Kế sách nhà bếp





Bạn lỡ sinh ra dưới ngôi sao xấu! Kém xa đối thủ của bạn về "túi tiền". Hắn chơi xe xịn, bạn xài "Su một trăm năm". Hắn chơi di động, bạn xài điện thoại công cộng. Nhưng bạn đụng độ với hắn trong một cuộc đối đầu không khoan nhượng vì hắn và bạn cùng yêu một cô xinh đẹp. Hãy biến nhược điểm thành ưu điểm, hãy chứng tỏ bạn thông minh hơn hắn. Kế sách, cẩm nang đây:


Ðiều kiện ắt có...


Bạn cũng phải là người được người đẹp cho đến nhà, nghĩa là có qua sơ giao, đã được cho xếp hàng trong đám "sĩ tử" ứng thí. Có được điều tiên quyết ấy bạn hãy:


- Không bao giờ ngồi ở phòng khách, hãy tìm cách lân la xuống bếp trò chuyện với nàng.


- Khi đối thủ của bạn đến thăm nàng. Hắn sẽ ngồi ở phòng khách, bạn hãy đi chân đất, áo quần loàng xoàng càng tốt, bưng nước lên mời hắn với một nụ cười rất thản nhiên "đàn ông tính" (tuyệt đối không nhăn nhó, cau có).


- Sau đó, trở lại bếp ngồi chờ.


...Và đủ


Ðối thủ của bạn sẽ rơi vào tâm lý hoang mang, sẽ thăm dò, sẽ nghĩ ngợi: "Tên đó hẳn phải được gia đình chấp nhận, hắn đã rất thân thiết với nàng (dù thật sự bạn cũng chỉ quen nàng như hắn mà thôi) nên mới dám đến nhà nàng mà ăn mặc lèng xèng, lại từ nhà bếp đi lên". Nghĩa là thôi rồi! Hắn ta sẽ sốt rét và tự êm thắm rút, dương cờ trắng. Còn bạn "bất chiến tự nhiên thành" và nhược điểm yếu kém "túi tiền" của bạn trước đối thủ đã trở thành vũ khí sắc bén, gã nào lò dò đến tìm nàng, bạn cứ bổn cũ soạn lại. Khi chẳng còn "ma" nào đủ kiên nhẫn, tự tin đến chơi với nàng, nàng chẳng còn ai ắt sẽ đành chọn bạn vậy.


Bạn không tin ư? Hãy tin đi, bởi lẽ câu chuyện và kinh nghiệm vừa kể của chính người viết đấy. Vợ hắn hôm nay chính là cô gái ấy, chẳng thể là ai khác. Thế mới khổ!

534




Dắt một người mù qua đường, cho người đứt tay miếng giẻ rách, lượm cây gai giữa đường, cho con kiến hạt cơm, đều gọi là bố thí.

Ngày xưa ở xứ Hòa Na, dân chúng phần nhiều tín ngưỡng Phật giáo. Có vợ chồng chàng Kế Sa La cũng nhờ ảnh hưởng tinh thần ấy, mà nổi tiếng đôi vợ chồng hiền đức.

Nhà Kế Sa La rất nghèo, hằng ngày phải vất vả hai sương một nắng, tranh đấu với bát cơm manh áo; nhưng vợ chồng vẫn vui vẻ thân mật, an phần trong cảnh thanh bần, không bao giờ vì tiền tài danh vọng, mà làm hoen ố được lòng trong sạch của đôi vợ chồng chàng. Ngoài ra, chàng lại không quên đem chánh pháp mà mình đã hiểu biết, khuyến khích mọi người trở về đường thiện; mà chàng có thể đảm đương.

Thuở ấy, miền ngoại ô xứ Hoà Na vừa bị mất mùa, lại thêm nạn tật dịch, nên dân chúng miền ấy đói và chết rất nhiều. Các nhà hảo tâm trong xứ hiện thời, hoặc chung hoặc riêng, đến chùa tổ chức nhiều cuộc bố thí. Trước nhờ các Tăng sĩ cầu nguyện cho những kẻ vừa bỏ mình vì tật dịch được siêu thoát và nạn tật dịch đương hoành hành mau chấm dứt; sau đem các phẩm vật phân phát cho các nạn nhân đói khổ.

Vì vất vả theo sinh kế, vả lại cũng ít lui tới các phương xa, nên nạn tật dịch đói kém hoành hành ở  ngoại ô vợ chồng Kế Sa La không hay biết gì cả.

Theo lệ thường, sáng nào Kê Sa La cũng cùng vợ chia nhau đến các nhà điền chủ để làm mướn. Nhưng lạ thay, sáng nay Kế Sa La đi một đoạn đường lại gặp những vị trưởng giả, khăn áo chỉnh tề, theo sau những tên gia đinh hì hục mang gánh gạo cơm mền áo... gặp hai ba phen như thế, Kế Sa La khống ngớt ngạc nhiên, dừng lại hỏi: Chàng mới biết vùng ngoại ô đang bị nạn và những bậc trưởng giả này đem các phẩm vật đến chùa để mở cuộc bố thí. Bị kích thích bởi tình đồng loại, lại thêm tủi cho số phận nghèo nàn của mình; trong khi đồng bào đang lâm cơn đói khổ mà mình không có một quan tiền, một đấu gạo, một viên thuốc đỡ đần. Càng nghĩ chàng càng đau đớn sầu tủi! Trong trí chàng hiện ra nhiều dấu hỏi: làm thế nào có tiền để giúp đồng loại? Và chàng nguyện rằng: nếu làm cách nào có tiền gạo để bố thí dù thân bị đọa đày suốt đời chàng cũng vui lòng đổi lấy. Ðến đây, Kế Sa La không còn thiết gì đến ăn làm nữa, lủi thủi về nhà.

Tối đến vợ chàng về, thấy chồng mặt mày ủ rũ, ngồi một mình thở ngắn than dài hình như bất đắc chí vì một việc gì... Chị vợ lo sợ hỏi chồng, nhưng chàng tìm cơ thối thoát không trả lời, vì chàng biết trước rằng: nếu đem sự thật nói với vợ, đã không ích gì mà lại gieo thêm cho vợ mối sầu tủi như mình, nhưng sau hai ba phen thiết tha gạn hỏi của vợ, Kế Sa La không nở giấu giếm nữa mới đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại vợ nghe. Vợ chàng không kém gì chàng, cũng sầu, cũng tủi, cũng thở than như chàng! Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị vợ hăng hái nói: nếu chàng bằng lòng chị ta sẽ đến giúp việc cho các nhà phú hộ, thế nào cũng nhận đặng một số tiền, để làm việc bố thí. Kế Sa La không tán thành, và chàng không nở để cho vợ: nữ nhi yết ớt một mình đem thân thể làm tôi mọi người.

Chị vợ lại nói: Hay là cả chúng ta đều đến ở giúp việc cho một nhà đại phú, trước nhận được một số tiền lớn để bố thí, sau có thể giúp đỡ nhau trong những công cuộc nặng nề. Ý kiến này được Kê Sa La hoan hỷ tán đồng. Thế là sáng mai đôi vợ chồng Kế Sa La lên đường đến một nhà đại phú ở cạnh làng, xin giúp việc và nhận trước một số tiền.

Vốn nghe vợ chồng Kế Sa La là người hiền đức, nên nhà đại phú kia bằng lòng ngay và cho vợ chồng Kế Sa La mượn trước một năm quan tiền, lại được phép về nhà bảy ngày để sắp đặt công việc; và nếu trong bảy ngày ấy vợ chồng Kế Sa La đem đủ số tiền hoàn lại ông, ông cũng vui lòng trả quyền tự do cho vợ chồng chàng.

Tiền bạc giấy tờ, vợ chồng Kế Sa La hết sức vui mừng, đi vào chợ mua các phẩm vật... và đến chùa Ðàn Ba gần đấy, xin thiết lập cuộc bố thí ngay tại chùa, sau sáu ngày chú nguyện, đến ngày thứ bảy sẽ phân phát các phẩm vật.

Việc làm ấy rất thích hợp với hạnh Từ Bi, lại thấy lòng chí thành của vợ chồng Kế Sa La, nên các Tăng sĩ trong chùa đều tận tâm giúp đỡ, để cho cuộc bố thí này được thập phần viên mãn.

Chiều ngày ấy, Quốc vương bản xứ cũng cho người chuyên chở rất nhiều phẩm vật đến chùa Ðàn Ba mở hội và cũng định ngày thứ bảy bố thí. Vị Trú trì chùa Ðàn Ba tâu vua: ngày ấy đã có vợ chồng Kế Sa La định mở hội trước rồi, yên cầu nhà vua chung vào hội bố thí ấy, nếu không xin hoãn lại ngày sau. Nhà vua phán: Trẫm thiếu gì tiền bạc mà phải chung chạ với người khác và trẫm đây đường đường một vị quốc chủ, Kế Sa La nào đó lại không vì trẫm mà nhường cho trẫm được như nguyện, hay sao? Vị trú trì đem lời thuật lại với vợ chồng Kế Sa La.

Kế Sa La nhờ vị trú trì tậu lại nhà vua: Vợ chồng chàng xin chịu tội, chứ không thể thay đổi cuộc bố thí qua ngày khác.

Với ý định kiên quyết ấy, nhà vua hết sức ngạc nhiên, cho đòi vợ chồng Kế Sa La vào hỏi. Tiếp diện nhà vua, Kế Sa La đem hết cả sự tình tâu rõ là: Vợ chồng chàng đã bán mình cho một nhà địa chủ lấy tiền mở hội bố thí, đến ngày thứ tám đã chính thức làm tôi tớ cho người, không còn đi lại tự do nữa.

Nghe xong câu chuyện, nhà vua hết sức cảm phục cử chỉ của vợ chồng Kế Sa La. Ngài bùi ngùi than rằng: nếu trong quốc độ này mà được nhiều người có "tâm từ" như vợ chồng Kế Sa La, thì còn đâu những kẻ tham lam ích kỷ, lường gạt đồng bào và còn đâu những kẻ bơ vơ trong xó chợ đầu đình, lê mình khắp xứ, mà không đủ chén cơm lót dạ, manh áo che thân!

Tức thì nhà vua lại sai người đem vàng bạc ra ban thưởng và hạ chiếu cấp cho vợ chồng Kế Sa La được trọn đời hưởng quyền lợi trong mười xã. Ngài lại kêu vợ chồng Kế Sa La đến phán rằng: "Ðây là PHƯỚC BÁO HIỆN TIỀN" của hai người đó và trẫm vui lòng nhượng hai người mở cuộc bố thí vào ngày thứ bảy để cho hai người được toại nguyện".

Vợ chồng Kế Sa La cảm động lạy tạ ơn vua. Và đôi vợ chồng ấy, không quên niệm hồng ân đức Phật đã tác thành cho vợ chồng chàng: "đức tánh Từ Bi, nâng cao Ðạo sống". Nên nay mới gặp nhà vua đức độ, đem lại cho vợ chồng chàng đến cuộc đời sung sướng giàu sang.


Hết
504




Tâm bình thế giới bình

Ngày xưa ở thành Xá Vệ nước Ấn Ðộ, đức Phật đến giáo hoá độ cho một gia đình kia, hai vợ chồng đều cá tánh tham lam độc ác, không biết tôn trọng đạo đức. Ngài liền hóa một vị đạo nhân, mang bình bát đến khất thực. Lúc ấy người chồng đi vắng, người vợ ở nhà, thấy vị đạo nhân vào liền mắng chửi ầm lên. Vị đạo nhân hiền từ nói:

"Tôi là người tu hành, chỉ xin ăn mà tự sống. Lòng chỉ mong gia chủ cho bát cơm để đỡ lòng, cớ sao lại mắng chửi tôi đủ điều thậm tệ như vậy".

Người vợ tức giận hét ngược lên, thì vừa người chồng về, trong tay sẵn cầm cao dao bén, chẳng nói chẳng rằng, người chồng lặng lẽ xông tới, định chém đạo sĩ. Bỗng một bức thành băng pha lê hiện lên, bao bọc người đạo sĩ, bức thành trong sáng, kiên cố, không có cửa, người chồng đến xô đập, đâm chém đủ cách cũng không sao chuyển được.

Người chồng liền nói: "Ông hãy mở mau cho tôi vào với".

Vị đạo sĩ trả lời: "Ðược, nhưng ông hãy quăng con dao bén đi đã".

Người chồng tự nghĩ: "Mình to lớn như thế này, còn người đạo sĩ bé nhỏ thế kia, mình dùng hai tay không cũng đủ giết chết vị ấy trong giây lát". Nghĩ đoạn, liền quăng con dao bén đi xa, nhưng sao bức thành pha lê vẫn nguyên như củ, người chồng tức giận hét lên:

"Tôi đã quăng con dao bén đi rồi sao ông không chịu mở cửa cho tôi vào".

Vị đạo sĩ đáp: "Không, tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao bén trong tâm ông kia mà".

Người chồng giựt mình kinh sợ, nhận thấy vị đạo sĩ thấu hiểu tâm lý thầm kín của mình, nên đã bớt độc ác, cúi đầu lạy tạ, ăn năn hối lỗi. Bức thành pha lê kiên cố ấy bỗng biến mất, vị đạo sĩ hiện thành Ðức Phật, phóng muôn ánh hào quang chói sáng rực rỡ một phương trời, và ngay khi đó Ðức Phật thuyết pháp để hóa độ cho hai vợ chồng người ấy.


Hết
503




"Công đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật, mà căn cứ nơi sự thành tâm".

Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật và bàn một vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ hôm ấy:

Câu chuyện mở đầu trong bữa tiệc là những lời sau đây do vua A Xà Thế phát khởi.

- Các khanh! Quả nhân rất bằng lòng và thỏa mãn về việc các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất trong buổi lễ cúng dường Phật và giáo hội vừa rồi.

Hướng đôi mắt về phía đại thần Kỳ Bà, Vua A Xà Thế nói tiếp:

Kỳ Bà! Khanh nghĩ hộ quả nhân xem còn có việc gì đáng làm nữa để quả nhân tận hiến tấc dạ chí thành lên đức Chí Tôn và giáo hội - những người tận tụy trong công việc giáo hóa chúng sanh nói chung, thần dân của quả nhân nói riêng, trở về với ánh sáng chân lý.

Ðứng dậy ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi đại thần Kỳ Bà thong thả tiếp:

- Tâu đại vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Ðại vương đã dâng lên đức Chí Tôn và giáo hội, theo thiển ý của hạ thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vì ánh sáng trượng trưng cho trí tuệ, cho sự giác ngộ; ở đâu có ánh sáng thì ở đó bóng tối tan mất. Cũng như ánh sáng Phật và giáo hội đến đâu thì ở đó si ám và tội lỗi đều tiêu sạch. Ngu ý của hạ thần chỉ có bấy nhiêu, kính mong bệ hạ thẩm xét.

- Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý! Tiện đây nhờ khanh thay quả nhân sắm sửa cho thật nhiều đèn đuốc để tối hôm nay dâng lên Phật và giáo hội tại tịnh xá Kỳ Hoàn.

Ðại thần Kỳ Bà vâng thuận. Buổi tiệc bắt đầu và tiếp diễn trong tình thân mật giữa nhà vua và các vị cận thần.

Chiều hôm ấy, trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành khất gặp rất nhiều xe cộ, lính tráng, tấp nập khuân chở những thùng dầu, đèn và cả những  chiếc lồng đèn ngũ sắc rực rỡ.

Hỏi thăm, bà lão hành khất biết đó là lễ vật của nhà vua đem cúng dường Phật và giáo hội.

Hình tướng trang nghiêm của Phật và các thầy Tỳ kheo lại hiện về trong óc bà. Bà vui hẳn lên và rất tán thành việc làm có ý nghĩa của nhà vua. Và xét lại tự thân, thấy mình chưa làm được một công đức nào đối với Phật và giáo hội, bà tự nghĩ phải sắm phẩm vật để cúng dường mới được. Thò tay vào bị, bà lão moi ra vỏn vẹn chỉ có hai tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong lòng khiến bà hoan hỷ đi ngay vào một cái quán gần đấy...

- Thưa cậu! Làm ơn bán cho tôi hai tiền dầu thắp.

- Bà mà mua dầu làm gì? Sao không mua đồ ăn lại mua dầu, nhà cửa đâu mà dầu với đèn!

- Thưa cậu! Tôi thường nghe các bậc hiền đức trong làng bảo: "Ngàn năm muôn thuở mới có một đức Phật ra đời; người nào có nhiều phước duyên lắm mới được gặp". Hôm nay tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng hiến lên Ngài. Ðiều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Nhân tiện vua A Xà Thế sửa soạn đèn đuốc để dâng lên Ngài và giáo hội, tuy nghèo khổ, tôi cũng xin nguyện đem hai tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài.

Nghe bà lão hành khuất tỏ tấm lòng chân thiệt đối với Ðấng Giác ngộ, người chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: Hai tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng bà ba muỗng nữa là năm, và cho bà mượn luôn vịt đèn này. Mong bà nhân cho.

Sau khi cám ơn người chủ quán, bà lão ra về với bao niềm hoan hỷ vì được người khác biểu đồng tình và giúp mình trong công việc phước thiện.

Trời chưa tối hẳn, những cây đèn xinh xắn, lộng lẫy của nhà vua đã được những đội thị vệ thắp sáng. Tịnh xá Kỳ Hoàn như vui nhộn hẳn lên. Ðó đây vang lừng những điệu nhạc dịu dàng, nhịp nhàng với lới ca ngợi của những cận thần thay nhà vua tán thán công đức của Phật và giáo hội. Từng đoàn người lũ lượt đi dự lễ, đông như trẩy hội. Bà lão hành khất cũng tiến mau về phía Tịnh xá và dừng bước trước những hoa đăng rực rỡ, bà vội vàng đến rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay tim. Vừa mồi ánh sáng bà vừa phát nguyện: "Cúng dường ánh sáng này lên Ðức Thế Tôn và giáo hội, con chỉ cầu mong làm sao con cũng sẽ được trí tuệ sáng suốt như các Ðấng Giác ngộ trong mười phương". Bà lại nghĩ: "Dầu ít như vầy có sáng cũng chỉ đến nữa đêm là cùng". Nhưng mạnh dạn bà thầm nguyện: "Nếu quả thật sau này tôi sẽ được giác ngộ như lòng tôi mong muốn hôm nay, thì số dầu ít ỏi này cũng làm cho cây đèn này sáng mãi không tắt".

Sau khi treo cây đèn trên một cành cây, bà lão hành khất đi thẳng vào tịnh xá, chí thành lễ Phật rồi ra về...

Số đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim, nhưng ít cây được sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật cháy...

Duy cây đèn của bà lão hành khất thì ánh sáng nổi bậc hơn muôn vạn cây đèn khác và cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn không hao.

"Này đệ tử! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ", Ðức Phật dạy với Ngài Mục Kiền Liên như thế.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật. Nhưng đến cây đèn của Bà lão hành khất, thì ba lần Tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, Tôn giả cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần thông diệu lực của mình quạt hắt vào đèn nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung quanh đều ngạc nhiên và cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.

Ngay lúc ấy, Ðức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:

"Thôi! Ðệ tử hãy thôi. Dù cho đệ tử có tận dụng tất cả thần lực của đệ tử cũng không thể nào làm tắt được cây đèn này; vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong tương lai".

Lời dạy ấy của Ðức Phật đã làm cho nhiều đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khất!

Câu chuyện này đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi:

- Kỳ Bà! Như khanh đã biết quả nhân làm rất nhiều công đức và cúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy Ðức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khất chỉ cúng dường có một cây đèn lại được Ngài thọ ký là nghĩa làm sao?

Ðại thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.

- Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm hiểu những nguyên khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ kh484




Thầy cũng chịu


Trong giờ toán:

Thầy: Em hãy cho thầy biết các thí dụ về đơn thức, nhị thức và đa thức.

Trò: Thưa thầy, tối qua nhà em ai cũng thức xem đá banh, đó là đa thức. Khi sắp hết hiệp một thì chỉ còn lại em và ba em xem, đó là nhị thức. Đến cuối trận chỉ còn mình em xem, đó là đơn thức.



o O o


Trong giờ sinh vật, thầy gọi:

- An, hãy cho thầy biết con người có bao nhiêu cái xương sườn?

- Thưa thầy, em không thể đếm hết được.

- Sao vậy?

- Tại đụng vào là em nhột.
31




Chữ của thầy cả!


Giờ kiểm tra. Cả phòng im phăng phắc. Có tiếng thì thào:

- Chữ viết tắt TV là gì hả mày? Ti vi hay thực vật?

- Thằng ngố, im mồm! Cứ chép đi! Thầy tự khắc sẽ hiểu chứ không... ngu như mày đâu!

... Lớp lại im phăng phắc.



o O o


Thày giáo hỏi:

- Trong năm học vừa qua, nhân vật nào gây ấn tượng mạnh nhất đối với các em?

Một học trò trả lời:

- Thưa thày, Napoleon ạ.

Trò khác:

- Thưa thày, Lincoln ạ.

Đến lượt John, cậu bé cứ ấp úng mãi:

- Thưa thày... bố em ạ..., nhất là lúc bố xem điểm tổng kết cuối năm của em.
27




Chúng sanh khi xả báo thân này thì thọ báo thân khác. Nếu trong khi tìm thọ thân khác mà chưa đủ nhân duyên thì thân nầy chưa xả. Ví như con sâu đo, trong khi đàng đuôi bám chặt một nơi thì đàng đầu ngóc lên tìm kiếm. Hễ đàng đầu tìm được chỗ mà bám xuống thì đàng đuôi mới nhả ra. - Con người trong lúc nằm thiêm thiếp chờ chết, chính là lúc nghiệp thức tìm kiếm nơi thác sanh. Nếu được nơi rồi thì liền chết, bỏ xác thân nầy mà thọ thân khác.

Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Võ Ðế, có quen với một vị Hòa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày trò chuyện với nhau rất thân thiết.

Hoàng hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng.

Ai ngờ Hòa thượng Chí Công đã biết trước, nên dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi  khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong tay áo, lấy bánh chay ra ăn.

Bà Hi Thị đợi tin Hòa thượng ăn rồi, tức thì tâu với vua rằng: "Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ gì cả, nay bệ hạ còn làm bạn nữa chăng?".

Vua nghe nói nổi giận, liền mang gươm đến chùa mà giết Hòa thượng.

Khi ấy, ngài Chí Công cũng đã biết trước, nên ra ngoài cửa chùa đứng đợi.

Lúc vua ngự đến trông thấy Hòa thượng thì hỏi rằng: "Ông ra đứng đây mà làm chi?".

Ngài Chí Công đáp rằng: "Bần tăng biết bệ hạ đến giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết hại, thì ô uế chốn Già lam càng tội nghiệp lắm!".

Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật và sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: "Ngài đã tiên tri được như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?".

Ngài Chí Công bèn đáp rằng: "Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu!"

Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng bèn lấy nước Tịnh thuỷ phun vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, hình thể vận động như thường.

Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết lòng lễ sám hối những sự lỗi lầm. Từ ấy Võ Ðế càng yêu mến Hòa thượng Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.

Ðến niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi bào thai làm con rắn mãng xà ở sau hậu cung ẩn mình không cho ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng: "Khi thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy nên nay thiếp phải làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết không nổi, đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, còn mỗi trong chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật là khó chịu! Thiếp nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quý một mình mà không tìm phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời".

Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ khóc lóc một hồi; sáng ra liền truyền lệnh rước các thầy Sa môn nhóm tại điện mà hỏi rằng: "Vậy trong hàng chư tăng, ai có phép chi cứu giải Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?".

Hòa thượng Chí Công tâu rằng: "Muôn tâu Bệ hạ! Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối, thì mới cứu được".

Vua Võ Ðế bằng lòng, liền cầu Hòa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung là chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu. Có một hôm kia, khi trai đàn gần mãn có mùi hương nồng nã bay khắp trong cung điện. Vua Võ Ðế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng: "Thiếp nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãn xà mà sanh về cõi trời Ðao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm vậy - Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an". Bà nói rồi liền ẩn mình không thấy nữa.

Khi ấy vua Võ Ðế nửa mừng nửa khóc, khôn xiếc sự tình bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà hỏi rằng: "Hoàng hậu của Trẫm buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán như vậy?".

Ngài Chí Công tâu rằng: "Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì và một vị Giám tự ở chung một chùa. Trong chùa ấy có cái đôn để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay con vạt sành vậy. Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường nhân luân.

Một bữa kia ông Trú trì đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông không được thanh tịnh và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.

Qua bữa sau ông Trú trì về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm dưới chân đôn, thì thấy nó đã chết rồi. - Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt, rồi đem chôn sau vườn chùa.

Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng đây. - Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi kiếp này tu hành lơ láo, thì có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!".

Vua Võ Ðế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng: "Hèn gì Hoàng hậu của Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm không biết cớ làm sao. - Có một đêm Hoàng hậu ngũ mê, Trẫm lén mở sợi dây ấy ra, thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào, tức thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, thì biết Phật nói "NHÂN QUẢ" thiệt là không sai".

Từ ấy, vua Võ Ðế lại càng tin tưởng Phật pháp, trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam Bảo...


Hết
490




Công chúa Thuần Nhẫn là con gái út của vua Ba Tư Nặc. Công chúa là người hiếu hạnh, lại có đức nhẫn nhục, nhưng phải có tội xấu quá, nên đã 18 xuân mà vua cha chưa tính việc xuất giá được.

Ôi! Bà mụ cay nghiệt làm sao?

Bắt nặn thế nào cho công chúa xấu đến nổi ai thấy cũng bực mình, mũi tẹt, trán dồ, miệng hô, mắt toét, đó là chưa kể đến thân hình nếu nói đến thân hình thì nàng chỉ cao vỏn vẹn một thước lênh khênh. Vì vậy mà trong triều các vương tôn, công tử phải tìm kế du học ráo, để tránh cái nạn bị trạch phò mã.

Mỗi khi công chúa thấy hai chị hãnh diện trước nhan sắc xinh tươi, nàng rất ngậm ngùi tủi hận, song cũng không hề ganh tỵ. Trái lại, hai chị thì kêu căng, mỗi khi thấy nàng thường tỏ vẻ khó, không muốn gần gũi chuyện trò. Lại tâu với vua cha cấm không cho nàng đi ra ngoài sợ thế gian chê cười. Công chúa thui thủi một mình trong cung cấm.

Nàng hiếu hạnh với cha mẹ, chiều chuộng hai chị và hết lòng thương yêu những người hầu hạ. Nàng thường đem tiền bố thí cho người nghèo khổ, cung cấp thuốc men cho người bệnh hoạn, vì thế ai cũng yêu mến công chúa hơn hai bà chị.

Nhan sắc kỳ dị của công chúa Thuần Nhẫn bay ra, cũng như đức hạnh của nàng, nên một ngày kia Hoàng tử một nước lân cận đến xin cưới nàng làm vợ.

Cầm tay người nghĩa hiệp, vua Ba Tư Nặc cảm động, bảo Trọng Ðức rằng: "Con trẫm được Hoàng tử thương mến thật trẫm không biết lấy lời gì tả cho hết được nỗi lòng cảm bội". Khi về nước, Hoàng tử không cho tiếp xúc với người, sợ thiên hạ thấy bên ngoài chê cười chăng?

Nhưng than ôi! Lòng hào kiệt của vị Hoàng tử thanh niên cá hạn, mà nhan sắc công chúa lại xấu vô cùng, nên mặc dầu vẫn mến đức, trọng tài của vợ, mà lắm khi Thái tử cũng bực mình về cái xấu của người vợ đáng thương. Rồi lần lần Trọng Ðức tìm cớ săn bắn vui chơi riêng. Công chúa như con chim trong lòng son, tuy có gạo trắng nước trong, nhưng ngoài bốn bức tường thì nàng không còn hay biết gì cả. Công chúa biết nghiệp duyên nên thầm trách kiếp xưa bởi vụng đường tu nên kiếp này phải mang lấy quả xấu, không bao giờ oán thán ai. Nàng chỉ một lòng nhu thuận với chồng, khoan dung độ lượng với người trong cung.

Nhưng ác thay! Các bà Vương phi quận chúa thường tìm đến với nàng để khoe khoang hãnh diện, có khi còn dám chế nhạo nàng ra mặt. Ðức nhẫn nhục của công chúa thuần thành, nên nàng luôn luôn vui vẻ xem như không có gì đáng để ý.

Một hôm các bà về xúi chồng bày một bữa tiệc, mời khắp cả Vương tôn danh nhân trong nước. Theo lệ thường thì vợ nào chồng nấy đếu đến đủ mặt... Duy chỉ có Hoàng tử Trọng Ðức lủi thủi đến một mình. lủi thủi đến một mình. Thôi thì các bà Vương phi, quận chúa, tiểu thơ khoe khoang duyên dáng, các bà lại đi tìm Hoàng tử Trọng Ðức chế giễu.

Hoàng tử không chịu nỗi cơn tức giận, nên sanh lòng ghét vợ. Chàng hằm hằm chuyến này thì về nhất quyết ly dị cho rảnh.

Chồng đi yến tiệc, công chúa một mình vò võ trong cung. Tự nhiên nàng thấy nao nao trong lòng, tin chắc có điều gì không hay xảy đến cho mình. Nàng tủi thân rơi nước mắt. Tự nghĩ ta đời trước đã tạo nhân gì ác nghiệp đến nỗi sanh thân kỳ dị, làm khổ tâm biết bao nhiêu người vì thương yêu ta. Nàng liền chắp tay thành kính hướng về giữa thanh không thầm niệm. "Nam mô Phật, nam mô chư Phật". và tự khấn nguyện: Ðức Phật hiện nay Ngài hay ban bố ích lợi cho chúng sanh, cứu khổ cho tất cả người khổ sở. Nay con là một người đang chịu khổ, lại không làm sao ra khỏi cung cấm để hầu Ngài. Nguyện xin oai thần Ðức Thế Tôn từ bi khuất giá giáng thần vào trong chốn u đày này, cho con được đảnh lễ. Nỗi thống khổ lòng thành kính tha thiết của con người đáng thương ấy, ứng hiệp với Ðức từ bi của Phật. Ðược Ðức Phật ở tịnh xá Kỳ Viên liền vận thần thông hiện ra trước mặt, trong khi công chúa đang quì lạy. Ngưỡng lên thấy Phật, vừa mừng vừa tủi, nàng kính bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Ðời trước con đã gây nghiệp ác gì, mà ngày nay bị quả báo thân hình xấu xí như thế này? Lại nhờ phước đức gì mà sanh vào chốn giàu sang?" Ngài động lòng thương xót dịu dàng bảo: "Ðời trước con là một người đàn bà có nhan sắc, lại hay cúng dường bố thí, nhưng khắc nghiệt với tôi tớ, kiêu căng với bạn bè và hay ganh tỵ với người có nhan sắc hơn mình, mắt thường hay nguýt, miệng hay nói xấu người, khi sân hận nổi lên thì đánh đập tôi tớ một cách tàn nhẫn. Nhất là hay ỷ mình có nhan sắc của cải khinh ngạo kẻ khác. Ngày nay con phải thành tâm tha thiết cần cầu sám hối đi, thì những tội lỗi trước kia sẽ tùy theo tâm niệm mà tiêu diệt".

Tiếng Phật dịu dàng như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, công chúa thấy tự nhiên lòng nhẹ lâng lâng, nàng rút khăn lau ráo lệ, rồi tha thiết cần cầu sám hối. Nàng quỳ xuống chân Phật hàng giờ với những lời chân thật phát sinh ra tự đáy lòng. Ðức Phật để cánh tay vàng lên đầu nàng, công chúa ngẩng lên thấy đôi mắt hiền từ trong sáng của Ðức Phật nàng rất sung sướng. Liền khi ấy mắt nàng cũng trong sáng như mắt chim thu nàng thấy sắc diện của Phật đoan nghiêm hiền hậu, lòng nàng cảm động, sanh bao sự vui mừng, tự nhiên mặt nàng cũng đoan nghiêm mỹ lệ. Nàng thấy chân Phật sáng ngời, cốt cách siêu phàm, lòng nàng lại bội phần mến phục, tự nhiên thân nàng cũng đoan nghiêm điều đặn, các tướng xấu xa của nàng bị tiêu diệt. Nàng liền trở nên một công chúa đẹp đẽ xinh tươi đầy đủ phước tướng.

Phật thuyết pháp cho nàng nghe xong liền vận thần thông trở về Tịnh Xá.

Giữa bữa tiệc vui, Hoàng tử Trọng Ðức không chịu được lời chế giễu của các bạn. Tình yêu không thể kéo lại cái hổ, cái nhục. Thái tử bực tức lên ngựa trở về cung, vừa đi vừa thầm nghĩ: "Chuyến này nhất định để, nhất định ly dị".

Tiếng gió ngựa của người hào kiệt sao mà gấp gáp thế? Công chúa lo ngại vội vàng bước xuống thang lầu thấy mặt chồng đầy sát khí, nàng không dám hỏi han gì. Theo lệ thường nàng cúi xuống tháo chiếc đai ngọc trên lưng Thái tử và cất chiếc mũ vàng cho đầu chàng đỡ nặng. Thái tử ngạc nhiên, cử chỉ ấy rõ ràng là vợ, mà sao nhan sắc nàng biến đổi thế kia? Công chúa hiểu ý, liền đem chuyện cầu Phật kể lại cho chồng nghe. Từ đó vợ chồng vui vẻ hòa thuận cùng nhau lo tu phước thiện.

Một hôm vui câu chuyện, công chúa bảo chồng: "Thiếp xem chàng trọng sắc hơn trọng đức". Hoàng tử cả thẹn nói lảng qua chuyện khác.

Ðọc câu chuyện này chúng ta nhận thấy nhẫn nhục là điểm cốt yếu cần phải có trong tất cả hạng người, cần phải dùng trong tất cả hoàn cảnh. Nhờ sự nhẫn nhục, nhờ lòng thiết tha ăn năn của công chúa Thuần Nhẫn đã đổi được cuộc đời tối tăm trở thành tươi sáng. Chúng ta nê
n biết nếu tâm đức thanh tịnh thì sẽ chuyển được hình tướng bên ngoài. Vậy ta nên nhớ "NHẪN NHỤC LÀ GỐC HẠNH LÀNH, SÂN SI LÀ NGUỒI TỘI LỖI".


Hết
501




Không có giai cấp khi trong máu người cùng đỏ.
Không có giai cấp khi trong nước mắt người cùng mặn.


Mai hôm ấy, kinh thành Xá Vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập; từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi, giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát Ðế Lợi và Bà La Môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ Xá và Chiên Ðà La hiện ra quá rõ rệt: những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm... Những đứa trẻ đang đùa giỡn chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn...

Như lệ thường, sáng nay Ðức Thế Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo, giàu, sang, hèn; Ngài đi hết phố này đến xóm khác.

Ni Ðề, một thanh niên thuộc giai cấp Chiên Ðà La, giai cấp thấp nhất ở Ấn Ðộ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy Ðức Phật, chàng bối rối, sợ sệt, vội rẽ qua đường khác và tự thanh trách; chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống? Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh trang nghiêm; sáng rực hào quang của Ðức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng: Ôi! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp Ðức sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp Ðức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn  toàn của Ngài, chàng được nghe nhiều người kể lại.

Hiểu tâm niệm Ni Ðề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, Ðức Phật bước nhanh về phía Ni Ðề. Thấy Phật đến, Ni Ðề hoảng hốt: Vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.

- Con ôi! Như Lai đến với con đây! Sao con lại tránh? Ðức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.

Ðể đôi thùng xuống, run rẩy Ni Ðề quỳ thưa:

- Bạch Ngài con không dám... Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con...

Ðức Phật bước thêm và đến sát Ni Ðề. Ni Ðề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương Ðức Phật nói:

- Con ơi! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như Lai. Hơn nữa Như Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái tử Tất Ðạt Ða ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là hạng người đau khổ như con. Như Lai muốn nói với con một vài câu chuyện... Nghe qua những lời nói dịu hiền và có lý của Ðức Phật, Ni Ðề bớt lo sợ và nhìn Ðức Phật một cách kính mến, chàng thưa:

- Chẳng hay Ðức Thế Tôn vẫn đoái hoài đến người cùng khổ này sao? Và con đây cũng được Như Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo của Như Lai nữa sao?

Một cách nghiêm nghị Ðức Phật hỏi: Ai đã làm cho các con thắc mắc những điều ấy?

- Bạch Thế Tôn: những đạo sĩ Bà La Môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát Ðế Lợi mới có quyền thờ kính Hiền Thánh và có quyền giao thiệp với người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc của họ làm và phải trọn đời phục dịch họ...

Ni Ðề muốn nói nhiều nữa song Ðức Phật ngắt lời và hỏi:

- Vậy con không biết Như Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng và an vui sao?

Thôi, giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không? Và con muốn sống gần Như Lai không?

Sung sướng muốn chảy nước mắt, Ni Ðề đáp: - Ðó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được; nếu được Như Lai cứu độ thì đó là một phước lành của con vậy.

Dịu dàng Ðức Phật cầm tay Ni Ðề dắt đến bờ sông gần đấy... Tắm rửa xong, Ni Ðề theo Ðức Phật trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn được Phật và Giáo Hội thâu nạp cho là Tỳ kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện vị Tỳ kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu Ðà Hoàn rồi lần chứng quả A La Hán.

Bấy lâu Ba Tư Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao Ðức Phật là người của dòng hào thế Thích Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe Ðức Phật vừa độ cho Ni Ðề, ông càng bất bình hơn nữa. "Ðảnh lễ - ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni Ðề được...!". Ba Tư Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba Tư Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến Tịnh xá Kỳ Hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni Ðề là Tỳ kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.

Vừa đến tam quan Tịnh xá Kỳ Hoàn, thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba Tư Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến. Nhận lời, vị Tỳ kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba Tư Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục!

Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ kheo khi nãy trả lời cho Ba Tư Nặc vượng:

- Ðại vương cứ vào, Ðức Thế Tôn đã hứa cho.

Ba Tư Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.

Ðảnh lễ Ðức Phật xong, Ba Tư Nặc vương liền hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên là gì mà có thần thông quảng đại như vậy? Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng, tự tại...

- Ðại vương! Ấy là Ni Ðề, người gánh phân ở thành Xá Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng quả A La Hán nên đã có những thần lực như vậy.

Thấy Ba Tư Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ, Ðức Phật ôn tồn nói thêm:

- Này Ðại vương! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Ðại vương có thích và có ưa hái khống?

- Bạch Thế Tôn! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía và trang hoàng cả.

- Ðại vương! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trau dồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính
cúng dường không?

- Bạch Thế Tôn! Ðã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm!

- Lành thay! Ðại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng "giá trị chân thật" của con người.

Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của Ðức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh rẻ chán ghét Ni Ðề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba Tư Nặc vương thế ấy... Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni Ðề, vị Tỳ kheo mà ông đã gặp ở tam quan.

Ba Tư Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A La Hán Ni Ðề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho hoàng tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba Tư Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A La Hán thần thông tự tại khi nãy.

Ðược vị A La Hán này chấp nhận, Ba Tư Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán Ðức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo Hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ.


Hết
468




Nói với con về...tình yêu!





Có thể khi đọc những dòng chữ này, con gái của bố lại cười khúc khích, rồi nghĩ thầm sao hôm nay bố lại lên lớp con về cái chuyện của thanh niên thế nhỉ?". Con đừng vội cười nhé. Chuyện yêu đương đâu phải chỉ chuyện của các con? Tuy con gái bố đã 19 tuổi rồi, nhưng con đừng tưởng như vậy là con đã lớn, đã có thể vững bước vào đời, không sai lầm, không vấp ngã.
Tất nhiên bố có thể nói chuyện trực tiếp với con. Song đây là chuyện tế nhị, vì vậy bố quyết định tâm sự cùng con bằng trang viết này. Có thể như vậy hay hơn đối với cả bố và con.


Bố thật sự phải suy nghĩ nhiều về chuyện này kể từ hôm con dẫn Hùng, bạn trai con về nhà và nói với bố rằng các con đã yêu nhau gần một năm nay. Khi bố nói rằng con bước vào tình yêu hơi sớm, bởi trước mắt con là một chặng đường dài của học tập và phấn đấu. Bố còn nhớ con đã cười và nói lại một câu gần như con đã đọc trong một cuốn sách nào đó rằng "Bố ơi, tình yêu cho chúng ta sức mạnh, sẽ giúp ta học tập tốt hơn, phấn đâu vươn lên nhiều hơn để xứng đáng với tình yêu". Con nói có phần đúng, song điều đó đúng với những người đã trưởng thành, đã có hiểu biết cuộc đời, đã biết thế nào là tình yêu và biết làm chủ bản thân, có cuộc sống độc lập con ạ. Con đã cãi lại bố rằng "ngày trước bố và mẹ cũng yêu nhau từ khi học năm thứ nhất đấy thôi". Ðúng, bố mẹ gặp nhau và có tình cảm với nhau từ năm học thứ nhất. Song con không hiểu tình yêu của bố mẹ ngày trước như thế nào đâu. Có lần con cũng được đọc nhật ký của bố mẹ rồi đấy, bố còn nhớ nét mặt con lúc ấy rất xúc động. Con còn nói đùa với mẹ rằng "Bố mẹ ngày xưa lãng mạn thật, hơn cả thanh niên bây giờ". Con có biết không, chính cái sự lãng mạn ấy mà tình yêu của bố mẹ mới được bền lâu, bố mẹ mới cùng nhau chia xẻ bao năm tháng khó khăn của ngày đầu mới ra trường chưa xin được việc. Chính sự lãng mạn ấy mà tình yêu của bố mẹ mới đơm hoa kết trái, mới có con ra đời như kết quả chờ mong.


Vậy mà con và Hùng đã yêu nhau như thế nào? Có thể người ta nói đúng rằng "tình yêu có đôi mắt mù lòa". Con bảo Hùng là người con tin tưởng nhất, anh ta chiều chuộng con, không từ chối con một điều gì. Nhưng con có thấy cái cung cách Hùng đến nhà mình không? Cậu tạ chào bố bằng cái gật đầu, rồi ngồi bắc chân chữ ngũ hút thuốc lá. Với mái tóc hung hung mới nhuộm, cậu ta ăn diện quá mức, mà lại không lịch sự chút nào. Một cậu sinh viên năm thứ nhất đã làm gì ra tiền mà cậu ta đi xe máy vè vè, cổ lại lủng lẳng xiềng vàng, lắc bạc. Cậu ta không để ý rằng bố đang làm việc, mà lại tự tiện bật vô tuyến lên xem bình luận bóng đá. Con bảo cậu ấy là sinh viên, vậy mà khi bố hỏi cậu ấy học trường nào, cậu ấy bảo học khoa Văn trường Ðại học Thủy lợi! Trường Thủy lợi mà cũng mới có khoa Văn hay sao con? Bố chỉ mong con nhìn nhận lại người mà con nói là yêu thương đi. Con người ta quý nhất ở sự hiểu biết, ở tư cách đạo đức ở sự kiên trì vươn lên trong cuộc sống, ở sự cần cù lao động và trân trọng tình người. Anh ấy có đủ tư cách là chỗ dựa tinh thần cho con suốt cả cuộc đời hay không?


Khi con xin phép bố mẹ đi chơi với Hùng, bố mẹ đã tôn trọng con và đồng ý. Nhưng khi con đi rồi, mẹ con lại lo lắng. Bố cũng lo, nhưng bố đã trấn an mẹ con. Một mặt bố tin con vì con là con gái của bố, con không đến nỗi dại khờ đâu, cũng là sinh viên rồi cơ mà. Tin thi tin vậy mà vẫn không yên tâm.


Còn một điều này, bố đắn đo mãi rồi quyết định nói với con. Ðể tình yêu mãi mãi là điều thiêng liêng, các con phải biết giữ gìn khoảng cách. Có thể con lại bảo bố là cổ hủ, lạc hậu, là phong kiến. Song bố dám khẳng định với con một điều rằng không một người đàn ông nào muốn cưới một cô gái dễ dãi, buông thả về làm vợ.


Bố không cấm con yêu, bởi bố cũng hiểu tình yêu như một dòng nước lũ, nó có thể tràn vỡ nếu ai có ý định đắp đập ngăn sông Bố chỉ muốn con thật sự suy nghĩ những điều bố nói với con về tình yêu, về người yêu của con. Bố tin con gái bố hiểu điều bố nói, bởi bố nói với con bằng kinh nghiệm của một người lớn tuổi, một người chỉ mong con được hạnh phúc.

529




Chia tay nhẹ nhàng


Khi yêu, bạn mong muốn tình yêu đó là duy nhất, là vĩnh cửu. Nhưng thực tế đôi khi lại diễn biến theo chiều ngược lại. Bỗng nhiên một trong hai người cảm thấy không con yêu nữa và nghĩ đến chuyện chia tay. Hàng ngàn người đã thực hiện những cuộc chia tay một cách giản dị, tự nhiên. Nhưng với không ít người, điều đó thật nặng nề...


Khi bạn là người "bị bỏ rơi"


Anh ta giữ thế chủ động trong cuộc chia tay, còn bạn thì hoàn toàn cảm thấy bất ngờ, chưa hề chuẩn bị để đón nhận tình huống xấu đó. Bạn vẫn đang yêu và không thể hiểu nổi tại sao mình bị ruồng bỏ, bạn không muốn chấp nhận thực tế đó. Bạn là người bị đau khổ và tổn thương nặng nề nhất. Phản ứng đầu tiên của bạn là muốn níu kéo, muốn "sửa chữa" tình hình. Song gần như chắc chắn là bạn sẽ chỉ gặp thái độ lạnh nhạt, lẩn trốn, thậm chí tàn nhẫn của anh ta... Từ chỗ níu kéo, hy vọng, bạn sẽ nhanh chóng rơi vào tâm trạng tuyệt vọng, đau khổ và phản ứng tiêu cực với chính mình. Bạn trở nên một con người thù địch, khó chịu, suy sụp, sầu muộn, hoặc thề sẽ không bao giờ yêu nữa...Trong khi bạn đau đớn tự "hành hạ" mình vì cảm thấy mất anh ta bạn không còn thiết sống nữa, thì anh ta có thể đã quên bạn và kịp cho mình một tình yêu mới. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, chỉ có bạn là "ngưng đọng" trong một nỗi đau buồn "tự hủy diệt". Bạn không biết là mình đang lãng phí tuổi thanh xuân của chính mình.


Nếu bạn là người chủ động


Có thể ngược lại, một ngày nào đó bạn thấy tình yêu của mình cạn kiệt, anh ta khiến bạn không thể chịu đựng nổi. Mối tình lãng mạn hồi nào giờ còn trơ lại sự nhàm chán, vô vị, ghét bỏ, vướng víu, khó chịu. Tình yêu bỗng trở thành một gánh nặng phiền phức, một sự "quấy rầy" kéo dài gây cho bạn cảm giác căng thẳng, mất tự do. Bạn thấy tình yêu đó tồn tại thật vô lý và chỉ muốn trốn chạy khỏi nó. Trong khi đó, anh ta vẫn "si mê" bạn, không muốn rời xa bạn dù nửa bước điều đó càng làm bạn sợ hãi và nôn nóng muốn thoát khỏi anh ta bằng được. Bạn xua đuổi, ruồng rẫy, trốn tránh anh ta, thậm chí bạn cảm thấy ngạc nhiên vì thấy mình lại có thể cư xử tàn nhẫn, quyết liệt đến thế. Song có thể anh ta phản ứng còn quyết liệt hơn bạn. Một số đàn ông khi bị tổn thương có thể hành động rất tiêu cực và mất tỉnh táo: Trả thù, xúc phạm và gây hại cho bạn; tiếp tục đeo đẳng, quấy rối không để bạn được yên ổn theo kiểu "không ăn được thì đạp đổ"... Những người đàn ông yếu đuối, thiếu tự tin và cực đoan thì có thể rơi vào trạng thái mất thăng bằng, tuyệt vọng, trầm uất, thậm chí giải thoát bằng cái chết... Xem ra trong tình yêu, dù là đàn bà hay đàn ông thì việc chia tay với tình yêu đều thật khó khăn và nỗi đau khổ thì cũng chẳng khác nhau cho lắm.


Hãy học cách chia tay nhẹ nhàng


Khi yêu, không ai mong xảy ra đổ vỡ, mất mát. Nhưng bạn phải coi sự may - rủi, được - mất, thành -bại trong tình yêu cũng là một quy luật tất yếu và khó tránh khỏi của cuộc sống. Tình yêu mất đi, dù xuất phát từ một hay cả hay phía, đều có nghĩa là nó không còn lý do để tồn tại. Bạn nên nhìn thấy mặt tích cực của sự mất mát này: Mọi cái suy tàn đều là để bắt đầu của một sự sống mới. Một tình yêu mất đi có nghĩa là bạn sẽ có cơ hội để lựa chọn một tình yêu mới xứng đáng hơn, ít sai lầm hơn.


Dù bạn là người "bị bỏ rơi" hay chủ động "bỏ rơi" thì cũng nên chấp nhận và làm cho cuộc chia tay trở nên nhẹ nhàng, lịch sự. Hết yêu rồi mà biết cách chia tay nhẹ nhàng, đó cũng là một nét đẹp, một nét văn hóa của cuộc sống. Khi bạn bị chối bỏ, đừng chạy theo van xin nữa, điều đó không làm cho tình yêu trở lại mà chỉ làm người ta thương hại bạn mà thôi. Nếu bạn là người chủ động chia tay, nên bình tĩnh, dành thời gian chuẩn bị tâm lý cho người kia để họ tự giác nhận thức được vấn đề một cách đúng mực. Không nên cư xử một cách ích kỷ, phũ phàng, chỉ biết bản thân mình mà không thông cảm với người khác. Không nên coi việc rũ bỏ tình yêu như việc thay một cái áo, phủ nhận sạch trơn... Hãy kiên trì từng bước để giảm tối đa sự tổn thương đau khổ cho người mà bạn đã từng một thời yêu mến. Ðiều đó tốt cho cả hai người. Cuối cùng, bạn hãy tin rằng thời gian là phương thuốc nhiệm màu có thể chữa lành mọi vết thương lòng. Và thời gian cũng sẽ giúp hồi sinh mọi trái tim đau khổ, trả lại cho nó khả năng yêu thương như thuở ban đầu.

520




Giá trị của sự nhanh trí


Một vị khách hàng tỏ ra rất bực tức. Chị ta bù lu bù loa trên điện thoại rồi chửi rủa mắng nhiếc hãng nước ngọt đã không áp dụng những quy định vệ sinh khắt khe như quảng cáo.

- Alô, tôi là người tiêu dùng. Tôi đang có trong tay một chai nước giải khát của các ông, trong đó có một con gián. Tôi không thể chịu được nữa. Có lẽ tôi nên kiện ra toà để người tiêu dùng như tôi không còn bị lừa nữa. Mà như vậy, chắc công ty sẽ phá sản.

- Thế hả? Xin chúc mừng quý khách đã trúng giải khuyến mãi đặc biệt của công ty chúng tôi. Phần thưởng của quý khách là một chiếc ôtô 4 chỗ ngồi. Xin quý khách sớm đến nhận quà.
47




Xưa có vị quốc vương nước Thiên La, ông là một người thông minh, nên đã trực nhận: thế cuộc vô thường nhân sanh thống khổ.

Liền từ bỏ ngai vàng với tình thương nhỏ hẹp để vào núi tu hành. Ở được 30 năm, bỗng một hôm nay có người đi săn ham đuổi theo một con nai, lỡ bước sa vào một cái hầm sâu, ở trước chỗ Ngài thường ngồi tham thiền; đồng thời có một con rắn một con chim, vì sợ hãi cũng đều rơi xuống đó, thân thể bị thương đau đớn vô cùng. Người trông lên cầu cứu kêu la thảm thiết. Vị đạo sĩ nghe tiếng kêu la, động mối từ tâm lấy đuốc soi xuống các nạn nhân đang gục đầu khóc lóc. Ngài đến bên hầm bảo rằng: "Các người hãy yên tâm, ta sẽ cứu các người thoát nạn". Ngài liền đi kiếm dây thòng xuống, người, rắn, chim đều nhờ sợi dây đó mà lên, thoát khỏi tai nạn. Sau khi lên khỏi hầm cả ba đều thành kính lạy tạ và thưa rằng: "Thân mạng chúng con được sống ngày nay, là nhờ lòng hoàng từ phổ độ của Ngài, vậy chúng con xin trọn đời cung cấp các vật dụng Ngài thiếu thốn, để đền đáp công ơn trong muôn một!". Ðạo sĩ nói: Ta là quốc vương trong một nước, trân bảo đầy kho, muốn gì cũng được, nhưng ta nhận thấy phú quí như ngục tù, tài sắc danh vọng là cạm bẫy đưa ta vào vòng tội lỗi, chúng nó là những lưỡi gươm sắn bén để giết đời ta, là những mũi tên nhọn để bắn vào tâm ta và cũng vì chúng ta lặn hụp mãi trong biển sanh tử, chịu đủ mọi điều đau khổ. Vì thế, ta phải từ giả xuất gia học đạo, ta nguyện chứng được đạo quả Vô thượng chánh biến tri để khai hóa chúng sanh trở về giác tánh, đâu phải ba người mà thôi?. Ngài nói tiếp: Từ nay các ngươi đền ơn ta, không gì quý hơn quy y Tam bảo, vâng lời Phật dạy, làm các việc lành.
Người thợ săn thưa: "Ở đời tuy có những nhà nho sĩ tích công lũy đức, làm lành tránh dữ, nhưng đâu bằng người Phật tử quên mình cứu người, mà không cần sự đền đáp của người chịu ân. Thâm ân của Ngài con không biết lấy gì đền đáp, song chỉ xin Ngài nếu thuận tiện quá bước đến nhà con, cho con cúng dường đôi chút".

Chim thưa: "Con tên Bác, khi nào gặp việc gì cần đến con xin Ngài gọi đến tên con, con sẽ đến ngay".

Rắn thưa: "Con tên Trành, nếu đạo sĩ có gì không hay xãy đến xin Ngài gọi tên con, con sẽ đến hầu".

Thưa rồi cả ba đều từ biệt đạo sĩ ra về. Tình cờ một hôm đạo sĩ đến nhà thợ săn, người này vì lòng gian tham ám ảnh nên vừa trông thấy Ngài đi đàng xa, vội vàng bảo vợ: "Ngài đến kia sẽ không may cho ta, nếu ta có bảo ngươi làm thức ăn gì để cúng dường, ngươi hãy chậm chậm, vì quá ngọ thì ông ấy sẽ không ăn nữa". Ðạo sĩ vừa đến nhà, hai vợ chồng thợ săn niềm nở tiếp rước, mời ở lại thọ trai nhưng dần dà nói chuyện mãi quá ngọ, Ngài phải về không.

Trở về  núi thấy chim, Ngài gọi: Bác!... Bác!...

Chim thưa: "Ngài ở đâu về?"

- Ta ở nhà thợ săn về.

- Ngài đã thọ trai chưa.

- Nhà kia chưa kịp dọn thì đã quá ngọ, nên ta không ăn mà trở về đây.

Nghe vậy chim tức tối than rằng: "Thật người quá vong ân bội nghĩa!". Rồi quay lại thưa với đạo sĩ: "Con không biết lấy gì để cúng dường Ngài. Mời Ngài ngồi đây con đi chốc lát sẽ trở về". Chim liền bay vào hậu cung của vua nước Bà Già, thấy Hoàng hậu nằm ngủ, trên đầu có gài hột ngọc kim cương; chim tha về dâng cúng đạo sĩ. Hoàng hậu tỉnh dậy tìm ngọc không thấy, liền tâu vua. Vua truyền sắc trong nước: người nào tìm được ngọc trọng thưởng.

Ðạo sĩ khi được ngọc kim cương bèn nghĩ rằng: "Ta tu hành dùng gì đến vật này, thôi đem lại cho người thợ săn". Người thợ săn biết là ngọc của vua, bèn trói đạo sĩ đem đến nộp cho nhà vua.

Vua hỏi đạo sĩ: "Nhà ngươi từ đâu đến mà được ngọc quý này?".

Ðạo sĩ suy nghĩ: "Nếu nói sự thật thì loài chim trong cả nước nầy đều bị chết hết; nếu nói trộm được thì không phải người tu hành", Ngài nghĩ vậy đành im lặng vui lòng chịu đựng sự hành phạt ngọn roi tàn nhẫn! Ngài không oán vua không thù người thợ săn. Trái lại, Ngài động lòng từ bi nên phát nguyện rằng: "Cho tôi được mau thành Phật để cứu độ các sự quả báo khổ não của anh thợ săn vì lòng tham ác đã gây nên, và tất cả chúng sanh hiện đang đau khổ". Vua truyền đem chôn đạo sĩ chừa đầu lại sáng mai để giết.

Bấy giờ đạo sĩ gọi tên con rắn:

Trành! Trành... Rắn nghĩ: "Trong thiên hạ không ai biết tên ta, chỉ có đạo sĩ thôi, có lẽ cần gì đến ta chăng?". Rắn vội vàng tìm đến, thấy đạo sĩ bị hình phạt như thế. Rắn đau đớn cúi đầu thưa rằng: "Vì sao Ngài bị mắc nạn này?".

Ðạo sĩ kể tất cả nguyên do. Rắn rơi nước mắt thưa: "Lòng nhân đạo của đạo sĩ rộng lớn không bờ bến, mà còn gặp tai nạn như thế này, huống gì kẻ không đạo đức, thì tai họa lại sao tránh khỏi". Rắn thầm nghĩ: ông vua nầy chỉ có một Thái tử rất cưng quý, ta sẽ vào cung cắn chết Thái tử rồi trở ra đưa thần dược cho đạo sĩ. Và dặn: "Hễ thấy đám Thái tử đi ngang qua, Ngài đem thuốc này cứu Thái tử, Ngài sẽ thoát nạn".

Sau khi hay tin Thái tử chết, nhà vua đau đớn vô cùng, bèn truyền lệnh: "Người nào có tài năng làm cho Thái tử sống lại, ta xin chia một nữa nước". Nhưng tất cả lương y trong nước đều bó tay. Nhà vua đành đem thây Thái tử vào núi để hỏa tang. Ðám đi ngang qua bên đạo sĩ, đạo sĩ hỏi: "Thái tử đau bệnh gì mà bỏ mạng chóng thế? Hãy thong thả tôi có thể cứu sống Thái tử". Thị tùng nghe vậy vội vàng đến tâu vua. Vua rất mừng cảm động nói: "Nếu Ngài cứu sống con tôi, tôi sẽ xá tội cho Ngài và chia nước để Ngài làm vua".

Ðạo sĩ lấy thuốc xoa khắp thân thể, bỗng nhiên Thái tử ngồi dậy: "Vì sao ta ở đây?". Người hầu thuật rõ mọi việc đã xảy ra. Thái tử vui mừng trở về cung. Vua giữ lời hứa chia nửa nước cho Ðạo sĩ, Ðạo sĩ nhất định từ khước không nhận. Khi đó nhà vua tỉnh ngộ, Ðạo sĩ là người đã sống ra khỏi vòng danh lợi, bèn hỏi: "Ngài ở nước nào, và được ngọc ở đâu?".

Ðạo sĩ thuật rõ đầu đuôi việc đã xảy ra. Nhà vua nghe rồi ăn năn cầu xin sám hối, rồi đòi thợ săn đến bảo: "Ngươi có công với nước, đem tất cả bà con đến đây ta sẽ trọng trưởng". Khi đã đến đầy đủ vua truyền lệnh: "Vì ngươi đã bất nhân bội nghĩa, mà đạo sĩ gần thác oan, tội người rất nặng ta sẽ giết cả họ". Lệnh vừa truyền ra, Ðạo sĩ vội đến can vua: "Chúng ta là kẻ trượng phu, không nên đem oán để báo oán, nên đem ân mà báo oán, oán ấy mới mong dứt được. Vậy xin bệ hạ hãy vì tôi tha cho tất cả những người nầy". Vua nghe cảm499




Bạn tôi mang thai vì bị cưỡng hiếp, nhưng cô ta can đảm giữ lại cái thai đó cho đến chín tháng khổ nhọc. Sau đó, cô y sanh ra một đứa bé trai vào tháng mười hai năm 1992. Lúc đó chúng tôi chỉ là bạn ở cùng phòng.



Khi sanh ra, đứa bé rất là yếụ Vừa chào đời, đứa bé phải vào phòng mổ để mổ tim. Bạn tôi thấy vậy nên nói với tôi rằng cô không thể chăm sóc một đứa bé bệnh hoạn như thế, nên tôi đ nhận đứa bé làm con nuôi và chăm sóc cho nó.



Ðứa bé ở trong bệnh viện được sáu tháng. Rồi, chúng tôi đem về nhà, nhưng đứa bé chỉ sống được thêm một tháng rưỡi nữa thì chết. Tôi rất là đau khổ vì tôi thương đứa bé thật nhiềụ Khi đứa bé chết, tôi đau lòng như là chính con ruột của mình chết vậỵ Tôi thường ra nghĩa địa thăm mộ đứa bé đến 4 - 5 lần mỗi ngàỵ Vì tôi nghe có người đồn rằng đừng nên vào nghĩa địa sau 4 giờ chiều vì sẽ quấy nhiễu người chết, cho nên tôi chỉ đến nghĩa địa thăm mộ đứa bé trước khi trời tốị



Nhưng một đêm, vì cái gì đó thúc giục tôi phải đi đến nghĩa địạ Ðêm đó khoảng mười giờ, tôi không ngần ngại lên xe và lái đến nghĩa địạ Mộ của đứa bé nằm ở ngay cổng trước, thường thường khi vào trong nghĩa địa tôi lái thẳng đến mộ của đứa bé và tắt máy ngồi ở trong xe chứ tôi không dám bước ra ngoài vì sợ thú hoang ở chung quanh (vì lúc trước tôi đã thấy một con gấu), vì vậy nên tôi ngồi trong xe và nhìn ngôi mộ đứa bé rồi thúc thít khóc. Ðêm hôm đó, nhằm ngày rằm nên trăng tròn sáng tỏ, vì vậy tôi mới mạnh dạn bước ra khỏi xẹ Bỗng nhiên, ngay khi ấ y, một vùng ánh sáng màu xanh dịu hiện ra phía trên ngôi mộ. ánh sáng màu xanh đó tỏa sáng khoảng năm thước ngay trên ngôi mộ của em và có hình dạng giống như chữ V lật ngược, nó đã chiếu sáng trong vòng mười phút. Lúc đó tôi không thấy sợ sệt gì hết, nhưng vì thấy hơi kỳ lạ cho nên tôi vội vã bước lên xe rời nghĩa địa ngay sau khi ánh sáng đó hiện lên chừng hai phút. Tôi lên xe và đề máỵ Tôi đề đến 5, 6 lần nhưng máy vẫn không nổ. Cuối cùng tôi đành ngồi đó trố mắt nhìn vì kinh ngạc. ánh sáng hiện ra trong vòng mười phút thì tan đị Ngay khi ánh sáng biến mất, tôi liền đề thử máy xe một lần nữa thì chiếc xe lại nổ máy được và tôi vội lái ra nghĩa địa liền.



Ðúng một tuần sau, khoảng tám giờ tối, tôi và bạn của tôi (người mẹ của đứa bé) cùng với bà chị của cô ấ y, đang ngồi trong phòng khách xem truyền hình thì tôi thấy chiếc nôi nhỏ, mà chính tay tôi đã chọn mua, đang lơ lửng bay trên không ngang qua phòng khách. Lúc đó tôi cũng không sợ gì cả, vì tôi nghĩ là đứa bé làm. Ngoài ra, vào một đêm giữa khuya khi thức giấc, tôi thấy đứa bé mặc bộ đồ khi chôn ngồi trên một đám mây, ngay dưới chân giường của tôi, bé đã mỉm cười với tôi rồi từ từ biến mất.



Tôi nghĩ tất cả những hiện tượng đó đều là dấu hiệu từ em muốn cho tôi biết rằng đừng có buồn phiền vì cái chết của bé, vì bé đã không còn đau đớn vì bệnh hoạn nữa
587




Các lối tuyên truyền xảo trá làm sao lung lạc được kiến thức loài người, một khi mọi người đã biết đem Chánh Pháp giác ngộ nhau.

Thuở xưa, có một vị quốc vương tên là Cảnh Diện, tánh tình thuần hậu, nhân đức ít ai bằng. Về phương diện chánh trị thì Ngài thi hành những điều lợi ích cho dân chúng, và Ngài thường đem Phật pháp để giáo hóa nhân dân, nên trong thời kỳ ấy trình độ đạo đức của mọi người lên mức khá cao; vì thế từ trong triều cho đến ngoài dân sự đều đặng thái bình an lạc.

Nhưng trong thời kỳ ấy, trong triền còn một vài vị đại thần, tôn thời ngoại đạo, tin tưởng theo bọn tà sư do đó thường tranh luận với nhau; rốt cuộc ai cũng chấp thủ cho sự kiến giải của tôn giáo mình thờ, lý thuyết chủ nghĩa mình theo là đúng cả. Muốn chấm dứt tình trạng đó, nên vua thường suy tính và tìm tòi một mưu chước gì, để cảm hóa những vị đại thần kia trở về đạo giác ngộ cứu cánh của chư Phật, và nhận thấy những sự kiến giảIicủa mình lâu nay là sai lầm.

Thì một hôm, các vị cận thần được lệnh phải đi tìm những kẻ mù từ thuở lọt lòng, đem về cho vua. Ðược tin ấy, các quan trong triều cũng như dân chúng, ai nấy đều sanh nghi: vua sẽ thi hành những điều gì mới lạ chăng?

Sau hai ba ngày tìm kiếm, các vị đại thần dẫn về một tốp người mù. Người nầy vịn người kia, người kia nắm kẻ nọ đi vào sân rồng, trong lòng anh nào cũng hồi hộp, không biết việc sắp xảy đến phước hay họa.

Sau khi nhìn qua tốp người mù, vua liền lớn tiếng truyền cho quần thần hay rằng: "Bổn ý của Trẫm là muốn thử xem mấy người mù này có biết mình dáng con voi ra sao không? Vậy các người sai thị vệ dẫn họ đến chuồng voi, ra lệnh quản tượng kềm voi cho chắc chắn, đặng mỗi người lại gần rờ xem cho kỹ lưỡng, rồi dắt tất cả về đây để phúc tấu. - Nếu kẻ nào tả đúng hình dáng con voi, thì Trẫm sẽ trọng thưởng".

Tốp người mù nghe thế, đều lộ vẻ vui mừng - lòng tự hẹn với lòng sẽ rờ xem thật kỹ càng, và hy vọng phen này chắc chắn sẽ được nhiều tiền bạc! Anh nào cũng tự hào xúc giác của mình rất tinh tế, ý phân biệt của mình rất tinh vi, xưa nay có hề sai khi nào đâu!

Vì thế, khi dắt đến chuồng voi anh nào cũng giành rờ trước; anh thì rờ đụng cái vòi, anh thì rờ nhằm cặp ngà, anh thì rờ đụng cái tai, anh thì rờ nhằm hông, anh thì trúng chân, anh thì rờ đụng đuôi - Anh nào cũng rờ đi rờ lại thật kỹ lưỡng và trong lòng đinh ninh rằng mình đã biết đúng hình dáng con voi.

Xem xong, các vị cận thần dẫn tốp người mù trở lại trước vua để Ngài thẩm xét. Vua thấy vẻ mặt anh nào cũng lộ vẻ hân hoan, liền phán rằng: "Trẫm thấy các ngươi con mắt bóng quáng, vì mù từ thuở lọt lòng mẹ, chỉ nghe người ta nói đi nói lại, chớ chẳng biết hình dáng con voi ra thế nào. Nay tất cả tuy là không thấy, nhưng đã đến tận nơi mà rờ rẫm con voi rồi; vậy bây giờ mỗi người phải tả hình dáng con thú ấy ra sao? Nếu đúng, Trẫm sẽ ban cho nhiều tiền bạc để hộ thân.

Không đợi hỏi lần thứ hai, anh rờ đụng cái vòi mau mắn trả lời:

- Thưa Bệ hạ, con voi hình như chiếc chiếu cuốn tròn!

Anh rờ cặp ngà vội cãi:

- Thế nào? Con voi giống chiếc chiếu cuốn tròn à? Thôi sai rồi chính tôi đã rờ xem kỷ lưỡng. Con voi như cặp sừng trâu!

Anh rờ đụng lỗ tai voi phát cáu:

- Sao? Con voi lại giống cặp sừng trâu? Cũng sai bét! Con voi giống cái quạt! Chính lúc tôi xem nó quạt vào mặt mát rượi mà!

Anh rờ nhằm hông voi không thể nhịn được nữa:

- Các anh mù thật! Con voi mà bé nhỏ giống chiếc chiếu cuốn tròn, giống sừng trâu, giống cái quạt ư? Chính tôi đã ôm sát lấy nó. Con voi như một bức tường bằng phẳng dài đến hai ba thước tây!

Anh rờ trúng chân voi, quơ tay lia lịa phân bua:

- Trật hết! Trật hết! Thôi nín đi, để tôi nói cho mà nghe. Con voi như cái cột nhà mời đúng! Chính tôi ôm thử giở lên không nổi đây nè! Con voi như cái cột nhà mới đúng! Thôi đừng cãi nhau nữa!

Anh rờ nhằm đuôi voi nãy giờ lặng thinh, nhưng bây giờ anh thấy đã đến giờ phút mình cần phải cải chính.

- Thôi các anh ơi, nín đi! Ðể tôi nói cho mà nghe. Nãy giờ các anh nói sai hết. Con voi hình như cây chổi. Chính tôi đã mân mê vuốt ve nó một hồi lâu.

Ðám người mù ấy, ai cũng cho sự hiểu biết của mình về hình dáng con voi là đúng, nên cứ nhao nhao cãi vã nhau mãi, có anh tức giận quá muốn trở gậy phan nhau. Thấy cảnh đó, từ vua cho chí quần thần không ai có thể nhịn cười được, có người cười đến tức bụng, có người cười đến chảy nước mắt...

Vua cười ngất bảo các quần thần: "Các khanh có thấy không? Trong bọn người này, kẻ nào cũng cho sự hiểu biết của mình về hình dáng con voi là đúng. Nhưng thật ra, không kẻ nào nói đúng đặng sự thật của toàn thể con voi. Các ngươi đây cũng vậy, người nào cũng cho tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa mình đã đúng với chân lý; nhưng sự thật chưa có người nào hiểu đặng toàn diện chân lý. Mà chỉ có đức Phật, mới là người sáng suốt giác ngộ được hoàn toàn sự thật vậy...

Các vị quần thần đều tỏ vẻ hổ thẹn cúi đầu.

Nhà vua Cảnh Diệp lập chước mà phá được sự kiến chấp sai lầm của các vị đại thần, và từ đó họ đều một lòng chánh tín Tam Bảo, bỏ hẳn các thứ kinh sách của ngoại đạo tà sư chỉ lo nghiên cứu nội điển của Phật để tu hành, mong thoát kiếp trầm luân sanh tử.


Hết
489




Ðó là một du khách đặc biệt, ông ta thường có mặt ở lăng rất sớm, không qua cửa chính, bởi người bán vé vào thăm lăng gần tám giờ mới làm việc, còn ông, bằng cách nào đó đã đi dạo trên những con đường rợp bóng thông, tùng, sứ, nhãn từ sớm tinh mơ, khi cái hoàng cung u trầm, diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong màn sương. Có khi ông còn làm việc trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt của đêm chưa hẳn qua, ngày chưa hẳn tới. Mắt mở căng, ông cố nắm bắt một chút lạnh lẽo, ẩm ướt, run rẩy, tái xám của thứ ánh sáng ma quái bằng những nhát cọ khắc khoải, bướng bỉnh cho đến lúc tóm bắt được nó trên lụa trước khi nó vuột vào rạng đông.

Khi hoàng cung của cõi chết bắt đầu hiện ra rỡ ràng, diễm lệ dưới ánh dương quang, họa sĩ ngừng tay. Ông ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tĩnh mặc như một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm. "Ta trồng nơi đây nhiều cây để gọi chim về...", vị vua chủ nhân lăng từng ước muốn như vậy ở văn bia. Ðối với họa sĩ, khoảnh khắc ấy thật kỳ diệu. Nỗi đời tan biến và ông đắm chìm trong bản hợp xướng tuyệt vời của các chú chim bé bỏng. Chính giữa lúc ấy ông bỗng nghe một tiếng thở dài, ông giật mình nhìn quanh. Chẳng có ai ngoài ông và lũ chim.

Càng ngày họa sĩ càng cảm thấy ông không chỉ một mình trong sớm tinh mơ. Có ai đó luẩn quẩn quanh ông. Một tiếng chân, một tà áo mơ hồ như ảo giác đã làm ông mất thanh thản. Ðôi khi ông tưởng như nhìn thấy một đôi mắt trong lùm cây trước mặt, một đôi mắt đen hơm mầu đêm, nhìn ông chăm chắm. Bấy giờ ông không làm việc được nữa. Cây cọ vẫn mơn man trên nền lụa nhưng trái tim ông thì đang rình rập. Ông chơi trò cút bắt với một cái bóng. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện, đằng trước, đằng sau... và bao giờ cũng đè nặng lên ông cái nhìn trĩu nặng và nóng bỏng. Thế mà chủ nhân cái nhìn là cô bé mười lăm mười sáu tuổi, một cô bé như bước ra từ một bức tranh cổ với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời, tay đầy hoa sứ, người sực nức mùi thơm ngọt đậm. Ông đang túm vạt áo mầu lục của cô, còn cô thì run rẩy như một cọng cỏ. Họa sĩ bật cười ha hả. Kẻ rình ông và ông rình lại chỉ là một cô bé đứng thấu ngực ông! Buông áo cô ra, ông ngắm cô từ đâu đến chân, lập tức cô bỏ chạy. Vệt cỏ sáng lung linh rồi khuất trong mầu cây. Ông mơ hồ nghe vọng tiếng lục lạc.

Họa sĩ ra đi thật sớm từ ngày gặp cô. Ông ước ao thực hiện một bức chân dung về cô bé lạ lùng kia, cô bé như một mảnh cổ kính vỡ ra từ đâu đó quanh đây. Thức dậy cùng tiếng chuông chùa, ông có mặt ở lăng khi nó chưa tỉnh ngủ. Ông biết ông không chỉ một mình nhưng nếu ông quay lại lập tức ông chỉ thấy một ảo ảnh, một mảng lục non mơ hồ thấp thoáng trong sương. Càng ngày ông càng thiết tha được vẽ ảo ảnh đó. Có lần ông thử vẽ phác cô căn cứ vào khoảnh khắc đối diện lần đầu nhưng ông không thể nhớ nổi. Gương mặt cô nhạt nhòa và ông chỉ phác họa một cái bóng cũng nhạt nhòa như thế dưới cây đại nở đầy hoa, giữa chòm lâu đài, miếu tạ nên thơ. Khi ra về, ông để phác họa lại. Sáng hôm sau, nó vẫn ở đấy nhưng được buộc bằng một dải lụa. Mở ra, ông thấy cô bé đã nhốt mình lại bằng một dãy tường thành lởm chởm gươm nhọn. Thỉnh thoảng, từ những viên gạch rêu phong ló ra một đầu người, khuôn mặt dữ dằn khắc nghiệt. Còn những công trình kiến trúc xinh xắn quanh cô thì bị bôi đen ngòm trông như những nấm mồ, ông sững sờ, cô bé chỉ đứng thấu ngực ông có phải là một cô bé không nhỉ? Tiếng thở dài, rồi bức tranh này nữa! Những gì ông thể hiện hoàn toàn đối nghịch với ông. Chốn lăng tẩm nên thơ dưới mắt ông trở thành một mộ địa thực sự dưới mắt cô - lạnh lẽo, âm u, tàn nhẫn. Ông lại nhìn bức tranh gần hoàn thành trên giá. Lềnh bềnh trong sương, nom nó như được vớt lên từ cõi chết, nhợt nhạt trong ánh sáng yếu ớt rồi dần ửng hồng, rõ nét, rõ ràng khoe với ngày một vẻ đẹp tang tóc mê hoặc, cổ kính yên bình. Ông đã ra đi bao ngày trong sương sớm giá buốt, trong tờ mờ tranh tối tranh sáng để cố bắt kịp khoảnh khắc giao thoa giữa ngày - đêm, sống - chết, vui - buồn... Nhưng bây giờ nom nó chỉ là một tác phẩm cùng - kiểu - với - mọi người, tái hiện một vẻ đẹp được thừa nhận. Còn cô, tại sao cô lại phủ nhận.

Mấy tuần nay, cô đã dám thơ thẩn nhặt hoa sứ gần ông. Thường khi ông vẽ thì cô ngồi chơi với đống hoa rụng. Cô sắp chúng thành một con chim xoạc cánh, một dãy núi, một cây thông...

Ông nói với cô:

- Em sẽ vẽ được đấy.

- Nhưng em không vẽ như ông. Chán chết!

- Em muốn vẽ gì?

- Cỏ.

Họa sĩ lấy quyển sổ phác họa, vẽ cho cô một con đường mờ mịt, khuất lấp sau ngọn cỏ. Cô lắc đầu:

- Cỏ đám cưới kia.

Rồi cô chạy đi và trở về bên ông với đôi tay đầy hoa dại. Cô tung chúng lên cỏ.

Thế là ông vẽ cỏ - đám - cưới. Hoa tóc tiên rực rỡ mầu nhưng thắm, hoa ngũ sắc đỏm đáng. Hoa bâng khuâng mơ màng. Hoa lồng đèn ngộ nghĩnh... Chúng cưới nhau trên cỏ, khiêu vũ, đùa chơi, gối đầu trên cỏ. Hai mươi năm cầm cọ, họa sĩ chưa bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Mầu sắc cứ tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào vào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui trên nền cỏ rạo rực. Họa sĩ như lành bệnh hẳn sau đợt tranh vẽ cỏ. Ông theo cô vào thế giới cỏ bất tận, đầy bí ẩn giàu tưởng tượng của cô. Sau này khi ông mất, người ta tìm thấy rất nhiều tranh cỡ nhỏ vẽ cỏ. Chúng chẳng bao giờ giống nhau và cũng chẳng chỉ mầu xanh. Họ đặt chúng sang một bên, chép miệng: "vớ vẩn".

Ðã đầu đông, trời có những ngày se lạnh, ông vẫn lên lăng, ông lên chơi với cô bé. Giữa họ không tuổi tác, khoảng cách, thời gian. Sáng nay, đứng cách nhau nửa sải tay, ông bàng hoàng nhận ra cô bé lớn nhanh quá. Cô thiếu nữ mười lăm mười bảy hai mươi và bây giờ, trước mặt ông, nom cô như một thiếu phụ héo hon, bất hạnh. Phải vẽ nhanh kẻo không kịp nữa, ông nhủ thầm.

- Này em, tôi muốn vẽ em trên cỏ và sau đó em đặt một cái tên gì đó tùy em. Nhưng phải mau lên, kẻo tôi vẽ bà già mất!

- Thì em "già rồi"! - Cô cười, hé những chiếc răng tựa ngọc.

Thiếu phụ biến mất. Trước mặt ông lại là cô bé, nom như cọng cỏ, một cô bé thơ ngây và xa lạ, cô đơn và lạc lõng, như đi ra từ một câu chuyện xa xưa. Ông bối rối ngơ ngác.

- Khi vui em trẻ, khi buồn em già. Ông đừng để ý.

- Bé như em có chi mà buồn?

- Em chẳng làm được chi theo ý em. Cô xịu mặt.

- Thế em muốn chi?

Cô nói lảng:

- Sáng nay cỏ rét đấy!

- Sao em biết?

- Chúng xanh ra.

- Em có rét không? Em mặc phong phanh quá!

Ông cởi áo khoác choàng lên vai cô. Cô rùng mình. Bàn tay cô như muốn hất ra, nửa như bấu chặt. Cô lắp bắp:

- ấm quá... ấm quá... Em chưa khi mô ấm như thế ni.

- Cho em luôn đó.

- Em không được nhận. Em phải đi đây. Mai ông đến không?

- Nếu em chịu ngồi cho tôi vẽ?

- Nhưng phải sớm nữa kia.

- Sớm quá làm sao thấy em. Ngày mai em có muốn tôi đem gì cho em không? Kẹo, búp bê? Cho em đừng mau lớn quá.

- Không! Em chỉ muốn ra ngoài kia. Cô chỉ tay về phía núi xanh xanh - và... đi với ông. - Em chưa hề đi với người đàn ông nào cả.

- Mai ta đi.

- Em không được phép.

- Trốn!

- Không trốn được.

- Tường thấp lắm. Tôi sẽ đỡ em trèo.

Nhưng cô sợ hãi thật sự. Mặt cô tái mét. Mắt nhìn ngược xuôi. Ông chợt nhớ những đầu người dữ dằn ló ra từ những viên gạch cô vẽ và sự khiếp sợ của cô như luồng gió tạt qua làm ông rùng mình. Ðó là buổi cuối cùng ông gặp cô trên lăng.

Khi cô đi rồi, ông trở về nhà, từ lăng đến chỗ ông ngụ ở làng Dương Xuân Thượng không xa lắm. Người bác già càu nhàu: "Mi là thằng điên. Ði chơi sớm rứa có đi chơi với ma. Ði về sớm rứa có vẽ người chết. Trời đất thì độc địa. Mấy chỗ đó thì đầy âm khí. Vua mô mất cũng hàng chục tá đàn bà con gái theo hầu, suốt đời hương khói...". Người bác bỏ lửng câu nói, vấn điếu thuốc Cẩm Lệ rồi bặt luôn, đứng dậy đi ra vườn.

Ông vào phòng mở tung mọi cánh cửa. Sớm mai phảng phất mùi mít chín cây. Chiếc bàn nhỏ bừa bãi thuốc lá, sơn cọ. Góc phòng có một bức tranh đậy sùm sụp mảnh vải. Ông đến giật tấm vải phủ. Người đàn bà trong tranh trần truồng tắm nắng mai, mắt nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm. Thoạt đầu ông chỉ muốn tái hiện gương mặt người vợ khi bắt gặp nàng trong tay "vị - cứu - tinh". Mắt trừng trừng, những nhát cọ sắc như dao, ông rạch trên mặt vải những đường nét biến dạng của một gương mặt no nê khoái cảm để nó không còn trú ẩn trong tâm thức ông nữa. Mỗi ngày, ông đứng bảy đến tám giờ bên giá vẽ. Nhưng càng vẽ, nỗi căm thù, khinh bỉ càng biến mất. Chỉ còn ông và hội họa của ông. Người đàn bà trong tranh không còn là hình ảnh của vợ ông nữa, đó chỉ là một người nữ đang sống những phút mê đắm trần thế phù du, gương mặt nhăn lại như đau đớn. Một đợt sóng buồn âm u thương cảm trào dâng làm dịu dần những nhát cọ của ông, làm khinh phiêu những sợi tóc rối của người đàn bà, khiến nàng bơi trong làn ánh sáng dữ dội và mê hoặc.

Ngày cuối, khi đường cọ sau cùng, kiệt sức và trống rỗng, ông bàng hoàng nhận ra đó là một tác phẩm đẹp nhất của ông, ông đã trút cạn ở đó nỗi đắng cay và nguồn sinh lực, sự thống khổ và niềm đam mê. Từ lâu ông không làm việc như thế. Từ lâu ông đã vẽ - như ngủ. Ðôi tay tài hoa của ông điều khiển lấy mọi việc. Chúng làm đủ trò ảo thuật trên vải. Kỹ thuật càng tinh tế, tranh ông càng toát ra cái vị vô hồn. Chúng không có những ngóc ngách bí ẩn. Không có nguồn sinh lực tiếp máu cho hình khối, mầu sắc, đường nét. Những điều đó, dường như chỉ mỗi mình ông nhận thấy bởi chúng vẫn thường được ca ngợi, ham chuộng và biến thành những chồng tiền rất dày. Chúng nhìn ông với vẻ ngạo nghễ, xa lạ. Tranh ông ngày càng có mặt ở nhiều gallery trong nước và nước ngoài. Cha đẻ của chúng thì không hề thấy. Chỉ người vợ gương mặt trang điểm kỹ lưỡng như đeo mặt nạ, nụ cười đông cứng chuẩn mực trên môi và một người đàn ông lịch sự, nói tiếng Anh như gió, luôn tràn trề vẻ xót thương và lòng tận tụy trong việc bồi đắp tiền bạc, danh vọng cho ông. Vợ ông gọi hắn là "vị cứu tinh". Càng giàu có, người ta càng thấy họa sĩ lang thang trên đường phố, như một kẻ vô gia cư, áo quần lôi thôi, tóc tai bù xù. Có khi ông biến đi đâu cả hai ba ngày, đám bạn bè thừa thãi lời khen và bia bọt không thể nào thấy được. Chỉ có lũ chim sẻ biết. Ông cho chúng ăn, thì thầm trò chuyện với chúng. Sau hai, ba ngày, ông ló đầu ra, tóc tai đầy mạng nhện, quẳng xuống từ căn gác xép sát mái mấy bức tranh vẽ những mảng trời không yên tĩnh bé bằng manh chiếu, những bức tranh vợ ông cằn nhằn vì bán không chạy. Có lần bà bắt gặp ông ở họa phòng vào hai giờ sáng, ngọn nến trước mặt, lầm thầm trước một khung tranh trắng toát, còn những hình nhân trong bức tranh quanh ông thì như lũ âm binh, vàng vọt, dài thượt, leo lét nhảy múa dưới ánh nến. Họa sĩ cầm nến dí vào chúng với vẻ ghê tởm. Vợ ông hét lên. Từ đó ông trở thành bệnh nhân của bệnh viện tâm thần. Giới hội họa xôn xao bàn tán. Họ gọi đó là số phận thiên tài. Còn "vị cứu tinh" thì được dịp chứng tỏ lòng tận tụy.

Quả từ khi có hắn, tiền bạc vào nhà ông như nước và ngược lại, nước cuốn theo sự đói nghèo, yên bình, đam mê sáng tạo và cả hạnh phúc.

Vâng! Nếu không có "vị cứu tinh" xuất hiện vào một chiều mưa tám năm về trước, ở gallery tẻ lạnh của ông thì bây giờ ông không ở đây mà bên cạnh vợ con hoặc trong cái chòi nhỏ sau vườn, nơi ông đắm chìm trong đơn độc sáng tạo. Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước những bức tranh ế ẩm của người họa sĩ vô danh có vẻ mặt đăm chiêu, khắc khổ. Vốn sống bằng nghề môi giới tranh, anh ta đánh hơi mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này. Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh á Ðông. Ngày hôm đó, họa sĩ đem họ về nhà. Ông lôi ra từ dưới gầm giường, trên mái, trên vách những bức tranh chưa hề được triển lãm. Chúng nóng hôi hổi như những viên hồng ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất. Hai vị khách ngồi chồm hổm, có khi gần như bò để xem tranh. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, chẳng khung, chẳng tên nhưng cõi người nặng trĩu, ngọn gió hư vô xào xạc trong vô thanh cứ làm họ bàng hoàng. Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh liệt ứ trào khỏi mầu sắc và hữu hạn.

Từ đó cuộc sống ông không còn là của ông nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào trong nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái, thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không còn nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng... hoàn toàn xa lạ!

Bây giờ ông ở đây sau khi li dị. Ra tòa vợ ông là kẻ thắng thế vì nghiễm nhiên ông là kẻ suy nhược thần kinh nặng trước mọi người và cả y học.

Thoạt đầu ông định nghỉ ngơi ở Huế vài tuần nhưng ông đã ở nửa năm và không muốn đi nữa. Ông không ngừng ngạc nhiên trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố này. Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của một đại lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã, mái trĩu thời gian vẫn tự tại có mặt bên cạnh những ngôi nhà kiến trúc kiểu mới như một đại diện của quá khứ. Ông lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn, chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Ông lang thang khắp chốn Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh cho ông.

*

Ông bắt tay vào việc thực hiện chân dung thiếu nữ áo lục lúc Huế thật sự bước vào mùa đông. Không gian trắng xóa mưa buồn, lê thê giọt vắn, giọt dài sướt mướt. Trời lạnh như cắt. Người bác già co ro xuýt xoa bên cái lồng ấp nhỏ bằng tre ủ những cục than hồng. Còn ông, ông đóng cửa và bắt đầu vẽ.

Chưa bao giờ ông làm việc khó khăn đến thế. Mấy lần thay lụa, cô vẫn như cái bóng không nắm bắt được. Khái niệm về thời gian và tuổi tác không tồn tại nơi cô. Ông hình dung cô lúc mới gặp, cô thiếu nữ trẻ măng, bối rối thì cô lại hiện trên vải như một thiếu phụ, khóe miệng cay đắng, đuôi mắt li ti vết chân chim. Có lúc người thiếu phụ ấy lại như cọng cỏ mùa xuân xao xuyến, áo mầu lục non, ánh mắt cháy bỏng... Cô hiện ra lung linh và bất định, lúc già, lúc trẻ, lúc buồn, lúc vui, lúc rõ như sờ nắn được, lúc nhạt nhòa mơ hồ như một ảo ảnh đến nỗi ông có cảm tưởng ông bệnh và cô chỉ là một ảo giác của người bệnh. Bức chân dung về cô mấy tuần rồi vẫn dừng lại ở cái nền và y trang. Buông cọ vì bất lực, ông mặc áo ấm và đi lên lăng. Từ sau buổi sáng ấy, ông không còn được gặp cô nữa. Lúc đó đã bốn giờ chiều. Trời thật rét. Chẳng có du khách, cũng chẳng có cô, chỉ có những tượng đá trầm mặc và ngàn thông rũ tóc khóc than. Sự quạnh vắng của cõi chết thật khủng khiếp. Ngồi một lúc ông đứng dậy ra về, và đúng lúc đó, ông trông thấy cô. Cô đứng trầm ngâm bên hồ bán nguyệt, lặng lẽ nhìn về phía núi. Trời lạnh mà cô vẫn phong phanh tấm áo mỏng. Mừng rỡ ông kêu lên. Ông vừa chạy vừa gọi. Tiếng chân ông dội vào hoang vắng. Tiếng gọi của ông loãng trong tiếng thông xào xạc. Ông chạy và cảm thấy khoảng cách giữa ông và cô không ngắn lại. Lật đật ông vấp té. Khi đứng dậy, cô không còn ở đó nữa. Tuyệt vọng, ông tựa vào bờ thành thở hổn hển. Hơi thở phả ra lập tức biến thành khói trắng tan trong lạnh giá.

Tối hôm đó ông bị ốm. Người bác già vừa nấu cháo hành giải cảm vừa lầm bầm gọi ông là thằng điên. Vùi trong chăn, ông mơ hồ nghe tiếng gõ vào cửa kính. Mưa đấy. Ông thầm nhủ. Nhưng không phải mưa. Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt ông đã hoài công tái hiện trong tranh. Run rẩy, ông ngồi dậy. Không kịp bật đèn, đi chân trần, ông đến mở cửa. Một tấm thân mảnh mai, sũng nước đổ ập vào ông. Ông dìu cô đến giường và bật ngọn đèn ngủ. Cô tơi tả như một cành hoa trong mưa gió. áo quần ướt đẫm, tóc bết dính, cái lồng ấp nhỏ trong tay cô cũng tắt ngúm và đầy nước; chỉ có đôi mắt cô là như hai hòn than rực cháy sự liều lĩnh, thách thức. Ông lấy áo quần mình tự thay cho cô. Tay ông chạm vào làn da mịn bóng như sa tanh phảng phất hương trầm. Cô nhắm nghiền mắt, lả đi trên gối, phập phồng thổn thức dưới tay ông. Thay áo cho cô xong, ông kéo chăn lên tận cằm, bước xuống tìm nến. Ông tắt đèn thắp hết nến lên và quỳ xuống bên cô, nâng gương mặt cô trong tay. Bây giờ ông có thể chạm nó như một thực thể, thấy rõ từng nét mày, khóe môi, cả nốt ruồi son bên cánh mũi. Dưới ánh nến, được rửa bằng nước mưa và nước mắt, gương mặt đó sáng rỡ vì hạnh phúc, nồng nàn, trẻ măng. Ông kéo giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục. Ông làm việc mê man. Khi ông rời nó, cô đã ngủ. Trong giấc mơ, cô lắp bắp những lời vô nghĩa đối với ông:
- Tử Cấm thành... xin lửa... đêm đông chí...
Tắt những ngọn nến, ông nằm xuống bên cô.

*

Sáng hôm sau, họa sĩ dậy trễ. Người bác bưng ly sữa đến tận phòng. Ông càu nhàu khi thấy cửa không cài. Cái thằng đãng trí đã để gió lùa suốt đêm. Ông đến lay đứa cháu còn nằm trong chăn ấm. Lập tức ly sữa lai láng trên nền. Ông già mếu máo kêu lên. Nhưng căn phòng rộng trong khu vườn mít chỉ có hai người. Một nằm đó, bình yên như ngủ, thân thể lạnh giá. Một đứng đó, mếu máo cô độc. Bên cạnh họ là bức tranh chưa ráo sơn trên giá. Người thiếu nữ trong y trang mầu lục, cổ đeo kiềng vàng, tươi tắn như chiếc lá mùa xuân. Quanh cô, dờn dợn một biển cỏ. Trước mặt, một rặng núi xanh. Gió lạnh tạt vào phòng, gờn gợn bức tranh lụa. Người đàn ông già kinh hoàng dụi mắt. Ông thấy một cái bóng nữa bên cô, nhạt nhòa, cao lớn. Cả hai sóng đôi chạy về phía núi.

Nhận được tin ông mất, người vợ cũ và "vị cứu tinh" ra Huế ngay lập tức. Họ không để ý người chết. Họ để mắt tới những bức tranh nhất là bức tranh thiếu nữ áo lục. Họ gói ghém chúng cẩn thận. Chúng sẽ theo họ về bằng máy bay.

Khi hai người thận trọng tháo gỡ giấy bọc để trình bày với giới mua tranh kiệt tác cuối cùng của họa sĩ tài ba, họ kinh hoàng nhận thấy thiếu nữ áo lục đã mất mặt. Gương mặt diễm lệ, tươi tắn dường kia chỉ còn là một khoảng trống không đường nét, không mầu sắc, một khoảng trống thật tệ hại trong bức tranh đáng lẽ thật toàn bích.
599




3 dấu hiệu nguy hiểm của tình yêu


Khi bạn thật sự bước vào quan hệ yêu đương và cả hai đều mong muốn tiến xa hơn nữa, dĩ nhiên bạn cần có thời gian để tự điều chỉnh lẫn nhau. Một số cặp do mâu thuẫn trở nên trầm trọng không giải quyết được, thường dẫn đến chia ly. Nếu bạn thật sự quan tâm đến mối quan hệ này, mong muốn nuôi dưỡng và kéo dài nó, bạn cần thiết lập những phương pháp chăm sóc và bảo vệ đúng đắn cũng như có những tư tưởng tích cực và dĩ nhiên mọi thứ phải được xây dựng trên một tình yêu chân thật.


1/ Sự hy vọng hão huyền: Bạn đừng ảo tưởng rằng có thể thay đổi được hoàn toàn chàng/nàng, hoặc gò ép mọi thứ theo ý bạn. Chỉ duy nhất chính anh ấy/cô ấy tự nguyện thay đổi để phù hợp với cả hai và nhận thấy rằng, sự thay đổi này là điều cần thiết. Về phía bạn có sẵn lòng chấp nhận cả những khuyết điểm của nhau không? Tình yêu là một sự dàn xếp, thỏa hiệp của cả hai bên và hoàn toàn không có sự khuất phục, nô lệ hay phục tùng. Một khi vấn đề, khuyết điểm của đối phương trở thành nghiêm trọng thì không cách nào bạn có thể mong mỏi người ấy thay đổi được, trừ khi người ấy tự giác. Nếu không, bạn nên có những phương pháp đề phòng và bảo vệ cho chính mình.


2/ Thiếu vắng sự chăm sóc và những buổi nói chuyện thẳng thắn: Cho dù bạn bận rộn hay mệt mỏi đến đâu đi chăng nữa, sự thiếu vắng quan tâm, chăm sóc, lắng nghe, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng cũng như những lo lắng, hoảng sợ, đau buồn... của nhau là một điều nguy hiểm và đáng cảnh báo cho mối quan hệ của bạn.


Ðôi khi một người luôn tránh né việc thảo luận cùng nhau và người kia luôn thấp thỏm lo sợ một điều xấu xảy ra cho hai người. Tình yêu sẽ mất dần đi theo ngày tháng và một lúc nào đó bạn nhận ra sự sáo rỗng hoàn toàn của nó. Nếu bạn thật sự muốn sự phát triển lâu dài và bền đẹp của tình yêu bạn, sự cần thiết phải luôn bảo vệ, chăm bón để tình yêu ra hoa kết trái. Cần phải có những buổi nói chuyện thẳng thắn chân thật, nói cả về những điều tốt lẫn tồi tệ nhất, bộc lộ hết tâm tư, nỗi niềm của mình, chia sẻ ý kiến của nhau, thông cảm và chấp nhận.


3/ Thiếu sự tôn trọng: Bạn sẽ không bao giờ có được sự thương yêu, quan tâm trìu mến của chồng/vợ bạn nếu như bạn cứ đăm đăm điều khiển họ, quấy nhiễu, gây ưu phiền, đưa ra tối hậu thư, yêu sách, đòi hỏi mang tính bắt buộc. Tóm lại, bạn cần tránh việc điều khiển mọi hành vi của chàng/nàng một cách tôn trọng, bạn không có quyền quyết định cuộc đời của họ, mà chỉ góp ý hoặc đưa ra phương hướng, cách giải quyết


Nạn nhân của sự chèn ép vô lý này nhất định một lúc nào đó họ tự đứng dậy, phản kháng và sẽ chứng tỏ họ là ai và họ có thể làm được gì để bảo vệ lòng tự trọng của mình. Mối quan hệ lúc này chẳng khác gì một thảm họa. Khi tranh cãi tránh bày tỏ thái độ thất vọng, khinh khi, chế nhạo, mất lòng tin với đối phương, nếu bạn không muốn phá hủy và gieo vào trí nhớ chàng/nàng những hình ảnh, kỷ niệm không chấp nhận được. Nếu gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề, cả hai nên tìm một chuyên gia tư vấn.


Hãy luôn xây dựng, nuôi nấng và bảo vệ tình cảm của mình bằng mọi nỗ lực mình có được. Có ổn định về tinh thần và hạnh phúc, bạn mới có thể thực hiện thành công những việc lớn hơn.

519




Có một chàng ngu kia sinh được đứa con trai, chăm chút thương yêu như ngọc như ngà. Một buổi sáng anh chàng đi ra chợ sớm, ở nhà lửa bốc cháy nhà và người ta bồng đứa con anh chạy mất, lúc trở về thấy nhà cháy, anh không tiếc, anh chỉ cuống cuống lên khi không thấy con.

Một người láng giềng ức đoán chỉ vào thây của một kẻ bất hạnh đã cháy thành than và bảo: "Con anh chết cháy đây rồi". Thế là anh chàng tin ngay là thật, khóc than kể lể khôn xiết, rồi may một cái túi vải vuông bỏ nắm tro tàn vào đó mang luôn bên mình không lúc nào rời. Rồi cứ đinh ninh rằng con mình đã chết cháy, và nắm tro bên mình là xác con, không biết con mình hiện giờ đang còn sống.

Một buổi kia được thả, đứa con về gõ cửa kêu cha. Anh chàng buồn quá đóng cửa ngồi trong nhà, nghe gõ cửa hỏi vọng ra:

- Ai gọi đó?

- Con đây.

- Con, tôi đâu dám! Con tôi chết đã ba tháng rồi.

- Không, con còn sống đây mà, mở cửa cho con vào!

- Láo, cút đi! Con tao đã chết, mày là ai, đến đây nhận hảo thế? Cha con gì?

Ðứa con nằn nì ngoài cửa mãi, người cha ngồi trong nhất định không mở cửa. Cuối cùng nó đành khắc khoải ra đi. Thương hại cho anh chàng! Cha con không nhận, lại nhận bị xương khô!

- Người ngu tự biết mình ngu, nên biết người ấy có trí;

- Người có trí tự cho là có trí, nên biết người ấy ngu nhất trên đời.

- Người ngu cố chấp sự hiểu biết của mình là đúng, nên không bao giờ chịu thừa nhận những điều hiểu biết của kẻ khác.  Vì thế, không bao giờ họ đạt đến được chân lý.


Hết
479




Sau một ngày làm việc bình thường, nhà vật lý Sophie B. trở về nhà và gặp tai nạn giao thông. Cô bị thương nặng, phải chuyển vào phòng hồi sức cấp cứu. Sau này cô nhớ lại: "Đột nhiên, tôi nhìn thấy mình nằm dài trên giường cạnh bác sĩ và y tá. Lúc ấy, tôi đang ở trên cao, tựa lưng vào trần nhà. Tôi nhìn thấy cả bụi phía trên đèn chiếu".

Theo lời kể của Sohpie B., cô cảm thấy như bị rơi vào đường hầm tối đen và đầu bên kia chìm ngập trong luồng ánh sáng kỳ lạ sáng hơn ánh nắng nhưng không gây chói mắt. Thế rồi cô hồi tưởng cuộc sống đã qua, nhớ từng sự kiện nhỏ hoặc tưởng đã quên, nói chuyện với nhiều người rất thân quen... Sau đó, cô nghĩ đến con cái và mẹ đang bị bệnh nên quyết định nhập vào xác trở lại. Lúc ấy, cô cảm thấy đau khủng khiếp khắp toàn thân. Nhiều năm sau, Sophie B. chỉ dám kể lại lần xuất hồn ấy sau khi đã đọc được nhiều bài viết nói về hiện tượng này.

Các nhà tâm lý học và các bác sĩ gọi trạng thái xuất hồn của Sophie B. là kinh nghiệm cận kề cái chết. Theo một cuộc thăm dò của Viện Gallup, 15% dân Mỹ đã từng sống qua trạng thái này. Số người xuất hồn rồi quyết định quay trở lại thế giới loài người kể lại cảm giác có khác nhau nhưng vẫn còn nhiều điểm chung nhất.

Các nhà khoa học nghiên cứu về kinh nghiệm cận kề cái chết đã lập ra những diễn tiến tiêu biểu của hiện tượng này như sau: cảm thấy thoát ra khỏi cơ thể, đi qua một đường hầm hoặc nơi tăm tối, có cảm xúc mãnh liệt, nhận ra luồng ánh sáng huyền ảo hay giọng nói kiểu như "giờ của bạn chưa tới", gặp người quen hay tiên thánh, cảm thấy rất sáng suốt, hồi tưởng dòng đời diễn tiến nhanh, đạt đến mức giới hạn nào đó, quyết định quay trở lại cơ thể và cuối cùng nhập vào cơ thể.

Tùy theo người, chuyện kể về hiện tượng này có khác nhau về chi tiết. Trẻ con không gặp thần thánh gì ở cuối đường hầm mà thường gặp bạn bè, thầy cô, cha mẹ... Trong phần lớn trường hợp, người đã từng xuất hồn thường tỉnh dậy trong trạng thái khỏe khoắn, nhưng cũng có lúc hoảng sợ không rõ do nhìn thấy "hỏa ngục" hay cái chết. Muốn biết xem kinh nghiệm cận kề cái chết có xảy đến cho bất kỳ ai hay không, cần phải so sánh nhóm người suýt chết nhưng chưa trải qua hiện tượng này và nhóm người đã trải qua trong những điều kiện giống nhau giữa hai nhóm. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được giải quyết vì ít ai để tâm nghiên cứu.

Thông thường, người đã từng xuất hồn là bệnh nhân nằm trong phòng hồi sức cấp cứu hoặc phòng mổ nên các nhà khoa học nghĩ rằng có thể có một số loại dược phẩm tác động đến não gây nên hiện tượng này. Cho đến thập niên 1980, các bác sĩ thường sử dụng loại thuốc gây mê mạnh Kétamine để gây mê trẻ em, người bị bỏng khi cần cấp cứu. Kétamine sẽ khiến cho bệnh nhân cảm thấy tách rời khỏi cơ thể nên không cảm thấy đau khi chịu phẫu thuật. Khi nghiên cứu thêm về Kétamine, nhà tâm thần học Karl Jansen người Anh phát hiện Kétamine bám vào cơ quan thần kinh thụ cảm N-méthyl-Daspartate để ức chế và gây nên trạng thái như xuất hồn. Ngoài Kétamine, các nhà khoa học còn nghi ngờ các phân tử endorphine là nguyên nhân tạo cảm giác khoan khoái, khả năng hồi tưởng cùng lúc nhiều kỷ niệm đi kèm theo trạng thái xuất hồn. Nhà tâm thần học Meduna đã từng thí nghiệm cho nhiều người hít hỗn hợp khí oxy và carbonique. Trạng thái thiếu oxy hoặc hấp thu quá nhiều khí carbonique sẽ khiến cho một số người thấy đường hầm, ánh sáng, nhớ về kỷ niệm và cảm thấy thoát ly khỏi cơ thể. Hiện tượng này thường xảy ra nơi nạn nhân bị mất quá nhiều máu, người bị chết đuối ở phút lâm chung và người mắc chứng động kinh.

Ngay từ thập niên 1950, bác sĩ phẫu thuật thần kinh Wider Penfield đã từng thí nghiệm dùng điện cực kích thích thùy thái dương của một số bệnh nhân còn thức và họ đã cảm thấy như xuất hồn khỏi cơ thể. Ở Pháp, bác sĩ Patrick Chauvel ở Bệnh viện thần kinh Rennes đã định vị được một cụm neurone thần kinh giữ nhiệm vụ tạo ra trạng thái mơ nơi người mắc chứng động kinh, chỉ có điều người bị động kinh thường hoảng sợ, buồn rầu, cô độc trong khi người xuất hồn lại mang cảm giác an bình hơn.

Bác sĩ thần kinh Michael Persinger người Canada còn quan sát thấy người nào có thùy thái dương hoạt động không ổn định (có nghĩa là có khuynh hướng mắc chứng động kinh) lại dễ sống trong trạng thái xuất hồn hơn người khác và chấn thương não ít quan trọng đôi lúc cũng gây nên trạng thái xuất hồn. Để giải thích cảm giác bước vào đường hầm, nhìn thấy ánh sáng chói lòa nơi người đã xuất hồn, nhà tâm lý học Suzanne Blackmore người Anh cho đó là do hệ thống thị giác bị rối loạn, phát sinh từ tình trạng thiếu oxy hoặc rối loạn các chất hóa học trong hệ thần kinh. Lúc ấy, các giác quan (mắt, tai, mũi, da...) không còn thông tin được với vỏ não nên vỏ não tự phát ra nhận thức. Chính vì vậy, người xuất hồn nhận thấy luồng sáng mạnh và huyền bí khác với ánh sáng thông thường.

Như thế cho đến nay, phần lớn các đặc điểm của kinh nghiệm cận kề cái chết đã được giải thích rõ bằng luận chứng sinh lý học hợp lý. Dù vậy, những người đã từng xuất hồn khó chấp nhận các luận chứng này mà cứ tin rằng có thế giới bên kia, có thiên đàng, tiên Phật... Niềm tin của họ mãnh liệt đến nỗi sau khi từ cõi chết trở về, đột nhiên họ sống khác trước, sùng tín hơn, biết hy sinh hơn, nhân ái hơn và hầu như không còn sợ cái chết nữa.


user posted image

595




Cha Sơn là một quân nhân thời chiến sau khi miền nam bị giải phóng Cha Sơn bị đi học tập cải tạo lúc đó sơn tròn 8 tuổi cái tuổi còn qua nhỏ để nhận thức nổi mất mát của gia đình sơn chỉ biết hỏi Mẹ là Cha đi đâu vậy cứ lần những câu hỏi thơ ngây đó đã vô tình làm cho Mẹ buồn và khóc rất nhiều nhưng chỉ 3 năm sau khi sơn tròn 12 tuổi thì đã nhận thức được và không còn hỏi nữa mà con phụ mẹ làm những thức ăn mà Cha sơn thích để theo mẹ vào trại cải tạo thăm cha cứ thế mỗi năm Sơn chỉ gặp cha được một hai lần vào mùa hè của năm 1980 là lần thăm cuối cuối của sơn gì ít lâu sau Mẹ và Sơn nhận được hung tin cha sơn bi bệnh mà chết mà bọn cai tù thiệt là ác ngay cả xác cũng không được nhận về chôn mà họ chi cuống vào bằng chiếc chiếu rồi đào đại một cái lổ rồi quăng cha sơn xuống nhưng quăng một xác chết của một loài thú hoang xong rồi phủng bằng mặt đất ít ngày sau khi mẹ sơn và sơn đến nơi mặt dù ngoài trời miền bắc giá lạnh của mùa đông
hai mẹ con van lạy bọn cai tù cho họ biết nơi chôn cha của sơn như họ như là loài quỹ không có linh hồn không lòng thương hại mặt cho Sơn và mẹ lạy lụt đến đâu họ cũng như không biết không hay cuối cùng có một người dân ở gần đó cảm thấy thương và đã chịu dẩn hai người đi thăm khi đến nơi chỉ thấy một bãi đất hoang không biết nơi chôn cha là đâu Me và Sơn đành thấp vài nén hương khấn lạy xong rồi về sau khi về đến nhà mẹ sơn vì đau buồn mà bệnh và gia đình sơn kinh tế bế tắc cũng nhờ Mẹ Sơn ngày thường buôn bán cũng để đành một ít và sơn buổi sáng đi học còn buổi chiều phải đi bán báo và giấy số để kiếm tiền trong khoãng thời gian 4 năm vừa nuôi mẹ bị bệnh vừa phải để dành tiền để thi vào đại học thời gian cũng mau quá mùa thi đã đến sơn nạp đơn để thi sơn ngày ngày vẫn ôn bài thi và đi bán báo đơi thông báo để vào trường thi thì hởi ơi thông gởi về nói là Sơn là con của ngụy quân nên không đủ tiêu chuẩn thi vào đại học thế là giấc mộng bị tan dở mẹ sơn biết được con mình thích học nên đã tìm cách cho con đi vượt biên để mong sao con mình tìm được tương lai tốt nhưng sơn không muốn đi vì sơn vốn thương mẹ và sơn cũng có người yêu nên sơn không muốn đi nhưng bao nhiêu lần khuyên của Lan người yêu của Sơn và Mẹ nên sơn quyết định ra đi ngày sơn đi trời u ám và sắm sét rất nhiều như báo một đềm hung nhưng đã đóng tiền rồi nên sơn ra đi khi thuyền của sơn vừa rời khỏi đất liền thì bị bọn công an biên phòng phát hiện họ rượt theo và nổ súng vào thuyền sơn tất cả mọi người hốt hoãng vì mạng thuyền trúng đạn và nước vào quá nhiều cuối cùng thuyền sơn đã chìm dần vào đái biển mang theo sơn và hơn 100 người khác trước khi chết sơn có nguyện rằng nếu trời có thương cho xác của sơn trôi về quê như lời nguyện xác của sơn theo sóng biển trôi vào đất liền và theo dòng nước về đến quê của sơn và đêm hôm đó Mẹ sơn đã được sơn báo mộng rằng " Mẹ ơi con lạnh quá mẹ ơi mẹ kêu người ra đâu sông đón con về " cùng lúc Lan cũng được sơn báo mộng " Lan anh đã chết rồi từ nay mẹ anh nhờ em châm sóc ngày mai đây người ta sẽ đưa anh về anh thiệt lạnh quá" như lời con kêu gọi người mẹ già xấu số lại phải mất đi một người con và vì đau khổ tột cùng bà đả chút hơi thở cuối cùng kể từ đó nhà của sơn người ta thường thấy có hai mẹ con của sơn trong đó con cân nhà thì lúc có đèn lúc không thĩnh thoãng người ta còn nghe thấy tiếng khóc nức nở của mẹ sơn nữa ai nấy trong xóm đều sợ mà dọn nhà đi duy nhất có nhà Lan là không sợ cha, mẹ của Lan còn động viên con làm bàn thờ cúng và vang váy từ đó họ không còn xuất hiện nữa.
594


Powered by Blogger.