Ông Khoa cuối năm 1999 quyết định về quê hương một chuyến trước khi thế kỷ 20 chấm dứt. Ông tuổi đời đã cao, chỉ năm năm và vài tuần nữa là đã đạt tới tuổi "nhân sinh thất thập cổ lai hy". Bà Khoa, thua ông 10 tuổi, người bạn đời bao nhiêu năm của ông đã mất năm rồi trong một tai nạn giao thông. Bà ấy thực sự là người vợ thứ hai của ông, chứ bà cả người mà ông đang trên đường về nước thăm vẫn còn sống trên đất Bắc. Năm 1954, khi đất nước chia đôi, lúc ông đang hai mươi, ông từ Hải Phòng vội vã lên tàu vào Nam bỏ lại bà cả và đứa con trai nhỏ dại ở lại Nam Định.

Không ai hiểu ông hơn bà Hai. Tính ông lăng nhăng thuở xưa, lúc ông còn bơ vơ độc thân tại chỗ, bao lần bà đã biết nên bà tuyệt đối cấm ông dây dưa với người này người nọ từ khi bà nhận lấy ông làm chồng năm 1960 lúc bà vừa đôi mươi. Mười lăm năm chung sống với bà Hai ở quê hương, ông bị kềm tỏa ghê gớm lắm nên chẳng sơ múi được gì trừ những lần đi công tác ở những tỉnh lỵ xa. Bà Hai khôn ngoan và đanh đá lắm, ông có giận cũng không làm gì được, vì bà Hai khéo ăn khéo nói, giao thiệp rộng và chơi trội hơn cả ông.

Có lần nào đó năm 70 hay năm 71 gì đó, một cô thư ký trẻ đẹp làm tại văn phòng ông chừng đâu một tuần, ông chưa kịp trở mòi dê dẫm gì hết thì bà Hai đã gặp. Bà chào hỏi cô thư ký ân cần và mời mọc về nhà ăn uống chuyện vãn chị chị em em như ruột thịt trong nhà thì của có treo trước miệng mèo ông cũng đố dám leo meo. Bà lại đề bạt cô thư ký trẻ lên làm cho ông tổng giám đốc, thế là vừa được lòng giám đốc lại vừa có công với cô thư ký, thế có phải bà hơn cả cái ghen của Hoạn Thư không chứ!

Từ lúc rời trại tỵ nạn Pendleton, tiểu bang California, ở Mỹ cuối năm 1975, phần thì tuổi đã ngoài tứ tuần, con cái với bà Hai còn nhỏ, ông đầu tắt mặt tối đi làm không kịp thở thì lấy đâu mà bay với bướm. Cái tính nguyệt hoa của ông, không biết sao lại được trổ mòi qua hai cậu con trai qúi của ông khi chúng tới tuổi 17, 18 gì đó! Bà Khoa buồn lòng lắm, cứ nhắc nhở răn bảo chúng:

"Các con phải đàng hoàng, còn làm gương, để phúc lại cho ba đứa em gái và con cái sau này chứ! Chúng mày chẳng nghe đời cha ăn mặn đời con khát nước sao?"

Ông Khoa thì cười xuề xoà khi có ai nói chi:

"Hơi gì mà lo, tuổi trẻ chúng ăn chơi thì kệ chúng! Miễn đừng phá gia hại sản là được rồi! Bọn nó giống tôi hồi xưa! Đấy coi đi, tôi bây giờ cũng chăm lo cho gia đình, chứ có bỏ bê gì đâu!"

Bà Hai trách ông:

"Ông không lo dạy con thì thôi! Lại cứ nói lăng nhăng đổ dầu cho chúng làm bậy! Thử tưởng tượng ba đứa con gái của mình kia kià, mai mốt 15, 16 tuổi lỡ có gì thì sao?"

"Thằng nào láng cáng tôi đập gẫy cẳng chứ mà dám đụng đến con gái tôi!"

"Đấy ông xem, con trai ông lung tung, thì ông bao che! Con trai người ta đụng đến con gái ông thì ông đòi đả thương thiên hạ! Rõ thật là thiên vị, chẳng có lề luật gì nhất định!"

Ông Khoa nghe vợ lý luận cứ trớ ra mà nhìn! Ông biết bà khôn ngoan đáo để lắm, chẳng gì bà cũng cầm chân trói tay ông bao nhiêu năm trời. Cửa khoá giờ đã mở từ khi bà mất! Chỉ vài tuần nữa ông đã 65! Ôi hơn 64 năm qua, ông làm lụng vất vả chỉ được ăn chơi bồ bịch đâu chừng sáu năm từ lúc vào Nam năm 54 tới ngày ông chui vào rọ của bà Hai, thỉnh thoảng mới thoát rọ những lần đi xa, thế mới có tiếc không! Mỗi người con gái, mỗi người đàn bà là một kho tàng vô giá mà ông là người thích sưu tầm, thích làm giàu tìm kiếm những kho tàng sống động đó.

Khi bà Khoa mất, ông để tang bà chỉ đúng 49 ngày thay vì ba năm hay ít ra cũng phải chờ qua ngày giỗ 100 ngày. Sau buổi giỗ 49 ngày, đám bạn già ngà ngà say rủ rê ông ra quán Ô Lớn giải trí. Ôi chao, sao mà bắt ý ông quá! Bao năm qua, ông tò mò muốn tìm hiểu mà phần bận rộn phần bà Hai kềm kẹp ông chẳng dám to te. Đám con gái vóc dáng như người mẫu từ từ theo kích động nhạc thả rơi những mảnh áo quần, trở thành những bức tượng khoả thân linh hoạt nhún nha nhún nhẩy trông đã con mắt. Ông nghe lời xúi dục của đám bạn già, ngậm những tờ giấy 1 Mỹ kim ngồi gần sàn nhảy đợi chờ. Từng cô Á có, Âu có, đen có, trắng có, nâu vàng đầy đủ cả, hơ hễnh khoe của thấp của cao sát mặt ông! Những bông hoa lạ nhún nhảy từ từ hạ thấp xuống đưa tay ôm lấy đầu ông rồi ghì mặt ông sát vào da thịt, hai má ông chạm hai mặt trong của đôi trái cam, trái bưởi có khi là của thật, có khi là của giả si-lic, nhưng của nào cũng làm ông đê mê muốn chết. Rồi từ đó cuối tuần nào ông cũng đi thăm các em, riết rồi quen mặt quen tên. Nhưng xem thì xem vậy thôi, chứ ông chẳng vớ vẩn được gì, chỉ làm ông thêm bức rức. Con lợn lòng gặp cám treo heo nhịn cứ nhao nhao lên. Những lần cao hứng, ông chọn người ông ưng ý nhất nhảy riêng cho ông ở một góc mờ mờ càng làm ông bức xúc thêm. Những cú rà sát thân mật của các cô càng tạo thêm lòng dục, mà chẳng giải toả được lòng háo hức xuân xanh của ông.

Ở tuổi ngoài sáu mươi của ông, phải tiết chế tu nhân tích đức thì hơn, giá mà ăn chay trọn đời tưởng niệm người vợ chung thuỷ xấu số đã ra đi vĩnh viễn thì đẹp biết chừng nào. Ngọn lửa âm ỉ cháy. Ông tiếc cái thời oanh liệt đã bị bà Hai kềm toả, cơm canh trong nhà đầy đủ, nhưng chẳng phở phiếc bên ngoài gì được. Đến lúc đại thọ sáu mươi của ông, bà Hai treo chén ông luôn, bảo ông tu tại gia, phải tịnh dưỡng kẻo đau tim bởi vì ngày làm tám tiếng, lao tâm lao lực, tập thể dục đều chi, mà ấm ức thay chỉ số áp huyết ông cao gần 140 gì đó, chứ thể lực ông còn khoẻ mạnh. Bà sợ ông chết, vậy mà bà đi trước. Bà chẳng có gì sai trái cả, chỉ có một cái là khó khăn ràng buộc ông tí thôi. Phải bà như người khác, không chừng ông chẳng sợ mà phải khép mình sống thuận hoà tới già.

Hai cậu con trai và ba cô con gái của ông nhờ bà Hai khéo léo đã yên bề gia thất, đứa nào đứa nấy cũng có nghề nghiệp và nhà cửa đâu vào đó rồi. Tiền bảo hiểm nhân thọ của bà Hai, ông cũng dành một nửa để chia cho chúng đồng đều. Còn một nửa, ông giữ lại cho ông, cho người vợ cả và đám con cháu vừa liên lạc lại được năm rồi, nhờ ông đăng báo cáo phó ở quê ông bên nhà cũng như ở thành phố ông sống ở Hoa Kỳ lúc bà Hai từ trần. Ông thầm cám ơn bà Hai đã biết tính toán lo xa, dạy dỗ con cái nên người, chứ cứ như ông, đời cha ăn mặn, đời con ăn mặn hơn! Không chừng không có nước mà uống!

Ông về thăm quê hương chuyến này, một là thăm gia đình bà Cả, hai là định giải quyết vấn đề "khí tồn tại não" chi chi đó! Đám bạn già kháo láo với nhau những màn xào khô, xào ướt nghe mà phát thèm. Kỳ này ông về với s%E
12030






Mỗi ngày, cứ gần ba giờ chiều, ông Tuyên dọn dẹp bàn giấy ở sở làm cho gọn ghẽ một chút, rồi đứng dậy đi ra. Biết thói quen của ông rồi nên chẳng ai hỏi gì, vì các người cùng làm việc với ông biết ông đi đón các con ông đi học về. Giờ này, coi như là giờ nghỉ trưa của ông. Mọi người mỗi ngày đều có 1 giờ nghỉ trưa, một số chỉ lấy nửa giờ thôi để ra về sớm. Ông Tuyên lại lấy trọn hai giờ vì ông phải đưa hai đứa con ông về nhà và chờ vợ ông về coi sóc các con thay vì gởi con nơi nhà giữ trẻ. Việc ấy làm ông phải trở lại làm việc thêm mấy giờ nữa, thành thử ngày làm việc của ông giống như dài hơn 8 tiếng bình thường mỗi ngày. Bà Tuyên mỗi sáng rời nhà từ 6 giờ rưỡi đến 4 giờ rưỡi chiều mới về tới nhà là lúc ông trở lại sở làm của ông. Ông thích vậy vì ông có giờ gần gũi với các con ông và có giờ nói và dạy thêm tiếng Việt cho các con ông hơn. Ông muốn các con ông dù sống ở nơi nào cũng nhớ về nguồn cội của mình.

Buổi sáng hôm nay, ông rất cảm động khi thấy bé Quân đưa cho chị nó trọn vẹn 5 đồng duy nhất của mình mà chẳng đòi hỏi điều gì. Ông thắc mắc không biết bé Mai, đứa con gái nhu mì của ông, sẽ làm gì với số tiền ông và bé Quân đã cho. Mười bảy đồng chẳng có là bao, chưa đủ cho ba cha con ông ăn ở các tiệm ăn nhanh ở Mỹ như McDonald, Burger King... Để cho con mua sách đọc thì có giá trị lâu dài hơn. Ông vừa lái xe đến trường bé Mai vừa suy nghĩ về cách đối xử thương yêu nhau của các con ông. Ông cầu mong chúng nó lớn lên vẫn tiếp tục thương yêu đùm bọc nhau.

Ông rẽ vào lối vào trường bé Mai và tạt sát vào lề đường, với tay sang cửa xe sau bên phải để mở cửa xe cho cô con gái. Cô bé vừa chào Bố vừa mở hẳn cửa xe, bỏ chiếc vĩ cầm xuống sàn xe, rồi lách mình ngồi vào ghế xe sau. Ông Tuyên mỉm cười chào lại rồi hỏi:

-- Hôm nay có gì hay ở trường? Con đã mua được gì rồi nào?
-- Dạ con mua một trò chơi điện tử cho Quân thôi\!

Ông Tuyên nhướng mắt nhìn con trìu mến hỏi:
-- Sáng nay con nói con muốn mua sách gì đó được ba giải thưởng văn học mà!
-- Dạ, con định mua cuốn đó, nhưng con thấy trong thư viện của trường có cuốn đó nên con đã mượn để đưa về đọc thôi Ba ạ.
-- Thế cũng được, đọc xong con thấy thích và muốn mua để đọc lại thì mua sau.

Ông Tuyên chờ cô con gái gài dây nịt an toàn xong thì lái xe vòng ra đường. Hai cha con đang trên đường đi đón bé Quân ở trường tiểu học gần đó thì bé Mai hỏi:

-- Bố ơi, Việt Nam nghèo lắm hở? Hôm nay trong giờ Lịch Sử thầy giáo con nói Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới.
-- Đúng vậy. Nghèo đến nỗi những đứa trẻ như con không được cắp sách vở đến trường con ạ.
-- Bố ơi, con mua trò chơi cho bé Quân giá 7 đồng. Số tiền 12 đồng Bố cho con còn lại 5 đồng, Bố cho con gởi về cho trẻ em Việt Nam nhé!

Ông Tuyên xúc động. Hằng năm ông vẫn dành dụm ít tiền gởi về Việt Nam cho thân nhân và các hội từ thiện nhưng chỉ giữa ông và bà biết với nhau thôi, chứ không muốn con cái mình bị mặc cảm là quê hương của bố mẹ chúng nghèo đến nỗi nhiều người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc và nhiều trẻ em không được đến trường. Ông bà đã sai lầm, không ngờ trái tim trẻ thơ lớn hơn là mình tưởng tượng.

Ông dừng xe trong bãi đậu bên kia đường của trường tiểu học. Hai cha con mở cửa xe cầm tay đi bộ và băng qua đường đón bé Quân. Bé Quân, túi sách trên vai, áo lạnh không gài mặc dù trời lạnh chạy ào tới ôm chị và bố. Ông Tuyên nhẹ nhàng nói:

-- Trời lạnh, sao con không cài áo lạnh vào?
-- Con không lạnh Bố ạ

Thằng bé trả lời rồi quay sang bé Mai hỏi:
-- Chị mua được gì không?
-- Được, chị mua được một món quà bí mật cho em!
-- Cái gì thế?
-- Bí mật mà, ra tới xe thì biết!
-- Chị xài hết tiền em không?
-- Không, tờ giấy năm đồng đó của bà tiên răng cho em còn mới toanh, chị không nỡ xài, để dành cho em giữ. Chị mua bằng tiền Bố cho.
-- Tiền Bố cho làm sao đủ để mua quà cho em?
-- Chị không mua cuốn sách chị thích, chị mượn thư viện trường rồi! Chị còn dư cả năm đồng, nhưng chị xin Bố cho chị gởi về cho trẻ em Việt Nam. Hôm nay chị học nói Việt Nam là một nước nghèo.
-- Có nghèo như Phi Luật Tân, nước của Vicky mà bố mẹ gởi tiền mỗi tháng giúp đỡ không?
-- Chắc nghèo hơn, bố nói có nhiều trẻ em không được đi học phải đi làm thuê đó!

Bé Quân ngẩng mặt nhìn ông Tuyên:

-- Thật vậy hở Bố?
-- Ờ thật vậy, để hôm nào, Bố tìm hình ảnh Việt Nam cho các con coi.
-- Vậy Bố cho con gởi 5 đồng của con cho họ luôn nha!
-- Được, Bố sẽ gởi cho các con. Sự thương yêu nhau và lòng quảng đại của các con làm bố xúc động lắm. Bố mẹ rất sung sướng có những đứa con giàu lòng thương người như vậy. Về nhà, Bố sẽ cho các con coi hình và thư từ các hội từ thiện giúp đỡ người Việt Nam như hội KMF, như Hội Tình Thương để các con mỗi đứa chọn một hội gởi tiền hằng năm. Bố mẹ sẽ bỏ thêm con số không vào sau số tiền các con muốn gởi, được không nào.

Bé Mai hỏi:
-- Như vậy 5 đồng của con thành 50 đồng hở Bố?
-- Đúng, tiền của con cho được tăng gấp mười lần mà!

Bé Quân hứng chí nói:
-- That's cool, Dad!
Bé Mai hỏi:
-- That's cool, tiếng Việt nói làm sao Bố?
-- Tuyệt cú mèo!

Bé Quang trố mắt nhìn tôi:
-- Sao bố nói Excellent Owl and Cat?

Ông Tuyên cười ha hả nói:
-- Không phải, tuyệt cú mèo là kiểu nói that's cool, that's excellent thôi các con ạ trừ khi hai đứa con một đứa làm cú một đứa làm mèo!

Ông làm mặt nghiêm trang xoa đầu hai đứa nói bằng tiếng Anh:

-- My owl and my cat, you are both excellent! (Con cú và con mèo của Bố, cả hai con tuyệt lắm!)

Cả ba cùng cười to vui vẻ giữa bãi đậu xe. Bé Mai và bé Quân lập lại bằng tiếng Việt:

-- Tuyệt... Cú... Mèo!

2029




Tôi bẩm tính ít nói thích lủi thủi một mình mà trời dun duỉ sao tôi làm việc gì cũng phải nói nhiềụ làm nhiều ... Khi nói không được thì múa tay muá chân có khi như mãi võ Sơn Đông vậy.

Ở Việt Nam hay ở trại tỵ nạn đã đành. Đằng này, khi đặt chân tới Hoa Kỳ tôi đã quyết tâm chỉ làm thằng thợ thôi, chứ không dám làm thầy thiên hạ, thế mà ghét của nào trời trao của ấy.

Một hôm lúc tôi còn làm thợ, tới giờ nghỉ trưa, hộp cơm trưa của tôi chỉ có cái bánh mì Ba Lẹ, bánh mì Tây kẹp thịt nguội, để trong hộp đựng đồ ăn nằm trong góc phòng giải lao đông đúc người ngồi. Cô Betty, người mập mạp đẫy đà như ba thằng người tôi, lại ngồi ngay trước ngăn kéo của tôi mới chết chứ. Tôi lại gần nàng lịch sự nói:

-- Betty, would you excuse me? (Betty, xin lỗi cô )

Chẳng hiểu tôi nói lăng nhăng thế nào, cái cô nặng cả hơn 200 lbs, lại đứng lên cao hơn tôi cả cái đầu, nàng ôm tôi nâng lên hôn trên má cái chụt. Đúng là ỷ to ăn hiếp bé, thấy tôi vừa ròm vừa thấp như con khỉ nên nàng chẳng nể nang gì cả làm tôi sượng muốn chết giữa tiếng cười vui của bầy thợ vang vang như bầy kên kên thấy xác chết giữa sa mạc. Đúng là toi mạng sa trường. Tôi nhìn Betty hỏi:

-- Why did you do that? (Sao bạn làm vậỷ)
-- Didn'' t you say, " Would you kiss mẻ" Cô ta trả lờị (Chứ không phải bạn nói hôn tôi đi sao?)

Bầy kên kên lại được dịp cười vui thêm một trận nữa. Tôi giận tôi, hổng biết ăn mắm ăn muối bao nhiêu năm nay bị cong lưỡi hay sao mà nói một câu giản dị như câu " Would you excuse me!" mà người ta lại hiểu " Would you kiss me!"

Mẹ kiếp đã vậy từ nay ông quyết tâm luyện giọng làm thầy, chứ không làm thợ nữa. Tôi mua một loạt băng nhựa luyện phát âm và quyết tâm trả thù. Cô Betty lại hay thích đùa dai như đỉa mà giờ ăn trưa một tiếng của tôi lại trùng với giờ ăn trưa của nàng mới chết. Lần nào cô cũng lại ngồi chung bàn với tôi chọc phá. Cuối tuần bao giờ cũng hỏi:

-- Do you have a date this weekend? (Bạn có đi chơi với bạn gái cuối tuần này không?)

" Sư mày," tôi nhủ thầm, " đi chơi hay không kệ tao mắc mớ chi tới mi mà tuần nào cũng hỏi?" Nhưng ngoài mặt tôi ráng giữ vẻ mặt điềm đạm trả lời, " No, I will be busy studying!" (Không tôi mắc học)

Thế mà lúc nào nàng cũng không tha, lại hỏi thêm:
-- Do you have a girl friend? (Bạn có bạn gái không?)
-- Không, tôi đáp. Rủa thầm trong bụng, nếu tao muốn có chắc chắn cũng không phải là mày. May ra là Cindy Crawford!

Nhưng cô Betty lại chẳng tha cho tôi một cách dễ dàng, cứ hỏi hết câu này tới câu nọ. Chắc cô bị người ta kỳ thị là mập nên chẳng ai trò chuyện hay sao đó nên cô cứ tìm thân tép riu tôi trả thù. Có lần cô hỏi tôi:

-- Are you gay? ( Bạn là người đồng tính luyến ái hở)

Tôi giả bộ ngơ ngác con nai vàng, " What do you mean gay? Does it mean happy as in I have a gay time like in the book I am reading?" (Bạn muốn nói gì? Gay có nghĩa như vui vẻ như tôi có một thời gian vui vẻ như trong sách tôi đang đọc hở)

-- No, no, gay means homosexual. I mean to ask if you like men. (Không không, " gay" có nghĩa là đồng tính luyến aí. Tôi muốn hỏi bạn thích đàn ông hả)
-- I love everybody, men and women. Is that one of the ten commandments? I heard the minister preach in the church.(Tôi yêu hết mọi người, đàn ông lẫn đàn bà. Đó không phải là một trong mười giới răn sao? Tôi nghe mục sư giảng trong nhà thờ)

Thế là cô nàng lại tha hồ giải thích cặn kẽ cho tôi đời sống xã hội Mỹ. Rồi lâu dần tôi thấy cũng hay, cô gái mập này dạy tôi nói tiếng Mỹ thành thạo hơn. Tôi thấy biết ơn cô lắm nhưng cũng không khỏi đùa cô ta bằng những câu nghịch ngợm. Cô hỏi tên tôi tiếng Anh là gì, tên cô tiếng Việt là gì... Thế là tôi có dịp phịa bậy, tôi nói Betty tiếng Việt là Bé Tí và xin phép cô để tôi gọi là Bé Tí! Có tôi là bé tí thì có, chưa cô ta to gấp ba tôi kìạ..

Một hôm tôi nhận được một cú điện thoại hỏi tôi có thể đi nói chuyện về tình hình người tỵ nạn ở địa phương vào cuối tuần tới cho một hội nghị cấp tiểu bang không? Mấy ông tai to mặt lớn ở địa phương người nào cũng hỏi tiền thù lao là bao nhiêu mà hội nhà thờ địa phương không có kinh phí nên họ mới tìm tới tôi vì biết tôi bé mồm thấp cổ thích xông pha chỗ này chỗ nọ chết cũng cười trừ.

Việc sửa soạn gấp rút, nên tôi không có giờ nghiên cứu kỹ. Cứ lúc nào rảnh tôi lại gọi điện thoại lên mấy văn phòng lấy thống kê cả Mỹ lẫn Việt. Bố Mẹ tôi lắc đầu nói, " Cái thằng ăn cơm nhà, vác ngà voi! Không lo học hành đi mà cứ lo ba cái chuyện bao đồng, có ngày chết chẳng còn da!"

Bố Mẹ tôi nói vậy thôi, chứ ông bà cũng hí ha hí hửng với bà con vì thằng con út mới mười tám, vừa mới ở trại tỵ nạn qua chưa đầy một năm, chưa học Trung Học ở Việt Nam sắp thành diễn giả hùng hồn tới nơi. Đúng là nuôi con tốn cơm nhưng cũng không đến nỗi vì cơm tỵ nạn cũng hơn cả hai năm trời bên Thái Lan rồi Phi Luật Tân không thể kể là mồ hôi nước mắt lao động cực khổ, mà là mồ hôi dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt ở trại tỵ nạn thì đúng hơn.

Mấy ông lớn bắt đầu bực mình vì thấy tôi xung phong làm việc không công làm mất chén cơm bát gạo của mấy ông thầy, mấy cô có chức tước, nhưng đã lỡ từ chối rồi thì làm sao mà họ có thể giành lại chức diễn giả của thằng nhãi ranh như tôi được. Điếc không sợ súng, nhãi ranh không sợ người lớn, tôi cứ mạnh dạn điện thoại phỏng vấn và viết bài tường trình.

Lúc tôi đưa cho bà phước Mỹ, hội trưởng hội tỵ nạn, bà ta hết sức ngạc nhiên vì tài liệu của tôi phong phú quá, thực ra là cóp nhặt đó đây. Bà sửa lại đôi chút, rồi nói, " Con về tập dợt nói chuyện đi, chậm rãi, bình tĩnh là thành công!"

Tôi gọi cô bạn mập của tôi, " Bé Tí ơi, cô có thể ngồi nghe tôi đọc bài diễn văn ở thư viện hay công viên nào không?"

Betty trả lời:
-- Được mà," Cô nháy mắt chọc tôi, " Cuộc hẹn chính thức đó hở?
-- Ừ cuộc hẹn chính thức giữa cô giáo và học trò!

Cô phá lên cười, trông cái tên Á Châu nhỏ loắt choắt như tôi mà láu quá.

Không biết trời nghĩ như thế nào mà trong dịp đại hội tỵ nạn tiểu bang mấy diễn giả Việt Nam khác trình bày cao siêu quá về nền văn hoá Việt Nam, còn bài của tôi lại chú trọng về tình trạng tỵ nạn hiện tại và được đa số khán giả Mỹ chú ý, báo chí chụp hình lia lịa và đăng lên trang đầu với địa chỉ nhà tôi đàng hoàng.

Đại hội xong, tôi còn ráng ở lại khách sạn cho thêm một ngày nữa vì Hội nhà thờ bao cho cả 3 ngày ăn uống và ở miễn phí, dại gì mà về ngay tối thứ bảỵ Khi bà phước lái xe hỏi tôi muốn về chưa, tôi nói, " Để sáng mai về đi cho tiện! Sáng mai đi lễ ở đây rồi về cho thoải mái hơn!"

Bà phước hãnh diện về bài thuyết trình của tôi lắm nên cũng dễ dãị

Khi tôi về tới nhà hôm sau thì bố
mẹ tôi ra đón, " Con tôi sắp thành ông to rồi, hình của mày đăng báo trên trang đầu!" Không biết sao, nhà tôi đã ghi danh mua báo hằng ngày để anh em tôi trau dồi tiếng Anh, mà sáng nay bố mẹ tôi ra mua hết mấy chồng báo ngoài thùng báo bỏ tiền. Ông bà định gởi đi cho bà con bốn phương tìm vợ cho tôi quá!

Do tấm hình và chi tiết đăng trên báo, tôi được một công ty điện thoại lớn gọi tới nhà và hỏi tôi có thích làm cho hãng điện thoại không. Ây cha, câu hỏi này cũng như câu hỏi người Việt Nam có thích ăn cơm không? Tôi chịu liền dù có phải chấm nước mắm ăn tương cà thêm một năm nữa cũng chịu.

Thời gian làm với hãng điện thoại cũng là thời vui thú học hỏi của tôi. Hãng trả tiền cho tôi đi học bán niên, còn tôi phải làm đủ 40 tiếng mỗi tuần, không còn phải làm thợ nữa. Tôi có bàn giấy, điện thoại riêng, oai phong ra phết. Một tuần sau khi tôi vào làm, tôi đem cái máy chụp nhờ người ta chụp dùm, tay cầm ống nghe, ngồi gác chân lên nhau, trông đẹp trai bá cháy dù chiều cao khiêm nhượng của tôi chỉ có hơn một thước rưỡi. Đúng là ễnh ương kêu to!

Tôi làm được một năm ở hãng thì việc hãng bành trướng cần nhiều người Việt vào làm nên tôi nghiễm nhiên thành cốp lớn, có văn phòng riêng và đi đi lại lại hướng dẫn nhân viên mới làm việc thế mới có tếu không, đúng là mèo mù được cá rán.

Thoáng một cái cũng qua 5 năm, tôi ra trường đại học, gặp lúc thời buổi kinh tế xuống thấp nên chẳng hãng nào thèm gọi tôi trừ hãng mà tôi đang làm. Họ tăng lương tôi lên, nhưng công việc cũng như cũ, tấm hình in trên báo, và hình tôi chụp trong hãng lúc đầu vẫn còn treo trên tường. Bố mẹ tôi vẫn còn hậm hực, cái hình đẹp như thế mà sao chẳng có ai liên lạc để môn đăng hộ đối cả. Bố mẹ tôi đâu có biết là qua đây các cô ăn bơ uống sữa cô nào cô nấy cũng cao hơn tôi cả cái đầu, thì tôi làm sao xứng đôi vừa lứa được, trừ khi tôi uống thuốc thần cao thêm mấy tấc chứ ai nhìn tôi ngoài đường vẫn cứ nói, " Cái thằng con nít ranh sao mà diện quá vậy!" khi thấy tôi mặc áo vét, đeo cà vạt mỗi dịp lễ lớn.

Cô Cindy Crawford. người mẫu nổi tiếng Hoa Kỳ, quê ở DeKalb, gần Chicago. Một lần nàng trở về làm Homecoming Queen. Anh chàng bà con với nàng nghĩ tôi là người ái mộ Cindy Crawford, vì thấy hình nàng cắt trong báo để trên bàn, mời tôi về nhà chàng và hứa sẽ giới thiệu Cindy cho tôi làm quen. Đi chơi thì đi chơi, chứ tôi biết thân phận nhỏ bé của tôi nên đâu dám trèo cao té nặng. Tôi để hình nàng trên bàn vì tôi thấy nàng dấp dáng khoẻ mạnh đô con chứ đâu phải như người ta tưởng. Không lẽ tôi để hình Sylvester Stallone, James Dean, hay Tom Selleck để tôi tủi thân hằng ngày khi nhìn họ. Không chừng người ta tưởng tôi thích con trai thì tiêu tán đường.

Trong bữa ăn gia đình, cô Cindy rất bình dân, cười vui thoả thích. Cô hỏi chuyện tôi, tôi ba hoa kể chuyện vui đời tôi khiến cô cười nứt nẻ. Lúc cô về, tôi hỏi cô cho tôi chụp hình chung với cô một tấm để khoe với bá quan thiên hạ, cô mỉm cười gật đầu. Cô cho tôi đứng đằng trước, cô đứng sau. Mèng ơi, tôi trông sao nhỏ thó, đầu ngang ngực cô ta, chứ chưa đụng tới cằm. Cô đứng đằng sau mà cái chi cũng cao và lớn hơn tôi cả. Máy chụp lấy liền nên cô ký tên tặng tôi, " For my amusing little friend, Nuyen, Cindy Crawford" (Tặng người bạn nhỏ vui tính) thay vì Nguyên. Vậy cũng được, miễn là có chi để hù các ông, con trai người Việt là được rồi! Giá cô ta bỏ chữ nhỏ ra, tôi vui biết mấy, hồn bay tới tầng thứ chín!

Người nhỏ con được cái ai cũng xem như con nít nên đôi khi được thương tình dễ dãi mà đôi khi cũng bực mình. Mỗi lần các anh bạn tôi có tiệc tùng, gọi tôi tới chơi, các anh hay nói chuyện vui vẻ với nhau, rất hợp chỉ có tôi là hay bị ra rìa vì không có gì để nói về vợ con gia đình nên hay bị sai đi mua bia, đồ nhắm nếu nửa chừng hết mồi. Khổ một nỗi tôi hai mươi mấy rồi mà cứ bị hỏi giấy tờ hoài. Tôi mong có râu để tôi nuôi râu mép cho đẹp hay cắt như râu Hitler doạ thiên hạ nhưng chỉ le te vài sợi trong phát bực nên phải cạo đành chịu mang tiếng là thiếu niên.

Không biết đại đế Napoléon hay quan Án Anh ngày xưa làm thế nào mà trị đám quan lại quần thần chứ thân tôi như vầy ra đường ai cũng xem mình là thiếu niên thì chẳng ma tơi nào phục. Có lần lúc còn đi học tôi ghi danh vào chương trình ROTC dành cho sinh viên vừa học vừa theo khóa sĩ quan quân sự, sĩ quan phỏng vấn lắc đầu, hỏi tôi có thể đeo súng trường được không. Tôi nói tôi học thành sĩ quan để đeo súng ngắn chứ đâu đeo súng dài, súng dài thì đeo vào vai, báng súng gần đụng đất. Ông ta cám ơn, nhưng bác bỏ đơn xin vào ROTC. Thế mới có phải là kỳ thị kích thước không?

Đi mua quần áo thì chỉ vào chỗ " Boys" (Con trai) mới ác! Đồ con trai choai choai thì sao mà mặc đi làm. Cũng may mà chỗ tôi có người Việt biết may giỏi nên cần gì cũng có chỉ có điều là phải chi tiền nhiều tí thôi. Ông bà chủ mỗi lần nhận đo may cho tôi đều nói, " Làm cho chú người Việt quen biết chúng tôi tính gía gia đình! Chú cho ba trăm!" Ông bà chủ chém nhẹ nhàng ba bò trong khi nếu tôi cao lớn một chút thì ra Macýs, hay Bergner, hay JC Penney thì chỉ tốn dưới 100 Mỹ kim.

Gia đình anh chị của tôi đã có con cái, biết tôi không có bạn gái, lại cũng ít đi chơi đâu, cuối tuần cứ gọi lại nhà nói, " Cậu giữ giùm các cháu cho anh chị cuối tuần này nhé!" Không lẽ từ chối! Tuần sau ông anh lại gọi, " Tuần này chú sang nhà anh coi hộ các cháu, anh chị đi chơi hai ngày nha!" Còn bốmẹ tôi thì an ủi tôi nói rằng, " Trong các anh chị em mày, bố mẹ chỉ nhờ được có mỗi mày thôi!" Tôi cười bảo thầm, " Tại con có tấm thân nhỏ bé đó không ai để ý, chứ nếu có ai à, con cũng đi chơi hoài, đâu có giờ để đưa bố mẹ đi thăm người này, người kia hằng tuần đâu."

Có lần bạn cùng khóa sĩ quan của ba tôi được đi qua diện nhân đạo sau những năm tù ngục. Ba tôi mừng nói với tôi, " Mày tháng tới phải diện chỉnh tề chở bố mẹ ra phi trường đón gia đình Bác Haị Gia đình Bác cô mấy cô chưa chồng cũng được qua cùng chuyến!" Ba tôi không báo cho ai sợ các thanh niên độc thân ở hội Người Việt đi đón mất phần của con mình nên ông bà bí mật đi một mình với tôi ra phi trường đón gia đình mới tới. Trước sự chưng hửng cuả bố mẹ tôi, cô nào cô nấy dù ở Việt Nam nghèo khổ nhưng cũng cao lớn hơn con út của mình cả hai tấc.

Bố Mẹ tôi an ủi, " Thôi con ráng chút đi, lúc nào con muốn thì về Việt Nam, tha hồ mà chọn!"

Tôi cười, biết rằng ngày tôi về còn xa xăm lắm. Tôi đã thấy bao nhiêu bi hài kịch chuyện áo gấm về làng, cưới vợ về dinh rồi. Quen ở bên đây lâu mà còn lục đục khi cưới nhau, huống chi là về chơi 2, 3 tuần thì làm sao kiếm được người hợp với mình!

Lạy Trời, cho con hai chữ bình yên! Nếu Trời thương, cho con cao thêm chừng năm tấc nữa, để con không phải nghe người ta nói sau lưng con, " Nhất lé , nhì lùn," tội nghiệp con lắm, con sẽ ăn chay trường trọn năm! Trời có bắt con ở vậy suốt đời cũng được, cho con thêm năm tấc nữa để đi lấy oai với thiên hạ.269









Thế là anh Linh đã ra đi vừa tròn một con giáp. Cái chết của anh chẳng bất ngờ nhưng cũng gieo vào lòng Khang những ấn tượng khó quên trong những ngày sống trên Hoa Kỳ.

Khang gặp anh Linh năm 1989 lúc chàng ghé về thăm người yêu của chàng khi nàng vừa nhận việc ở một hãng bảo hiểm lớn đóng đại bản dinh tại thành phố anh Linh sống cả mười mấy năm rồi. Anh Linh bấy giờ tuổi đã cao, xấp xỉ 50 gì đó, nước da ngăm đen, trông bên ngoài giống như một người Mễ. Anh nguyên là thợ sửa xe, khéo tay, sửa chữa nhà cửa lấy một mình. Trong nhà anh có đủ dụng cụ để sửa chữa.. Anh sang đây từ năm 1975, trong đợt tỵ nạn đầu tiên, khi chiến tranh vừa kết thúc. Trước đó anh là Đại Uý nhảy dù, giữ chức Quận trưởng.

Có lẽ vì từng giữ chức vụ cao nên lúc tha hương anh Linh gặp nhiều trở ngại, khó thích hợp với cuộc sống ở đây. Anh có vợ và một bé gái 5 tuổi lúc Khang gặp. Anh chẳng giữ việc nào được lâu, cứ làm vài tháng lại bị đuổi vì bất đồng ý kiến với chủ hoặc người xếp của anh hoặc vì chậm chạp, không còn nhanh nhẹn như lúc tuổi còn trẻ để làm kịp theo yêu cầu của chủ hoặc hãng. Khang nói với anh:

-- Anh làm giỏi, tuy là làm chậm. Vậy anh hãy đứng ra sang tiệm nào đó, mình làm chủ cho đỡ mệt!

Anh Linh loay hoay chạy tìm kiếm nhưng cũng khó vì ngân hàng xem tín ngân và lương bổng của anh chị không bao nhiêu. Chị Hiền làm lao công quét dọn trong bệnh viện, lương bổng và quyền lợi chỉ đủ trang trải chi phí hàng tháng, dành dụm lại cũng chỉ còn chút đỉnh. Không đủ tiền để thế chấp sang một cơ sở thương mại. Những người quen biết muốn giúp cũng có thể đóng góp một chút ít nhưng cũng ngài ngại vì một chuyện chẳng đâu vào đâu. Một hôm anh Linh cầm tiền chị Hiền, vợ anh, đi mua xe cho chị để thay chiếc xe cũ hay bị hư phải sửa hoài. Chẳng biết mấy người bán xe làm thế nào mà anh lại đổi chiếc xe anh còn tương đối mới lấy chiếc xe truck chạy bốn bánh cao nhồng nhồng trông rất ư là thể thao, kiểu các cậu tuổi đôi mươi thỉnh thoảng chạy.

Thế là chị Hiền lại phải chạy chiếc xe cũ ọp ẹp, bao nhiêu tiền dành dụm đã bị anh Linh bỏ xuống chiếc xe mới chỉ có anh mới chạy được rồi. Những người bạn bên lương cũng như bên đạo lắc đầu. Hình như câu Kinh Thánh, "Ai trung tín trong những việc nhỏ cũng sẽ trung tín trong những việc lớn hơn", làm người ta chùn tín nhiệm vào anh Linh. Cả ngay đến tiền tiết kiệm của vợ anh dành dụm để mua một chiếc xe tốt để đi làm hay đưa con đi học ngày đông giá băng anh cũng nhẫn lòng lấy để mua một chiếc xe cho riêng mình thì làm sao ai dám tin tưởng đây?

Lần cuối cùng, anh Linh thất nghiệp lâu! Hoàn cảnh trông tội nghiệp lắm! Nhưng tật cũ khó bỏ, anh hút thuốc liên tù tì và uống bia thay nước. Khang mấy lần gặp anh nói anh bớt hút đi một chút cho đỡ hại phổi và tránh khỏi ung thư nhưng vô hiệu. Bé Ly-Ly cũng vừa mừng sinh nhật tròn sáu tuổi. Anh Linh đã sửa nhà xong, trông cũng gọn gàng. Phòng tắm có bồn Jacuzzi, nước phun đấm bóp thân thể, đèn điện sáng choang, rộng rãi, gạch bông, kiếng gắn bốn bề, đi vào trông như đi dạ hội. Ui chao, tưởng tượng mà xem, lúc mình tắm, như có 4 người khác nữa tắm chung. Trong tiệc sinh nhật, lúc chỉ còn các ông, các anh, khi không còn đàn bà con gái hay con nít đứng quanh, bạn bè xúm lại chọc anh Linh:

-- Cái nhà anh này ghê quá! Trong nhà bây giờ lại có cả dâm bồn, tha hồ anh chị hí hửng tù ti tú tí với nhau nhé!

-- Đã lỡ làm thì làm cho ra trò chứ! Mai mốt bán cũng có giá!

Nhà anh ở khu Downtown, chung quanh cũng lụp xụp rồi. Nhìn qua là biết nhà anh sang nhất trong khu phố tồi tàn này. Những người mua bán nhà cửa hay người kinh nghiệm thường nói nên mua căn nhà tương đối trong một khu đắt giá dễ bán và có lợi hơn là mua một ngôi nhà tốt nhất, đẹp nhất trong một khu xoàng xoàng. Anh Linh hình như bất chấp luật kinh tế, anh thích chi là làm nấy, bốc đồng chuyên làm theo ý mình chứ chẳng thèm bàn với vợ hay bất cứ ai!

Đâu một tuần sau bữa tiệc sinh nhật bé Ly-Ly thì Khang nhận được điện thoại báo anh đã được xe cứu cấp đưa đến bệnh viện. Khang vội vàng vào thăm, anh Linh nằm trong trạng thái hôn mê chẳng biết gì. Hỏi ra thì anh uống rượu say đêm đó rồi đi vào nhà tắm trượt chân ngã đập đầu vào thành bồn tắm hay bị tim giật. Chị Hiền và bé Ly-Ly cứ ngồi tỉ tê khóc, kể lể.

Bệnh viện để anh ở phòng cứu cấp chừng mười hôm thì anh tỉnh nhưng đã bị liệt gần toàn thân, mọi sự đều do máy gắn vào thân thể để cung cấp dưỡng khí, nuôi dưỡng và tiêu hoá. Anh được ở lại bệnh viện chừng một tháng rồi phải chuyển qua Nhà Điều Dưỡng. Tiền bảo hiểm đã cạn. Phòng Xã Hội tiểu bang cũng như các cơ quan từ thiện cũng giúp đỡ phần nào, nhưng chị Hiền phải bán nhà ra ở thuê, để có tiền chi phí lo cho anh Linh.

Khang tới thăm anh Linh ở Nhà Điều Dưỡng hằng tuần trong suốt hơn một năm, có lúc gặp chị Hiền, có lúc không, có khi anh Linh tỉnh, có khi mê man. Nhiều lần chỉ hỏi qua loa, chứ chẳng biết nói gì! Nhìn chị Hiền và bé Ly-Ly mà thương cho hoàn cảnh của chị. Tưởng như gia đình chị Hiền đã tới hồi khánh kiệt thì anh Linh thở hơi thở cuối cùng. Anh ra đi một cách nhẹ nhàng, bất ngờ sau cả năm nằm liệt mặc dù vẫn có người tập thể dục, xoa bóp anh hằng ngày.

Sống dở chết thiêng! Nhiều đêm chị Hiền thấy hoặc mơ thấy anh về trăn trối ủi an. Nhiều người đàn ông muốn kết bạn với chị, nhưng anh Linh cứ hiện về cản trở. Cho đến người cuối cùng thì anh gật đầu, cho đến bây giờ thì chị Hiền đã sáu năm hạnh phúc! Bé Ly-Ly bây giờ cũng đang ở năm cuối bậc trung học, chuẩn bị vào đại học. Người chồng sau của chị Hiền thương bé Ly-Ly lắm, nên chỉ vài tháng sau khi thành hôn, đã chính thức nhận bé Ly-Ly làm con mình. Mọi sự, người ta nói, đều có số cả.

Tuần rồi, gia đình chị Hiền mời gia đình Khang tới dự lễ giỗ mười hai năm của anh, ngay sau lễ Tạ Ơn. Khang đi dự tiệc về chợt ngẫm nghĩ phải chăng mỗi người có duyên nợ, chị Hiền đã đã lo cho anh Linh trọn vẹn trong những ngày cuối đời, đã trả nợ cho anh suốt quãng đời chung sống, nên bây giờ được người chồng sau tận tình yêu thương và chẳng hề ghen ghét hay buồn chi khi chị làm lễ cúng giỗ cho người cha quá cố của bé Ly-Ly. Căn nhà cũ đã chẳng còn, chiếc bồn tắm trong phòng tắm gắn kiếng bốn bề cũng mờ phai trong trí nhớ, chỉ còn chút tình thương yêu, chút nghĩa thâm sâu trong những năm tháng vợ chồng, những ngày cuối đời trong bệnh viện hay nhà điều dưỡng. Những thứ đó, thứ tình người lặng lờ âm ỉ, cả mười hai năm qua ai biết được khó mà quên.

2028


Powered by Blogger.