quan niệm hay một ý tưởng nào trong đầu về cuộc đi chơi hôm nay. Dẫu vậy, lòng tôi cũng rộn lên một niềm vui vì được ra khỏi nhà. Được nhìn thấy một thế giới khác so với thế giới của riêng tôi. Chẳng phải sao? Mỗi thế giới đều có những điều kỳ diệu, biến ảo riêng của nó. Mà lạ lùng thay, hình như sự biến ảo, kỳ diệu này chỉ có mình tôi nhìn thấy, nó làm cho tâm tôi thật khích động, và đôi khi tôi có cảm tưởng trái tim mình như muốn bị vỡ tung, muốn lập tức, nhập vào với không gian thênh thang mang đầy những bí ẩn, kỳ diệu của một kiếp người... Những lúc khích động như thế, tôi lại bị lên cơn...

Trên suốt con đường dài từ nhà đến chùa, cả hai cùng im lặng. Khuôn mặt mẹ lộ rõ sự suy tư và khổ đau. Tôi không hiểu mẹ nghĩ gì, nhưng thỉnh thoảng tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Giọng mẹ khẽ khàng như nói với một người trong mơ:

"Hối ơi. Cho mẹ ngàn lần xin lỗi... Mẹ thật có lỗi với con..."

Gió mát thổi qua cửa kính xe làm tôi thiu thiu muốn ngủ. Đôi mắt tôi xụp xuống. Tâm thức loé lên cơ man những giải nắng với những mầu sắc rực rỡ. Tôi rơi vào giấc ngủ với không gian đầy mầu sắc và mộng mị ấy...


Vị thày khoác chiếc áo choàng mầu đỏ rực như mầu rượu chát. Ông ngồi trên một cái bệ, dáng vững vàng, to lớn như một trái núi nhỏ.  Ông có đôi mắt rất hiền từ và ấm áp.  Cả hai mẹ con quỳ thụp xuống, cái kéo của mẹ mạnh quá tới độ tôi bị té ngồi xuống sàn trong lúc mẹ xụp xuống lạy. Tôi thấy người mẹ run lên bần bật, nước mắt tuôn như mưa, hình như mẹ đang rơi vào một sự khích động to lớn lắm. Sau khi lễ vị đạo sư ba lễ, mẹ úp mặt xuống sàn nói một mạch, làm như nếu bà nói chậm, thì bà sẽ không còn cơ hội nào để có thể nói nữa. Bằng một giọng cách quãng, gấp gáp và đầy nước mắt:

"Thưa thày. Chúng con lên chùa hôm nay để xin thày làm lễ quy y cho chúng con. Riêng con xin phát lồ sám hối. (Nói tới đây, giọng mẹ nghẹn lại, nức nở...) Cha thằng nhỏ bỏ đi ngay sau khi con có thai được bốn tháng. Cha mẹ con vì xấu hổ nên đuổi con ra khỏi nhà, lúc đó, đời sống bơ vơ, vật vã, lại thêm cái thai cưu mang trong bụng mà con không hề muốn giữ, nên con đã dại dột quyết định...quyết định...uống mấy thang thuốc để...trục nó ra ngoài. Ai ngờ....
Nói tới đây. Mẹ tôi nấc lên, tiếng nói trở thành tiếng khóc khò khè, nghẹt mũi...



Tôi chẳng hiểu thằng nhỏ là ai. Sao mẹ lại khóc nhiều tới thế? Tôi ngây mặt nhìn mẹ, rồi nhìn lên vị sư già...

Từ nãy giờ, ông vẫn yên lặng nghe mẹ tôi kể lể và để nguyên cho mẹ tôi khóc lóc. Dường như ông chẳng làm gì cả. Chỉ lắng nghe. Nhưng tôi có cảm tưởng cái không làm gì cả ấy ảnh hưởng đến tâm thức mẹ tôi rất nhiều. Tựa như ông là một cái thùng chứa lớn, nhận tất cả những khổ đau, oan trái mà mẹ tôi đang trút vào. Một lúc. Bà nín khóc, tâm có vẻ lắng dịu một phần nào...

Lúc đó vị thày mới thong thả bảo:

"Lành thay! Lành thay!  Con đã thành tâm sám hối. Muốn giải trừ được những ác nghiệp mình đă phạm cần phải có bốn lực: Thứ nhất là phát lồ sám hối. Thứ hai là thành tâm ăn năn những tội lỗi mình đã phạm. Thứ ba là tạo công đức lành để giải trừ các ác nghiệp và thứ tư là quyết tâm chừa bỏ. Trong bốn lực kể trên, thầy thấy con đă hội đủ ba lực. Đó là sự phát lồ sám hối, thành tâm ăn năn và quyết tâm chừa bỏ.  Ngày rằm này, thày sẽ cho các con một buổi lễ quy y. Phần còn lại, thì nên làm những việc lành, tích tụ công đức để thanh tịnh hóa những ác nghiệp mà mình đã phạm. Bây giờ, lại gần đây, thày ban phước lành cho con..."

Mẹ vội kéo tôi lại phía thày. Ông đặt hai bàn tay lên đầu chúng tôi. Tôi co rúm người lại, há hốc miệng khóc rống lên. Có một điều thật kỳ lạ, từ trên đỉnh đầu nơi giáp ranh với bàn tay ông chạm đến, một lực nhu hòa truyền qua đầu tôi, nó như một dòng nước suôi chảy, lan tràn khắp cơ thể, nó chảy đến đâu, tôi nghe một sự an lạc tới đó. Tôi ngưng khóc lúc nào không biết. Nhắm nghiền mắt, và lại nhìn thấy cái cầu vòng ngũ sắc ẩn hiện trong tâm thức.....

Ngày quy y đối với mẹ là một ngày trọng đại. Tôi hiểu được điều đó vì mẹ dậy rất sớm, tắm rửa cho hai mẹ con một cách tinh tươm, rồi mỉm cười. Ít khi tôi thấy được nụ cười trên khuôn mặt mẹ. Ồ, nụ cười mới đẹp làm sao. Nó làm cho khuôn mặt mẹ rạng rỡ, đẹp thêm lên. Hàm răng mẹ trắng đều, ánh mắt lung linh một cách kỳ ảo. Tôi bỗng yêu vô cùng nụ cười ấy, tôi muốn được nhìn thấy nụ cười luôn mãi mãi nở trên môi mẹ.

Sau khi quy y. Tâm mẹ có vẻ an hơn. Mẹ đặt một bàn thờ nhỏ ở góc phòng và thường thắp hương, niệm Phật trước khi đi làm. Mỗi cuối tuần, bà thường đưa tôi lên chùa, dự một thời kinh sáng, sau đó, tôi được đưa vào một lớp học Việt ngữ, còn mẹ thì xuống bếp làm việc.  Thường thì mẹ làm những việc mà nhiều người không muốn làm, như chùi rửa cầu tiêu, phòng tắm.  Hoặc trên chùa có những ngày lễ lớn, mẹ thường ngồi miết bên đống bát chén to như cái núi, rửa hết đợt chén này tới đợt chén khác.  Mẹ làm việc rất chăm chỉ, chẳng bao giờ than phiền.  Nhiều lần, tôi thấy mồ hôi mẹ ướt đầy lưng áo.  Trên trán những giọt mồ hôi nhỏ xuống hòa với thùng nước dơ.  Tôi ngẩn ngơ nhìn mẹ.  Ở trong trường hợp nào tôi cũng thấy mẹ rất đẹp.  Sự chịu đựng của mẹ càng cao, tôi lại thấy thấp thoáng nét đẹp càng tròn đầy.  Những lúc như thế, tâm tôi dường như không thể chịu đựng được sự thương yêu chứa đầy trong trái tim, tôi chạy a đến ôm mẹ kêu lớn "Mẹ ơi... Con thương mẹ!!”

* *

Ở chùa, tôi không bị ai chọc phá, đánh đập và gọi tôi là thằng khờ như trong xóm.  Họ rất tốt với tôi, thường nhường cho tôi những gì dễ dàng nhất. Họ còn cho tôi tham gia vào những sinh hoạt của một nhóm toàn con nít.  Phần đông, chúng tôi chỉ ngồi tô mầu và học đánh vần.  Trong mấy tháng đầu, học mãi tôi mới có thể đánh vần được chữ "Mẹ".  Mờ - e - me - nặng - Mẹ.  Lần nào đánh vần xong chữ Mẹ, lòng tôi lại rộn lên một niềm vui…

Trong lớp học Việt ngữ, tôi được ngồi gần với một con bé thắt tóc bím.  Nó thấp hơn tôi một cái đầu.  Nó ưa nói nhiều, tiếng nói của nó như chim, ríu ra, ríu rít.  Phần đông, tôi chẳng hiểu nó nói gì, nhưng tôi rất ưa nghe nó nói, tôi thích nghe cái âm thanh phát ra từ đôi môi xinh xinh ấy.  Lại nữa, mắt nó to, giống Mẹ, những gì có liên quan đến mẹ, tôi đều thích.  Tôi tò mò nhìn nó.  Thấy nó thật lạ lùng như thế giới chung quanh tôi. Nó biến hóa  luôn luôn, không lúc nào ngừng lại. Tất cả đều lạ lùng, mầu nhiệm.  Tôi thấy nó ngồi bặm môi tô màu lên một tấm hình dang dở.  Tôi cũng có một tấm và đã tô xong rồi, còn nó thì chưa.



"Ê. Mày tên gì thế?"



Con bé trợn mắt nhìn tôi:



"Anh không được gọi bé bằng mày.  Mẹ bé bảo, gọi như vậy không có nice."


Nghe nó nói như vậy tôi im lặng.  Lại tiếp tục ngồi nhìn nó.  Muốn nói với nó một điều gì tôi lại quên phứt đi ngay. Hình như tôi vẫn chưa biết được tên nó.  Con bé thấy tôi câm như thóc bèn ngừng tô màu, nhìn qua trang giấy của tôi:


 
"Anh tô lem hết cả ra ngoài rồi. (Toét miệng, cười)  Hihihi... Mà sao anh tô con chó nhiều mầu quá vậy? Giống y như mầu chiếc cầu vòng vậy đó. Bé chưa thấy có con chó nào có cái mầu này đó nghe."



"Ờ....  Ai cũng từ cái cầu vòng này mà ra đấy!" Tôi giải thích.

Con bé cười nắc nẻ, chừng như nó không tin những gì tôi vừa nói.  Mà lạ. Những điều tôi nói toàn là sự thật, nhưng chẳng mấy ai tin. 
Nghe nó cười, tôi cũng toét miệng cười theo.  Con bé bị mất hai cái răng cửa.  Mẹ tôi có hàm răng đẹp hơn nó.



A. Tôi nhớ mẹ quá.  Mẹ đâu rồi? Tôi phải đi kiếm mẹ.  Tôi đứng lên, đi ra khỏi lớp.  Nhưng tôi lại quên mất lối xuống bếp tìm mẹ, tôi đi thẳng ra cổng chùa. Trong tôi, chỉ có một lực rất mănh liệt đẩy tôi đi tìm mẹ.  Mẹ ơi...mẹ ơi...

Tôi chạy băng băng qua con đường rộng.  Tôi nghe tiếng xe thắng rất gấp. Tôi thấy cả thân mình bị tung lên.  Tiếng nhiều người lao xao từ một phía mơ hồ nào đó:

"Cán chết thằng nhỏ rồi..." 

* * * 

  Tôi như người vừa đi từ một thế giới này qua một thế giới khác. Tựa như một loài bướm thoát ra được cái kén hạn hẹp, xấu xí của mình để bước vào không gian thênh thang, lớn rộng. Tôi không còn phân biệt được đâu là mình, đâu là không gian thênh thang ấy nữa.  Tâm thức tôi trở nên minh mẫn một cách lạ lùng.  Hốt nhiên, tôi hiểu được tất cả mọi sự.  Tôi hiểu được nỗi khổ đau của mẹ và niềm hối hận vô biên của bà từ bao nhiêu năm nay.  Mọi dữ kiện như một cuốn phim quay nhanh - nhưng chẳng sót chút tiểu tiết nào - đang lần lượt chạy ngang đầu.  Càng hiểu mẹ, tôi càng thương mẹ hơn.  Nếu tôi có thể đi lại được từ đầu, tôi sẽ tha thứ cho bà tất cả, tôi sẽ nhìn bà bằng lòng bi mẫn vô biên. Cái nhìn của vị đạo sư đã làm lễ quy y cho hai mẹ con tôi ngày nào.  Tâm tôi như một đóa hoa từ từ nở ra rất muộn màng, được tưới tẩm bằng giọt mật của lòng bi mẫn ấy.  Tôi thấy mình chìm dần vào vùng ánh sáng bàng bạc như một mầu sữa, chỉ còn lại trong không gian thênh thang một mùi hương thoảng thoảng vương ở cuối mùa...

1097




Đó là một tiệm bán sách báo. Bên trong kê những kệ để cơ man đủ loại sách. Ngay bên hông cửa ra vào, kê một cái tủ kiếng bày biện những món đồ trang trí bằng crystal, bút, tượng Phật và những dụng cụ treo trong xe. Một ngày nắng thật đẹp, nhưng có vẻ...buồn. Hình như ngay cả những giải nắng ngoài bãi đậu xe cũng đang lang thang chờ đợi bóng dáng ai...

Cô đến thăm anh vào một buổi trưa ngập nắng. Lòng hớn hở, vì cô có rất nhiều truyện kể anh nghe. Đôi khi, cô trộm nghĩ, có lẽ ngoài vấn đề anh nghe truyện cô bằng tai, anh còn nghe cả bằng mắt, và thỉnh thoảng, bằng sự xúc chạm bàn tay anh nắm lấy tay cô nữa...

Nhưng khi tới nơi, "chạm" phải ánh mắt anh nhìn tha thiết quá, làm cô bối rối, cảm thấy...quê một cục. Khi không cô lại im như thóc, chẳng nhớ bất cứ câu chuyện nào để kể. Cô ngồi làm bộ ngó lơ ngơ ra ngoài khung cửa, ngó trời, ngó đất, hai tay đan lấy nhau đặt trên đùi.

"Sao. Em Khoẻ không?"

"Uh huh..."

Anh bỏ chiếc nghế ngồi đối diện. Đến ngồi trên chồng sách cạnh bên cô, nhưng vẫn tế nhị dành một khoảng không gian vừa đủ cho cô khỏi bị mất tự nhiên:

"Sao hôm nay nói ít vậy? Có chuyện gì kể anh nghe..."

" Hì...."

Cô ngượng nghịu nhếch mép cười. Sao kỳ. Khi không cô lại mất tự nhiên thế này?

Biết cô đã đánh rớt mất sự hồn nhiên ngay sau khi bước vào cửa tiệm. Với cử chỉ rất tự nhiên, anh nắm lấy tay cô kéo về phía tủ kính:

"Có muốn có một cái chuông nhỏ treo trong xe không? Anh cho..."

Mặt cô tươi lên. Líu ríu theo chân anh đến chiếc tủ kiếng bày biện cơ man những đồ trang trí nho nhỏ. Từ tượng Phật bà, chuông, tháp, và cả những sợi tràng hạt đeo tay nữa. Anh chọn ra một cái chuông nhỏ xíu, ngắm nghía một lúc:

"Thích cái này không?"

"Thích... Nhưng...."

"Nhưng....sao?"

"Cái này để bán mà?"

"Nhằm gì. Của anh mà. Lấy một cái đâu có sao!"

"........."

Anh chọn ra một chiếc chuông nhỏ, có cột thêm một giải đỏ phía dưới:

"Cái này nhé? Ừ. Cái này đẹp hơn nè..."

Anh đưa liên tiếp hai, ba cái chuông đủ cỡ để cô chọn lựa. Nhưng cô vẫn còn ngần ngừ. Anh lại lôi tiếp một chuỗi đeo tay, ngắm nghía:

"Muốn cái này không?"

Cô xua tay lia lịa:

"Thôi...thôi, đừng lôi ra nữa. Em chẳng muốn gì hết!"

Chẳng trả lời cô. Anh vẫn chăm chú nhìn chuỗi tràng đeo tay mà anh vừa lôi ra từ trong tủ. Nó được kết bằng những viên đá vuông nhỏ, trên mặt đá có vẽ ngoằn nghèo vài nét trông rất lạ mắt.

"Anh nghĩ đây là chữ Phạn đó"

Cô cũng tò mò ghé mắt nhìn, cãi:

"Không phải chữ Phạn đâu, hình vẽ mà!"

"Hưmmmm... Chắc là chữ Phạn!"

Cô bướng bỉnh, trêu anh:

"Ưm....Không phải mà!"

Anh nhìn cô một thoáng, chẳng thèm cãi với cô chi cho mệt:

"Nè. Lấy không?"

"Không lấy đâu. Nhưng, em nói không phải tiếng Phạn nha!"

Anh chẳng nói gì. Nhìn sợi chuỗi thêm một lúc, cố nhận diện xem có một nét chữ nào quen không, rồi bỏ lại trong tủ. Cô tính kiếm cách...gây sự mà anh chẳng thèm cãi, cô đành xoè răng...cười:

"Okay. Chữ Phạn!"

Cả hai cùng cười. Anh tự ý chọn ra một cái chuông nhỏ rồi kéo cô trở về chỗ ngồi:

"Nè. Cất đi. Nhớ treo trong xe nghe."

Cô đỡ lấy món quà. Thực tâm, cô chẳng muốn lấy làm gì. "Vô công, vô dụng hạnh mà".  Cô luôn nghĩ như thế khi nhận quà từ người khác. Nhưng đối với anh, có lẽ không nên câu nệ, nhận để anh vui, vì đôi khi, hành động nhận quà của mình cũng chính là để đem niềm vui đến người cho.

Anh ngồi trên thùng giấy bên cạnh, nhường cho cô cái ghế đẹp nhất trong tiệm. Cô ngó lơ. Nhìn tới, nhìn lui chẳng biết nói chuyện gì. Hai bàn tay đan lại với nhau, thấy ngứa, cô gãi gãi, để lại một vết đỏ ỡ kẽ ngón. Cô méc:

"Đỏ nè... "

Anh cười:

"Hồi nhỏ, đau chỗ nào, anh đều lấy...nước bọt làm thuốc, ngậm một lúc là hết... Đưa đây anh chữa cho..."

Rất nhẹ, anh đặt môi trên vết đỏ. Cô có cảm giác đầu lưỡi anh ươn ướt...

Thấy kỳ kỳ... Rụt tay về. Cô lại ngó lơ.....

Bỗng nhìn thấy đôi chân anh đi giầy sandal lòi mấy ngón chân coi ngộ ngộ, cô tinh nghịch dẫm lên chân anh rồi cười khúch khích. Phản ứng tự nhiên là anh rụt chân về. Nhưng cô cố bặm môi giữ lại. Cô ấn mạnh đôi giày bata của mình xuống chân anh. Anh hiểu ngay cô đang bắt đầu phát minh ra trò chơi mới. Anh hăng hái nhập cuộc chơi. Anh cố bặm môi kéo chân về. Hiển nhiên, anh kéo về được, và (chơi ngon) gác cả cẳng chân mình lên chân cô. Bốn bàn chân bắt đầu tranh giành ảnh hưởng, cô hăng hái muốn giành phần thắng về mình. Anh nghe tiếng cô cười lên khúch khích...

*

Buổi tối về. Anh lên giường với hình ảnh dễ thương của cô. Anh nhớ tới nụ cười ròn, ánh mắt ngó lơ... Mà kỳ ha! Sao bây giờ anh lại...nhớ thêm đôi cẳng chân với chiếc giầy bata đầy bụi đất!!

1099




con





Tôi là một sinh vật rất bé nhỏ có hai cánh cỏn con. Tôi được sinh ra từ một vùng bị ung nơi trái xoài Thanh Ca đặt trên bàn thờ Phật. Một lần, bằng một chút kiêu hãnh, tôi đã nói với chị Nhện Trắng rằng:

“Em được hóa sinh từ một trái xoài đấy!”

Chị Nhện Trắng "xì" một tiếng rất dài rồi bảo:

“Chú chỉ là một giống ruồi rất nhỏ bé, thường gọi là "Ruồi Giấm" (Drosophila), sinh sản trong các loại trái cây và rau thối rữa. Một kiếp sống của chú, chỉ bằng khoảng năm ngày của loài người. Có một vài miền, người ta gọi chú là Con Giãn.”

Từ đấy. Tôi chấp tôi là một chú Giãn bé nhỏ. Nhưng là một chú Giãn nhiều chuyện và ưa suy tư....

Nghe chị Nhện Trắng kể. Hôm rằm, cô chủ đã mua mấy loại trái cây, rửa sạch, trang trọng dâng lên cúng Phật. Cô để ba loại trái cây ở tầng dưới, dụ cho ba ngôi Tam Bảo. Tầng trên, cô để một trái xoài Thanh Ca, dụ cho Bồ Đề Tâm. Tôi sinh ra từ tâm Bồ Đề ấy, từ trái xoài Thanh Ca chín rũ, trong một căn phòng rộng. Đối với một chú Giãn bé nhỏ như tôi thì căn phòng quả là một không gian rất thênh thang...

Ngày đầu tiên tôi cất cánh bay trong không gian thênh thang ấy, tôi thấy đâu đâu cũng thật lạ lùng, kỳ diệu. Trên tường có treo một vài bức tranh với nhiều mầu sắc rực rỡ. Chị Nhện Trắng bảo đó là hình ảnh đức Phật A Di Đà và ngài Quán Thế Âm. Chớ có đậu vào đấy, nhất là không được "làm bậy" trên đó. Dĩ nhiên, tôi chằng biết đức Phật A Di Đà và ngài Quán Thế Âm là ai, nhưng nhìn hình ảnh của các ngài, tôi cho rằng đẹp lắm, có lẽ một phần tôi rất thích mầu sắc, cứ cái hình nào có nhiều mầu sắc là nó lại cuốn hút lấy tôi một cách rất mãnh liệt.

"Rồi chú sẽ được gặp cô chủ. Cô ta chỉ vào trong gian phòng này một ngày hai lần sáng, tối. Ngoài ra, chẳng còn ai vào đây nữa."

"Cô ấy vào đây để làm gì thế?"

"Để tụng kinh. Bao lâu nay, chị nghe cô tụng, tuy chẳng hiều gì ráo nhưng riết rồi cũng thấy...ghiền. Nghe những âm thanh lên bổng, xuống trầm từ đôi môi mấp máy ấy, thỉnh thoảng cô lại đánh một tiếng chuông ngân. Lâu dần, chị nhận ra một điều kỳ diệu: Thân chị ngày càng trắng ra, tâm có vẻ nhẹ nhàng, an lạc. Có hôm, cô mệt, bỏ thời kinh. Chị nhớ âm thanh, thân tâm ủ ê, cũng muốn ốm theo cô..."

Tôi bâng khuâng nhìn ngắm chị. Phải ha. Chị có một thân căn rất đẹp. Toàn thân mầu trắng nuốt, nhỏ bé chỉ bằng đầu ngón tay út. Đôi mắt chị có viền nâu như vẽ. Những lúc buồn, chị ưa giăng tơ. Những sợi tơ óng ả, mượt mà. Tôi xin chị ít tơ xếp làm gối, nằm mơ màng, nghe chỉ kể chuyện ngày xưa...

Ngày xưa....

Chị đẹp lắm. Chị là một cô nhện bé tẻo teo, núp dưới đám lá của một chậu Cúc vàng được cô chủ đem về đặt dưới chân bàn thờ. Rồi chị lớn dần theo thời gian, chị bỏ chậu Cúc leo tuốt trên trần, giăng tơ, làm nhà. Một hôm, có chàng lãng tử Nhện ghé ngang. Chị thơ ngây, yêu thầm, nhớ trộm rồi (dại dột) trao thân, gửi phận cho chàng. Nhưng rất tiếc, nét đẹp của chị vẫn chưa đủ để giữ chân anh lại. Anh ở với chị một thời gian rồi cũng bỏ đi. Chị buồn, chẳng làm được gì khác ngoài việc giăng tơ....

"Thế ngoài chàng Nhện...sở khanh ấy, còn có ai ghé qua không hả chị?"

"Có chứ. Thỉnh thoảng có vài chú kiến ghé qua. Nhưng mấy chú ấy cần cù lắm. Lần nào đi ngang qua đây trên miệng cũng đều ngậm hoặc hạt đường, hoặc hạt muối, đôi khi chỉ là một cọng rơm. Các chú cứ cắm cổ mà đi, chẳng ngừng lại chào hỏi lấy một câu..."

Tôi nằm nghe chỉ kể với giọng buồn buồn. Tôi ngắm nghía chị một lúc và nói bằng một giọng cực kỳ ngưỡng mộ:

"Chị ơi. Chị thật đẹp. Em ước có được một thân Nhện đẹp như thế..."

Chị cười xòa:

"Ước được thân Nhện làm chi? Đã lỡ ước thì sao không ước được làm thân Người có hơn không? Thân Người đẹp lắm. Thọ mạng lại dài. Chị đoán, thọ mạng của loài Người chắc bằng cả ngàn kiếp của Chú nhập lại đó."

"Thiệt hả chị?"

"Thiệt mà. Chú chờ chút nữa, khi cô chủ vào đây tụng kinh thì sẽ thấy. Nói nhỏ Chú nghe, Chị đang có một đại thệ nguyện là kiếp sau có được một thân Người đẹp đẽ như thế... Kìa, hình như cô chủ đã vào..."

Có tiếng kẹt cửa. Một bóng người mảnh khảnh bước vào phòng. Cô mặc một bộ quần áo in lốm đốm những đóa hoa hồng bé tí. Vừa đi, cô vừa che miệng ngáp. Đôi mắt còn ngái ngủ, hai mí cứ như muốn xụp xuống. Cô bặm môi đẩy cánh cửa tủ quần áo qua một phía, lấy ra chiếc áo tràng mầu lam khoác lên người. Tôi nghe tiếng cô khe khẽ nguyện:

"Nguyện cho con khoác được áo giáp "nhẫn nhục". Nhẫn chịu được tất cả những đau khổ và chướng duyên trong cuộc sống hằng ngày..."

Vừa nói, cô vừa cài khuy áo. Chiếc áo choàng rộng thùng thình làm tôi có cảm tưởng thân người cô bị lọt thỏm trong chiếc áo ấy, hai tay áo dài phủ tận xuống tới bàn tay cô. Tôi thấy cô loay hoay vén hai tay áo lên, rồi thong thả bước tới bàn thờ Phật...

Tôi nằm núp trên trái xoài Thanh Ca, nhìn nét mặt nghiêng nghiêng của cô đang rót nước. Cô có đôi mắt to, đen (nay đã hoàn toàn hết vẻ ngái ngủ) Đôi môi hồng hồng. Mái tóc cắt ngắn cũn cỡn, lửng lơ chưa chấm đến vai. Sau khi thay mấy chén nước, cô thắp hương. Đôi mắt cô khép hờ khi dâng hương. Hai tay chắp lại như một búp sen nguyện khe khẽ. Tôi bỗng thấy chị Nhện Trắng nói rất đúng. Sao thân Người có thể đẹp đẽ như thế? So với thân nhện thì chị còn kém xa lắm...

"Chị Nhện Trắng ơi..." Tôi bồng bột kêu lên...

"Sụyt. Đừng có làm ồn. Cô chủ sắp sửa tụng kinh. Chú ráng nghe những lời kinh cô tụng, lâu dần, Chú sẽ thấy lời kinh không chỉ là âm thanh huyền diệu, mà nó còn là ánh sáng thênh thang, chan hòa khắp nơi nữa đó..."

Nghe chị Nhện Trắng nói vậy. Tôi nín thinh. Lòng hồi hộp. Trái tim đập thình thịch như muốn vỡ lòng ngực vì sự khích động. Đôi mắt dán chặt lên hình ảnh cô chủ đang linh động trước mặt. Tôi thấy cô quỳ xụp xuống lễ Phật ba lễ, sau đó, ngồi xuống bồ đoàn và bắt đầu thỉnh chuông. Cô ngồi xếp chân bằng tròn, lưng thẳng như một cái cột gỗ. Một tràng âm thanh tuôn ra từ đôi môi mấp máy. Thỉnh thoảng, cô lại đánh một tiếng chuông ngân

Tôi chưa thể nhận ra được âm thanh vi diệu tới chừng nào. Nhưng dáng người của cô, thân căn đẹp đẽ ấy làm cho tâm tôi bồng bột tới độ chỉ muốn chấm dứt ngay lập tức thân Giãn nhỏ bé này để phát đại thệ nguy
ện được tái sinh làm thân Người.. Trong không gian thênh thang, ngoài lời kinh cô đang tụng, tuyệt nhiên vắng lặng...
Thời gian như ngừng trôi...

...

Từ đó. Suốt ngày tôi chỉ mơ màng tới hình ảnh đẹp đẽ ấy. Tôi tập "nghe kinh" thầm ước mong một ngày kia tôi cũng sẽ có được một thân Người xinh đẹp ấy. Ôi... Tôi có cuồng si lắm không khi có những điều ước muốn hoang tưởng như thế?

*

Một buổi sáng. Tôi thấy cô chủ vào gian phòng thờ. Khuôn mặt cô có vẻ vui. Cô dọn dẹp, lau chùi bụi trên bàn thờ Phật và hát khe khẽ. Đĩa trái cây được cô đưa ra ngoài phòng bếp. Tôi chưa kịp chào giã biệt chị Nhện Trắng thì đã phải ra đi một cách vội vã. Xem ra mới biết, hôm nay cô chủ nhỏ rất bận, cô phải lo dọn dẹp nhà cửa để đón một vị đại đạo sư về thọ trai. Nghe đâu, vị đạo sư này chính là đệ tử hóa thân của ngài Quán Thế Âm (cái hình được trưng trong bàn thờ Phật mà tôi vẫn thường ngưỡng mộ.)




"Anh ơi. Giúp em một tay dọn dẹp nhanh lên nhé. Năm giờ chiều nay thày sẽ đến. Em còn rất nhiều việc để làm. Tạm thời. Anh lau chùi cho em phòng khách, phòng ăn và hút bụi nha... Còn em phải di lau chùi phòng thờ, cầu tiêu, phòng tắm v.v.. Khoảng một giờ chiều mình sẽ chuẩn bị nấu cơm chay..."

"Cầu tiêu vừa mới chùi cuối tuần rồi, cần gì phải chùi nữa hả? Chùi nhiều quá, mệt lắm nghe!!"

"Ô... Cần chùi lắm! Chỗ nào cũng phải sạch chứ. Vì mình đang thỉnh một vị đại đạo sư về nhà đó mà...."




Tôi vẫn nằm phục trên trái xoài Thanh Ca. Nghe cô chủ đối đáp với một nam nhân có nét mặt nghiêm nghiêm. Ông ta đang nằm dài trên ghế sofa, đối diện với cái TV mở lớn. Âm thanh ồn ào, náo động, không giống như âm thanh tôi vẫn thường nghe cô chủ tụng kinh sáng, tối. Đối với cô, nghe chừng chuyện thỉnh vị đại đạo sư này về thọ trai là chuyện rất quan trọng. Chắc hẳn, ngài chính là "hóa thân" của ngài Quán Thế Âm không chừng.

Lòng tôi reo vui như mở hội, tôi thực tâm tùy hỉ những việc cô chủ đang làm. Thật kỳ diệu.... Sự tùy hỷ đó mạnh mẽ tới độ làm tôi có cảm tưởng như chính mình đang dự phần vào công việc ấy. Tôi tung đôi cánh bé nhỏ của mình bay theo cô, tôi nói với cô rất nhiều điều mà cô chẳng hiểu:

"Cô chủ của tôi ơi... Cô dọn dẹp và làm cơm đón vị thày thọ trai chắc hẳn rất mệt? Tôi xin trang nghiêm gánh với cô ít nhiều khổ cực và một chút niềm vui. Ừ... Tôi phải làm gì nữa nhỉ? Cô có cho tôi dự phần đấy không?"

Hiển nhiên, cô không thể nghe được tôi nói dẫu tôi có la hét tới khản cổ. Lại nữa, cô quá bận bịu... Tôi thấy những giọt mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán cô...

Sau một hồi bay theo cô lẽo đẽo. Tôi bắt đầu thấm mệt. Tôi trở lại phòng bếp và nằm bẹp trên trái xoài Thanh Ca cô vẫn chưa vất vào sọt rác. Ngẫm nghĩ, thấy buồn và tủi phận, chẳng hiểu kiếp trước tôi làm gì nên tội để phải đeo một cái thân Giãn bé tí cỏn con này? Tôi bắt đầu rấm rức khóc, ban đầu thì còn khóc khe khẽ, sau nỗi buồn dấy lên mênh mang, tôi òa khóc lớn. Khóc chán. Tôi nằm thiu thiu, nghĩ tới lúc được tận mắt gặp vị đại đạo sư, lòng hoan hỷ lại khởi lên nên nỗi buồn mới nguôi ngoai. Tự an ủi, dẫu sao, tôi cũng còn có phước để gặp được Phật pháp và diện kiến được một vị đại đạo sư như thế...

Buổi chiều.
Ngôi nhà sáng choang như mới. Cô chủ trưng bày một lẳng hoa đủ sắc ngay bàn khách rồi vội vã lên chùa đón thày. Còn tôi. Tôi bay vào phòng thờ và báo cáo cho chị Nhện Trắng biết chuyện gì đang xảy ra. Chị cũng rất hoan hỷ, chỉ tiếc chị không đi theo tôi ra ngoài phòng khách xem công trình của cô chủ đón vị thày ra sao. Chị có vẻ nôn nao:

"Này chú. Chú có nghĩ thày sẽ vào phòng thờ này không nhỉ?"

"Dĩ nhiên là có chị ạ. Em còn nghĩ hơn thế nữa cơ. Chắc hẳn thày sẽ ngồi xuống và cho chúng ta một thời kinh ngắn nữa..."

"Ồ... như vậy thì còn gì hơn... "

*

Vị thày với bộ y áo vàng, to lớn như một vị Bồ Tát. Ngài bước vào nhà và ban bình an cho những người trong gia đình. Bữa cơm được dọn ra một cách kính cẩn. Tôi nhìn thày mà đôi mắt chẳng tạm rời. Chao ôi, sao thân Người uy nghi và đẹp đẽ đến dường ấy? Nhìn lại mình. Đời sống của tôi cũng sắp chấm dứt. Thọ mạng của một con Giãn bèo bọt, ngắn ngủi chẳng đem lại lợi ích gì cho ai, chỉ dài bằng vài ngày của thọ mạng người.... Tôi bay đến bên cô chủ, nhìn cô đang vắt một ly nước cam cho thày. Chợt nhớ tới lời kinh Kim Cang ban sáng cô chủ vừa tụng. Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề về hạnh thí thân hằng hà, sa số như cát sông Hằng của chư vị Bồ Tát. Tôi cũng muốn thực hành Bồ Tát hạnh như thế, muốn dùng thân vô dụng này dâng lên cúng dường chư Phật mười phương. Ý nghĩ ấy thoáng qua như trong một chớp mắt. Tôi nhắm mắt, gieo mình vào ly nước cam cô chủ vừa vắt, chấm dứt thọ mạng Giãn ngắn ngủi của mình. Nguyện kiếp sau tôi sẽ có được một thân Người đẹp đẽ như cô.

Tôi thấy toàn thân mình bị chìm lỉm vào giòng nước vàng lạnh buốt, chới với..., ngộp ngã... Nghe đâu đây như có ngàn tiếng lao xao nổi lên... Chung quanh tôi bỗng phủ xuống một màn mờ mờ như sương, như khói....

*

Cô nhỏ kẽ kêu lên khi phát hiện một chấm đen đang trôi lờ đờ trong ly nước cam khi cô đem dâng thày. Cô lấy muỗng vớt cái chấm đen ấy lên, và nhận ra đó là xác của một con Giãn. Ngạc nhiên hết sức. Bụng bảo dạ: "Kỳ thiệt, rõ ràng, hồi nãy lúc đổ nước cam vào ly, đâu thấy có con Giãn nào đâu cà?" Cô quày quả, định đem ly nước đã dơ đổ đi và làm lại một ly khác. Nhưng vị thày đã ngăn cô lại và bảo:

"Con cứ để ly nước cam đây cho thày uống."

"Nhưng thưa thày..., nước này đã dơ rồi. Để con vắt một ly khác..."

"Chẳng hề gì..."

Nói xong, bằng một cử chỉ như một lễ nghi. Vị thày thong thả nâng ly nước cam lên ngang môi, đôi mắt khép hờ khẽ chú nguyện vào ly nước một lúc rồi từ từ uống từng hớp, xác Giãn theo dòng nước trôi tuột vào bụng vị đại đạo sư trước con mắt mở lớn của người đệ tử...

1008






1




Ở cuối chợ, chẳng hiểu từ lúc nào, bỗng xuất hiện một lão ăn mày ghẻ lác. Mà nói cho ngay, thiên hạ cũng chẳng biết lão có làm nghề ăn mày không nữa, vì lão chẳng ngửa tay xin tiền ai bao giờ. Mọi người chỉ thấy lão ngồi cuối chợ, bày xuống đất một miếng giấy nhật trình, nhầu nát, đen bẩn như bộ quần áo lão đang mặc. Trên tờ giấy có để một cái chén mẻ và vài đồng xu nằm lăn lóc. Bên cạnh, một tấm bảng viết tay ngoằn ngèo: "Thày Bói"

Thường thì chẳng bao giờ lão có khách đến coi. Nên lão sống bằng lòng hảo tâm của khách qua đường. Nghe đâu, lão coi bói như thần, cứ mười vụ, thì đều trúng cả mười. Toàn những chuyện xui xẻo, thập tử nhất sinh. Thiên hạ ai cũng sợ, ngờ rằng, lão chỉ toàn đem điềm họa tới, nên ít người dám coi. Chẳng đặng đừng lắm mới lết đến nhờ lão coi giúp.

Cách nay mấy tháng, chị Sáu cháo vịt, làm ăn lỗ lã quá, rón rén đến đặt một quẻ xem vận mình ra sao, lão chẳng cần coi gì sất trọi, chỉ nhìn chị mà lắc đầu nguây nguẩy:

- Vận chị xấu lắm, chẳng làm được nên trò trống gì nữa đâu. Chị nên về nhà tụng kinh, sám hối cho nhiều, may ra...

Người đàn bà nhìn lão thày bói ngập ngừng:

- Dà....từ nào tới giờ, tui chẳng biết sám hối, tụng kinh sao hết thày à...

Lão thày bói nhìn chị một lúc, rồi chép miệng:

- Âu thì chắc ta đã có ít nhiều cơ duyên với chị. Thôi thì để ta gánh giúp cho chị một phen.

Nói rồi, lão lôi trong cái túi cáu bẩn một viên thuốc đen nhánh bằng hòn bi con. Bóp miệng người đàn bà và bắn vào họng. Lão làm nhanh quá, chị Sáu cháo vịt chỉ ú ớ lên vài tiếng, viên thuốc đã bị lọt tỏm xuống bụng. Chị nghe trong bụng mình nóng ran, chân tay run lẩy bẩy, chị quày quả bỏ về một nước, quên cả trả tiền quẻ và lời cám ơn. Ngày hôm sau, chị bị sốt cao độ, ốm lê lết hơn tháng trời mới bò dậy nổi. Dân trong xóm xầm xì, cho rằng, chị lại là một "nạn nhân" mới của ông thày bói ghẻ lác.

Vì những sự xầm xì nhỏ to ấy. Vô hình chung, dân trong xóm đã khoác lên lão thày bói thành một nhân vật bí hiểm. Có người lại kháo nhau rằng, lão chính là một vị Bồ Tát hóa thân xuống nhân gian để gánh bớt những nghiệp quả của dân vùng này. Như chuyện chị Sáu cháo vịt chẳng hạn. Có thể chị còn bị nặng hơn thế nữa, nhẫn đến cái chết. Nhưng vì do lòng từ bi của lão, nên chị chỉ bị ốm một trận thập tử nhất sinh một tháng trời rồi thoát. Lại nữa, hình như lão có cặp mắt giống mắt của một vị Bồ Tát, có viền vàng ngoài cái tròng nâu đen.Đồn đại cho lắm, chứ chẳng ai dám đến gần để kiểm chứng cho rõ có đúng là mắt lão như thế không. Họ đều sợ và chẳng ai dám đụng tới lão. Ngược lại, lão cũng chẳng đụng tới ai. Nơi lão "làm ăn" trở thành một khu "cấm địa" chẳng ai dám lai vãng. Thỉnh thoảng có người thương tình, thấy lão cứ ngồi lưng thẳng như cái cột trong dáng thiền định thì bỏ vội vào cái chén mẻ vài đồng lẻ, vài trái chuối, hay một ít bánh rồi vội vã đi thẳng...

*

- Tép ơi, chạy ra chợ mua cho mẹ một bó rau muống và chai tương nhé. Nhớ không được la cà đi chơi đâu đấy, con phải về ngay nghe không?

Người mẹ ốm ho sù sụ, mệt mỏi, uể oải ngồi dậy lấy trong túi ra ít tiền lẻ, dặn dò đứa con gái mười một tuổi của mình, bà nói thêm:

- Rau muống thì khoảng một đồng một bó, chai tương ba đồng, còn lại hai đồng mẹ cho con bỏ ống. Nhớ không được đi lang thang nghe chưa?

Con Tép, người lép kẹp như con tép khô. Mặc trên người một bộ đồ bà ba vá chằng chịt, khuôn mặt rang rỡ:

- Vâng, con sẽ về liền...

Tép tung tăng, xách làn mây ra ngõ. Nhà nó nằm cuối một con ngõ cụt, sâu hun hút, loằng ngoằng, rẽ ngang, rẽ dọc như cái bàn cờ trước khi ra đến mặt lộ. Nếu không phải là người trong xóm, vào con ngõ này phần đông đều bị lạc. Nhưng đối với Tép nó chỉ cần chạy một mạch, quẹo vài cái quẹo như người vũ công trổ tài là đã đến đường lộ rồi... Nó làm đúng theo lời mẹ dặn, mua đủ hai thứ bỏ vào làn mây. Nhưng trước khi về, bỗng nó nghe thấy tiếng lanh canh của các đồng xu chạm nhau. Nhìn lại, hóa ra là lão thày bói đang lấy quẻ. Mấy lần đi chợ với mẹ, nó đều muốn dừng lại nói chuyện với lão. Nhưng lần nào mẹ nó cũng kéo nó đi thật nhanh qua "gian hàng"  của lão, nên không bao giờ nó có thể trò truyện được. Hôm nay, thật hên, mẹ nó đang bị ốm ở nhà, đây là dịp rất thuận tiện đến hỏi thăm lão.

- Ông đang làm gì đấy?

- Đang gieo quẻ...

- Gieo quẻ để làm gì?

- Để xem có tai ương nào giáng xuống vùng này hay không.

Con Tép chẳng hiểu ông lão nói gì. "Quẻ" là gì nó chẳng biết. "Tai ương" là gì nó cũng chẳng hiểu. Nhưng cứ hễ nhìn thấy ông bẩn thỉu, ghẻ lác, chẳng có ai chăm lo, nó bỗng thấy thương hại. Nếu mẹ nó đừng vì lời đồn của thiên hạ để sợ hãi ông tới thế, chắc nó cũng đề nghị mẹ nó mời ông lão về nhà ở cho có chỗ trú thân. Nó nghĩ bụng. Trong túi mình có hai đồng, cứ đem cho ông lão trước rồi sau này có tiền bỏ ống sau. Vì tuy hai đồng đối với nó rất lớn. Nhưng chẳng hiểu sao cứ nhìn thấy ông lão ghẻ lác, ai cũng tránh né, nó bỗng thấy thương, chỉ ước sao mình có nhiều tiền hơn để cho lão. Âu, đó là cái cơ duyên của nó với ông vậy. Nó đổi giọng:

- Ông ơi, sáng giờ ông đã ăn gì chưa? Cháu vừa có hai đồng đây, cháu biếu ông tất!!

Nói rồi, nó khẽ khàng, mở cái kim băng cài ở túi áo lấy ra hai đồng đặt xuống cái chén mẻ:

- Cháu nghĩ, hai đồng này có thể giúp ông được một bữa tối. Nếu ăn dè thì có thêm được bữa sáng ngày mai đấy ông...

Ông lão nhìn con bé:

- Cháu tốt bụng lắm. Cháu tên gì thế?

- Ở nhà mẹ cháu gọi cháu là Tép.

- Ông chẳng lấy không của ai bao giờ. Thế cháu muốn gì, ông cho...

Con Tép nhìn ông lão. Nghiêng đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi xoè răng ra cười, nó nói đùa:

- Cháu muốn ông "làm phép" cho mẹ cháu khỏi bệnh.

Ông lão nhìn con bé trầm ngâm một lúc rồi bảo:

- Tất cả các nghiệp - dù là thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp - khi đã trổ quả thì không thể thay đổi được nữa. Rất tiếc, ông không thể nào giúp cháu được điều đó. Nhưng "Vô công, vô dụng hạnh", ông chẳng lấy không của ai bao giờ. Để ông cho cháu cái này nhé.Nói rồi. Ông lão lại thò tay vào cái túi đen bẩn. Kỳ này, lấy ra một vật lóng lánh. Ông xoè bàn tay, con Tép nhìn vào lòng bàn tay ông thấy một tượng Phật nhỏ bằng ngón tay cái. Tượng đúc bằng vàng nên óng lên như có hào quang.

Con Tép chẳng hiểu "nghiệp quả", "vô công, vô dụng hạnh" là những gì. Nhưng mắt nó sáng lên khi nhìn thấy cái tượng. Cái tượng đẹp không ngờ. Nó chẳng biết tượng đó là tượng gì, nhưng nó rất thích. Nó đỡ lấy cái tượng bằng cả hai tay:

- Cám ơn ông!

Ông lão dặn dò:

- Cháu về nhà tìm một sợi dây đeo vật này lên cổ, khi nào gặp khó khăn, hoạn nạn gì thì tới đây tìm ông...

- Vâng.

Con Tép sung sương bỏ cái tượng nhỏ vào trong túi áo cánh rồi cẩn thận lấy kim băng cài lại.

Lão thày bói giục giã:

- Thôi, cháu về, kẻo mẹ mong.

Tiếng lão nhưng một gióng chuông làm con Tép chợt nhớ, nó vội vã đứng dậy, xách làn mây, vừa chạy giựt ngược, vừa nói:

- Cháu về ông nhé!!



Từ ngày được lão thày bói cho bức tượng. Con Tép tìm một sợi dây tròng vào, đeo tòng teng ở cổ. Nó không dám khoe mẹ, sợ mẹ nó la, cho rằng lại đem điềm quở về nhà. Suy cho cùng, con Tép chẳng thấy ông lão có vẻ gì đáng sợ mà ai ai trong xóm cũng sợ ông. Ông chẳng làm phiền ai, ấy vậy, mọi sự xui xẻo, quở quang, thiên hạ đều đổ vào đầu ông tất. Tuy ấm ức dùm cho ông lão, nhưng con Tép chẳng dám hé răng, sợ rằng, bà con chòm xóm lại chửi nó.

Bệnh tình mẹ con Tép ngày càng nặng. Ban đầu, tưởng chỉ ốm đau qua loa, vài ngày bò dậy như mọi bữa. Nhưng không, mẹ nó ngày càng xanh mướt, ăn uống gì cũng bị nôn thốc ra với máu bầm. Trong khoảng thời gian này, con Tép chẳng biết làm gì. Ngày ngày, nó cứ lấy một ít tiền để dành của mẹ dấu trong lon gui-gô để trên trạn chén đi chợ mua đồ về nấu cháo cho mẹ, tiện thể, nó ghé thăm lão thày bói. Khi thì nó kể lể cho lão nghe về bệnh của mẹ nó, khi thì nó nói những chuyện trên trời, dưới đất. Nó vô tư, không biết gì cho đến khi khám phá ra số tiền để dành trong cái lon gui-gô ngày càng ít dần mà vẫn chưa thấy mẹ khỏi bệnh. Càng ngày, nó thấy bụng mẹ nó cứ trương phình lên, hai cẳng chân phồng lớn như hai cái chân voi. Cho đến ngày thứ mười thì mẹ nó lả đi, bà con chòm xóm mới hè nhau đưa mẹ con Tép vào nhà thương thí. Khám nghiệm, mới biết mẹ nó bị bệnh gan, tới thời kỳ chót không thể chữa được nữa...

Cả xóm đều cảm thấy ái ngại cho gia cảnh của con Tép. Ba nó đã bỏ đi đâu mất gần hai năm nay. Mẹ nó bệnh nặng sắp chết rồi. Nó còn quá nhỏ để đương đầu một mình với đời. Một vài người độc miệng lại rù rì đến chuyện vì nó "kết giao" với lão thầy bói nên mới ra nông nỗi ấy...

Còn con Tép ư? Nó ngồi miết trong nhà thương, bên cạnh mẹ nó đã hôn mê. Thỉnh thoảng nó lại tuột cái tượng đeo trên cổ ra rà rà lên người mẹ nó, lên cái bụng trương phình và đôi chân sưng húp, hy vọng mong manh mẹ sẽ khỏi bệnh sớm, nhưng mẹ nó cứ bằn bặt, chẳng thấy khá hơn... Sợ hãi, nó tru lên khóc nức nở. Ban đầu, mấy cô y tá thương tình, dỗ dành và cho nó mấy củ khoai luộc. Nhưng, rồi ai cũng phải lo toan cho mình, không còn thì giờ đâu nghĩ đến hoàn cảnh côi cút của con Tép. Nó dần dần bị bỏ rơi....

Một buổi chiều, họ báo là mẹ nó đã tắt thở đêm hôm qua, đang chuẩn bị đem xuống nhà xác. Con Tép đứng tần ngần, chẳng biết đi đâu. Khổ quá, nó lại òa lên khóc nức nở...

*

Mấy ngày sau khi mẹ con Tép chết, dân trong xóm nhận ra một điều lạ là chẳng thấy nó trở về. Lão thày bói cũng biến mất, không còn bày hàng ở cuối chợ nữa. Họ đâm ra lo sợ. Một số người yếu bóng vía, cho rằng, lão thày bói đã bắt mất linh hồn con Tép bán cho quỷ sứ mất rồi...





1625


Powered by Blogger.