Suốt buổi chiều tôi đi qua dưới những tàn lá vệ đường. Từ lúc mặt trời ban trưa đổ lênh láng trên da thịt rám nắng ướt mồ hôi, cho đến khi hoàng hôn lần xuống, màu xám xanh của trời phơn phớt cùng những ngọn gió mát thổi hây hây từ con sông quen thuộc.
Tôi đi hái những trái bàng xanh, đè nghiến nó trên mặt đường, dùng đá nhọn hay chiếc guốc mộc đập vỡ nát lớp vỏ ngoài xơ xác, đôi chút hột bàng không còn nguyên vẹn, từng mảnh nhỏ béo bùi trong miệng. Hồi đó, tôi chưa biết thương màu lá. Tôi chẳng hề quan tâm đến lá cây, lá non, lá vừa xanh hay lá chết vừa lìa cành. Tôi chỉ chú ý đến những trái chín.
Và có lẽ không nơi nào bằng được vườn nhà tôi, quanh năm cây đầy trái. Mùa nào cũng có một thứ trái cây vừa ửng chín, thay phiên nhau cống hiến quả ngọt cho tôi không bao giờ thiếu vắng. Hết nhãn lồng đến mãng cầu, trứng cá, trứng gà, cam, quýt, thanh trà, mít, khế ngọt, ổi, “chay”... và một vài thứ khác nữa, tưởng có thể bày một cửa hàng trái cây ngay trước cổng.
Nhưng nhà tôi không phải là một nhà buôn bán. Nhà sống êm đềm tĩnh mịch, dành những căn phòng cổ kính với bàn thờ ông bà nghi ngút khói hương cho người lớn. Còn khu vườn hoàn toàn dành riêng cho trẻ thơ.
Và trẻ thơ thì không thích đổi chác. Trẻ thơ xẻ từng múi bưởi ngọt đem chia sớt cho bạn bè. Đêm đêm khi đói bụng trẻ thơ đến trước cổng nhà bạn, huýt sáo ra hiệu rồi xúi bạn xin mẹ vài đồng để hai đứa dắt tay nhau ra chợ ăn chè đông sương. Trẻ thơ, thường là một kẻ hào hoa, đôi khi phải làm hành khất... “đại hiệp”, nhưng chẳng bao giờ là một nhà doanh thương mại bản.
(Đến nay, khi đã lớn, tôi vẫn còn là một kẻ hành khất hào hoa và cũng là một khách hào hoa... khất thực).
... Vườn nhà đến mùa trăng, tôi bỏ quên vườn. Vì một ngày lễ Trung thu tưng bừng đang được tổ chức ở trường học.
Trường nằm bên bờ sông, năm ấy thay vì phát quà bánh Trung thu chán phèo như thường lệ, thầy giáo dạy môn sử ký đề nghị dựng lại một chiến tích lịch sử oai hùng trên sông: Hưng Đạo Vương đại thắng Ô Mã Nhi. Cả trường bận rộn tập dượt liên tiếp mấy ngày. Áo mũ xênh xang, gươm giáo sơn phết hoa hòe, pháo khói màu cũng xoay được đủ cả. Ông hiệu trưởng chạy đi thuê mấy chiếc đò, thầy giáo lật lại cuốn Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim để tìm thêm vài chi tiết.
Thế rồi chiều mùa thu hôm ấy, nước sông Hương gợn sóng, là Bạch Đằng Giang dậy sóng.
Đáng buồn thay, tôi bị xếp vào phe quân Tàu, lại phải thủ vai Ô Mã Nhi mới chết chứ. Tụi được làm quân Việt, bây giờ đang hớn hở múa tay múa chân hăng hái xuống thuyền ở bờ sông bên kia. Cái thằng bạn cùng lớp được vinh dự và may mắn làm Hưng Đạo Vương lăng xăng sửa râu sửa nón, tay cầm kiếm gỗ hứng chí vung vẩy.
Quân tàu phù như bọn tôi thì ngồi trên đò mặt mày rầu rĩ, những bộ mặt bôi phấn vẽ râu khi méo xẹo bất mãn trông như những thằng hề. Chưa ra quân mà biết chắc đã thua trận rồi, làm sao cãi lại lịch sử được.
Bên kia bờ, đại quân Việt đã từ từ chèo đò tách bến, “khí thế” coi dũng mãnh gớm. Quân Tàu chưa chi mà đã thấy bủn rủn tay chân. Tôi phải vén cái mặt nạ Ô Mã Nhi lên một chút, hớp một miếng “bia lây” để lên tinh thần, rồi thúc hối “quân lính” chèo thuyền xung phong. Đúng như chương trình, bọn tôi được tấn công tưng bừng một lúc, Hưng Đạo Vương ra lệnh lui binh để dụ địch. Quân địch chèo đò tại một quãng, rồi thi nhau ầm ĩ la hét thách thức quân Tàu đuổi theo.
Tôi đang ngần ngừ. Tiếng thầy giáo cố vấn đang chạy dọc theo trên bờ sông gân cổ trong máy phóng thanh:
- Đuổi theo đi... Còn chờ gì nữa?
“Phó tướng” của tôi, một thằng chuyên môn đứng nhất về Việt sử, lên giọng “quân sư” ngăn cản:
- Đừng dại. Coi chừng trúng kế, tụi nó dụ mình đến khúc sông có đóng cọc sắt để phục kích đó.
“Ô Mã Nhi” bực mình, càu nhàu:
- Ai mà không biết. Nhưng thầy đã dặn mình là phải đuổi theo để tụi nó bao vây bắt sống. Làm sai chương trình là chủ nhật bị cấm túc liền.
Thế là quân Tàu cũng phải chèo đò đuổi theo, dầu biết trước là sẽ đi vào “cửa tử”. Khi những chiếc đò của hai phe chạm sườn vào nhau, một tiếng pháo hiệu nổ vang cùng lúc với tiếng reo hò “Sát Đát! Sát Đát!” inh ỏi. Quân Việt tới tấp nhảy qua thuyền bọn tôi, vung gươm sát phạt. Đã được lệnh trước, tụi tôi chưa xáp trận mà đã phải buông gươm giả vờ lăn ra chết.
“Hưng Đạo Vương” hùng hổ nhảy tới trước mặt tôi, định đánh bay thanh kiếm gỗ, nhưng hắn đánh trật vào cườm tay tôi một cú đau điếng. Tôi cáu sườn vung mã tấu quất vào ống quyển hắn một cái “cộåp”, thằng nhóc ngã lăn ra. Kêu oai oái mà chẳng thấy thằng lính hầu nào thèm đỡ dậy. Quân Tàu thấy chủ tướng đột ngột phản công một cách lý thú vỗ tay khoái trá reo hò rồi lượm gươm giáo lăn vào chiến đấu. Thế là sai hẳn với chương trình, quân Tàu giờ đây lại sắp thắng thế.
Quan khách (trong đó, trời ơi... có ông hiệu trưởng!) đang đứng trên bờ chắc ngạc nhiên lắm. Tôi lại nghe tiếng thầy giáo khàn giọng la hét:
- Ô Mã Nhi! Mi làm gì kỳ vậy? Bọn mi mau vất gươm đầu hàng... nhảy xuống sông làm bộ chết mau lên!
Thằng phó tướng của tôi lại lên giọng... “‘Tam Quốc Chí”:
- Mi đừng thèm nghe. Tướng đã ra quân có khi không thèm tuân mệnh vua!
Trời ơi, tôi phải làm sao đây? Một bên là thầy giáo cứ bắt đầu hàng khi mình đang sung sức như cọp dữ, một bên là tên quân sư quạt mo với bầy lính cứ muốn choảng nhau một trận tận tình rồi ra sao thì ra...
“Hưng Đạo Vương” bây giờ mới lồm cồm bò dậy được một tay nắn bóp ống chân, xuống giọng năn nỉ với tôi:
- Thôi mi chịu thua đi. Không cả hai đứa đều bị phạt hết.
Tôi đành phải nghe theo lời nó. Không tuân mệnh vua thì chưa biết sao chứ cãi lệnh thầy thì ốm đòn là cái chắc... Và kết quả trận đánh đúng theo như lịch sử, quân Tàu lớp bị bắt sống, lớp chết trôi đầy sông, chỉ có tên phó tướng của tôi là cứng đầu hơn cả, hắn bực tức đòi nhảy xuống sông “tuẫn tiết” (nhưng tôi biết hắn sẽ bơi một mạch lẻn trước lên bờ sông, chỗ đang có hàng bán xi- rô và đá chanh muối).
... Tôi về đến nhà khi trời đã tối. Mâm cỗ Trung thu đã được bày ra trước sân, bánh nướng, bánh dẻo, trà Tàu... Bà ngoại tôi cùng mấy ông cậu, bà dì ngồi trầm ngâm trong vườn, mọi người đều nhìn lên trời thưởng trăng.
Trăng đêm nay sương đầy vằng vặc, loang loáng trên sân làm trời có vẻ như một sớm mai còn nằm trong sương chứ không phải là đêm.
Tôi không thích nhâm nhi trà Tàu. Tôi lủi thủi đi quanh quẩn trong sân để thích thú nhìn thấy bóng mình chập chờn đi theo dưới đất.
Tôi nhìn trăng và cũng thấy trăng đi theo tôi. Tôi đi tới đi lui khắp cả, vừa đi vừa nhìn lên trời, đi đâu tôi cũng thấy trăng chậm rãi theo mình. (Ước gì suốt đời tôi được sống gần bên trăng xanh bình yên đó nhỉ).
Một ngọn gió từ đâu trong đêm thổi hơi mạnh làm cây lá chập chờn lung lay. Dì N. khẽ kêu lên với tôi:
- Trời ơi, cháu nhìn lá rơi kìa. Coi tội nghiệp và đẹp không?
Không, tôi không thấy đẹp gì cả. Hồi đó, tôi chưa biết nhìn lá, chưa biết thương màu lá, chưa biết buồn cho đời lá.
* * *
Khi biết thương màu lá, là biết mình đã lớn.
Tôi đã lớn. Nhưng không phải từ tốn nhẹ nhàng lớn lên trong khu vườn địa đàng, mà lớn lên trong gió cát bụi mù giữa dòng đời lang bạt. Tôi đã qua tuổi hai mươi, không phải qua trên hai tay chăm sóc của mẹ hiền, mà qua suốt hành lang trắc trở của cuộc đời hai mặt dối lừa.
Tôi đã lớn... và tôi đã trở về. Không còn tuổi nhỏ để leo hái những trái bàng cho hàm răng nhai ngon, mà giờ đây, suốt buổi chiều tôi thẫn thờ lặng ngắm tàn lá thay màu. Trên cùng một khóm cây, trên cùng một chiếc lá, mà những màu sắc đã dần đổi thay khác biệt. Đến mùa lá rụng, mùa thu, chỉ còn một chút màu xanh non dại trên cành, lấm tấm lẻ loi trong màu nâu, màu vàng, màu đỏ sẫm và màu chết úa... những màu sắc sống động kỳ diệu của loài cây chan hòa tan loãng trong nhau, mắt mình nhìn chăm thật lâu, mình sẽ thấy nhòa đi sau màn lệ mỏng cả một màu lá xôn xao rung động, từ đó, có lẽ mình mới biết thích những bức tranh phong cảnh tuyệt tác của Monet, vì trong những tảng màu nhạt nhòa đầy ánh sáng chan chứa với nhau đó, đã biến hình vĩ đại, đã gợi hứng lớn lao cho tâm hồn mơ ước cùng thắm hòa với thiên nhiên nguồn đẹp vô ngần của trái đất. Từ đó, có lẽ mình mới bồi hồi day dứt hơn vì một câu thơ ngắn mơ màng: Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san...
Từ đó... Từ lúc biết thương màu lá, là cho dù vào một đêm thu, trăng có rực sáng trong lành vẫn không còn tìm được chú Cuội ngồi gốc cây đa, chị Hằng cũng không thấy đâu trên trời. Mà ngay ở dưới trần gian này... ôi thôi, biết bao nàng Hằng Nga cứ lần lượt thay nhau cười cợt đời mình, không chịu múa khúc Nghê thường mà chỉ giẫm nhẹ gót chân vào lòng mình nhói đau rồi tung bay mất hút.
Từ lúc biết thương màu lá, là không còn rước đèn kéo quân đi trong sân hồn nhiên hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...”, mà chỉ vang vang thăm thẳm trong tim nhạc khúc âu sầu của Đoàn Chuẩn. “Thu đi cho lá vàng bay... lá rơi cho đám cưới về. Ngày mai người em nhỏ bé... ngồi trong thuyền hoa... tình duyên đành lỡ...” và cho dù lá không rơi, đám cưới cũng về. Những hôn lễ chẳng đợi mùa thu hay mùa xuân, những đám cưới choàng áo cô dâu cho những người em nhỏ bé của mình hết em này đến em khác mà mình suốt đời làm chú rể với mấy ngọn đèn đêm vất vưởng.
(Ch. của tình đầu ở thị trấn Buồn Muôn Thuở; L. của giảng đường và thư viện mà có lần chúng ta vào đó không phải để tìm sách đọc, chúng ta lật từng trang sách của hồn nhau; V. của những xoa dịu sẻ chia trong một thời lo âu bất trắc... Và trên hết, sau hết, tôi biết trước rằng một ngày kia, N. sẽ bẻ gãy ngọn cỏ chong chong của em để quên tất cả mà an lòng qua cầu, rồi có lẽ tôi sẽ một lần về đó, một mình đi qua cây cầu nhỏ của em, khẽ hát bài ca của một nhân vật trong đời Tam Quốc: “Cưỡi lừa qua cầu nhỏ... thương tiếc khóm mai gầy...”. Cả N. nữa, cô bé đôi khi kéo dài “giờ ra chơi” cho đến chiều tối, cũng có ngày em sẽ quên lược gương bỏ rớt đâu đó vào một thuở nào, vào một ngày nào, vào một túi áo nào, để nhẫn vàng thay cho nhẫn cũ bạc màu thô sơ).
Thôi... một lời ca đã kéo tôi đi quá xa rồi. Bây giờ tôi xin trở về trong khu vườn, vườn tôi hay vườn nhà ai cũng được.
Nửa đêm trăng, có nhiều bạn hữu. Mọi người đều đã lớn, rượu và đồ nhậu thay cho bánh trà. Quỳnh hoa lan hương thoang thoảng, rượu Bách Nhật say ngọt uống mềm môi. Người xưa Thu ẩm Hoàng Hoa tửu, ngày nay, tôi được uống một chai la ve trong bầu không khí thân ái này là cũng thỏa mãn lắm rồi.
Tôi và người thiếu nữ đi xa dần tiếng nói chuyện cười đùa của người khác. Tôi và nàng đứng trước một hòn non bộ, lặng lẽ ngắm cảnh núi non sông nước thu nhỏ lại như một chiếc hộp, mà vẫn gợi lên cả một bầu trời bao la. Những hòn đá chồng chất bên nhau, lâu ngày mọc đầy rêu xanh, có những hốc nhỏ, có những lùm cây trông không khác gì một hoang đảo thực sự, có vài mô hình giả làm con đò neo bến, có cả lão già ngồi câu cá. Một chút đất đá, một chút cây cỏ, một chút nước hòa hợp khéo léo trong một không gian nhỏ, chờ thời gian dần qua, đến đêm nay trong màu trắng bàng bạc biến thành cả một vũ trụ có linh hồn, một thế giới xa lánh tất cả phiền muộn để dành riêng cho ai đó.
Nhưng không dành riêng cho tôi và người thiếu nữ. Vì khi tôi chỉ tay vào một tịch cốc nằm sâu trong núi, và hỏi:
- Em có thích ở đây với anh không?
Thiếu nữ hất mái tóc bối rối che lên má, nhưng đã mỉm cười lắc đầu. Thế là từ đó, tôi biết tâm hồn tôi và người thiếu nữ, dần dà sẽ chia xa. Mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản và trọn vẹn từ một cái gật đầu. Nhưng vì một cái lắc đầu, tôi sẽ trở thành một con ngựa chứng lưu lạc, mãi mãi rông chạy hoang đàng.
Tôi biết. Dầu nàng thường thích những vòng khói, và tôi đã thổi cả triệu vòng khói thuốc đeo vào tay nàng, nhưng những vòng khói trắng mờ ấy sớm bay loãng, tan tành rồi hoàn toàn mất biệt khỏi đời nàng. Từ đêm ấy, cả nàng và trăng đều lắc đầu với tôi. Từ đó, tôi sống quay cuồng dưới mặt trời đỏ lửa. Tôi đã đủ trí khôn để biết rằng không phải mình đi đâu trăng cũng đi theo, trăng ở lại muôn đời vì tiếng nói lạnh nhạt của nàng và mình thì cứ ra đi, ra đi đi mãi mãi. (Ôi, thế thì có trí khôn làm chi).
Mọi người thấy đó. Đừng biết thương màu lá, hãy ham hố nhai lấy trái ngon, nuốt cho hết vị ngọt dại khờ. Chứ đừng rộng rãi tình cảm, thương cho ngọn lá yếu đuối hay tan tác trong vòm trời hoang mang trăm lối.
Nhưng tôi đã trót là một người nhiệt tình rộng lớn.[/font]
- Ông đừng nhắc đến ngày Tết nữa. Cứ xem lịch là biết chứ gì, đêm mai là đêm Giao Thừa... Nhưng tôi không muốn nghe những chuyện đó...
Nàng nói một cách lạnh lùng, môi nàng bình thản nhấp một chút rượu. Chàng để ý ly này là ly Martini thứ năm mà nàng uống. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, nàng vẫn ngồi bất động trên chiếc ghế bành đặt sát góc tường. Trong phòng chỉ có ánh sáng mù mờ vì được thắp bằng đèn cầy, mỗi bàn một cây nhỏ. Ban nhạc chơi không ngừng nghỉ, đều đặn những điệu chậm chạp nhẹ nhàng, chập chờn từng cặp ôm nhau khiêu vũ trong bóng tối.
Những ngày cuối năm, người ta tổ chức tiệc tùng ăn nhậu liên miên, ở đâu cũng tưng bừng náo nhiệt. Bởi thế đêm dạ vũ tại ngôi nhà sang trọng này, thật hiếm có và khác hẳn những chỗ ồn ào khác. Một bầu không khí lịch sự và êm ấm, khách khứa đều trông có vẻ tươm tất đứng đắn. Tấm thiệp mời ký tên bởi một ông nhà giàu nổi tiếng và sành điệu.
Một người bạn đưa chàng đến đây. Rồi y biến mất trong đám người để tìm một người đàn bà y đã hẹn trước. Chàng tìm một chỗ ngồi khuất lấp kín đáo nhất, chỉ gọi người bồi đem rượu một lần, rồi chàng không lui tới xê dịch gì nữa, không chào hỏi gì một hai người quen mà vì say mê nhảy họ cũng không để ý đến chàng.
Khi mắt chàng đã quen với bóng tối, đã nhìn thấy rõ ràng một vài khuôn mặt, chàng nhìn thấy nàng. Một người đàn bà chưa hề quen biết. Nàng cũng ngồi một mình như chàng, cũng uống rượu, nhưng không hút thuốc lá. Chàng không thấy rõ chiếc áo dài của nàng màu gì nhưng có lẽ là một màu vàng sẫm. Tóc nàng bới cao, trông có vẻ là một người đàn bà đã có chồng, nhưng có lẽ là không phải, bàn tay nàng một khi cầm chiếc ly đưa lên môi không thấy mang nhẫn cưới. Thỉnh thoảng một cô gái đến nói cười với nàng một chút rồi bỏ đi, chắc là cô bạn của nàng. Một vài người đàn ông đã đến mời nàng khiêu vũ, nhưng chàng thấy nàng nhẹ lắc đầu từ chối.
Khi chàng gọi người bồi rót thêm rượu cho nàng, nàng nhìn chàng nói : "Cám ơn". Chàng trả lời bằng một câu nói thông thường, rồi chàng gợi chuyện bâng quơ một vài câu thông thường, nàng trả lời vắn tắt theo điệu xã giao thông thường. Và hết, chỉ có thế. Khi chàng muốn nói chuyện nhiều hơn một chút, như nhắc đến ngày Tết sắp tới, nàng có vẻ khó chịu và buồn bực.
Nàng ra dấu không bằng lòng với đề tài loại đó. Chàng im lặng không biết nên nói thêm một lời nào, chàng hút một điếu thuốc và chợt nhớ cái câu nói thật chán ngắt:
- Xin lỗi... khói thuốc có làm cô khó chịu không?
Nàng lắc đầu.
- Chắc cô cũng biết hút thuốc?
Nàng vẫn lắc đầu, nhưng nhẹ đưa tay tỏ ý muốn nắm lấy bao thuốc lá. Nàng cầm một điếu. Chàng nghiêng mình gần lại định quẹt lửa cho nàng nhưng nàng đã châm thuốc bằng đốm lửa nhỏ của ngọn nến.
Nàng chợt nói:
- Lúc nãy ông vừa nói gì?
- Cô đã nói là không muốn nghe.
- Ông cứ nói lại đi.
Giọng chàng đều đều:
- Tết, mọi người đều về với gia đình. Cả nhà thao thức suốt đêm trong đêm Giao Thừa. Rồi sáng sớm mồng một, những ngày nghỉ ngơi thong thả, uống rượu và đánh bài suốt mấy ngày đêm...
Nàng hơi mỉm cười:
- Ông thích những thứ đó lắm sao?
- Ai cũng thích cả.
- Tôi tưởng khi mình còn nhỏ mới thấy thích.
- Lớn rồi cũng thích chứ. Nhưng sợ không có được nữa.
Nàng dịu tắt điếu thuốc, hỏi nhanh:
- Thế bây giờ ông còn có được những điều đó không?
- Điếu thuốc của cô chưa hết sao đã...
- Ông còn có được cái Tết như hồi xưa không?
- Không.
Chàng lặng lẽ uống một hớp rượu, hơi hối hận vì đã mở đầu cho những chuyện về ngày Tết. Thật ra, chàng cũng không thích đề tài loại này. Nhưng bây giờ, nàng có vẻ không chịu ngừng lại:
- Tôi cũng thế.
Chàng hỏi:
- Bao lâu rồi?
- Bao lâu... cái gì ạ?
- Cô hiểu mà... Nghĩa là đã bao nhiêu năm rồi cô không được...
- Tôi hiểu. Có lẽ gần mười năm.
- Lâu quá nhỉ.
Nàng lắc đầu, chàng không hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó.
Người bạn chàng bỗng trở lại, đem theo giới thiệu một cô gái cho chàng, nhưng chàng nói chàng không muốn khiêu vũ, chàng cám ơn và nói hãy để chàng ngồi yên một mình.
Khi người bạn đi khỏi, nàng nói:
- Ông định ngồi đây có lâu không?
- Chắc là lâu. Khi nào người ta về hết.
- Ông có ý định tìm một người bạn nào để trò chuyện hay nhảy với ai không?
- Không. Cô vừa biết rồi.
Nàng lặng yên có vẻ suy nghĩ đắn đo một điều gì. Rồi nàng bỗng hỏi thật bất ngờ:
- Ông thích nghe tôi kể chuyện không...
Chàng mỉm cười:
- Thích chứ. Hồi nhỏ tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể chuyện cổ tích đến mê mẫn. Trước khi đến đây, tôi cũng vừa đọc một cuốn truyện...
- Như thế nào?
- Đại khái có một người đàn ông khi biết được người tình của hắn, một người đàn bà có chồng, hết lòng yêu hắn thì nàng đã chết. Trước đó, hắn tưởng người đàn bà ấy yêu người khác, hắn xa nàng vì quá ghen tương, ghen với cả chồng nàng. Chìa khóa của câu chuyện là một tập nhật ký của nàng mà hắn đọc được khi đã muộn...
Nàng có vẻ lưu ý:
- Rồi sao nữa?
- Còn gì nữa. Đến đó là hết chuyện. Như thế là "Kết Thúc Một Chuyện Tình", truyện của Graham Greene.
Nàng thở dài:
- Thế là ly kỳ hơn chuyện của tôi sắp kể rồi.
- Tôi không thích những gì "ly kỳ, éo le" đâu.
- Thế thì được. Nhưng gần Tết rồi, ông có ngại nghe chuyện buồn không?
Chàng lắc đầu. Nàng quay sang nói một cách tự nhiên:
- Ông cứ ngồi gần lại tôi... Tôi bắt đầu dây, ông có thể ngủ gục nửa chừng nhưng đừng ngắt lời hoặc hỏi gì cả.
Chàng nghe theo lời nàng, nhưng khi sắp nhìn thấy mặt nàng rõ hơn, nàng bỗng thổi tắt ngọn nến cắm trên bàn. Nàng trở thành một bóng đen. Chàng không còn nhìn thấy gì hết.
Chỉ có giọng nói của nàng, và tiếng kèn đồng của người nhạc công dã dượi lan đi khắp căn phòng.
- Cũng kỳ cục thật. Tại sao tôi lại kể cho ông nghe... Tôi đâu quen biết gì ông...
***
Năm đó, tôi được mười tám tuổi, học lớp đệ nhị tại một trường nữ tư thục ở tỉnh X... Thuở làm học trò thật là vui. Mỗi khi tan trường, tôi và vài ba đứa bạn gái thân nhất còn dạo một vòng ven bờ sông. Thế là bao nhiêu gã thư sinh lò dò theo sau một đoàn, xầm xì bàn tán, mà tôi chắc đó chỉ toàn là những lời trầm trồ ca tụng. Thỉnh thoảng một anh chàng nào đó bạo miệng nhất thốt lên vài lời b%
C31205
Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.
Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Tòan châm chú nhìn nguời bẻ ghi cúi xuống đuờng rầy chuyển con đuờng sắt lắp vào đuờng đi truớc mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng, khói không còn bay mạnh nguợc chiều, bốc lên tan lõang chậm rãi.
Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy rêu ủ dột, Tòan cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những nguời bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phuơng. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên torng những vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm đậm đà và làm Tòan chảy nuớc miếng.
Tòan xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách ruới đụng phải anh, chắn lồi bực thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.
- Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thuợng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.
Tòan mỉm cuời:
- Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.
Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cuời nói ồn ào của hành khách.
Một vài nguời vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi buớc vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì đến điều khiếm khyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh anh như thuờng lệ. Anh thấy mình rõ ràng buớc đi khập khễnh, chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều truớc mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Anh cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn nguời đi. Không biết có ai nhìn xuyên đuợc qua lớp vải quần của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.
Toàn liếc nhìn mọi nguời nhưng chặng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên xếp ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen to tuớng trên bàn. Tòan mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.
Băng qua con đuờng cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xùm xít với nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm tòan là những mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài luới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã truờng hay Quận truởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khỏang sân mát mẻ duới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng tòan muờng tuợng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ truờng tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái truờng tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang buớc chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng nguời như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.
Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:
- Thưa cô Hiệu truởng, có khách hỏi cô.
Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:
- Phụ huynh của em nào hả?
cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:
- Thưa cô không biết ... ông này ... lạ hoắc ạ.
- Đuợc rồi.
Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và truớc khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp lại chi Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô hiệu truởng truờng tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.
Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:
- Trời ơi! Toàn đó hả?
Anh chỉ biết nhe răng cuời sung suớng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạn rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chấm lấy Toàn nếu không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tuờng như một tìn đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:
- Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không.
Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình đuợc tha vì cô Hiệu Truởng có khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.
Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng truớc kia của lão Hiệu truởng cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tuờng và quả địa cầu xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học trò biết chị.
Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:
- Cái chân…
- Sao?
- Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.
Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn
- Trời ơi… trời ơi…
và tòan thấy bàn tay anh lạnh uớt nuớc mắt.
- Thôi… Toàn không chết là may rồi. Tòan đuợc về là may rồi. Ở mãi đây nghe.
Anh mỉm cuời:
- Tôi viết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.
- Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc truớc, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ… và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.
- cái chân.
- Toàn!
- Truờng lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài huớc cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.
Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và than mật tự nhiên như lúc truớc, chị dìu vai Toàn đi vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một nguời đàn bà độc than. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với chân giuờng ngủ. Toàn còn nhớ truờng này có hai phòng học bỏ trống, đuợc chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi truớc cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu truởng nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:
- Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chắt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nuớc dừa không?
Toàn mỉm cuời, cảm giác yên lành ngập tràn nguời anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như cũ.
Anh thiếp đuợc một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ… truớc kia chị Lục và anh là đồng nghiệp than nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bong đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh thuờng bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi đuợc làm trọng tài. Anh bật cuời. Có lần bong trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti”. Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gỗ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá luới” sang chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bong bay lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển. Rồi còn gì nữa... Anh bị gọi đi lính. Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thuờng cùng thấy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.
Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hòan toàn vì mái truờng cũ và chị Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.
… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. ANh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừ thở hào hển trên bãi biển, đuổi theo chị Lục. Chị ở truớc mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cuời cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống úp mặt uớt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình anh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét lên…
- Toàn!
Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tuơm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nuớc dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:
- Chiều rồi. Sao chị không dạy học?
- Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à.
Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Ahh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bang quơ.
- Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.
Anh lắc đầu. ANh tìm thấy duới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nuớc Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh… thu viện truờng tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:
- Thôi đọc cái này vui lắm.
Chị Lục cũng bật cuời. Chị nói:
- Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tuới lắm…
Chị mở cánh cửa
- Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.
Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc đuợc gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.
Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc duơng rũ là xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran duới chân nguời.
Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều đuợc dọn ra trong cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai nguời. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ đuợc nấu chin vội vàng trong những chiếc thùng đen đo bẩn.
- Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.
Chị Lục nhùnh bánh tráng sơ sài vào nuớc cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm bôc lên, những khoanh cá chin ngã sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tuơi chẻ nhỏ đuợc tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nuớc chấm đuợc làm bằng nuớc cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tuơi, mát mẻ dòn tan của rau xanh, mặn mà của nuớc cá và vị ớt cay cay…Gió biển lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút trong nguời vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.
Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cuời và khẽ nuốt nuớc bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần chị,chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình thuờng và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nuớc cho bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh dòn. Anh mãi miết ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:
- Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.
Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên luỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nữa cho chị Lục.
- Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.
Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh.
- Uống lỡ say rồi sao. Tôi đâu biết uống ruợu.
- Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.
Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển.
- Ờ... mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.
- Có ‘chuơng trình’ gì vui không ?
- Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì đuợc. Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tuơi về luộc ăn với nuớc tuơng. Không biết mùa này có ‘nuốc’ không... ‘nuốc’ ăn mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.
Anh nhìn chị Lục, mìm cuời khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thuờng ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống ruợu tai hại như thế nào.
Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá, mọi nguời đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần truờng học, một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.
Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy long lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi long mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh, với một nụ cuời thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tuởng tuợng quá nhiều nụ cuời của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn đuợc lờ mồ khuôn mặt chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp. Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:
- Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ ….
Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát luơng và ngày hết tiền cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đuờng chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, truờng học và chị Lục. Một ngày chủ nhật...
Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nuớc. Biển Lăng Cô khong phải là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng nguời, một vài đứa trẻ con lội nuớc đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài luới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm. Tiếng chị Lục đằng sau :
- Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không ?
- Đâu biết đuợc, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.
Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng mội phút giây. Nhưng làm sao anh biết đuợc. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.
Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm,nằm trong lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Truờng Sơn. Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên đỉnh núi. Con đuờng đèo Hải vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mấy trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ài cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây ?
Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tuởng tuợng. Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như luớt nhẹ chứ không phải là nghiến bánh trên đuờng rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt nguợc chiều, bay loãng rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyên tàu đó. Anh lẩn bẩm :
- Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô ... rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn... rồi lại lên đừờng...
- Tòan định đi đâu nữa ?
Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da tuới sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rãnh rang và tốt trời.
Tòan đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đuờng đèo xa, nhưng bây giờ không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả lời :
- Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.
Giọng chị ân cần :
- Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao ?
Anh im lặng nhìn về phía nhà ga. Chị Lục nói tiếp. Tuần nào đến chủ nhật là bỏ truớng phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu truởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao nhiêu lần...
Chị Lục cuời :
- Trong truờng, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi chứ.
Anh cũng mỉm cuời, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một nữa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm duới mái truờng này quá. Và kỷ niệm đẹp chính lá điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại đuợc những gì tuơng tự như thuở truớc.
Có tiếng cuời đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài luới làm Tòan và chị Lục đều giật mình.Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai nguời nãy giờ đã ngồi sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu truởng nghiêm trang đáng kính của chúng.
Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả hai đếu có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai nguời đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưgn hôm nay là chủ nhật, bọn trẻ con đuợc nghỉ học đều ùa ra bãi biễn nghịch cát, té nuớc hay sữa sọan leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai nguời.
Chị Lục và Toàn đành phải về truờng. Bây giờ chỉ có sân truờng và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ : Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi nguớc nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng, trong phòng mớ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tuờng đã thay đổi, lúc truớc Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt của rừng già Phi Chấu : cá sấu, ngựa vằn, sư tử... Trên góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.
Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cuời để giả vờ làm một cô học tró chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một ‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm trang nói lớn :
- Trò Nguyễn Thị Huyền Lục
Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ :
- Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à ?
Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn :
- Nguyễn Thị Huyền Lục !
Chị Lục bậm môi, lên tiếng :
- Có mặt.
- Lên bản mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.
- Thưa thầy, đêm qua... em phải khâu luới dùm cho ba em nên em quên học bài.
- Ze-ro ! thôi bây giờ lên bảng làm toán.
Chị Lục mỉm cuời, rón rén cầm viên phấn đứng truớc bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thấy nữa.
Anh chậm chạp nói:
- Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy nguợc chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là … viết đi chứ…
Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ờ trên chuyến tàu đó, nghe không…
- …năm muơi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sang…
Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngõan chép đúng lời nói của ‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm gì, chị đang làm bài toán gây go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa…
Toàn thẩn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:
-… hỏi hai xe gặp nhau trên đuờng lúc mấy giờ?
Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết … tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn…
Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi mấp mấy và đôi mắt gần như sắp ứa nuớc mắt. Chị có vẻ như một cô học trò nhỏ chịu bí truớc bài toán khó, khổ sở truớc đôi mắt nghiêm khắc của ông thầy.
Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê man. Nuớc mắt chị Lục uớt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi huơng dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi uớt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn nầm sống.
***
Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con nguời tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi đuợc không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bong cái chân hằn vết sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn truớc mặt anh.
Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bong tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm than của Toàn cuống quýt trên nguời. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, là nguời trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút đuợc tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát ruợi hơi uơn uớt mồ hôi duới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mãnh áo quần của hai nguời vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của chị Lục duới than nguời anh… và lúc đó … ngay giây phút cuối, ngay truớc cánh cửa hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng nguời, than thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…
Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị Lục, nhưng không thể nào đuợc nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn nguời anh như một gáo nuớc lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi nguời, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không dằn đuợc sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng như không lien hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đuờng khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt đuợc khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tuởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tỏm trong ánh mắt chị.
Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:
- Sao thế, Toàn?
ANh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy nguời anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh thỏang chị hôn vào đuờng rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh hơi rung mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả than thể duờng như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.
Vết thuơng cũ đã lành, nhưng mỗt liều độ duợc giờ đây đột ngột tác hại khắc cơ thế và đầu óc, chói lòa truớc mắt anh …
Cái chân què quặt còn làm lien tuởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến truờng. tất cả như một màn luới đen dày đặt trói buộc tâm hồn làm nguời anh rũ ruợi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy…Hình như nuớc mắt của chị Lục đang thấm uớt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng nguời anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chuờng khổ sở thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào nguời, mở cửa ra phòng truớc.
Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc , tiếng song đều đều âm u. Anh tỉnh nguời, dễ chịu đôi chút trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào đuợc nữa.
Mặt trận, chiến tranh, sung đạn, máu, mồ hôi…Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận… Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh.Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc sung, chúng vẫn còn âm ĩ lúc nhúc trong nguời anh như một thứ vi trùng độc địa.
- Toàn!
Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ ruợi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sang, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến truờng. Chị phải trở lại với công việc, với bột mặt nghiêm khắc lạnh lung của một cô Hiệu truởng.
Tòan lầm lũi đi từng buớc nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ đe trên vai nhưng nguời anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh huớng về phía sân ga Lăng Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa tàu,và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi truờng nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.
Nhà ga thưa thớt nguời, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. ANhngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh,nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một kẽ htuơng binh không phục hồi đuợc cuộc sống bình thuờng, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị truớc trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một nguời đàn ông bất tòan, vô dụng, anh không đem lại gì đuợc cho chị Lục, món quà yêu thuơng đã thất lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thuơng tích và quá khứ.
Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đòan tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại truớc nhà ga. Vài hành khách buớc xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khểnh leo lên toa tàu. Một nguời nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toànlàm anh bự mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên…chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt chị uớt đầy mồ hôi hay nuớc mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại duới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cuối đầu truớc chị Lục. GIọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:
- Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi…không thể không có Toàn đuợc…
Anh quay mặt đi, run rẩy:
- Tôi chỉ là một nguời tàn tật… Tôi không thể…
Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai nguời. Từ truờng học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tuơm tất như thuờng lệ cho xứng với một cô Hiệu truởng. Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặt trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.
Tòan nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con, chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:
- Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một nguời tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.
Toàn thấy nguời đuợc đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đuờng sắt, giọng chị thủ thì bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:
- Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…
Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung suớng bồi hồi khi đuợc tận huởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thuơng.
Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết long và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nỗi. Có vị danh y nào, liều thuốc tiên nào cứu chữa đuợc vết trọng thuơng sâu đậm ngay chính trong tâm hồn.? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thuơng cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời đuợc. Trong anh, một con nguời dằn vặt sẽ truy nã một con nguời đầu hàng yếu đuối đến ký cùng.
Khi địa ngục đã xây huyệt trong long nguời, còn có cách nào khác hơn là phải dấn mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp dầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở huớng về trần gian tuơi đẹp.
Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ tứ lăn trên đuờng rầy, để lãi một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.
Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những buớc chân của anh chậm rãi nhưng cuơng quyết nguợc chiều với sân ga mãi mãi.
- Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sang thứ Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Tòan phải… đền cho tôi cái gì đi…
- Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ đuợc nghe rất nhiều bản tình ca.
Chị Lục mỉm cuời. Giờ đây với một nguời thuơng luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khóat hẳn với những ám ảnh bệnh họan trong nguời Từ hôm nay cho đến ngày mai hồng sang sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với Toàn. Không súng đạn, không ảo tuởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến buớc trên mặt trận cuối cùng này.
Bạn nhỏ, Có lẽ đây là lần cuối cùng tôi còn gọi em là “bạn nhỏ” . Nhiều chuyện đã đến . Nhiều điều đã qua đi, thay đổi . Em không còn nhỏ dại nữa . Tôi không còn là người bạn của e Vào một khoảng thời gian nào đó, chúng ta đã gặp nhau, thương yêu, và rồi xa cách, tan vỡ . Lần cuối cùng, chúng ta đã gặp gỡ tại một nơi chốn bất ngờ, không hẹn trước . Một thị trấn xa lạ đối với em và cả với tôi . Dầu nơi đó có núi, có biển, nhưng không phải là quê nhà của em, không phải là chốn thiết thân của tôi . Tôi bị đẩy đưa đến thành phố đó . Em một lần tình cờ ghé lại, trên con đường dài còn rất nhiều trạm đến của em . Em phải hít thở biết bao nhiêu bụi đỏ và mệt nhọc trên những con đường núi gập ghềnh nắng cháy, mới tìm thấy tôi . Buổi chiều, tôi đón chờ và nhìn thấy khuôn mặt em rám đen bơ phờ vì nắng bụi . Tóc em đã dài, nhưng cháy khô và rối bù . Dưới hình ảnh phong trần của một lữ hành khách, em có một nét đáng yêu và đáng ghét riêng biệt . Tôi không biết phải giải thích rõ ràng như thế nào, nhưng tôi không còn cười vui hớn hở sung sướng mỗi khi gặp em . Sau một vài chuyện xảy ra trong cuộc sống riêng của tôi, hình như tôi không còn cười được nữa . Tôi chỉ có thể mỉm cười gượng gạo . Và em biết điều đó . E Sao gặp em mà anh không có vẻ mừng một chút xíu nào . Sau đó, trong một quán nước nhỏ vách gỗ sơ sài, gần bên cửa sổ có treo một chiếc đồng hồ kiểu Đại Hàn có cây kim chạy ngược chiều, tôi nói: “Anh đã hết thương em” Giọng nói của tôi lúc đó chắc có vẻ càu nhàu bực bội . Và tiếc rẻ, vì tôi tự nghĩ không điều gì đáng buồn chán bằng điều đó . Thế mà điều đó đã xãy đến . Tôi không còn thương em được nữa . Em cười có vẻ ái ngại tội nghiệp cho tôi . Em an ủi: Em không tin thế đâu . Em không tin là anh hết thương em . Tôi vẫn càu nhàu, gầm gừ: “Chà . Em tự tin dữ . Đừng kiêu hãnh quá như vậy. Thật tình mà nói em đừng giận, nhưng chắc chắc anh đã hết thương em rồi” . Em khúc khích cười như vừa nghe một lời nói dối vụng về nhất trên đời . Em lắc đầu, là Anh đã quên em, theo đúng thói quen thông thường của anh, nhưng anh phải còn thương em . “Không …không đâu . Đừng ép buộc anh về những chuyện tình cả Còn lâu à . Vắng mặt em, nên anh tưởng thế . Nhưng bây giờ gặp mặt em lại . Có em đây, anh đang thấy là đã thương em lại, phải không ? “Không … Không mà . Anh hết thích em rồi” Em không tin . “Dĩ nhiên . Em có bao giờ tin anh điều gì đâu . Khi anh thương em, em không hề tin chuyện đó . Bây giờ anh đã ghét em thực tình, em cũng không tin điều này nữa . Chúng ta khởi đầu trong nghi ngờ, chúng ta tiếp diễn trong hoài nghi, rồi chúng ta kết thúc trong ngờ vực” . Em bật cười: Anh vẫn còn ăn nói hay ho thật . Nhưng hoàn toàn vô nghĩa . “Thôi . Mình không nói đến chuyện đó nữa . Tối nay, nên đi một vòng thành phố cho biết . Trước hết kiếm cái gì ăn đã, chắc là em đang đói bụng lắm phải không ?” BỐI CẢNH: Quán ăn vắng khách . Ngoài đường trời đã tối . Chỉ thấy ánh sáng nóng bức từ chiếc xe bán hủ tiếu mì cũ kỹ với những hình vẽ màu mè đã tróc sơn . - Ở đây có bán cơm không ? Cơm phần hay cơm dĩa cũng được . - Dạ không … - Vậy có cái gì ăn ? - Dạ …. hủ tiếu, mì, đồ nhậu, mì xào dòn . - Cho một dĩa mì xào dòn hai người ăn . Một “33”, một ly đá chanh . face=verdana,arial,helvetica,sans-serif>Buổi ăn xong xuôi qua loa, không được ngon miệng . Chiếc xe xích lô chậm chạp đi qua những con đường tối, ngắn ngủn và loay hoay trong thành phố vắng vẻ . Dừng lại trước rạp chớp bóng gần chợ . Tấm hình vẽ quảng cáo cho thấy là một phim cũ, đã xem lâu lắm rồi, phim hay: L’Été 42, có nhớ không: những bó hoa và nụ cười thiếu phụ diễm lệ, nhạc đệm bàng hoàng, chiếm giải Oscar về â Xe xích lô tiếp tục lăn bánh về phía đường biển . Vào ngồi quán lộ thiên dưới những lùm cây . Chợt trời đổ cơn mưa ngắn hạt mùa hè . Chạy vào trong quán . Chợt hết mưa . “Mình đi ra bãi biển cho mát . Hết mưa rồi .” Cát ướt hết, làm sao ngồi xuống được . Tối quá, anh . Biển ở đây gì xấu quá . “Ban đêm mà . Làm sao em thấy xấu hay đẹp” Cả một ngày nay e Tôi kéo em lại gần . Bụi đường trên con quốc lộ suốt một ngày nay làm mất hẳn đi mùi thơm của tóc em . Đừng hôn em . “Ừ” Em như mệt thiếp đi vào ngực tôi . Chúng ta kề sát bên nhau, bàn tay lơ mơ nắ Em thấy không ? Có một cái gì rời rã, lo lắng, bất an dầu cho khi chúng ta vẫn đang gần gũi cận kề nhau . Em thấy không, chúng ta không còn yêu thương nhau nữa . Một cuộc gặp gỡ, một buổi tối, một lời hỏi thăm, nối dài sao được một tình yêu đã đến hồi hủy diệt . Nhớ lại xem cái thời say sưa nhất . E Bề gì, thì ta cũng đã quá thương nhau . Đó là lời nói hay nhất của em trong số những lời e ĐÀM THOẠI TRONG GIA ĐÌNH EM: - Mày thương hắn thật sao ? - Dạ . - Mặt mày hắn ra sao, tao chưa thấy bao giờ . Sao hắn không đến đây ra mắt tao . - Ảnh nhát lắm mà má . Đây, có hình của ảnh đầy nè, má coi tạm . …… - Trời đất ơi . Cái thằng mặt mũi cau có rầu rĩ như vậy mà mày thương sao . Trông hắn khó thương quá . - Thì ba coi cũng khó thương thấy mồ . Rồi má cũng thương ba quá xá mà . - Đừng lẻo mép . Nhưng mà … hắn có thương mày không ? - Con cũng không chắc . Nhưng anh đã nói là có . - Hắn nói sao ? - Thôi má, chuyện riêng của con mà . - Mày phải nói cho tao nghe . Hắn nói gì với mày ? - Lập lại nghe mắc cỡ quá má à . - Hừ … với hắn thì mày đâu có mắc cỡ . Còn nói với tao thì mày xấu hổ à . - Thôi được rồi … Ảnh nói với con như vầy: “Anh yêu em” - Trời đất, thằng đó chắc là kép cải lương quá . Rồi mày trả lời hắn ra sao ? - Con nói: “Em cũng …rứa” . - Thiệt là …. thiệt là …tụi mày cá mè một lứa . Nhưng tụi bây đâu có thể cứ ong ỏng cái bài con cá “Anh yêu em, em yêu anh” suốt ngày mãi . Hắn phải tính chuyện lâu dài đứng đắn với mày chứ . Rồi hắn có muốn hỏi mày làm vợ không ? - Có chứ, má . - Hắn nói sao ? - Má bắt con lập lại nguyên văn ? - Ừ . Nguyên văn . - Nhưng má đừng kêu trời nữa . - Ừ . Tao không kêu trời nữa . Tao sẽ nghiến răng để nghe . Tụi mày cũng đâu sợ trời đất gì nữa mà tao kêu cho mỏi miệng . - Để con nhớ lại coi … À … ảnh nói với con như vầy: “Em lấy anh quách cho rồi . Đừng cho ông bà già em biết cái mẹ gì hết . Anh với em tự động lấy nhau cha đi cho nó xong, những chuyện khác tính sau” . - Trời …không …. Lạy Phật ! Thằng khốn kiếp . Rồi mày trả lời hắn sao ? - Con tát tai ảnh . - Ờ …Nãy giờ mới nghe mày làm một chuyện được . Mà cái thằng đó sao nó ăn nói gì cộc cằn thô lỗ quá vậy . - Ảnh là cự u quân nhân đó má . Một thời gian anh đã đi lính lung tung đủ thứ - Sao hắn không chết trận cho rồi . - Con đâu biết . Ảnh cứ vác ba lô đi lòng vòng khắp nơi cả . Đức Dục. Đông Hà, Pleime, Lệ Minh, Tam Quan, Bồng Sơn gì gì đó …mà chẳng bắn được một phát súng nào hết, cũng chẳng thấy ai bắn ảnh một phát, nên ảnh vẫn còn sống nhăn răng . - Hừ … không sớm thì muộn cũng có ngày trời hại hắn giùm tao . - Má đừng lo . Ảnh đã thề thốt với con nặng lắm . Ảnh thề nếu sau này mà ảnh phụ bạc con thì ảnh chết vì đao kiếm, thân bị bốn ngựa phanh thây ngoài chiến trường . - Mày cũng tin đ ược à . Sao mày ngu quá vậy . Thời buổi này người ta đánh nhau bằng súng đạn, đi xe tăng, máy bay chứ làm gì còn đao kiếm với tứ mã phanh thây … Cái thằng đó xạo quá . Mà thôi … bây giờ mày tính sao ? Tao ngó bộ mày chắc không thể lấy ai ngoài hắn được . - Không đâu má . Con sẽ không lấy ảnh . Ai mà lấy ảnh làm chồng thì khổ lắm . Tính ảnh hay lang bang, lại nghèo túng . Mà con thì lúc nào cũng cần có tiền để ăn hàng vặt, may sắm áo quần, mua tiểu thuyết đọc, xem xi nê, sang băng nhạc … vân …vân … Con không dại gì mà lấy ảnh . Con sẽ lấy một ông nào cỡ bằng tuổi của ba . - Trời đất ! - Má lại kêu trời nữa . Có gì lạ đâu . Đàn ông mà cỡ bằng tuổi ba là con thấy cũng …vừa . Một ông mới ly dị vợ hay vừa chết vợ càng tốt . - Tao không hiểu nổi mày . - Có gì khó hiểu đâu . Má không đọc tiểu thuyết của Francoise Sagan hoặc của Yasuko Harada nên má không biết là thế giới bây giờ mấy con nhỏ cỡ tuổi con có cái “mốt” là thường yêu mấy ông già . - Thôi …tao mệt quá . Mày tính sao đó thì tính - Nói vậy chứ má đừng lo . Con còn đang đi học mà . Lấy cho xong cái bằng Bác sĩ rồi mới tính chuyện lấy chồng . Cũng còn lâu lắm . Con có dặn ảnh đợi con …bảy tám năm nhưng ảnh sức mấy mà đợi . Chừng đó thì con đã lớn rồi, tụi con sẽ không còn thương nhau được nữa . Tụi con chỉ có thể thương nhau trong lúc, và bởi vì tụi con còn nhỏ . Lớn lên, ảnh sẽ chán nản mọi sự, và con sẽ say mê nhiều thứ khác . Có tiếng ngáp nhẹ, thở dài . Em cũng đã nói đúng như tôi nghĩ . Đã hết hồi kết cuộc, lạnh lẽo và buồn rầu . Kết thúc như thế nào thì cũng bình thường, chán ngắt và tẻ nhạt như thế . Chẳng bao giờ có một đoạn cuối tưng bừng đẹp đẽ hoặc lâm ly gay cấn, ngoại trừ trong tiểu thuyết và điện ảnh . Khi còn thương yêu, tôi đã biết tự trong đó đã chứa mầm sự hết . Dĩ nhiên, rồi phải kèm theo những lý do, những cái cớ nào đó, để khi nào cần có thể đem ra giải thích . Sau đây là một vài lý do: - Trong một thời gian đầu tiên, tôi đã quen đọc thư em . Tôi đã quen nghe thấy những điều em nói, những lời em viết, những chữ em nhảy nhót tinh nghịch trong tôi . Tôi đã ghiền những thứ đó rồi . Và khi tôi đột ngột bị “cúp” phần “lương thực” quen thuộc như thế, tôi không chịu nổi, tôi giận em, tôi bực tức em, tôi bất mãn . Dần dà, tôi ghét em thực sự . - Tôi đã quen nghĩ rằng chỉ có mỗi mình tôi là được đọc, được thấy những lá thư của em . Rồi khi bị nhìn thấy những thư từ của em cho một người nào khác, bất cứ vì lý do gì: xã giao, thông thường ..v..v.. tôi cảm thấy khó chịu, thất vọng . Tôi cũng không chịu nổi . - Tôi đã quen tưởng rằng chỉ mỗi một mình là được nhận những bông hoa nhỏ, cỏ lá …. Mà em đã hái vội đâu đó, thường gửi đến cho tôi . Nên khi tôi được biết em có thói quen phân phát hoa cho khá nhiều người, tôi không thể chịu nổi . Tôi đã coi thường những bông hoa và thư từ cũ, từ đó, tôi biết rằng mình không thể còn thương yêu nhau được nữa . Vì những điều đáng quý nhất, giờ đây đã trở nên tầm thường . Vì những điều lẽ ra phải đáng kính trọng nhất, giờ đây đã bị coi thường rẻ rúng . - Tôi đã quen mơ tưởng rằng em luôn luôn theo đúng những gì tôi muốn . Nhưng dần dần, em đã hoàn toàn làm trái ngược hẳn ý thích của tôi . Tôi thích em quanh quẩn mãi trong xó nhà bếp củi, và em đã trở thành một nữ khách đầy dáng vẻ rong chơi du lịch lang thang khắp nơi khắp chốn . Tôi thích em đừng vẽ vời làm thơ làm thẩn, và em đã sôi nổi làm nên những bài thơ, kỳ cục thay, lại rất đặc sắc, tưởng có thể gom góp để xuất bản thành một cuốn “Ma Nữ Thi” được . Tôi thích em đừng tập tành viết văn vớ vẩn, và em đã viết, kỳ cục thay, viết được nhiều truyện rất hay, sớm thành công, khá nhiều người biết tiếng (những ngắn Trái Khổ Qua, Đồi Cát, Quốc Lộ, Con Đường Không Dài ..v..v …đăng liên tiếp trên tạp chí) . Tóm lại, cứ mỗi lần em làm ngược lại ý muốn của tôi, là một lần em chứng tỏ em có lý hơn, là một lần chứng tỏ cho tôi thấy tôi đã sai lầm nặng nề . Và cuối cùng, giờ đây, chúng ta đã hoàn toàn mất nhau rồi . Em với tôi . Chúng ta không thể cùng nhau nhìn về một hướng . Cũng không thể cùng đi về một hướng . Con đường tốt đẹp nhất là con đường trên đó chúng ta đi ngược chiều với nhau . Nếu tình cờ đôi lần trong đời, chúng ta chợt đụng đầu nhau như những chuyến tàu khác hướng vẫn thường chờ đợi sát bên nhau đôi phút ở sân ga để chờ người bẻ-ghi, tốt hơn chúng ta nên quay mặt làm lơ, giả vờ không thấy, giả vờ không biết nhau, để mỗi người tiếp tục con đường riêng biệt của mình . Không ai là không đóng kịch một lần trong đời, chúng ta hãy đóng kịch với nhau trong những lần gặp gỡ như thế, nếu có . Và tôi hy vọng sau vài lần đóng kịch như thế, tôi sẽ thực sự không còn biết em, tôi sẽ thực sự thấy em như một người hoàn toàn xa lạ . Tôi cũng nghĩ rằng không điều gì đẹp đẽ tốt lành cho bằng việc tôi tự thiêu hủy trong tôi cháy tiêu sạch những tất cả những rung động nào còn sót lại vì hình ảnh của em . Tôi tin chắc rằng tôi sẽ làm được điều đó . Những lá thư từ Đường Sơn Cúc đã ngưng . Nhà bưu trạm đã dời đến một nơi khác . Tem thư đã tăng giá . Sức lực, tình cảm, tâm trí …cũng không còn nhiều để nắn nót viết nên những điều đam mê cũ . Love Story Made in V.N. của HNT va MN đã hết . Tất cả, nếu còn lại chút nào, thì chỉ còn lại trong mấy cuốn sách đang rao bán trên thị trường chữ nghĩa . Cuối năm nay, tôi có dịp đi bằng đường bộ trên Quốc lộ 1 từ Trung vào Thêm một lần nữa, mùa xuân đang đến . Tôi cũng không còn ca ngợi nổi mùa xuân . Như những câu chuyện tình có bố cục cổ điển, tôi lại vừa được tin em sắp …lấy chồng . Hai câu thơ mùi mẫn của TTKh hiện ra trong đầu tôi (không nhớ đúng nguyên tác, chắc sai vài chữ): Nếu biết rằng em sắp lấy chồng Trời ơi người ấy có buồn không ? Buồn là cái chắc . Nhưng không nhiều, vì đây là một chuyện không có gì lấy làm bất ngờ . Tôi đã sửa soạn đón nghe tin này từ lâu . Và cũng đã sửa soạn quà mừng đám cưới (Một cuốn sách có nhan đề có lẽ khá thích hợp trong những vụ này: HÔN LỄ, chỉ giá 6000đ, nhưng có kèm thêm chữ ký và lời đề tặng của tác giả) . Có lẽ chúng ta cũng nên kết thúc bằng cái trò lẩm cẩm này: mong em cho biết địa chỉ của em, tôi sẽ gửi trả em những thư từ, kỷ vật, ảnh hình xưa cũ hoàn lại cho em, dĩ nhiên cũng có mất mát một đôi chút vì những lần tôi đổi chỗ ở di chuyển từ nơi này đến nơi khác . Cuối thư, xin thành thật chúc mừng em . Cũng bởi vì thành thật, nên tôi chỉ có thể chúc mừng chứ không chia mừng cùng em được .