Bà yêu quý của đời tôi,

Những gì mong đợi rồi cũng tới. Năm mươi năm, bà ạ, con số tròn trĩnh như một chu kỳ. Có mấy người trong đời có thể có được ngày kỷ niệm hiếm hoi này? Chắc hiếm lắm phải không bà? Tôi rất hạnh phúc, vì giữa cõi đời phức tạp, bà và tôi đã cùng nhau gìn giữ để có ngày „Khánh Tuế“ hôm nay. Tôi không biết chữ Khánh Tuế mà các con chúng ta cho viết trên vuông lụa đỏ để tặng cho chúng ta, có đúng không? Thường thì chữ này chỉ dùng để chúc thọ, chúc mừng tuổi Hạ của chư vị Tôn Đức đạo trọng đức dày chốn Thiền môn. Song cậu cả Tuệ Sinh của chúng ta cứ cả quyết là cậu có lý, vì trước khi cho viết chữ ấy, cậu đã thỉnh ý Hoà Thượng Tâm Hạnh, Thầy Bổn Sư của cậu. Cậu kể Hoà Thượng dạy rằng: "Ông bà cụ nhà con, dù rằng chỉ thọ giới Bồ Tát, không chịu giới Sa Di hay Tỳ Kheo, song hai vị đã sống một cuộc đời đạo hạnh, sống đúng theo lời dậy của Đức Thích Tôn, làm người con Phật chân chính, phát tâm theo chí nguyện Đại Thừa, hành tâm Bồ Tát, trên cầu Trí Tuệ Phật, dưới tiếp tay bố thí Pháp và hoá độ chúng sinh. Không chểnh mảng trong việc thúc liễm thân tâm, noi gương tu tập tinh tấn như những thiền sư đã bước vào cửa Không chân chính. Hai ông bà cụ là thiện tri thức của nhau, cùng sách tấn nhau trên con đường đạo vị giữa dương thế ta bà. Tại sao không thể dùng chữ Khánh Tuế để mừng thọ ông bà chứ!?" Nghe cậu cả Tuệ Sinh thuật lời Hoà Thượng Tâm Hạnh như vậy, tôi vô cùng cảm động, song vẫn cảm thấy mình chưa hề một mảy may xứng đáng. Chúng ta chỉ là những phàm phu giữa cuộc đời. Nhìn những gương Thánh Đức của chư Lịch Đại Tổ Sư, chúng ta chẳng dám một phần nhỏ nhoi so sánh. Dẫu rằng đã lâu nay, cả bà và tôi đều chăm chỉ thực hiện sáu phẩm giá Thiền Môn là Lục Độ Ba La Mật. Chúng ta đã dùng tâm bố thí, vì của cải vật chất chỉ là giả huyễn, hơn nữa theo Bố Thí Ba La Mật thì không có người nhận bố thí và không có người bố thí. Đôi khi chúng ta còn vướng vào chữ công đức, tức còn có người cho người nhận. Phẩm hạnh tu hành này, chúng ta chưa ráo rốt. Chúng ta tu theo Tinh Tấn Ba La Mật, song nhiều lúc thân tâm chúng ta bất kham, tôi muốn ngủ thêm chút nữa, trước giờ công phu buổi sáng. Bà siêng năng hơn tôi. Vì khi tôi còn mơ màng trong chốn "mộng trung mộng hữu" thì đã nghe tiếng bà thỉnh khánh đánh chuông bên tịnh thất của bà. Nhiều khi tôi trì Chú Lăng Nghiêm mà tâm la đà về quá khứ, đến vị lai. Bà trì Chú Đại Bi nghe có tiếng Cam Lộ tuôn trào. Vì vậy trong Tinh Tấn Ba La Mật chỉ có bà thực hiện được phần nào, còn tôi thì còn mịt mù giải đãi lắm. Nhẫn Nhục Ba La Mật thì cũng chỉ là bà. Cái tính nóng như Trương Phi của tôi ngày trẻ nay đã bớt chút chút, song mới trở thành Trương Phì chứ chưa thể thành Hàn Tín.... Bà ơi, bà xứng đáng hơn tôi bà ạ. Bà biết đến Đạo, đến con đường giải thoát sau tôi. Nhưng bà tinh tấn, dũng mãnh và thực thi nhiều hơn tôi gấp bội. Tôi chỉ là học giả, còn bà là Hành Giả của Đạo Phật. Ngày bà mới đến bên tôi, bà đã tôn tôi làm „thầy dạy Đạo“ cho bà. Dù rằng thầy Bổn Sư của bà là vị cao tăng của thời đại. Ngài chỉ đứng sau Sư Phụ tôi một chút. Trí tuệ và Đức tu của Ngài tỏa sáng mười phương. Nhưng bà cứ thích hỏi tôi con đường vào Đạo. Bà bảo thỉnh ý của thầy Bổn Sư nhiều quá là ích kỷ, vì thầy còn phải dạy cho bao người khác nữa. Nào có phải mình bà là đệ tử? Bà cũng có lý, song bà có biết đâu tôi ngày ấy chỉ là một lý thuyết gia trong biển kiến thức của chư Phật. Tôi có học nhưng thiếu hành. Chỉ vẽ cho bà những môn Tuệ học cao siêu, song tự bản thân tôi chưa hề chứng nghiệm. Tôi khác biệt với chư Tôn Đức trong Thiền Môn là vậy. Có thể ở khía cạnh nào đó, vì được Sư Phụ tận tâm giáo huấn, tôi lượm lặt được chút ít kiến thức hơn một vài vị Sư thiếu may mắn. Song so về hành trì, tôi lại chỉ đáng là đệ tử sơ đẳng của một chú tiểu tại Chùa quê. Nhưng bà hỏi thì tôi nói, khi nào giảng Pháp cho bà, tôi cũng niêm hương trên bàn thờ Phật, cầu oai lực của chư Phật hộ trì cho tôi được ân sủng nói đúng theo Chánh Pháp. Vâng, bà đã hỏi tôi những câu hỏi từ rất giản đơn, đến rất cao siêu. Tôi nhớ mãi câu hỏi đầu tiên bà đặt ra: "Tại sao phải ăn chay?" Ồ dễ quá, tôi giảng cho bà 15 phút bà liền hiểu và phát tâm ăn chay mổi tháng 4 ngày. Câu kế tiếp bà hỏi: "Là thế nào để biết mình tu theo Chánh Pháp?" Tôi đã rụng rời, vì câu này nếu muốn giảng ra thì phải hết mấy ngày trời. Tôi có gắng giải thích cho bà bằng phương pháp quán chiếu "Vô Thường, Khổ, Vô Ngã" Vạn vật đều vô thường, đều giả hợp mà có, đều do thức biến mà sinh. Thọ thị khổ, vì có cảm thọ nên người ta thường có cảm giác lạc và khổ. Lạc qua nhanh, khổ còn đọng lại. Hãy cẩn thận đừng để lạc vào Pháp Môn "Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng!" Còn Vô Ngã vì vạn Pháp vô ngã và ta tu đạo Bồ Đề phải cố gắng thoát khỏi cái tự ngã ràng buộc. Phải biết ứng dụng theo tinh thần "Ưng Vô Sở Trụ, Nhi Sinh Kỳ Tâm" của Kinh Kim Cương... Tôi giảng cho bà nghe nửa ngày, bà cũng mới ậm ừ, bỏ tôi ngồi đó mà đi nấu cơm. Ngày nay thì bà đã thấu triệt rồi, vì bà đã sống những năm sau này với tinh thần "gần như vô ngã." Nếu nhìn lại chuỗi ngày bà cố công tầm Đạo, hành trì, cũng như những thành quả bà đạt được, tôi thật hãnh diện vì bà. Tôi chẳng còn xứng đáng là vị "thầy" của bà nữa, vì nhiều phẩm hạnh bà đã vượt xa tôi.

Những năm qua, bà và tôi đã mang Đạo vào đời, mang đời vào Đạo. Tuy sống trong cảnh thế gian, nhưng chúng ta cố gắng cùng nhau tu tập. Ta mang tâm tỉnh thức vào đời để thấy mỗi phút hiện tại đều đáng sống, đều đích thực. Ta lại học theo tinh thần "một là tất cả, tất cả là một" để không phân biệt đối xử với tha nhân. Bà còn đi thêm một bước, học hạnh của "Thường Bất Kinh Bồ Tát" để có thể cung kính với tất cả mọi người xung quanh. Chúng ta đã dùng tịnh tài để cúng dường chư Tăng, làm công tác từ thiện giúp người nghèo, lập Học Viện đào tạo Tăng Tài, mở hội khuyến học, tạo các học bổng cho thanh thiếu niên hiếu học mà nghèo. Đúng vậy bà ạ, bà là người bạn đời, bạn Đạo của tôi. Đời tôi nếu kể đến những điểm đắc ý nhất, tôi phải nói đến bà, đến người vợ, người bạn, người tình, và người Thiện Tri Thức.

Trong buổi công phu chiều nay, tôi đã thắp một đỉnh trầm thơm, lắng lòng thiền định trước tôn tượng Đức Bổn Sư. Nhưng tâm tôi không tịnh như mọi hôm, tại vì quá nhiều điều trong quá khứ chợt trở về. Tôi thấy mình còn phàm tục quá, vì Bồ Đề Đạt Ma đã nói: "Tâm quá khứ đã qua, tâm vị lai chưa tới, tâm hiện tại không tìm thấy..." Vậy mà tôi vẫn để cho ký ức làm xao động tâm tư. Tôi vẫn muốn thốt lên lời cảm tạ bà! Nếu bà là tôi và tôi cũng là bà thì sao phải cảm tạ nhau cơ chứ? Tôi vẫn yêu bà hơn tất cả mọi người trên thế gian! Nếu tôi chứng ngộ, thì tôi đã yêu bà như tất cả mọi người và yêu mọi người như bà! Tôi vẫn mong lấy một cái hẹn với bà trong kiếp lai sinh, tiếp tục làm vợ chồng! Nếu tôi đã dứt thói phàm phu, thì sao không cầu mong bà ở vị trí khác, lại vẫn cầu bà làm vợ! Bà ơi, tôi còn phàm phu thật, song tôi nghĩ bà cũng hài lòng và hạnh phúc với cái chất phàm phu nơi tôi. Nếu không thì....

Tôi nghĩ bà đã rất hài lòng với Đám Cưới Vàng của chúng ta đêm qua. Dù rằng những bạn bè và tôn trưởng của chúng ta chẳng còn cùng ta tham dự như trong đám cưới bạc. Nhưng tôi vẫn thấy họ hiện hữu nơi đây. Nhìn lũ con cháu của chúng ta vây quanh, tôi đã thấy mình hoàn thành nhiệm vụ. Bà ơi, bà đã cười vui biết mấy. Bà là hiện thân của bà tiên dịu hiền, phúc hậu. Trong lúc bà ôm cháu Tôn Duyên, con út vợ chồng cậu ba Tuệ Học vào lòng mà hôn, tôi chợt nhớ đến Mẹ tôi quá. Ngày đám cưới vàng của Ba Mẹ tôi, thằng Tuệ Học cũng mới 6 tuổi như cháu Tôn Duyên bây giờ. Thời gian cứ qua đi như dòng sông. Cũng đến ngày nào đó những cặp vợ chồng con chúng ta làm Đám Cưới Vàng của chúng, chúng sẽ nhớ đến bà đến tôi, như tôi đang nghĩ đến những đấng Sinh Thành và Dưỡng Dục chúng ta bà ạ!

Dù rằng bà đã đọc những dòng tôi viết cho bà hai hôm nay, bà đã mắng khe khẽ vào tai tôi: "Ông già mất nết!" Nhưng tôi thấy những dòng lệ long lanh sung sướng nơi khoé mắt của bà. Tôi biết bà cảm động và sung sướng, nên tôi kết thúc lá thư bằng điệp khúc của "ông già mất nết":

ANH YEU EM

Chồng của Vợ

2409





Tại sao tôi lại dùng câu cảm thán của Tiên Điền Tiên Sinh, để mở đầu một đoản văn viết về hiện tại? Chỉ vì tôi đã phải kêu lên kinh ngạc khi tôi thấy người đàn bà ấy: "Trời sao cụ Nguyễn Du tả người tài tình như vậy nhỉ?" Lòng tôi chợt bùi ngùi rơm rớm nước mắt, khi nghĩ về một con người tài hoa tuyệt đích, tri thông tam giáo, làu thuộc cửu lưu, để lại cho đời những tác phẩm bất hủ như "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh," "Kim Vân Kiều"... Vâng, hơn ba trăm năm sau chắc chắn còn người khóc Tố Như!

Trở lại người đàn bà ấy, mụ có một khách sạn mini 5 tầng, mỗi tầng 4 phòng ngủ ở trên đường Bùi Viện Quận Nhất. Khách sạn HN nằm kề ngay bên nhà bà con tôi, cho nên mỗi lần đến chơi, tôi đều có dịp chiêm ngưỡng dung nhan, và nghe những "lời hay tiếng đẹp" của mụ đối với "kẻ ăn người ở" (nguyên văn chữ của mụ) trong nhà.

Mụ có dáng người, được miêu tả trọn vẹn trong Kiều:

"Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao?"

Tôi ngồi chơi bên chú tôi một lát, nghe tiếng mụ oang oang bên khách sạn:
- Cái lũ chúng mày, là một lũ ăn cắp ăn trộm! Chúng mày là "kẻ ăn kẻ ở" trong nhà mà chúng mày cứ hở ra là chôm chỉa. Này, này tao bảo cho mà biết nhá, không trả ngay cái kiếng mát gọng vàng của tao ra đây, tao kêu công an gô cổ chúng mày vào!

Tôi không hiểu có chuyện gì xảy ra, nên nhìn chú tôi dò hỏi. Thằng em họ nhanh nhẩu:
- Úi trời có gì là lạ đâu? Ngày nào chẳng bốn năm phen như vậy?
Tôi giật mình:
- Thế á? Thế sao biết là mấy "người ăn kẻ ở" hay ăn trộm sao không có biện pháp ngăn ngừa?
- Biện pháp gì mà ngăn ngừa được? Mấy anh chị nhân viên bên ấy ai dám lấy của mụ? Mụ để đâu rồi quên, mụ đổ cho người ta. Mà mấy người nhân viên bên ấy có hợp đồng đàng hoàng, có ai là "người ăn kẻ ở" của mụ đâu! Thằng em họ tôi giải thích với giọng bất bình.
Bên khách sạn HN êm ru, không ai lên tiếng cãi lại. Bất chợt có tiềng con gái la lên:
- Mẹ à, cái kiếng của mẹ đây nè, mẹ bỏ quên trên nóc tủ lạnh, mà mẹ la toáng lên ai lấy của mẹ!
Tiếng người đàn bà chua ngoa:
- Thì chúng nó lấy của tao. Tao không la toáng lên thì chẳng bao giờ chúng nó bỏ ra đâu.
Tôi lại hồ nghi. Ai đúng ai sai đây? Chú tôi cười bảo:
- Thôi cháu ạ, đừng để ý đến chuyện của người ta nữa. Bà chủ bên ấy, hay như vậy lắm. Nhân viên cứ làm được vài tháng lại bỏ đi. Nhưng có những người khó khăn, mới lên thành phố hoặc mới vào Nam cũng ráng ngậm bồ hòn làm ngọt, làm việc cho bà ấy. Chú phải nói rằng, làm việc ở đây, một chén cơm đổi bằng một chén nước mắt.
Tôi muốn tìm hiểu câu chuyện cho được rõ ràng. Tại sao lại có những con người ăn nói quàng xiên như vậy? Nhưng tôi chưa kịp mở miệng nhờ chú kể cho nghe chuyện, thì bà thím tôi đã bưng tô chè thạch ướp đá trong bếp đi ra. Bà vừa múc vào ly trao cho mọi người vừa chậm rãi kể cho tôi nghe:
- Bà ta cũng mới dọn về khu "Tây Ba Lô" này được 3 năm nay thôi. Nghe nói trước kia bà ta ở Đông Đức rồi trốn qua Tây Đức khi thành Bá Linh sụp đổ, sống cũng mười mấy năm. Buôn bán gì đó, có chút vốn mang về Việt Nam mua lại căn nhà này xây lên trị giá 9-10 tỉ bạc. Bà ta cho khách du lịch thuê phòng, kiếm tiền cũng khá lắm. Nhưng khổ cái, bà ta suốt chửi mắng nhân viên như những người ở, hay nô lệ không bằng. Rất nhiều lần thím thấy bà ta cầm tờ báo đập vào mặt con bé Ti. Tội nghiệp con bé mới 18 tuổi, nhà nghèo ở Hà Bắc vào đây. Nó ngoan và chăm chỉ lắm. Thế nhưng, bà ấy chẳng hài lòng, hết chửi nó ăn cắp, lại chửi nó quyến rũ làm tiền khách Tây của bà. Con bé có biết tiếng Anh, tiếng Pháp chi đâu mà nói chuyện... quyến rũ Tây? Con bé cứ len lén khóc hoài. Hôm trước chú thím gọi nó qua đây, nó vào một tí, rồi lại chạy về ngay. Dù chỉ một tí đó, nó đã nước mắt ngắn, nước mắt dài kêu tủi nhục, oan ức, nhớ nhà.
Tôi nghe thím kể đến đấy bực bội ngắt ngang:
- Sao mụ ta có quyền ăn nói, hành hạ nhân viên như vậy chứ? Sao cô bé không nghỉ đi?
Thím tôi cười hiền:
- Cháu ạ, mụ ta ỷ có tiền, nên ăn đối xử với người khác như tôi mọi vậy đó! Còn con bé Ti nó cố làm việc vì gia đình nhà nó ở Hà Bắc cần tiền. Ở Sài Gòn không bằng cấp, không có tiếng tây tiếng u, không rành đường đi nước bước, muốn sống, làm việc lương thiện cũng khó lắm cháu ạ!

Buổi chiều hôm ấy tôi ra về với cõi lòng trĩu nặng. Rồi nhiều lần còn thấy tận mắt những các cư xử không thể chấp nhận được từ mụ. Tại sao ngày hôm nay, trong xã hội của nhân loại tân tiến, vẫn có những cảnh "phu phen đồn điền" theo thói trịch thượng đáng nguyền rủa của kẻ mới giàu thế nhỉ? Có phải mụ chủ kia đang trả lại cho đời chuỗi ngày mụ bị đời hành khốn khổ trong những cuộc bán buôn thuốc lá lậu trên đường phố Berlin?

Phải chăng cuộc đời là một vòng luẩn quẩn, kẻ vừa là nạn nhân, nhưng nhanh chóng biến thành tác nhân, khi họ có cơ hội? Để trả thù đời? Hay để thoả mãn cái mặc cảm sẵn có nơi tâm thức của họ, rồi họ thấy họ oai phong, quan trọng???

* "Không biết ba trăm năm lẻ sau này, còn ai thương khóc đến Tố Như (Nguyễn Du) này không?"

2411






Tôi đứng trước cổng trường Phổ Thông Trung Học Lê Quý Đôn, nhìn ngắm các em học sinh tung tăng cười nói dưới ánh nắng ban mai. Các em có giờ ra chơi thì phải, tiếng ồn ào của đám trẻ, mùi hoa Ngọc Lan thoang thoảng đâu đây, lôi tâm thức tôi trở về quá khứ. Ngày ấy bọn tôi cũng thế này, ồn ào náo nhiệt trong 15 phút giữa thời gian sang tiết. Khác chăng là, các em bây giờ chỉnh tề đẹp đẽ quá, đâu như lũ chúng tôi bao nhiêu năm về trước. Các em gái mặc đồng phục váy xanh áo trắng, các em trai thì vẫn áo trắng quần xanh đen. Lớp nào có giờ thể thao, thì các em mặc đồ đồng phục thể thao, có phù hiệu trường Lê Quý Đôn và mang giày vớ đàng hoàng. Đa số các em đều đẹp và cao hơn thế hệ chúng tôi. Phương tiện các em đi học thường là xe gắn máy hoặc tự đi, hoặc do phụ huynh đưa đón.

Chợt có một bác trung niên chạy xe Dream II ghé tạt vào chỗ tôi đang đứng. Bác móc điện thoại di động, bấm số gọi cho con của bác đang trong nô đùa trong kia:
- Alô con hả, ba đây! Ba mới đi rút căm xe Honda rồi, bây giờ ba ghé qua bác Huy một chút, lát trưa tan học ba đón con nghe!
.....
- Ừ lát trưa ba đợi ở cổng trước nghe! Bye con.

Tôi chợt thấy thân thương, rồi lại thấy buồn cười. Cha đón con tan học về, quả là hình ảnh đẹp. Nhưng sao cả hai cha con dùng di động để điện đàm, mà ông phải chạy tuốt đến trước cổng trường mới gọi? Để khoảng cách gần hơn hay vì lý do nào đó, tôi không rõ!? Nhưng tính tôi vậy, luôn để ý những biến chuyển trong cuộc sống, tốt cũng như xấu, rồi từ đó tự kiếm ra chỗ tiếu lâm để mà cười. Nhưng qua câu chuyện của bác trung niên vừa rồi, tôi buồn cười thiệt với dáng điệu cưng con của ông, song qua lời điện đàm ngắn ngủi, tôi cảm thấy cái gì đó cứ lẩn quẩn trong đầu tôi mãi? Suy nghĩ một hồi, tôi mới nhận ra vì chữ "rút căm"! À, cái chữ này khiến tôi nghĩ tới KN, thằng bạn thân của tôi từ thời học trường cấp II Bạch Đằng.

Hồi năm chúng tôi học lớp 8, nhà KN mở tiệm rút căm xe đạp. Một sự cố đã xảy ra, để rồi cái chữ "rút căm" nổi tiếng khắp trường, dù rằng KN là đứa học trò chăm chỉ và rất hiền. Giờ Hoá Học, KN bị cô TT gọi lên khảo bài. KN không thuộc. Cô TT dường như có ác cảm với KN, nên cố tình làm khó. Cô vặn hỏi thật gắt, nguyên nhân nào khiến KN không học bài, sau một hồi mắng KN ngu, lười, ham chơi và... phản động (?)!
KN rụt rè với giọng sũng đầy tủi hờn thưa:
- Thưa cô, tại hôm qua em phải rút căm đến tận khuya nên không học bài ạ!
Cô TT nổi giận đập bàn ầm ầm:
- Mới tí tuổi mà đã giở trò bài bạc... rút căm... rút bất... rồi còn nói là phải chơi đến tận khuya! Cô cho em 0 điểm, về chỗ!
Cả lớp đều ngớ ngẩn, không hiểu tại sao cô TT lại mắng KN bài bạc! Rút căm đâu phải là chơi bài!?
May mà cô bé Thiên Kim người Hà Nội đứng lên thưa:
- Thưa cô, căm tiếng Bắc ta gọi là "Nan Hoa Xe Đạp" đấy ạ! "Rút Căm" tức là "Sang Vành" ạ, chứ không phải là cờ bạc hay rút bất ạ!
Cô TT hơi sững sờ sửng sốt, nhưng cô không muốn mất mặt:
- Sang vành à, nhưng sang vành thì sang vành, sao không chịu học bài. Tuần sau, bạn KN lên dò bài để gỡ lại con 0!
Thì ra cô TT mới thuyên chuyển ở Hải Phòng vào, ngôn ngữ Nam Bắc bất đồng nên cô tưởng rút căm đồng nghĩa với rút bất, xóc đĩa... Thiệt là chuyện tức cười. Nên câu chuyện nghề nghiệp của KN đã được truyền tụng khắp cả trường. Không những học sinh cười, mà đến các thầy cô người Sài Gòn cũng không nhịn được cười. Mấy năm trời sau KN vẫn bị gọi là N Rút Căm, N Sang Vành!

Tôi nhớ nhà KN ở trên đường Trần Quang Diệu số lớn hơn 100 thì phải. Buổi chiều hôm ấy, khi đi làm ra. Tôi lấy xe xuống quận 3, sau một hồi hỏi dò tôi đã tìm ra nhà của KN. Tôi hỏi một thanh niên đang lúi cúi "rút căm Honda":
- Xin lỗi anh....
Người thanh niên ngẩng lên nhìn tôi trong vòng 10 giây im lặng, hắn đưa bàn tay đang lem dầu mỡ lên vỗ trán cái bốp rồi reo lên:
- Mày hả Toàn? Mày về bao giờ thế?
Tôi cũng kêu lên:
- Mèn, KN đấy ư! Mày vẫn... "sang vành" á?
KN cười ha hả:
- Bây giờ Sài Gòn nhiều người Bắc lắm, Sang Vành hay Rút Căm gì ai cũng hiểu hết! Nhưng tao lên chức rồi, hết rút căm xe đạp, giờ rút căm honda hông à!
Hai đứa bạn, xa nhau gần hai chục năm trời, gặp nhau trong giây phút đã nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm ở hai ngôi trường thân yêu Bạch Đằng và Lê Quý Đôn. KN kêu anh Ba:
-Anh trông cửa tiệm nhé, em thu xếp đi tắm rồi đi chơi với thằng Toàn!

Chúng tôi ngồi bên nhau hàn huyên về lũ bạn học khi xưa. Đứa nào bây giờ ra sao? Đứa nào còn ở Việt Nam, đứa nào xuất ngoại, ai thành công, ai thất bại, ai có gia đình và ai còn độc thân. Điều thú vị là chỉ còn KN, VA và tôi là ba thằng chưa vợ chưa con gì cả. Tôi cũng hỏi KN học hành tới đâu? Đời sống hiện tại ra sao? Sao vẫn làm nghề "rút căm"? KN cho tôi biết, hắn đã học xong bách khoa ở Sài Gòn với văn bằng Kỹ Sư. Nhưng sau khi đi làm 2 năm, KN quyết định cùng anh Ba của hắn mở cửa tiệm lại. KN khoe:
- Mày tưởng rút căm là mạt hả? Còn lâu đó, tao tính mày nghe. Tao làm không hết việc vì tao có uy tín. Một ngày tao rút được ít nhất 20 cái vành xe Honda. Mỗi cái tao lấy thù lao 20'000 Đồng. Một ngày tao kiếm 400'000 Đồng! Tao làm 20 ngày 1 tháng thôi, còn 10 ngày nghĩ ngơi đi chơi. Vậy là một tháng tao kiếm 8 Triệu Đồng. Đóng thuế thu nhập 300'000 Đồng/tháng. Tao vẫn còn 7.7 Triệu. Đi làm kỹ sư đôi khi phải làm cả cuối tuần, tháng được 5 triệu đồng. Ở Sài Gòn có thu nhập hơn 5 triệu Đồng/tháng là ngon rồi đấy! Cho nên tao vẫn rút căm, nhưng có của ăn của để ạ!

Tôi mỉm cười, nhìn KN thán phục. KN vẫn như ngày nào, tính hiền và nụ cười rạng rỡ hơi mang chút trẻ thơ... Tôi xiết tay KN trước khi chia tay:
- Mày cả đời rút căm, bây giờ khá giả rùi... thôi kiếm "Người Rút Bóp" đi chứ?
KN cười ha hả:
- Cha nội, ông cũng kiếm người chung vốn đầu tư chứ hả? Cần Venture Capital (tiếng lóng chỉ bồ nhí) hay là đã đủ nội lực để làm một cú Direct Investment (cưới vợ) hả?

Trên con đường Trần Quang Diệu hiện tại có 20 tiệm rút căm, nhưng tiệm của KN là lâu đời nhất.

2412






"Ai hủ tiếu Nam Dzang đây? Ai hủ tiếu Nam Dzang đây?"
Tiếng con bé đối diện nhà tôi vang lên giữa trưa hè. À, nó chơi trò Đồ Hàng. Nó có đôi mắt thật lớn, gương mặt thon thon xinh xắn và mái tóc lơ thơ dài đến ngang vai. Nó sống với bà nội và cô ruột. Ba mẹ và anh chị em con bé chết hết, vì ghe vỡ trên đường vượt biển. Nó sống sót như như một phép lạ, cô Tư nó bám được vào mảnh ván khi ghe vỡ, rồi cố gắng đi tìm đứa con 4 tuổi của cô đang trôi dạt nơi đâu, bất chợt nó được đưa lên mặt nước bởi một túi nilon lớn từ đáy biển nổi lên. Cô Tư vội vã vơ lấy nó, ôm vào lòng, trước khi bị sóng nhồi cho bất tỉnh. Hai cô cháu được tàu đánh cá Việt Nam vớt, mang vào Vũng Tàu, rồi trở lại Sài Gòn với bà mẹ già ở nhà mỏi mắt chờ tin con. Gia cảnh của nhà họ thật đáng thương, tiếng khóc rấm rứt của ba người đàn bà còn sót lại trong cuộc đời là cả chuỗi ngày bi thảm. Ông Nội tôi thường mời họ qua nhà giảng lý Vô Thường về đời sống mỏng manh cho họ nghe. Từ đấy ba người đàn bà ấy, coi gia đình tôi như là người nâng đỡ họ trong những ngày đen tối. Thời gian trôi qua, hai năm trời sau, cuộc sống của ba người đàn bà cũng dần nguôi ngoai thương nhớ. Con bé tên Ly, lên 6 tuổi, ngoan ngoãn và rất hiếu thảo.

Một chuyện khá hài hước. Bên nhà tôi thì có ba người đàn ông. Ông nội, ba và tôi. Tự dưng có một sự tương xứng kỳ lạ. Có lần tôi nói chơi:
- Ông Nội ơi, nhà mình và nhà đối diện đối nhau chan chát. Ba ông con đối với ba bà cháu. Cửa đối cửa. Đúng là hậu môn đăng đối!
Ông Nội tôi nạt:
- Cái thằng này chỉ nói bậy nói bạ.
Nhưng rồi ông cũng tủm tỉm cười. Có lẽ ông nghĩ "thay vì môn đăng hậu đối, thằng nhóc nói hậu môn đăng đối... đúng là thằng quỷ!"
Hai nhà hàng xóm chúng tôi chơi với nhau rất thân, chia ngọt xẻ bùi. Có gì ngon lạ cũng mang biếu nhau. Ông Nội tôi làm thầy thuốc, không bao giờ lấy của ai một đồng, nên những người bệnh nhân khá giả hay tìm những của ngon vật lạ đến biếu để tạ ơn ông. Mỗi lần có lộc như thế, ông thường sai tôi chia phần sang biếu gia đình ấy. Còn gia đình kia, nấu nướng món gì cũng sớt phần mang qua "tiếp tế" cho ba ông "đực rựa" bên này. Hồi ấy tôi 14 tuổi, bà nội con Ly hay bảo:
- Mai mốt con Ly lớn, tao gả cho mày.
Tôi thường đứng trơ mắt ra nhìn. Trời đất, trên đời chẳng còn gì vô vị hơn con bé lên 6 tuổi đối với thằng con trai 14. Ở cái tuổi hiếu động, tay chân khều khào lớn nhanh như thổi, tôi chỉ thích võ thuật, đánh lộn, đá banh và học chữ. Những chuyện khác đối với tôi chẳng có gì thú vị.

Ba năm sau, tôi vượt biển qua Bidong rồi đi định cư tại Thụy Sĩ. Trong những lá thư của ông nội tôi có vài lần nhắc đến ba bà cháu nọ. Lần đầu tiên ông viết: "Toàn ơi, cô Giáo My (cô Tư của con bé Lý) trước cửa nhà ta, mới bước đi bước nữa. Chồng cô cũng là nhà giáo. Đạo đức, hiền lành và rất thương cô. Hai người mua căn nhà riêng ở gần rạp hát Minh Châu. Còn căn nhà đối diện, cô mời gia đình chồng cũ ở dưới quê lên, trả lại cho họ rồi con ạ. Ông viết để con mừng cho cô ấy." Khoảng vài tháng sau, ông lại viết: "Mặc dù gia đình cô giáo My đã dọn đi, nhưng họ vẫn chạy qua thăm ông luôn. Nhất là con bé Ly. Nó cứ chạy qua hỏi về anh Toàn của nó. Nó có vẻ buồn vì con đi xa mà không nói nó tiếng nào. Con có viết thư thì đây là địa chỉ... nên viết vài chữ thăm gia đình họ, con ạ."

Cuộc sống ở Hải Ngoại là chuỗi thời gian vất vả đấu tranh, hội nhập và học hành vươn tới. Thỉnh thoảng tôi cũng nhớ đến gia đình hàng xóm cũ, song không thể viết thư thăm hỏi thường được. Thời gian thấm thoắt trôi qua, tôi mất hẳn liên lạc về gia đình nọ.

16 năm sau, tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên, mặc dù có đến khu rạp hát Minh Châu tìm họ, song không ai biết cô giáo My hay bé Ly là ai cả. Tôi buồn, vì chắc gia đình họ đã chuyển đi.

Tháng 10 vừa qua trở về Việt Nam, qua thăm vài người trong xóm cũ. Có hỏi thăm và tình cờ có người cho tôi địa chỉ của gia đình ấy. Chỉ còn bà cụ ở khu rạp hát Minh Châu với người cháu trai ở Sa Đéc lên, còn cô My thì mua nhà trong Chợ Lớn. Bé Ly thì không biết ra sao. Tôi mừng rỡ, chạy theo địa chỉ chạy vội đến thăm. Tôi bấm chuông hai ba lần không thấy ai mở cửa. Mấy người hàng xóm thấy vậy bảo tôi: "Anh gọi đi, bà cụ ở nhà đó!" Tôi cất tiếng rổn rảng Trương Phi gọi lớn hai lần: Ly ơi Ly! Bà cụ chợt mở cửa ban công trên lầu nhìn xuống.
- Xin lỗi, cậu tìm ai?
Tôi mừng rỡ reo lên:
- Thưa bà, cháu là thằng Toàn ngày xưa trong xóm đây.
Bà cụ sững người một lát rồi, khép cửa ban công đi vào. Tôi tưởng bà cụ không nhận ra tôi. Bèn đứng tần ngần tính trở gót quay lui. Chợt cửa chính mở ra. Bà cụ run run chạy ra, nước mắt nước mũi ôm lấy tôi:
- Trời ơi thằng Toàn. Sao mày đi bao lâu không về như vậy hả? Con Ly nó mới lấy chồng rồi... Hu hu hu!
Bà cụ khóc như mưa. Tôi ôm vai bà cụ và hỏi:
- Bà ơi, bà có khỏe không? Năm ngoái cháu về có đến kiếm mà không tìm ra nhà.
Bà cụ vẫn khóc với đôi vai oằn nỗi đau ngày tháng:
- Bà khỏe, chỉ tội ông nội cháu mất rồi. Hu hu hu!
Ồ, thì ra bà cụ thấy tôi, nên nhớ tới tình hàng xóm khi xưa, khóc thương tiếc ông tôi. Bà cụ sau cơn xúc động rồi, cười bảo:
- Mày tệ bạc quá đi! Để con Ly nó mòn mỏi đợi chờ. Nó mới lấy chồng hồi tháng 6 vừa qua và nó theo chồng đi Canada rồi. Bao nhiêu năm, tao cứ đợi mày về để gả con Ly cho mày, như lời hứa khi xưa! Mãi cách đây một năm rưỡi, cô Tư nó bảo: "Chắc Toàn nó cũng lập gia đình rồi. Thôi cho con Ly lập gia đình đi kẻo ế!" Chú Bảy con Ly giới thiệu con Ly cho cháu vợ chú ấy. Rồi nó lấy chồng mất rồi! Hu hu hu!
Bà cụ xúc động lại khóc. Chắc bà cụ nhớ Ly. Khóc một hồi bà cụ lại hỏi:
- Mày vợ con gì chưa?
- Dạ chưa! Cháu tính về cưới Ly nè!
Trời ạ, tôi thật không bao giờ nhớ tới chuyện đó lại là chuyện nghiêm chỉnh như vậy. Nhưng bây giờ thấy bà cụ nghiêm trọng quá, khiến tôi cười thầm và cố ý chọc bà.
Bà cụ ngẩn người có vẻ nghĩ lung lắm. Một hồi bà lên tiếng:
- Thôi con Ly nó lấy chồng rồi. Thì mày lấy Bảo Châu con gái cô Tư đi!
Đến lượt tôi sửng hồn:
- Cô Tư có con gái là Bảo Châu ạ? Em bao nhiêu tuổi.
- Ừ, có một mụn con gái thôi. Nó 16 tuổi rồi.
Tôi muốn phá lên cười. Trời, tôi làm sao đi cưới cô bé 16 tuổi đây trời? Nhưng biết bà cụ thực tình nên tôi cố nén cười.
- Bà ơi, cháu già lắm rồi. Lớn hơn Bảo Châu hơn gấp đôi. Làm sao cháu cưới cô ấy được. Với lại, thời nay các cô gái không còn chịu đặt đâu, ngồi đấy đâu. Cô ấy sẽ chê cháu già và xấu trai... chắc chắn cổ không chịu đâu.
Bà cụ ngắt lời:
- Già gì mà già. Cũng không đến nỗi nào xấu lắm. Để bà nói là nó phải nghe. Con Bảo Châu đẹp lắm nghe, học giỏi lại rất ngoan.
Tôi vội vã khuyên bà:
- Thôi bà ạ, để từ từ tùy vào duyên số bà ơi. Không thể hấp tấp được đâu.

Ngồi nói chuyện hàn huyên với bà cụ suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi ra về với tâm tư thương cảm. Vâng, cuộc đời đã khiến cho gia đình bà bao nhiêu đau thương mất mát. Ngày nay mọi chuyện trở lại bình thường. Mọi người bình yên được như vậy, quả là đáng mừng lắm. Bà có cho tôi coi hình đám cưới Ly. Chồng của Ly nhìn rất hiền, đẹp trai, trí thức. Ly là cô dâu tuyệt đẹp. Tôi rất mừng cho em. Giá tôi có vô tình gặp lại em ngoài đời cũng không bao giờ nhận ra em. "Ai hủ tiếu Nam Dzang đây!" Tiếng rao của con bé năm nào chợt vọng về.

Trước ngày tôi trở về Thụy Sĩ, tôi còn thăm bà cụ vài lần, có ăn cơm với bà cụ và gia đình người cháu. Tôi cũng gặp được vợ chồng cô giáo My và bé Bảo Châu. Cô bé bẽn lẽn nhìn tôi vòng tay chào:
- Con chào chú!

Ừ, bé ngoan... chú không dám.... hỏi cưới... con rùi

2410


Powered by Blogger.