Ngả nón chào mùa Xuân đi qua
Cô sáu tuổi không cười
Đôi bím thơ ngây
Gửi tiếng lòng trên má hây hây
Nếu ai hỏi
Cô cúi mặt
Sương một ngấn
Đong đầy

Lạ lẫm như giòng sông
Trôi buồn tênh
Như mưa giăng ngang nhánh sầu đông
Như thời gian bay mải miết
Én lượn thinh không
Vàng diệp héo hon

Cô không thể hiểu sao môi đỏ
Mầu dâm bụt
Sao cây lá run run
Mầu xanh quạnh quẽ
Sao khung trời bỗng tím
Sữa nào tuôn giữa hai máng vôi
Trắng trong

Mới sáu tuổi
Cô ngửa mặt ôm khối sầu
Bỏng cháy
Kia con nắng lạ thắp đuốc bàng hoàng
....................

Nửa đêm thức giấc
Cô gõ cửa mùa Xuân cũ
Nỗi xưa còn ghi
Dấu chân mây
924






1-
Sau khi thấy tên mình trong danh sách những người bị bãi việc vì công ty thua lỗ, tôi nghĩ ngay đến một chuyến đi xa. Chắc là phải đi xa. Đây là cơ hội duy nhất để tôi thoát ra khỏi cái thế giới chật hẹp của tôi. Hơn ít chục năm nay, hầu như tôi cứ lẩn quẩn mãi với những công việc liên quan đến miếng cơm manh áo. Hoặc khá hơn một chút nữa là vùi đầu vào một mớ sách báo nói nhăng nói cuội về lịch sử loài người, về những hành tinh xa vời, về những chuyến bay trên không gian, về những thế giới không tưởng.

Không tưởng! Như thế nào là không tưởng? Không tưởng vì không ở gần tầm tay. Hay không tưởng vì bước chân người chưa đi tới ?

Wajkicasasamje Okijjugo!
Lật bản đồ trên thế giới, tìm khắp mặt sông hồ. Nơi nao trên trái đất có địa danh nầy? Gần mười hôm nằm nghiền ngẫm cho chuyến đi, tôi mệt dã dượi. Đi thì phải đi chứ, nhưng nên bắt đầu đi từ đâu? Sự phải-ra-đi lúc nào cũng canh cánh trong lòng, và không thể không đi được…

Hôm nay tôi vác cái túi vỏn vẹn có vài bộ quần áo, một ít lương khô, ít giấy tờ hộ thân cần thiết và quyết định lên đường.
Vừa ra khỏi nhà, một chiếc xe buýt chạy trờ tới và tôi phóng vội lên xe.
Xe sẽ đưa tôi đến chân trời nào, đến phương hướng nào, tôi không hề bận tâm. Tôi biết là tôi đang trên đường đi tìm một cõi an bình cho chính tôi. Tôi tự ý thoát ra khỏi cái chật hẹp của tháp ngà mà linh hồn tôi luôn thổn thức. Ra khỏi cái tháp ngà! A ha! biết bao thiên hạ đang ung dung tự tại trong tháp ngà với tiếng ca điệu kèn…

2-
Khi xe chuyển bánh, tôi ngả mình nằm dài trên nệm xe. Những tiếng động huyên náo xung quanh tôi cũng bớt dần rồi im hẳn. Tôi mơ màng nghĩ đến thành phố tôi sắp đến. Thành phố đó có điều gì bí ẩn mà tại sao trong những năm tháng đã qua nó luôn luôn ở trong tôi như một thôi thúc ?

Wajkicasasamje Okijjugo! tên gọi từ đâu tới mà sao nghe như quen như thuộc ? Đó có phải là âm vang của ký ức ? Đó có phải là một thành phố của huyền thoại ? Hay thành phố của một thời hưng phế nào đó trong một cõi xa xôi nào đó ?

***

“Xích vào ghế bên kia đi cha nội !”
Đi kèm với tiếng nói ồm oàm là một cái đá đau chết người vào khuỷu chân tôi. Tôi rút chân co người lại và choàng mắt ngó người bất lịch sự kia. Hắn xí xóa,
“Xin lỗi nhé! Kể ra thì đá có hơi mạnh”.

Mạnh là cái chắc. Còn giả vờ kể ra với không kể ra! Tôi tự bảo thầm như vậy, rồi ngồi thẳng người lên, đầu dựa vào thành ghế, mắt nhắm nghiền định ngủ tiếp. Người lạ khều tay qua làm phiền tôi,
“Ông bạn co giò lên cho tôi nhét cái túi xuống dưới ghế tí coi.”
Tôi lại nhổm người đậy và mở mắt liếc nhìn hắn. Rồi lẳng lặng không nói gì, tôi co hai chân lên. Cái túi màu đen hơi quá khổ nên hắn không nhét hết vào dưới ghế được, hắn cứ rút ra đẩy vô một lúc, rồi cuối cùng giã lã,
“Thôi thì thế nầy cũng được. Ông bạn có thể cho hai chân ngơi nghỉ trên cái túi của tôi. Nhưng nhớ đừng đạp mạnh đấy nhé ! Trong đó có nải chuối…”
Tôi bực dọc,
“Mẹ kiếp ! ông ở đâu tới mà cứ như là cha tôi ấy.”
Hắn lại cười,
“Sorry, sorry. Chốc nữa xe dừng ở trạm sắp đến, tôi sẽ thu xếp cho bạn được thoải mái hơn. Bây giờ tối quá, chả thấy gì cả.”

Quả thật trong xe tối om om. Tôi nhìn vào cái đồng hồ dạ quang đeo ở cổ tay. Chín giờ rồi cơ đấy. Như vậy là tôi rời nhà đã hơn mười hai tiếng. Lên xe buýt. Xuống xe buýt. Đi lang thang một lúc. Ma đưa lối quỷ dắt đường như thế nào lại dẫn xác đến ngay trạm Greyhound. Người bán vé cho biết Greyhound đang “on sale" . Một vé khứ hồi trên khắp nước Mỹ và có thể qua tới Canada chỉ có năm mươi chín đồng … Đi thì đi. Thế là đi. Tang bồng hồ thỉ nam nhi chí. Tôi cười mỉm một mình trong bóng tối và lan man nghĩ tới cái tang bồng rất bốc đồng nầy. Không thắc mắc một chút nào về con đường sắp đi tới. Lạ lùng thật ! Sự buông thả nầy làm tôi thấy thú vị lạ lùng.
Như một canh bạc đánh thẳng tay không sợ thua. Đánh không sợ cháy túi ! Tôi gật gù,
”So far so good.”
“What do you say.” ? Ông đã thức dậy rồi ư ?”
“Vâng. Ông làm tôi hết ngủ được. Có thuốc lá không, cho một điếu.”
Hắn nhổm người lên một chút, rút bao thuốc khỏi túi quần, lịch sự mồi thuốc rồi đưa qua cho tôi.
Tôi hít được vài hơi, chưa kịp thưởng thức được trọn vẹn cái khoái lạc của mùi thuốc lạ, thì có tiếng tru tréo từ ghế phía trước,
“Bác tài ơi ! Có người hút thuốc trong xe. Tôi ngộp thở chết mất thôi !…”
Tôi dụi ngay điếu thuốc. Niềm vui của mình là cái khó chịu của người khác…

Dòng tư tưởng của tôi bị cắt đứt khi người bên cạnh trầm giọng nói,
“Từ đây tới trạm mới phải mất hết một tiếng bốn mươi lăm phút. Bạn có thấy khó chịu vì cái túi của tôi không ?”
Tôi đâm ra dễ dãi,
“Không sao ! Tôi có thể ngồi như thế nầy cho đến khi trời sáng. Có chỗ gác chân cũng không đến nỗi nào. Chỉ sợ cho nải chuối của anh có thể bị dẹp mất.”
Hắn cười,
“Nải chuối cũng có số mệnh của nải chuối. Khi tôi bỏ nó vào trong xách tay, tôi không hề có ý nghĩ là nó sẽ nằm dưới sức mạnh của chân ai. Mà nay nó lại nằm dưới chân anh, thì tất nhiên nó phải đành cam chịu thôi.”
Tôi bật lên cười vì lời nói chuyện dí dỏm của hắn. Thấy thân thiện lạ lùng. Đưa tay ra bắt và giới thiệu,
“Art Lienen, tên tôi.”
“Hân hạnh ! Hân hạnh ! Bỉ danh là Gustave C , nhưng bạn bè thường gọi tôi là Craze Guff. Vợ tôi không thích cái tên nầy lắm, nhưng đôi lúc tôi thấy thoải mái với bằng hữu hơn là với bà xã…”
Hắn cười khì sau câu nói đó .

Craze Guff, cái tên cũng lạ! Tôi quay qua nhìn kỹ hắn hơn.
Đầu đội cái mũ dạ, miệng rộng và cằm vuông. Trong bóng tối, đôi mắt hắn sáng quắc và rất linh lợi. Đôi mắt như soi thấu tâm can tôi. Tôi quay tránh đôi mắt đó một chốc, rồi đột nhiên quay lại,
“Không nhẽ tôi đã gặp ông ở đâu rồi ? Hình như tôi đã gặp ông ở đâu rồi?”
Hắn cúi đầu. Câu hỏi của tôi chìm vào trong đêm sâu. Chiếc xe lao mình trên con đường dài hun hút của xa lộ.
Chỉ có bóng đêm và xe. Chỉ có tôi đối diện với lòng tôi, một khoảng trống ngút ngàn…



3-
Xe đến thị trấn Jonhatanburgs lúc một giờ trưa. Trời nắng chang chang và gió thổi hâm hấp rất khó chịu. Mồ hôi tôi vã ra như tắm. Tôi ước ao được nhảy tõm xuống một hồ bơi, lội ít vòng cho đã.

Craze Guff lại gần, chìa cho tôi một trái cam đỏ ối. Ban ngày tôi được nhìn thấy hắn rõ hơn. Đó là một người đàn ông to lớn, với một vầng trán phẳng lì và cái nhìn cực kỳ thông minh. Ở hắn toát ra một vẻ gì rất vĩ đại %2
C mà tự dưng tôi cảm thấy mình rất nhỏ bé và tầm thường khi đứng gần. Tôi lăn qua lăn lại trái cam trong hai tay, rồi ngửng đầu lên hỏi người đối diện một câu rất vô duyên,
“Không biết nải chuối bị dẹp có còn ăn được không?”
Hắn cười, giọng vỡ như sấm,
“Nải chuối đó không ăn được vì không phải là chuối thật.”
Hẳn tỉnh bơ khi thấy tôi nhún vai. Hắn kiên nhẫn giải thích,
”Nó được làm bằng một chất sáp đặc biệt, khi gặp thời tiết thay đổi bất thường thì sẽ biến dạng…”
“Như gặp cái nóng bây giờ, nó sẽ trở thành trái cam?”
Hỏi xong, tôi cảm thấy mình thật vô duyên. Nhưng Craze Guff hình như không màng đến điều đó. Anh ta điềm nhiên trả lời,
“Bạn nghĩ trái cam trong tay bạn không phải là của thật ư ? Không. Không. Của thật đấy. Ăn đi cho mát lòng.”
Không đợï tôi hỏi tiếp, hắn tiếp tục,
“Cái nóng bây giờ chẳng thấm tháp gì với sức nóng vạn năng của mặt trời khi ta đến gần. Nải chuối của tôi có mười hai trái như mười hai ngón tay. Mỗi ngón tay được chế bằng một chất sáp khác nhau, những chất sáp nầy có những khả năng đối kháng khác nhau.”
Tôi tròn xoe mắt kêu lên,
“Thực là khó hiểu ! Thực là khó hiểu! Tại sao không là mười ngón mà là mười hai ? “
“Mười hai ngón sẽ dùng sau khi ta đi xuyên qua mười hai lần mười hai vạn ngàn lớp khí quyển để vào không gian…Mười hai độ bay vô cõi Vô Ưu. Mỗi một ngón tay tan đi cho ta ước tính được khoảng xa gần của Hỏa tinh để tránh những bất trắc…”
Tôi đang ngơ ngác với những lời hắn nói thì Craze Guff dịu giọng,
“À nầy, bạn không để ý đến con số mười hai ư ? Người Á Đông họ có mười hai con giáp.... Một năm có mười hai tháng. Một ngày có hai lần mười hai giấc…”
Tôi thực tình không hiểu hắn muốn nói gì. Lồng ngực của tôi như muốn nứt ra. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không thích thú lắm với câu chuyện kỳ quái của hắn.
Craze Guff nhún vai, bỏ đi. Tôi nhìn theo bóng dáng cao lớn dềnh dàng của hắn đang khuất dần sau đám cây xém lá.
Rắc rối ! Cuộc đời sao có lắm người bày ra nhiều trò thật rắc rối...

Tôi bóc cam ra ăn. Những múi cam mọng nước và ngọt lịm như đường. Cam đi tới đâu mát rượi đến đó, và trong tôi một nguồn sinh lực vô bờ tràn dâng.. Sinh lực. Mọng nước. Ngọt như đường. Tôi miên man nhớ tới đôi môi người tình năm xưa. Môi của nàng cũng ngọt nồng như thế. Em ! Bây giờ em đang ở đâu ? Bây giờ em đang ở đâu ? Lòng tôi bỗng quay quắt một trời thương nhớ…


Craze Guff trở lại. Hắn bảo xe sắp rời bến. Tôi theo gót hắn trèo lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Người đàn bà chanh chua ngồi ở ghế trước không còn nữa, thay vào đó là một hành khách mới. Tên nầy cao và ốm lom nhom. Hắn ngồi dựa mạnh ra phía sau làm thân ghế suýt chạm vào mặt tôi. Mỗi lần hắn ẩy người là mỗi lần tôi phải thụt đầu lui rất khó chịu. Craze Guff liền ra tay tế độ. Hắn đập mạnh vào thân ghế của cái gã kia. Tên nầy tức thời đứng dậy vung tay. Nhưng khi đôi mắt hắn chạm phải cái nhìn như lửa của Craze Guff, hắn có vẻ lưỡng lự giây lát. Rồi lầm lì ngồi xuống. Và ngồi đàng hoàng. Tôi thở phào nhẹ nhõm…



4-
Chúng tôi đã đi xuyên qua rất nhiều ruộng đất khô cằn sỏi đá. Cỏ cháy xém ngọn buồn hiu. Lâu lắm mới thấy một bụi cây lơ thơ ít cành trơ trụi lá. Lãng đãng ở cuối chân trời có từng vòm bụi đỏ, trông xa như những cánh sen đang vươn lên trong sương khói, trong cõi mơ hồ. Đầu óc tôi chập chùng vô định.
Người bạn đồng hành nghiêng đầu qua nói nhỏ,
“Lúc nãy có người ghé qua xét giấy nhưng bạn ngủ say quá nên hắn không nỡ đánh thức.”
Tôi im lặng không trả lời.
Hắn tiếp tục,
“Bạn sẽ xuống bến nào ?”
Tôi không trả lời. Biết trả lời như thế nào bây giờ. Tôi mua vé để được ngồi trong xe, theo xe đi đến chân trời góc bể, đi cho mòn mỏi cuộc đời, đi cho tâm hồn dại khờ ra. Đi để được đi. Còn nơi chốn đến ? Tại sao tôi phải âu lo về nơi chốn sẽ đến ? Vả lại, nếu tôi nói cho hắn biết tên thành phố tôi muốn đến là Wajkicasasamje Okijjugo thì hắn sẽ có dịp cười vỡ mật ra, cười són đái ra à ?
Trong bản đồ thế giới đâu có nơi nào ghi tên cái thành phố lạ lùng đó. Làm sao tôi có thể trả lời câu hỏi của hắn khi chính tôi cũng không giải đáp được cái dấu hỏi to tướng trong đầu óc tôi ?


Tôi lách mình qua hai hàng ghế chật hẹp để đi về hướng nhà cầu ở phía cuối xe. Ở đó, tôi đụng đầu với cái anh chàng cao lêu nghêu. Cái anh chàng ngồi phía trước đã từng có lúc làm phiền tôi ấy mà.
Thấy tôi, hắn nheo mắt. Đôi mắt sao sắc như gươm, cái nheo đủ sức nghiến đời tôi làm hai mảnh. Tôi thấy đau ở buồng ngực và gập mình lại. Hắn cúi xuống đỡ tôi, miệng lắp bắp,
“Nầy ông bạn, ông bạn không sao chứ ?”
Tôi rùng mình khi hai bàn tay hắn chạm vào da thịt tôi. Một làn khí lạnh như băng chuyền vô thân thể tôi, qua ngũ tạng rồi nguội dần.
Tôi hổn hển,
“ Không sao, tôi không sao. Xin cám ơn.”
Tiếng hắn nói, nhẹ như hơi thở ,
“Tôi tên là Mun Yokalov.”
Chưa kịp để tôi được tự giới thiệu, hắn lách mình vào cái cửa nhỏ của nhà cầu khi người ở phía trong bước ra.

***
Đang chạy êm ru tự dưng xe lắc lư như đang đi vào một con đường có nhiều ổ gà. Người tôi cũng lắc lư theo xe. Nước tiểu chảy lỏng tỏng xuống lỗ của cái bàn cầu nhỏ xíu bắn tung tóe ra ướt cả hai ống quần.
Xe lại thắng mạnh làm tôi chúi mũi suýt đập đầu vào vách. Cây bút mực gắn ở túi áo văng ra rớt vào cái bồn rửa tay bằng thiếc. Trong đó, ai đã bỏ quên một mảnh gương soi hình tròn bọc bạc rất đẹp. Tôi kéo phẹc-mơ-tuya lên cài quần, mắt dán vào bồn rửa. Cây bút nằm bên cạnh gương ngời sáng lạ kỳ. Mắt tôi hoa lên, thấy hình như cây bút di động. Như có dòng chữ múa. Bút viết trong đầu :

Dỗi hờn của em
Bồng bềnh trên sông

Thơ ngây của em
Một dúm trăng non

Tinh chất của em
Ngọc nát vàng tan...
(hkkm)

Tôi đưa tay lên đè ngực. Ngọn sóng lòng như trào lên. Tôi vục đầu xuống bồn thiếc, hoang mang. Mảnh gương nhỏ lấp lánh hai chữ MY quấn vào nhau ở phía góc mặt. Hình như gương mà không phải gương. Hình như trăng mà không phải trăng. Hai thế giới mộng và thực đang quyện vào trong nhau để ép tôi vào giữa một trạng thái vô bờ.
Tôi tự hỏi tôi đang ở đâu. ..Là ai ? Là ai ? ….







5-
Chiếc xe đò từ từ tấp vào bên vệ đường và dừng lại trước một ngôi quán bằng gỗ nằm gần bên con lộ. Tiếng người tài xế văng vẳng qua máy phóng thanh cho biết xe sẽ dừng ở đây trong vòng mười lăm phút. Mọi người lục tục xuống xe để giãn gân cốt.

Nắng chiều đã dịu, trời mát và gió thổi rất nhẹ.
Trên đường lộ có nhiều sỏi màu đen bóng. Tôi lấy mũi giày ủi ủi lớp sỏi. Một đám bụi màu tro than bay lên bám tận gấu quần. Có lẽ họa hoằn lắm ở đây mới có một cơn mưa, vì hai bên vệ đường cỏ mọc từng bụi nhỏ lưa thưa có màu xam xám…

Từ lộ vào ngôi quán phải đi qua một mảnh đất nhỏ có kê hai cái băng ghế bằng gỗ cũ kỹ. Nhìn mặt ghế rất thảm hại với những vết hằn ngang dọc sần sùi loang lở những vết son đỏ tàn tạ, tôi liên tưởng tới da dẻ của người góa phụ hàng xóm đã về chiều luôn chểnh mảng trong việc săn sóc nhan sắc. Bà ấy hay biện minh bằng hai chữ cóc cần rất chối tai và gàn bướng, cho rằng cuộc đời bà coi như bỏ đi, coi như xong. “Thời gian là thủ phạm của mọi hủy hoại”, bà nói thế. Đôi khi tôi làm bà muốn điên lên khi cười cười nói rằng chính bà đã làm cho bà già hẳn ra với những ý nghĩ tương tự. Thời gian chưa hẳn là thủ phạm. Theo tôi, ta đang tự hũy hoại mình trước khi thời gian kịp hũy hoại ta. Bà la lên oai oái, kêu là tôi ác độc quá. Và tôi đã phải vội vàng nói .”sorry sorry "
liên hồi để bà nguôi giận… Bà liền hỏi,
“Thế thì tôi phải làm sao đây ?”
“ Làm sao đây ? Ôi dễ quá. Tại sao con người cứ dại dột nghĩ tới ngày chết làm gì. Phải biết chấp cái chết chứ. Ngày giờ nào còn sống thì phải biết sống cho ra hồn. Phải hưởng trọn từng tích tắc đồng hồ, và cứ mỗi giây sống được là mỗi giây lời. Khi nào Thần Chết đến thì đành đi thôi, vì không ai có thể sống muôn năm được”
Nghe tôi nói thế, bà thẫn thờ một lúc rồi lấy tay sờ sờ hai gò má. Dễ thường đang đổi ý, níu kéo thời gian chăng ?! Thực ra thì Debra, tên bà ấy, chỉ tròm trèm sáu mươi thôi, đâu đến nỗi nào. Như hai cái băng ghế này, chúng vẫn còn chắc nịch quá đi chứ, chỉ xấu nước sơn thôi...


Ngôi quán cô đơn một cách tội nghiệp, vì gần đó không thấy bóng dáng một sinh hoạt nào khác, chỉ là cánh đồng cát mông mênh tít mờ chân mây. Ngay trước mặt tiền của quán vỏn vẹn có một bảng nhựa màu trắng đã ngả vàng với giòng chữ “DONUTS & COFFEE HOUSE” sơn màu xanh dương. Gỗ ở bực thềm đã mục nhiều nơi, vì cứ mỗi bước chân của ai đó đặt lên là có tiếng ọp ẹp theo sau. Một người hành khách người Mễ Tây Cơ đi phía trước tôi khôi hài “Cứ như răng bà lão! “ làm vài người bật cười. Tôi cũng biểu đồng tình cười theo.

Tôi hỏi mua một gói thuốc lá, vài gói chips và một ly cà phê đen. Chủ tiệm là một người đàn ông khoảng trên dưới năm mươi. Đầu đội mũ cao bồi màu nâu sẫm, bên góc mũ có gắn cái lông trĩ dài, áo sơ mi màu xanh bạc lua tua những sợi dây nhỏ dính phía trước ngực, và ngay dưới tay áo cũng lòng thòng một mớ dây lua tua nữa.
Hắn đứng phía sau quày hàng, vừa không ngớt pha cà phê, hoặc gói bánh donut vào cái khăn giấy, vừa miệng bằng tay, tay bằng miệng đấu láo với khách rất vui vẻ. Hắn cho chúng tôi biết tên hắn là Travis.
“Travis Who ? “
“Travis Dumont “, hắn mỉm cười điềm nhiên trã lời.
Cái họ nghe như họ của người Pháp, tôi nghĩ, rồi phàn nàn cho có chuyện,
“Giá thuốc ở đây có vẻ hơi cao ? “
Travis xoa hai tay vào nhau,
“ Xin ông bạn thông cảm cho. Ở đây xa với tỉnh thành, hàng hóa mua phải qua nhiều chặng đường nên giá cả có cao chút đỉnh”
“ Dân cư xung quanh đây có nhiều không ông chủ ?“
“ Mười mấy gia đình, khoảng hơn năm mươi mống. Nhưng họ ở xa lắm, ở mãi tuốt trong kia, cách đây khoảng chừng vài chục dặm”
“Tiệm ông buôn bán khá chứ ?”
Travis lim dim cặp mắt, môi trề ra một chút rồi nói,
“Cũng tạm được. Cả ngày vắng như chùa bà đanh. Quán tôi chỉ sống được nhờ mỗi ngày có một chuyến xe bus đi ngang qua đây “.
“Một chuyến thôi sao ? “
“Vâng. Như quí ông biết đấy, dân cư thưa thớt như thế này nên chính quyền không đặt một cơ sở nào ở đây cả. Có chuyện gì liên quan đến hành chánh hay y tế là chúng tôi phải đi đến những quận lỵ lớn cách xa đây cả trăm dặm”
Hắn rít một hơi thuốc lá rồi nói tiếp “mà đặt làm chi cho tốn tiền của dân. Họ chỉ thuê một mình tôi bao sân là xong ngay. Ngôi quán này vừa là chỗ cho các ông dừng chân giải lao đồng thời cũng là tổng hành dinh của tôi “.

Khi nói tới chữ “tổng hành dinh”, Travis phá lên cười. Có thể trong suốt ngày của mỗi ngày, lúc hắn tiếp xúc với bọn khách như chúng tôi là lúc hắn sáng giá nhất. Mỗi ngày hắn đã cười như thế này một lần, mỗi khi có chuyến xe buýt ghé qua, và mỗi ngày chữ tổng-hành-dinh được lập lại, như một thói quen hay như một cố ý ?

Vì cái cười phá của hắn không được tự nhiên cho lắm , tôi lẩn thẩn nghĩ là hắn có một tâm sự gì đó. Một người trong bọn chúng tôi nhớm lên định hỏi hắn một câu thì hắn đã tiếp tục “ Tôi là sheriff của vùng này nhé, tôi cũng là người đại diện cho hãng xe đò Greyhound nhé, tôi cũng là .....”
“Là một bưu tá viên, vì tiệm của ông coi như là cái bưu điện địa phương “, tiếng một người vừa xô cửa vào nối tiếp lời của Travis.
Đó là người tài xế lái chiếc xe buýt cho chúng tôi. Hắn khệ nệ xách vào một cái túi vải trên đó có in hình con ó xanh với hàng chữ US Postal Service và một thùng giấy khá lớn vào. Bên ngoài thùng giấy có ghi địa chỉ của nơi đến là Platino Hills.




Platino Hills, Platino Hills ! Cái tên nghe thật mỹ miều. Nếu nhắm mắt quên hết mọi ưu phiền và nghĩ tới một chuyến hải hành, thì cái quán này không khác chi con thuyền nhỏ đang buông neo trên vùng biển lặng, mà sóng biển là những đụn cát vàng mơ nhấp nhô ngoài kia...

Tiếng Travis cất lên làm rung rinh bức tranh biển vừa mới thành hình trong đầu tôi. Hắn phân bua :
“Nhận thư, phát thư mà chả có đồng xu lương nào cả “ rồi quay qua người tài xế xe đò, hắn đon đả đổi giọng :
“ A, chào ông bạn ! Mấy năm rồi mới thấy ông bạn trở về với lộ trình này. Mạnh khỏe không bồ ?”
“Nhờ trời tôi cũng sống qua ngày. Lâu quá mới gặp lại, trông ông lúc nào cũng tốt tướng. Cô gì nhỉ ? À, cô Lola. Cô Lola vẫn khỏe chứ ?”
Tên chủ quán cười hề hề
“Xin cám ơn. Ối, nàng tiên của tôi lúc nào mà chả mạnh khỏe . Mình càng lúc càng già mà cô ả càng ngày càng dẻo càng dai“. Travis nheo mắt trả lời vừa đưa tay đỡ cái túi thư .
Anh chàng tài xế cũng không vừa:
“Thế thì nhất bạn rồi, tớ chỉ mong cho cái lão bà của tớ càng dẻo càng tốt ! “
Cả hai cùng phá lên cười vang rồi cùng trao đổi thủ tục hành chánh .
Hóa ra anh tài xế xe đò cũng kiêm luôn nhiệm vụ đem thư từ những thành phố lớn về những thôn làng xa xôi hẻo lánh.


Tôi tò mò đứng nhìn những hình ảnh treo la liệt trên vách quán.
Đập ào mắt mọi người là tấm bích chương quảng cáo hiệu xe đò Greyhound với một bản đồ to tướng ngang dọc những lộ trình xuyên bang. San sát bên nhau là hình những cầu thủ nổi tiếng của thế giới cắt từ những nhật báo nào đó và hình đào xi nê ăn mặc hở hang khêu gợï. Nhưng tôi chú ý nhất là khuôn giấy vàng úa của một bức tranh nằm dưới cùng, bên cạnh những mẩu giấy rao vặt linh tinh.
Đó là bản in một bức tranh của nhà danh họa Picasso. Nhìn nét vẽ của người nghệ sĩ tài danh này, tôi lặng người đi giây lát. Cảm nhận một sự quen thuộc lạ lùng.
Có thể nào ? Tôi nhớm bước đi ra cửa để rồi quay trở lại.

Nghe tôi ngỏ ý muốn mua bản in bức tranh cũ mèm đó, chủ quán đặt bình cà phê xuống bàn. Hắn xoi mói nhìn sâu vào mắt tôi một lúc, và không nói gì hắn gỡ bức tranh xuống.
Trao tranh cho tôi, lời hắn nói như trong mơ :
“ Lâu rồi có một ông ghé qua đây nhờ tôi đưa bức tranh này cho một người. Họ không nói tên người nhận là ai.Tôi có hỏi thì họ bảo đã có ghi tên ở đâu đó. Thấy bức tranh chỉ là một bản in tầm thường, chả quan trọng nên tôi nhận. Đã bao năm qua không thấy ai đếm xỉa đến nó. Ông là người duy nhất thích nó đấy, vậy thì cứ coi như vật đã tìm được chủ “
Tôi nói cám ơn và cũng không bận tâm mấy về những lời kể lể của hắn ta.
Khi cuộn tròn bức tranh lại, tôi thấy ở góc phải phía đàng sau tấm hình có một dòng chữ mực xanh đã nhòe. Ai đó viết rằng “Nghệ thuật là gạch nối giữa những...”. Tôi cố gắng vẫn không đọc được đoạn cuối câu...
“Nè ông ơi, xe buýt đã rồ máy rồi đó”, người chủ quán vỗ vai tôi nhắc nhở.
Tôi nói cám ơn thêm một lần nữa rồi hối hả chạy ra đường, phóc vội lên xe..




Craze Guff đã an vị. Thấy tôi, hắn thò tay lôi cái xách tay nằm dưới chân hắn lên và co giò cho tôi bước vào.Tôi hơi khựng người khi thấy vị hành khách ngồi bên tay trái của tôi không còn là ông lão đã từng chia xẻ với tôi một vài vui buồn trên đoạn đường từ Los Angeles đến đây. Thay vào đó là Mun Yokalov, người đã đụng đầu tôi hai lần trước kia. Hóa ra ông lão đã rời xe ở quán nước, và cái tên mà tôi ghét cay ghét đắng lại dời chỗ xuống đây!

Chiếc xe buýt chạy êm ru ngon trớn băng băng trên xa lộ.
Máy điều hòa không khí nhả những hơi lạnh mát rượi. Tôi rút bức họa của Picasso trong túi áo ra xem. Mảnh giấy in bức tranh đã úa vàng, nhưng đối với tôi, dù ở dưới dạng nào tranh Picasso vẫn luôn là một ám ảnh làm cho tôi xúc động khôn cùng. Tôi đưa tranh lui ra xa một tí để nhìn ngắm, để uống vào hồn những màu sắc sống động cuồn cuộn trong nhau.
Thế giới Picasso là thế giới huyễn thực: có nằm trong không có, tỉnh mà rất động, hạn hẹp mà vô song.Tranh Picasso đầy chất sáng tạo bởi lẽ khi càng nhìn lâu càng thấy nó biến thiên hình vạn trạng. Nhưng điều làm tôi bâng khuâng nhất là qua tranh của nhà danh họa này, đã có một lần , tôi bắt gặp được căn nguyên chìm nổi của chính lòng tôi. Đó là mối u uẩn của chính tôi quay cuồng lạc lối trong bao la của vũ trụ. Nghệ thuật vị nhân sinh phản chiếu muôn trùng bí hiểm nội tâm con người, nên nhịp thở của nhân sinh cũng là nhịp thở của vũ trụ.
Tôi cuộn tròn tranh lại. Giòng chữ ở sau bức tranh lại hiện ra “Nghệ thuật là gạch nối giữa những...”.
Tôi nhắm mắt định thần. Tiếng nói của tên chủ tiệm Travis Dumont lại vang lên, rõ mồn một,
“ Lâu rồi có một ông ghé qua đây nhờ tôi đưa bức tranh này cho một người. Họ không nói tên người nhận là ai.Tôi có hỏi thì họ bảo đã có ghi tên ở đâu đó.....Ông là người duy nhất thích nó đấy, vậy thì cứ coi như vật đã tìm được chủ “
Tôi giật nẩy mình. Trời ơi, sao lại lạ lùng thế ? sao lại có sự trùng hợp thần diệu đến thế kia?
Tôi tên là Arthur Lienen, gọi tắt là Art Lienen. Art Lienen. Art Lienen. Câu “"Nghệ thuật là gạch nối giữa những...." đúng ngay bon tên của tôi rồi ! Vậy thì tôi là gạch nối giữa những sự việc gì???? những biến cố gì???
Tôi rùng mình tóat mồ hôi. Sờ vai sờ cổ, sờ vào cả ghế ngồi. Vâng, đúng là tôi đây, con người bằng da bằng thịt, tầm thường quá mà! Tôi làm được tích sự gì để trở thành một gạch nối???

Craze Guff kéo tôi về với thực tại. Hắn nói xin phiền ông bạn nhấc chân lên cho tôi lấy cái xách tay. Lục đục kéo một hộp nhỏ ra, xong bỏ cái xách tay xuống, hắn nói cám ơn. Như có nghĩa là bạn để chân xuống được rồi. Và im lặng làm việc. Chắc là làm việc, tôi đoán thế, vì cái hộp hắn vừa mới lấy ra trông giống như một máy vi tính bỏ túi. Thỉnh thoảng máy phát ra những tia xẹt mầu tím, và hắn bấm lia lịa vào cái nút nhỏ. Tức thì trên màn ảnh con con hiện ra một bản phúc trình bằng những con số dài thậm thượt. Đôi mày Craze Guff cau lại, và rất nhanh, hắn bấm một tràng mật mã. Tất cả quả vượt quá xa sự hiểu biết của tôi.

Bên tay trái của tôi, Mun Yokalov ngồi im lìm đọc sách. “Động thuyết thượng thừa” của Abe Fujiyoto. A! cuốn luận đề này tôi cũng đã có lần đọc qua. Anh chàng này là một đại trí thức của viện nghiên cứu không gian NADSA của Nhật Bản. Sách được viết cách đây khoảng mươi năm, lập luận về cái giả thuyết cũ rích của Mariotte. Fujiyoto đi xa hơn, dẫn chứng rằng áp lực của khí thể không giản dị như người ta vẫn lầm tưởng. Những điều anh chàng nêu lên đã một thời trở nên những tranh luận bất phân thắng bại giữa giới khoa học gia. Sách của Mun Yokalov đang đọc được dịch bằng Nga ngữ. Đối với một người dốt đặc Nga ngữ như tôi, chữ nghĩa cũng bí hiểm như gương mặt ông khách ngồi cạnh ...

***
“Ông bạn đã thức dậy rồi ư ? “ tiếng của Craze Guff hỏi.
Tôi vươn vai đáp vâng. Hắn loay hoay cất vài thứ lặt vặt vào trong xách tay, đứng dậy quàng cái áo ấm vào rồi lại ngồi cúi xuống buộc giày.Tôi ngồi thẳng dậy, quay qua nhìn hắn, hỏi ông sẽ chuyển xe đi đâu. Hắn đáp rằng hắn có việc cần phải ở lại thị trấn sắp đến ít hôm, sau đó mới đi tiếp . Tôi xuýt xoa tiếc rẻ không được cùng hắn đi thêm một quãng đường nữa. Và bùi ngùi :
“ Bốn ngày đường vừa qua, ông đã rất tử tế với tôi. Xin cám ơn “
Hắn nói,
“Lu bu quá sức nên không được nói chuyện với ông nhiều “
“Tôi thấy ông khi nào cũng rất bận rộn, làm việc ngay cả khi đi du lịch “
Craze Guff cười xòa,
“Đi du lịch ? nghe có vẻ xa xỉ quá. Tiếc rằng tôi chưa có dịp được hưởng cái thú vị của một cuộc du lịch rong chơi thuần túy. Có nhiều thứ phải nghĩ tới quá, một ngày hai mươi bốn giờ đối với tôi không cảm thấy đủ. Nhưng trong chuyến đi này được biết ông, tôi thích lắm “
Tôi đáp nhỏ,
“Tôi cũng vậy...”
Hắn rút trong túi áo ra một tấm danh thiếp, vừa chỉ vào tên hắn trong đó vừa nói,
“Đây là tên thật của tôi. Mong có ngày chúng ta gặp lại”
Tôi nhận tấm danh thiếp. Tên của hắn ghi trên đó là Gustave H. Carlson, nhân viên trung tâm NASA, USA. Tôi trố mắt nhìn hắn.
Chính hắn đấy sao ? Craze Guff, người toàn nói chuyện trên trời dưới biển với tôi mấy hôm nay là một khoa học gia lừng lẫy của Hoa Kỳ đấy sao ? Trong vòng hai năm nay tiếng tăm của Gustave H. Carlson nổi như cồn qua những phúc trình viết về nguy cơ của thế giới địa cầu trong những ngày sắp tới. Bài viết đó làm rúng động hoàn cầu khi nói về những thiên thạch tìm thấy có dấu hiệu chuyển mình biến sinh thành một loài khác lạ, có trí thông minh vượt trội hơn chúng ta gấp bội lần....
Tôi bắt tay Gustave Carlson tỏ lòng ngưỡng mộ.
Ông ta nhìn tôi, đôi nhãn quan sáng rực. Những tia nhìn làm tôi chóa mất mấy giây, như mỗi khi mắt tôi chạm phải ánh sáng chói chan của mặt trời ngày tháng hạ.Tôi chịu đựng, không quay đầu đi chỗ khác. Gustave gật gù nói bạn khá lắm bạn khá lắm.Tôi nghe vui buồn lẩn lộn.
Rút ví ra trân trọng cất tấm danh thiếp vào, tôi tần ngần chưa biết nói gì thì Gustave chỉ tay vào một tấm hình trong ví của tôi :
“Cái hình này?”
Tôi ngắt lời “ Hình của mẹ tôi khi còn trẻ”
Ông ta gật gù khen mẹ tôi đẹp. Tôi nói mẹ tôi là người Việt Nam, mất từ khi tôi mới hai tuổi...

Gương mặt Craze Guff đột nhiên tái lại trong giây phút. Nhưng rất nhanh, hắn bước ra cửa. Điều lạ là trước khi rời xe, hắn quay đầu lại nhìn tôi không chớp mắt. Như muốn nói một điều gì. Lòng tôi bỗng nao nao.

1061




Vác một đàn con trên vai
Ta đi bụi đời
Chín hướng mười phương

Trạm đầu dừng chân
Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới
Bến dứa trổ gai
Thân tù tội
Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no
Đêm nằm co sàn gạch
Lạnh rút gân nghe con khóc òa
Mẹ đứt ruột
Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu
Con muỗi buồn xo
Con muỗi vo ve

Vác một đàn con trên vai
Lôi thôi lếch thếch
Thân ăn mày
Tự đáy biển trồi lên đầu non
Mẹ nhìn con
Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm
Con nhìn mẹ
Xơ xác liễu hồn
Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ
Ăn qua bữa
Miếng tủi miếng thắt
Mặn lạt tình thâm

Bằng đôi chân của khủng long
Bằng đôi cánh đại bàng
Bằng trái tim gà mẹ
Ta áp đảo biển đông
Dọn đường thế hệ
Đưa con đến xứ hào quang
Rộng nhìn năm châu
Nở bừng trí tuệ

Đến đây
Bốn mùa tiết đổi
Cây trái ngọt lành
Mẹ mẹ con con
Lết mòn ruộng dâu
Từ đất bùn ta đứng lên
Cất tiếng hát mừng đời tự do
Tiếng hát thấm đòn
Tiếng hát vẫn dòn tan

Thấm thoát mười sáu năm
Ta tất bật bụi đời
Quên thời gian quên phấn quên son
Hôm nay nghe con ra trường
Ta rộn ràng
Thấp thỏm soi gương
Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt
Mới giựt mình
Thấm mệt
Tuổi xuân đã tiêu ma

Hôm nay con mừng vui
Ai cũng mừng vui
Riêng ta
Ta đứng bùi ngùi
Riêng ta
Ta đứng bồi hồi
Nghe loa xướng danh tên con
Tân khoa tiến sĩ
Mẹ òa khóc
Tưởng gọi đúng tên mình
926




Bài hát Giòng Sông Xanh do nữ ca sĩ Thái Thanh trình bày vừa chấm dứt. Dư âm sóng nước vẫn còn vỗ tấp, chập chùng trong bến bờ xanh lơ của mộng mơ. Nhưng dỉa hát không ngừng ở đó. Nhạc phẩm Come Back to Sorrento, Trở về Mái Nhà Xưa, của Ernesto Di Curtis, lại được tiếp nối. Nhạc mở đầu với tiếng dương cầm thánh thót như những hạt mưa đầu thu. Và tiếng hát của một ca sĩ nào đó lại cất lên

“Về đây khi mái tóc còn xanh xanh
Về đây với màu gió ngày lang thang
Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng
Ôi lãng du quay về điêu tàn
. . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .”
(lời Việt của Phạm Duy)

Lim dim đôi mắt, hồn tôi đi vào cõi mù sương của Mộng và Thực, rồi trôi dần vào vùng quá khứ . Ở một nơi rất xa xăm, hằng đêm có tiếng lòng trải rộng mênh mang trên phím đàn. Ở đó có những quạnh hiu dồn nén tâm tưởng. Và ở đó cũng có những lằn roi quất tới tấp. Vết thương ghi dấu mùa xuân lỡ thì, khi sướt mướt trên nốt nhạc, quằn quại thương đau, khi lả lướt như cánh diều bay trong gió . . .



2-


1976

. . . Lứa gà đầu tiên đẻ rất sai, mẹ con chúng tôi ăn không hết nên đã bán trứng cho bà con trong xóm. Dân chúng phải sắp hàng mua thực phẩm do phường khóm bán nhỏ giọt đã quá mệt mỏi . Vì vậy việc bán vài chục trứng gà hằng ngày của tôi càng ngày càng được nhiều người chiếu cố.

Tôi liền nghĩ đến việc huy động phong trào nuôi gà để mỗi gia đình trong phường có thể tự lực tự cường như tôi. Sáng kiến của tôi đưa ra trong một phiên họp của tổ dân phố nơi tôi cư ngụ được mọi người hoan hỉ và Ba Tưng, viên chủ tịch phường, cũng chấp thuận. Ngày hôm sau hắn tìm đến tôi, bỏ nhỏ với tôi rằng nếu tôi muốn làm ăn thì phải nộp cho hắn mỗi tuần một số tiền nhất định. Để được yên thân đương nhiên tôi phải nhanh nhẩu chấp nhận việc đóng tiền mãi lộ cho hắn.

Nhờ có vốn liếng và trí óc lanh lợi, tôi liên lạc với những nông trại để đặt mua gà con. Mỗi sáng sớm lúc mọi người trong thành phố còn an giấc, tôi lặng lẽ rời nhà, thuê xích lô máy đi Thủ Đức, một huyện cách Sàigon hai giờ đường. Trời mờ tối và chiếc xe phóng hết tốc độ trên xa lộ vắng người. Tôi níu chặt thành xe, đầu óc tính toán đến món hàng sẽ phân phối cho những người đặt hàng, đến số tiền lời sắp có mỗi ngày để quên đi cái lạnh cắt da xé thịt.
Tôi co ro miên man nhớ đến ngày đầu tiên đi thăm nuôi chồng tôi ở trại cải tạo Bình Lâm. Ngày đó tôi cũng rời thành phố thật sớm như thế này, tay xách nách mang những túi thức ăn, áo quần và thuốc men bới cho chồng. Đường xa vời vợi, phải đổi hai ba chuyến xe Lam mới đến nơi. Hằng chục ngàn người đàn bà vợ Ngụy, tên gọi những người có chồng đi cải tạo học tập, đến địa điểm tập trung từ hai ba hôm trước. Họ nằm bờ nằm bụi thật thảm thương. Mỗi ngày, họ sắp hàng ngồi lết dưới trời nắng chang chang hằng giờ để chờ gọi tên mình, mồ hôi nhớp nháp. Bà nào mặt mày cũng hốc hác xanh xao và lo âu. Nhưng ánh mắt họ ngời sáng khi nghĩ đến người thân yêu sắp được gặp.
Vâng, cuối cùng tôi cũng đã gặp được người chồng yêu dấu sau bao nhiêu tháng biền biệt. Hai vợ chồng huyên thuyên nói cười trong mừng vui, nước mắt ràn rụa. Mỗi lúc tôi suýt thút thít thì anh lại suỵt suỵt làm dấu bảo đừng.Trông anh gầy hơn trước nhưng tinh thần vẫn tốt. Lại đùa với tôi,
“Anh ở trong này như đi nghỉ mát, khỏe lắm. Ít tháng nữa cải tạo tốt sẽ được về thôi. Em ở nhà ráng lo cho sắp nhỏ. Rồi mình sẽ làm lại từ đầu, anh về sẽ lo cho em hết mọi chuyện …”.
Tôi nghẹn lời ngồi im. Chồng bỗng cầm tay nhìn sâu vào mắt vợ, tình tứ,
“Ở nhà có nhớ anh không ? “
Tôi gật đầu. Chàng lại hỏi,
“Nhớ nhiều không ? nhớ thì làm gì ?…”
Tôi bẽn lẽn,
“Thì ôm chăn chặt cứng “ .
Người ấy yêu thương cốc nhẹ vào đầu tôi, nhìn qua ngó lại coi có ai để ý không rồi cúi xuống úp mặt vào tay tôi hôn thật lâu. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất, đủ xoá hết mọi muộn phiền của tôi trong những tháng ngày qua .


Tôi giật mình tỉnh mộng khi người phu xe ngừng lại cho biết đã đến nơi. Từ chỗ xe thả tôi xuống đến nông trại gà phải đi bộ khoảng năm cây số. Vào mùa mưa đường đất lầy lội trơn trợt, con đường mòn như dài vô tận. Nhất là khi mua được món hàng xong phải quay trở lại với hai ba thùng gà con trong tay, người đàn bà lại càng thiểu não hơn nữa. Ì à ì ạch mới ra tới đường cái để đáp xe về thành phố.

Công việc thu mua gà dù mệt nhọc cách mấy hôm nào cũng xong xuôi trơn tru để tôi quay trở về nhà vui mừng nghe tiếng đồng hồ điểm mười một giờ sáng. Tôi quày quả thay đổi y phục, trong nháy mắt không còn là một người áo quần xốc xếch , mặt mủi lem luốc tay chân lấm đầy bùn đất, mà là một người đàn bà liễu yếu xinh đẹp trí thức. Ôi hai chữ trí thức sao làm phiền đời tôi đến thế ? Vì hai chữ trí thức tôi không dám cho ai nhìn thấy cảnh mình trốn mọi người đi buôn trong sáng sớm. Đôi lúc tôi cười ngạo về sự kịch cỡm của mình . Nhảm! đi buôn có gì xấu hổ mà phải chùng chùng lén lén thế kia. Cuộc đổi đời ai mà chả thế!
Nói vậy nhưng bề gì sự lột xác cũng cần có thời gian ..


Lúc khởi xướng, việc nuôi gà đẻ trứng có mục đích đem lại niềm vui cho các con và để có thêm thức ăn bồi dưởng mỗi ngày. Tiếp đến nó lại đem thêm chút lợi tức nho nhỏ và dần dà không còn là một công việc tầm thường nữa. Nó biến dạng một cách nhanh chóng để trở thành một công ăn việc làm nghiêm túc và sầm uất cho gia đình tôi. Với danh nghĩa lao động sản xuất để tự lực tự cường, công an phường khóm không có lý do làm khó dễ ai. Nhờ sự đút lót khôn khéo, tôi và các con có một đời sống yên ổn khả dĩ sung túc hơn nhiều người khác đang cùng hoàn cảnh.
Những ngày thức dậy thật sớm lủi thủi lội mưa mua gà đã qua đi. Nhiều cơ sở ở nông thôn bằng lòng cung cấp gà con cho tôi tận nơi. Tôi hợp tác với những người sản xuất lồng nuôi gia súc ở Chợ Lớn, và từ đó đẩy mạnh phong trào chăn nuôi gà khắp nơi trong thành phố Hồ Chí Minh, tên mới của đất Saigon một thời được gọi là hòn ngọc Viễn Đông hoa lệ .
Ủy Ban Nhân Dân thành phố bắt dân chúng tập trung và đăng ký mọi công ăn việc làm với chính quyền địa phương dưới hình thức những tổ hợp. Mỗi tổ hợp gồm một số người hợp tác với nhau và kiểm soát lẫn nhau. Các tổ hợp “chăn nuôi gà lấy trứng” mọc lên khắp nơi, nhờ đó công việc làm ăn của tôi bành trướng mạnh mẽ. Tôi hoạt động dưới danh nghĩa “tổ hợp phân phối gà con và thuốc gia súc” qui tụ một số người trong xóm. Nhưng thực ra những người này chỉ đứng tên làm vì, họ không phải làm gì nhưng hằng tháng vẫn nhận được một số lương tượng trưng về việc cho thuê tên trong tổ hợp của tôi. Ngoài ra Ba Tưng và đồng bọn cũng che chở tôi hết mực vì số tiền khổng lồ tôi đã đóng cho hắn hằng tháng.

Thực ra chuyện nuôi gà tại gia không phải là một điều mới lạ với người dân Saigon. Cách đó chục năm trước phong trào nuôi chim cút nỗi lên rầm rộ rồi thất bại. Mọi người sau đó chuyển qua nuôi gà Mỹ để kiếm lời. Gà Mỹ chóng lớn, có khả năng sản xuất trứng rất đều đặn và lâu dài hơn những giống gà khác. Phong trào này cũng chóng tàn. . .Nay thời cuộc biến đổi, người dân vì quá âu lo cho một tương lai đầy rẫy hăm dọa nguy biến, đã quên mất phải làm gì để sống. Họ như đang đi trong đêm tối mờ mịt, ngày ngày chỉ biết sắp hàng cầm sổ hộ khẩu mua nhu yếu phẩm. Thịt thà do phường xóm phân phối theo tiêu chuẩn gia đình, rất hạn hẹp. Việc nuôi gà để có thịt ăn do đó trở nên hợp lý hợp tình nhất ..



3-

Chín giờ sáng ngày chủ nhật tháng bảy.
Cơ quan công an khu phố vắng vẻ đìu hiu trong ngày nghỉ. Hãng bào chế dược phẩm cạnh nhà tôi đóng cửa, và người hàng xóm của tôi cũng đi chơi vào những ngày cuối tuần như mọi khi.
Đêm qua các em tôi đột xuất ghé qua cho hay nhà có giỗ và xin dẫn các con tôi về nhà Ngoại trước. Vì vậy khuôn viên nhà tôi vốn đã buồn trong ngày chủ nhật nay càng hoang vắng hơn vì thiếu tiếng cười của con trẻ. Tôi quanh quẩn trước sân lượm rác, định bụng sẽ về nhà cha mẹ sau khi giao hàng cho một người khách, theo lời họ nói, đến từ Bình Dương.

Khách mua hàng đã đặt tiền cọc khá lớn. Đây là lần đặt hàng sộp nhất từ trước đến nay, trị giá gần hai trăm ngàn đồng tiền mới (mỗi gia đình lúc bấy giờ chỉ được quyền đổi hai trăm tiền mới mà thôi), một mối lợi béo bở không ai có thể bỏ qua. Hàng là 2500 gà con, giống New Hampshire có khả năng sản xuất bền bỉ loại trứng màu nâu rất được yêu chuộng trên thị trường. Ngoài ra họ còn mua thêm 500 chuồng gà và một số thuốc dinh dưởng bồi bổ gà trong thời kỳ đẻ trứng.

Vì công việc làm ăn có phần tiến triển thuận lợi nên hai hôm sau khi chộp được mối bở, sẵn có người tìm đến xin việc, tôi mướn ngay. Đó là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, tháo vát và vui vẻ nên tôi rất vừa lòng. Cô ta tên Thúy, ăn ở luôn trong nhà .



Xẫm già lân la lại gần đưa mắt hỏi :
“ Sao bà chủ dậy sớm vậy? hỗng ngủ thêm cho khỏe ?”
“ Con Thúy xin nghỉ việc bất thình lình hôm kia, mà hôm nay mình lại phải giao hàng cho người ta như đã hẹn.”
Xẫm già ngồi xuống cười hiền lành,
“Thôi bà chủ đừng có lo. Ngộ nói bà chủ đừng có lo mà! Ngộ mần việc gì cũng được hết! Ngộ sẽ giúp bà chủ khiêng mấy con gà con vịt cho người ta “

Tôi cúi xuống mở những nắp thùng xem xét lại đám gà con. Chúng đang nép sát mình nằm yên bên nhau tìm hơi ấm, bỗng cùng đứng vùng dậy kêu chiêm chiếp như bị động ổ. Lông gà con màu vàng nhạt mịn như tơ, và những cái mỏ đỏ hồng thật xinh xắn. Chúng đua nhau mổ vào ngón tay của tôi tìm ăn.
Xẫm già lui cui khiêng cái này vác cái nọ dọn dẹp. Bỗng bà ấy trượt chân mất thăng bằng ngã xuống đất. Tôi lo sợ quì xuống đỡ xẫm. Gương mặt người đàn bà tái ngắt và xẫm ú ớ không nói được. Tim xẫm đập nhanh hơn bình thường.

Điện thoại reng vang. Bên kia đầu giây có tiếng người đàn ông cho biết trong vòng nửa tiếng đồng hồ họ sẽ có mặt để nhận hàng. Ông ta yêu cầu tôi mở cửa rào sẵn sàng để xe họ vào. Hỏi có bao nhiêu người phụ giúp tôi giao hàng. Tôi ậm ừ bảo chỉ có mình tôi và xẫm già. Hỏi hôm nay ngoài họ ra, có khách nào đến mua hàng nữa không. Tôi bảo không. Lại hỏi hàng xóm đi vắng bao giờ về. Câu hỏi gì thật quái gở ! Lấy cớ bận việc, tôi gác máy.


Có tiếng chó sủa ran.
Một chiếc xe hàng khổng lồ tiến vào sân và từ từ đậu sát cửa ra vào. Trên xe nhảy xuống một người đàn ông quen mặt đã đến đặt hàng trước kia. Thêm một người đàn ông khác có mang súng và cuối cùng là Thúy, đứa ở giúp việc tuần trước đã lấy cớ nghỉ việc bất thình lình. Tướng đi xông xáo rất tự tin của Thúy và cây súng trong tay người đàn ông kia làm tôi biến sắc. Tôi cảm được một bất lành sắp xãy đến.
Thay vì vào nhà, Thúy đi vòng ra cổng sắt và cài chốt lại.
Như thế có nghĩa gì ?
Con chó Lu tiếp tục sủa nhưng Thúy đã cúi xuống vuốt ve con vật. Chắc Thúy đã làm nhiều lần như thế trong quá khứ nên chó quen hơi, thôi sủa. Tôi run như cầy sấy, vội vàng khóa các cửa lại.


Tiếng đập cửa rầm rầm. Họ lớn tiếng :
“Mở cửa, mở cửa, chúng tôi đến nhận hàng đây “
Cửa lại bị dộng mạnh như muốn vỡ ra. Tôi quính quáng chạy xuống phía sau bếp, cố trèo lên bức vách gần đó nhưng tường cao quá, không cách gì leo nỗi. Trèo lên tụt xuống. Có tiếng quát vang của con Thúy. Như vậy bọn chúng đã vào được trong nhà rồi ư ? Sao hay vậy nhỉ ? ...
Trong lúc nguy biến tôi lăn mình nằm núp dưới cái phản đặt ở góc phòng. Văng vẳng tiếng chúng bảo nhau hãy mau khuân tất cả đồ đạc trong nhà lên xe. Tiếng con Thúy the thé đòi xé xác xẫm già nếu xẫm không chỉ chỗ chủ nhà đang trốn. Tiếng khóc đứt đoạn của xẫm già vang lên từng hồi. Tiếng khuân đồ đạc rầm rập. Thỉnh thoảng có tiếng loảng xoảng của một vật gì bị rớt vỡ.

Tôi quá lo sợ ép mình nằm sát vào phía trong. Chó Lu chạy qua chạy lại gần chỗ tôi nằm. Tôi xịt xịt đuổi nó đi, nó lại khịt khịt trả lời. Run quá, run quá. Không chừng chính nó làm tôi lộ tẩy cũng nên . Tôi nghiến răng nói nhỏ,
“ đi, đi chỗ khác, mau !”
Như hiểu được ý tôi, chó Lu ra ngoài sân nằm mẹp xuống đất ngoe nguẩy đuôi.
Giọng Thúy bỗng rõ mồn một. Hình như cô ả đang tiến về phía nhà bếp.
“Con mẹ chủ nhà này biến đi đâu hay thiệt ! Tao mà bắt được mày là tao bằm nát xương mày ra !”
Tiếng một thằng đàn ông vọng xuống,:
“Thôi kệ cha nó. Lo tranh thủ làm việc đi ! Kiếm thấy chỗ nó giấu tiền ở đâu chưa ? “
“Chỉ tìm được một ít tiền mà chưa thấy vàng đâu cả”
“Cả tuần mầy ở trong nhà này làm chó gì mà không biết được chỗ giấu của nó?”
“Thì cứ tưởng nó cất trong phòng ngủ chứ ai có dè !”
“Mày làm ăn như cứt! “, tiếng thằng đàn ông lại chưỡi thề
Một giọng đàn ông khác lên tiếng,
“Cạy miệng con mụ Chệt kia mà hỏi chưa ?’
“Khện cho mụ ta nát thây rồi mà mụ không nói. Này, còn cái đờn bia-nô tính sao ?”
“ Nặng thấy bà nội, khỏi lấy “

Thúy đã xuống nhà bếp. Bước chân khệnh khạng đi tới đi lui. Cô ả ra sân sau nhìn lên mái ngói một hồi rồi quay trở lại. Thị ngồi xuống phản, hai chân đong đưa qua lại. Tôi nằm nín thở, có cảm tưởng như muốn đứng tim.

Hình như Thúy đang xỏa tóc ra để cột lại . Nhưng ô kìa, thị ta lọng cọng như thế nào mà cái kẹp lại rơi xuống đất . Thúy cúi xuống nhặt kẹp và há mồm khi trông thấy tôi dưới phản. Cô ả liền đứng phắt dậy cười ha hả. Cô vừa mắng nhiếc vừa dùng sức đẩy chiếc phản ra. Tôi ôm chặt cứng một chân phản trì lại . Không chịu thua, Thúy chạy lại đầu kia nhấc bổng một góc phản lên rồi dộng xuống thật mạnh liên tiếp vài lần. Tiếng dộng chát chúa và sức ép làm tôi choáng váng buông tay. Thừa cơ hội ấy, hắn lật ngược chiếc phản. Nhanh như chớp tôi phóng mình vào phòng vệ sinh gần đó và khóa chốt. Thúy điên tiết lấy chân đạp thình thịch vào cửa.
Có tiếng của một thằng đàn ông đồng bọn chạy xuống tiếp tay. Bên trong, tôi không còn biết làm gì hơn là ngồi rúc trong xó cầu tiêu run rẩy.
Bọn chúng dùng búa đập phá và cuối cùng ổ khóa bung ra. Thúy, như mụ quỷ dạ xoa, nhảy vào tru tréo nắm tóc ghì đầu tôi xuống. Hắn dộng mặt tôi vào vách hai ba lần, răng nghiến trèo trẹo :
“À giỏi nhỉ, hết chỗ trốn sao chui vào cầu tiêu ? Muốn ăn cứt hã ? Chốc nữa tao sẽ ỉa cho mày ăn thả dàn “
Thằng đàn ông, mặt mày bặm trợn và đầy sẹo, dí con dao găm vào cổ tôi, gầm gừ,
“Vàng bạc hột xoàn mày giấu đâu, nói mau ! “
Đôi mắt hắn như toé lửa. Tôi cúi gằm mặt xuống, không trả lời.
“ À lì hã ? lì thì tao cho mày chầu Diêm Vương ngay”
Vừa nói câu đó xong, hắn thả tay dao xuống, thúc mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi. Tôi quị ngã. Thúy túm tóc tôi lôi dậy, dộng thật mạnh mặt tôi vào tường một lần nữa. Trán tôi tứa máu và đầu tôi đau như búa bổ. Thằng đàn ông bồi thêm một cú đá vào phía sau đầu gối làm tôi sụm xuống. Túm lưng áo lôi tôi lên, hắn dí tôi vào sát vách, nói dằn từng tiếng :
“Vàng bạc của cải mày giấu đâu khôn hồn khai mau. Tao đếm xong ba tiếng mà mày không khai là mày tới số rồi, nghe con”
Tôi thều thào :
“Dưới . . . dưới . . . “
“Dưới đâu ? nói mau! “

Đúng vào lúc ấy có tiếng còi hụ vang lên ngòai ngõ. Thằng đàn ông đồng bọn với con Thúy ở nhà trên la lên hốt hoảng,
“Chạy mau tụi bây ! Động ổ rồi, động ổ rồi.. . Công an đang vây ngoài kia “.
Thúy vẫn còn ghì đầu tôi, dùng dằng chưa biết phải làm gì trong khi thằng mặt sẹo chạy lên nhà trên xem xét tình hình. Một tiếng súng chát chúa vọng xuống.
Nhiều tiếng quát dồn dập vang lên đâu đó,
“ Đưa tay lên, đầu hàng ! đầu hàng ngay !”
Thúy buông con mồi. Trước khi tẩu thóat, y thị đá tôi thật mạnh. Tôi ngã chúi xuống đất, đầu đập vào góc cửa cầu tiêu, bất tỉnh . . .



4-

Tất cả những gì bọn cướp vơ vét lên xe đều bị phường khóm tịch thu, ngoại trừ hai ngàn năm trăm gà con. Sở dĩ họ nhả món hàng bở này lại vì trong lúc vội vàng, công an phường không biết phải làm gì với chúng. Rước gà về thì phải nuôi ăn dọn phân rất phức tạp, nên không ai muốn thêm công thêm việc.
Đây là một số lượng gà rất lớn không thể tiêu thụ nhanh được. Tôi bán dần đi được một ít, còn bao nhiêu phải nuôi chúng trong khi chờ đợi khách mua. Gà con rất khó chăm sóc trong vài tuần đầu vì chúng phải được ủ đèn thường xuyên để được ấm. Tôi xếp chuồng chồng lên nhau làm năm tầng, mỗi chuồng chứa khoãng trăm con. Tất cả cũng được ba dãy dựa lưng nhau. Xung quanh chuồng phải bịt bao ni-lông loại trong suốt có thể nhìn xuyên được và để giữ nhiệt độ cho gà con được đủ ấm vào đêm.



Hôm nay, như thường lệ, tôi thức dậy từ năm giờ sáng. Chương trình của mỗi ngày gần như không có gì gì thay đổi . Công việc đầu tiên là xuống bếp bắt nồi cháo trắng để các con dậy có ăn. Nấu nước sôi pha bình thủy . Kiểm điểm giỏ xách thăm nuôi xẫm già . Ra vườn cho gà ăn. Và sau đó ... và sau đó ...

Vâng, thì ra vườn cho gà ăn . Nhưng quái lạ chưa ! Khi tấm ni-lông vừa được vén lên, một cảnh tượng khiếp đảm hiện ra. Không thể tưởng tượng được. Không thể nào tưởng tượng nổi !
Tôi há hốc mồm, tay chân bủn rủn gần như muốn quị ngã . Nói như thế nào ?
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cảnh súng bắn đạn rơi thây ngã ở chiến trường. Nhưng đây này, trước mặt tôi là một bải chiến trường tàn khốc nhất.
Hằng trăm, hằng trăm xác gà nằm la liệt, con nào con nấy đều mất đầu, máu đỏ nhuộm ướt những máng ăn . Mùi tanh của máu bốc lên lợm giọng. Ba dãy chuồng đều như thế cả. Chết gì mà lạ lùng thế kia. Ai ? Ai? Ai? Ai đã thảm sát chúng như thế này? Tôi bật ra tiếng khóc khan .
Bỗng dưng từ đâu , trong lòng tôi nổi lên lòng căm hận lạ lùng. Mọi ngày, tôi coi gà như những súc vật nhỏ bé tầm thường. Sự sống hay cái chết của chúng không quan trọng, vì chúng được sinh ra để cung cấp thịt và trứng làm thức ăn cho loài người. Nhưng trong giờ phút này.. .Giờ phút này chúng chết cả đám chồng chất lên nhau, thân xác đó mà đầu đi đâu? Đầu ở đâu? Thật quá đổi bất ngờ. Thật quá đổi thương tâm . Một nổi thảm sầu khôn xiết. Trời ơi tội nghiệp, tội nghiệp quá !.
Gà con trên những chuồng cao chót vót vẫn còn nguyên vẹn. Hình như chúng đã trãi qua những giây phút hãi hùng, nên tất cả đều nằm rạp yên không nhúc nhích cho đến khi tôi lấy tay xua chúng dậy.



Số gà mất mát không làm tôi bận lòng nhưng cách chết của chúng làm đầu óc tôi bấn loạn suốt cả tuần lễ. Từ gà, tôi liên miên nghĩ đến số phận của lớp người đang đi học tập cải tạo. Trời ơi ! họ cũng sẽ như đám gà con vô tội kia chăng ?
Đời sao mà thảm sầu thế !

Hằng đêm, tôi mặc áo ấm ngồi co ro yên lặng núp ở góc vườn rình rập. Đêm thứ ba, một con mèo rằn xuất hiện. Đó là một mèo hoang lạ kỳ, to lớn như cọp con, cụt đuôi, và rất hung dữ. Một bên hông của nó mất một mảng lông lớn lòi lớp da xám xịt. Lối xóm từng kể cho tôi nghe những thành tích ác độc của nó. Họ đã bắt được nó một lần trước kia, bỏ vào bao bố cột chặt và chở đi thật xa cả hằng trăm cây số để vứt. Một thời gian ngắn sau, không biết bằng cách nào nó tìm đường về chốn cũ hoành hành dữ tợn hơn.

Mèo rằn chậm rải đi qua đi lại trước chuồng gà rồi ngồi xuống dán mắt quan sát. Tôi nhón gót vào nhà bếp lấy một con dao và nhẹ nhàng bước đến chỗ mèo ngồi. Nghe tiếng động, mèo phóng mình biến đi nhưng vài phút sau quay trở lại. Hắn ngồi chồm hổm trước chuồng, hễ một chú gà con nào vừa ló đầu ra mổ cám là nhanh như chớp, mèo rằn vồ đầu chụp lấy nuốt tươi. Đám gà con, hết con này tới con kia ngây thơ nộp mạng. Không thể chờ lâu hơn, tôi chồm dậy phóng một dao vào mình con mèo. Dao bay chém hắn sướt vai. Hắn quay lại, đôi mắt xanh lè toát ra những tia lân tinh như muốn đốt cháy đối thủ. Tôi cầm dùi cui đập vào mình hắn túi bụi. Hắn tránh né nhanh nhẹn, nhe nanh chìa vuốt thở phì phì nhảy chồm vào người tôi. Móng hắn nhọn hoắc và cứng như sắt. Xoạc một cái, mảnh áo trước ngực tôi rách toang. Xoạc một cái cánh tay tôi bị bao vết cào đau thấu xương.Tôi chập choạng muốn ngã nhưng trổi dậy tức thì. Hắn toan phóng mình cào mặt tôi, nhưng không để hắn kịp tấn công tiếp, tôi vung dùi cui lên bổ vào đầu hắn. Con mèo trúng đòn kêu lên một tiếng meo thảm thiết rồi tung mình chạy biến trong đêm tối. Đám gà con sợ hãi đạp nhau kêu chíp chíp, chạy tán loạn trong chuồng. ..

Chắc chắn là mèo rằn không thể bỏ gà được và chắc chắn tôi cũng không dung tha cho nó. Suốt ngày tôi nặn óc nghĩ cách diệt con mèo tinh. Không thể nào chấp nhận bạo quyền. Nhất định như thế.
Qua đêm sau tất cả số gà còn lại được đưa lên các tầng trên cao nhất. Dưới đất tôi đặt một cái bẩy lớn, phía trong bẩy gài một miếng mỡ heo. Liên tiếp trong một tuần, mèo không xuất hiện. Tôi vẫn kiên trì rình rập. Đến ngày thứ tám, a ha, nó lò dò đến. Đi rất chậm rãi, ngó quanh ngó quất. Đi đủng đỉnh, mủi đánh hơi, thỉnh thoảng quơ một chân lên đuổi mòng. ..Con mèo rằn quần lui quần tới quanh bẩy, liếm mép nhưng nó cũng khôn ngoan biết đó là bẩy rập nên không đụng tới miếng mỡ. Nó lại cố trèo lên các tầng chuồng gà trên nhưng xung quanh các bao nilông tôi đã bôi dầu nên nó không tài nào bám vào được. Cuối cùng nó bỏ đi. Đêm sau nữa miếng mỡ cũ được thay thế bằng một miếng thịt nướng rất thơm có tẩm thuốc giết chuột. Quả thật con mèo không cưỡng được sức mời gọi thơm phức, và đã lọt rọ. Đầu nó bị đè chặt trong gọng siết của cái bẩy, miệng còn gặm miếng thịt.. Nó vùng vẫy điên cuồng nhưng không tài nào thoát ra được. Mặc dù cái bẩy của tôi khá lớn, nhưng con mèo rằn có thân xác quá khổ. Một khúc đằng sau của nó ló ra khỏi bẩy bị nắp bẩy nghiến cứng. Đau đớn và trong cơn hấp hối, nó rống những tiếng meo meo kéo dài thật thê lương quái đản. Những tiếng của yêu ma quỉ hờn rên siết trong đêm khuya khoắc rồi mòn dần mòn dần. Tôi rùng mình, hơi khiếp sợ chuyện hồn ma mèo báo oán. Nhưng tôi xua đuổi ý nghĩ ấy ngay.

Sau vụ thảm sát bi thương của đám gà con mất đầu hàng loạt và cái chết của con mèo hoang, tôi giã từ nghề buôn bán gà để trấn tĩnh lại linh hồn mình. Những xung đột phải đối phó với nhiều thứ trong cuộc đời làm tôi già hẵn ra. Nhưng con đường trước mặt vẫn phải đi. Phải đi thôi !




5-

Mẹ tôi xếp thức ăn vào giỏ , dặn dò :
“Con đi đường nhớ cẩn thận . Gặp mặt chồng đừng cho chồng biết chuyện gì ở nhà”
“Thưa vâng “

Hôm nay lại đến ngày thăm nuôi. Anh ấy không còn ở chỗ trước nữa mà đã được chuyển trại đi nơi khác. Chuyến xe đò tôi đi đầy nhúc những người đàn bà như tôiø. Xe đông nhưng không ai nói với ai lời nào, vì lòng ai cũng trĩu nặng những sầu bi.

Xe đò chạy vùn vụt, thỉnh thoảng lại ngừng nơi này nơi kia dăm phút vớt khách thêm. Hai bên đường phố xá xa dần để rồi ruộng vườn, và những mái tranh nghèo hiện ra. Những vườn chuối xanh um, những hàng cau nặng trái, những cây dừa đơm bông, những cây cầu khỉ hay cảnh gái quê tát nước đối với tôi không còn hấp dẫn thi vị nữa. Ôi quê hương với con trâu cày ! con trâu cày trong thơ văn sao thật tuyệt vời nhưng giờ đây tôi chính là con trâu cày mà lòng tôi đau khổ biết bao !
Tôi nhắm nghiền mắt lại ngủ thiếp đi một lúc.

Tôi trình giấy thăm nuôi cho cán bộ. Người này làm mọi thủ tục xong, bảo tôi ngồi xuống cái băng ghế chờ đợi. Tôi vuốt lại mái tóc cho ngay ngắn, ngó quanh quất . Nhìn mọi thứ nhưng không thấy thứ gì rõ ràng. Có lẽ nhìn để nhìn mà không phải nhìn để thấy.Trong cuộc đời hiện tại, tất cả đều như rất phù phiếm, và tôi có cảm tưởng như trí óc tôi từ chối tiếp nhận những hình ảnh của sự thật đau lòng. Có lẽ như vậy là thái độ hay nhất để có can đảm tiếp tục cuộc sống.

Chồng tôi đã xuất hiện ở ngưởng cửa. Tôi đứng dậy lặng yên. Hai chúng tôi nhìn nhau một lúc, nghẹn ngào. Tôi theo chồng bước qua một chỗ khác rộng hơn nhưng được ngăn ra từng ô nhỏ cho mỗi cặp vợ chồng được ngồi riêng tâm sự.
Anh lên tiếng trước,
“ Trông em lúc này xác xơ và đen. Ở nhà có gì lạ không ? Các con như thế nào ?”
Tự bảo nhiều lần khi gặp sẽ cười vui, cười dòn tan, nhưng bây giờ hai chữ “xác xơ” của anh làm nước mắt tôi cứ trào ra trào ra. Tôi cảm thấy mình yếu đuối lạ lùng. Tôi cầu mong được đứng mãi bên chồng, vì sự có mặt của người đàn ông thật rất quan trọng cho đời người đàn bà. Vâng, dù chồng tôi nay đang cảnh cá chậu chim lồng, và bất lực không thể làm gì cho tôi, nhưng nụ cười kia tiếng nói kia đủ sức giúp tôi vượt qua những vũ bão.
Người ấy nâng cằm tôi lên, hôn vào má và hôn vào nước mắt,
“ Nhà có chuyện gì kể anh nghe. Kể thiệt đi “
Tôi lúc lắc đầu,
“Không có chuyện gì cả ”
“Vậy sao khóc ? “
“Tại được gặp anh nên cảm động quá”
“Tội chưa ! thì anh cũng nhớ em lắm. Hôm qua biết hôm nay sẽ gặp nên tối cứ nằm mơ đủ thứ “
Tôi bật cười,
“ Mơ gì ?”
“Thì mơ yêu em đó !”
“I' chết ! Có thích không ? “
“Chắc chắn. Lúc nào anh về sẽ cho em biết tay. Sẽ yêu em mỗi ngày Chịu không ?…”
Tôi gật đầu rồi hỏi,
“ Em cũng thấy anh gầy đi và xanh hơn lần trước nhiều. Lao động có cực khổ lắm không ? Họ đối xữ có tệ lắm không ?“
“Thì ai sao mình vậy. Em đừng lo cho anh. Anh cứ nghĩ em phải gánh gồng bốn đứa nhỏ một mình làm anh lo sốt vó lên. Em làm gì cũng phải cẩn thận nhé. Phải luôn nghĩ rằng mình là đầu tàu cho các con. Em có chuyện gì là cả đám chết hết “
“Em biết. Anh khi nào cũng thích giảng mô-ran cho em thôi à “ Tôi vùng vằng dỗi hờn.
“Không, anh chỉ nhắc chừng vậy thôi. Vì trách nhiệm của một người lo cho nhiều ngưòi là nặng lắm”
Tôi im lặng. Chồng tôi chồm tới ôm tôi, thủ thỉ :
“Rồi tất cả xui xẻo sẽ qua thôi. Anh thề sẽ yêu em và chung thủy với em trọn đời. Khi nào anh về, anh sẽ làm hết mọi chuyện để đền bù cho em”

Chúng tôi hàn huyên đủ mọi thứ chuyện, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề đá động đến những khó khăn mà mọi người đang gặp phải ở ngoài đời. Chồng tôi cũng vậy. Anh kể những nhớ thương nhiều hơn là than thở về những ngày tháng ở trong trại cải tạo. Bỗng nhiên tôi bực mình khan, vì sự giã dối của cả hai. Tại sao vậy ? Tôi òa khóc. Chồng tôi bụm miệng tôi lại, thì thầm,
“Đừng! đừng em! bọn cán bộ thấy em khóc là anh sẽ ở đây luôn đó. Em không muốn anh về với em và các con sao ? “
Tôi xin lỗi chồng, nhận thấy mình trẻ con quá.



6-

Xẫm già được bệnh viện cho về nhà nhưng sức khoẻ vẫn còn rất yếu. Mặc dù phải cưu mang thêm một miệng ăn, nhưng tôi không đành tâm để xẫm về quê quán khi gia đình xẫm vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên vùng kinh tế mới. Với tôi, xẫm đã như người thân thích. Gia đình tôi sa sút hơn trước vì bao nhiêu tiền làm ăn đã mất sạch trong vụ cướp tháng bảy. Mẹ con chúng tôi sống rất đạm bạc để tránh sự dòm ngó của chính quyền địa phương.

Thư từ của chồng tôi vẫn đều đều gửi về hằng tháng. Chưa mở thư tôi cũng đoán biết nội dung của thư có những gì. Lúc nào trong thư anh ấy cũng hết lời ca ngợi sự sáng suốt lãnh đạo của “Bác Hồ và đảng ta”. Lui tới vẫn là những lao động tốt học tập tốt cải tạo tốt, không có gì mới lạ hơn. Đọc miết thấy nhàm. Đọc miết thấy bực.

Chỉ còn ba hôm nữa là Tết Nguyên Đán. Nắng êm và trời mát. Cành mai ngoài cổng trổ bông sớm hơn mọi năm. Chỗ trồng những cây phong cây tùng trước kia đã được đào lên thay vào những loại cây có thể cho trái ăn được, đúng tiêu chuẩn sản xuất mà chính quyền cách mạng luôn hô hào. Mới trồng mấy tháng, bụi chuối bên hè đã nặng trĩu một buồng vừa chín tới. Những trái chuối mật mốc tròn lẵng khêu gợi làm tôi thèm thuồng. Tôi nhón gót đếm đủ chín nải và gật gù thích chí cười vang. Cười vang trong không khí tươi lành của buổi sớm mai vì lòng tôi đang thắp một niềm hy vọng. Chả là mấy hôm nay có tin đồn không ngớt rằng chính phủ sẽ khoan hồng cho mọi người đi cải tạo trở về sum họp với gia đình. Có hy vọng trong lòng thì gương mặt mọi người như rực sáng ra, và thành phố cũng như rực sáng ra.

Tôi quay vào dọn dẹp nhà cửa, khấp khởi nghĩ rằng chồng sẽ về nay mai. Lòng nghe ấm lại, ngọt ngào. Đời nghe sống dậy, hò reo. Kể từ giờ phút đó, tôi mong mỗi tiếng chuông rung ngoài cửa. Khi có tiếng chuông vang rền lên, mà sao nó có vẽ rền hơn những lần khác trong những năm tháng đã qua thế nhỉ, thì mọi người trong nhà đều nhốn nháo. Và tôi, trái tim hồi hộp bâng khuâng đợi mong.
Đôi lúc cải lương một chút, nghe bài hát ai như của Phạm Duy lồng lộng trong lòng “Ngày trở về, anh bước lê trên quảng đường đê đến bên lũy tre . . .”
Tôi rơm rớm nước mắt cười vẩn vơ “Không, anh không về chống nạng đâu, phải không anh?”

Các con tôi vẫn sống hồn nhiên, đòi mẹ may áo quần mới, vòi vĩnh mẹ mua cái này sắm cái nọ. Tôi ậm ừ cho các con vui, và mẹ con chúi mũi bàn luận sẽ làm những gì để đón ba. Sung sướng nói với nhau, rằng ba có hứa khi ba về ba sẽ làm tất cả mọi thứ cho mấy mẹ con được nghỉ ngơi.

Hai con gái tôi xếp những bánh mứt lên bàn, tranh nhau nói sẽ bắt ba đèo Honda chở đi học mỗi sáng. Sẽ hát cho ba nghe những bài đồng ca, và sẽ trổ tài nấu cho ba ăn vì tụi con bây giờ đã biết làm bếp rồi.
Tôi hỏi,
“ Nói dốc! các con biết nấu gì nói me nghe coi ? “
Bé Bao-La nhanh nhẩu,
“ Chị Y-Đa biết nấu mì gói rồi me. Và con thì biết nấu nước sôi và luộc trứng gà “
Rồi nó lại chu mỏ ra nói nũng,
“ Con sẽ méc với Ba là ngày nào me cũng bắt con ăn trứng gà luộc làm con sún răng”
Tôi dí tay vào trán con bé, kêu lên “Xạo vừa thôi nghe cô ” vừa cù léc nó làm mấy mẹ con cười nắc nẻ. Quay qua hai thằng con trai, tôi âu yếm hỏi :
“ Còn hai nhóc kia thì làm gì ? “
Thằng anh mắc cỡ cười tủm cười tỉm :
“ Con biết đánh bi. Con sẽ bày cho ba đánh bi với con . . .“
Chú bé nhất vội vàng ngắt lời:
“Không, bi của con, bi của con, con không cho anh Tô chơi bi của con đâu “
Tôi vò đầu nó “ Thế còn con biết làm gì ?”
Bé nhỏng nhẻo “ Con muốn ba đút cháo cho con ăn” .

Thấy mấy mẹ con ngồi dệt mộng vui quá, xẫm già cũng xen vào :
“ A ! như vậy là xẫm tui không có chiện làm vì mấy người dành hết việc của xẫm rồi
hén ! “
Tôi la lên “Xẫm già ! xẫm già ! hồi nãy giờ xẫm ở đâu ? Tôi có mua tặng xẫm xấp áo
đây nè “

Người lão bộc nheo mắt nhìn tôi . Kéo tôi vào buồng ngủ, xẫm chỉ cái giường :
“ Hồi nãy giờ ngộ ở đâu ? Thì ngộ bận sửa soạn chăn giường cho cô dâu í mà“
Tôi đỏ mặt lặng người. Tiếng xẫm già đưa tôi vào mộng :
“ Ngộ tính rồi. Khi nào ông chủ về, ngộ sẽ dẫn các em về nhà Ngoại ở ít bữa .. .”…
Rồi xẫm nghiêm trang hỏi tôi “Bà chủ có tin là họ sẽ thả ông chủ về Tết nay không ?”
Tôi trầm ngâm “ Cũng không biết nữa. Thư vừa rồi nhà tôi không nói gì về vụ ấy cả . Nhưng nếu về thiệt thì chắc là vui lắm, vui lắm, vui lắm lắm “



7-

Lâu rồi. . .Mấy mẹ con ai cũng nhớ . . .
Mà em thì rất nhớ, anh biết đó, thèm vai anh tựa đầu. ..Không, sao lại nói văn hoa thế ? Mình thèm nhau hơn thế nữa kia. Phải không, phải không anh ?

Tôi bước lại cây đàn dương cầm, lướt nhẹ bản “ Trở Về Mái Nhà Xưa”
Rồi mơ màng hát theo điệu nhạc, vừa đủ cho mình nghe :

“ Về đi khi mái tóc còn xanh xanh
Về đi khi cuộc sống dường mong manh
Về đi nhé khi đời em bồng bềnh
Bao gió mưa đang bủa vây đời mình . . .” hkkm






Tết nhanh chóng qua đi, và bao nhiêu Tết khác cũng qua đi. Nhưng người đàn ông vẫn chưa về. Tự đáy hồn tôi vang vọng lời xưa,

“Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non . . . ” (Đoàn Thị Điểm)

Vâng, thì nước đầu cầu nước vẫn cứ chảy, còn lòng ai muôn năm cứ dặc dặc sầu

04/30/01 @ 2:00 am
Kỷ niệm ngày 30 tháng tư năm nào
HKKM



Nguồn: Hồng Khắc Kim Mai
Người gửi: Hồng Khắc Kim Mai
Người đăng: Pham Anh Dũng
Người sửa: Sài Gòn; TVMT; Pham Anh Dũng;

1656




Tôi đứng nhìn kệ sách trong nhà xe.

Cái kệ này vợ tôi đã mua cách đây hơn mười lăm năm trong dịp la cà các garage sales trong xóm. Bà ấy mặc cả mãi người ta không bán. Bỏ đi rồi quay lại kì kèo. Cuối cùng thì đành mua với giá người bán đã đòi. Cái kệ tủ trông cũ mèm, đóng bằng một loại gỗ rẻ tiền, nhưng nó dài và cao khác thường với rất nhiều tầng. Khi đứng chờ tiền thối lại, bà ấy thì thầm vào tai chồng “Mua cho bố để bố tha hồ bày sách”. Tôi vui quá. Bà ấy lại nguýt yêu “Quà sinh nhật năm mươi của bố đấy nhé” . Tôi cười ruồi như mọi khi.

Cái kệ cồng kềnh quá. Tôi phải nhờ mấy ông bạn đem xe hủ lô đến chở nó về nhà. Đám con tôi lau nhau đề nghị nên sơn màu trắng. Vợ tôi nhất định không chịu, đòi phải đánh vẹc ni cho bóng láng. “Nhất vợ nhì trời. Em muốn gì thì sẽ được nấy”, tôi nói. Tôi đảm trách việc đánh vẹc ni không phàn nàn mặc dù trước kia chưa hề làm qua. Từ ngày bỏ nước ra đi, ai mà chã trở thành một tên bá nghệ bất ngờ ?

Cái kệ cao nghều nghệu, chênh vênh. Vợ tôi nghĩ nên đóng đinh bốn góc vào tường cho chắc . Ý vợ là ý trời. Bây giờ nhìn cái kệ thật đẹp thật sang và vững vàng như ông hộ pháp nằm ngay giữa căn phòng chính, khó ai ngờ cách đó ít hôm nó là một vật người ta muốn vứt đi.

Sách chã có bao nhiêu để bày. Thời buổi mới đến định cư xứ lạ, tiền trợ cấp ít ỏi không cho phép tôi được xài hoang. Một nhóm bạn bè ở các tiểu bang khác có sách báo đọc xong gửi cho tôi. Tôi sốt sắng đón nhận tất cả, mặc dù đa số sách báo họ gửi đều rất cũ và có quá nhiều tác giả tôi chưa được biết.

Nhìn tôi lau bụi các cuốn sách và xếp ngay ngắn lên kệ, vợ tôi âu yếm choàng tay qua cổ tôi thì thầm “Bây giờ có sách gì thì bày sách ấy. mai kia sẽ bày sách của bố. Sợ không đủ chỗ để chứa đấy”. Nghe cảm động quá. Ngưng một chút cho cổ đỡ bớt nghẹn, tôi đủng đỉnh bảo nàng “Vậy chứ em định cho anh trở về với thơ văn sao ?” Nàng ngồi im không đáp. Rất thành thật tôi nói với nàng rằng cuộc sống mới có nhiều khó khăn phải vượt qua.” Anh nghĩ anh phải đi làm hai ba nơi để cho em và các con có một cuộc sống tốt. Dính dáng với thú vui văn chương là một trong những xa xí anh không dám mơ tưởng tới”. Vợ tôi bỗng dưng òa khóc. Bù lu bù loa “Em lấy anh vì em mê những gì anh viết, bây giờ anh không còn là người của năm xưa nữa ư ?” Câu nói của vợ tôi nghe như dao cắt ruột. Tôi đứng dậy vờ uống ly nước để dấu giọt nước mắt vừa mới ứa . Một đàn con dại. Một người vợ yếu. Tôi có quyền mài miệt ngồi một chỗ đam mê viết lách để vợ con phải lam lũ vật lộn với cuộc sống không ?

2.-

Tôi đứng nhìn kệ sách trong nhà xe.

Năm năm trôi qua, kệ sách cũng đã đầy. Những tác phẩm sách báo của rất nhiều tác giả, đa số đều là bằng hữu của tôi, từ bốn phương trời đã gửi đến cho tôi. Tôi trân trọng xếp chúng có lớp lang đàng hoàng. Vợ tôi đôi lúc dỗi hờn vô cớ. Một hôm không dằn được nàng nói “Các tác phẩm cũ của anh, mình in lại nhé”. Tôi ôm đầu nàng, cười vang “In làm gì những của nợ đó. Em là nàng Thơ của anh rồi, anh dại gì đi tìm nàng Thơ ở đâu đâu”. Nàng lại cho là tôi nói đùa, không bằng lòng. Tối đó nàng bỏ cơm.

Ba tháng sau trên tầng đầu của kệ sách xuất hiện bốn tập thơ lạ. Tôi lấy xuống xem. Bàng hoàng. Hai tay run rẩy. Tim đập mạnh. Rõ ràng là những tập thơ cũ của ba chục năm trước với tên tôi trên đó. Vẫn là những hình bóng cũ, nhưng màu sắc của trang bìa tân kỳ hơn, và chữ in bên trong rõ nét và đẹp hơn. Miệng tôi chợt khô ran, và trong tôi dậy lên những xúc cảm lẫn lộn. Vừa vui vừa hứng khởi vừa lo ngại. Tự hỏi sách đang thấy có thực không ? Tự hỏi tâm mình có loạn, mắt mình có hoa không ? Tôi sửng sờ đứng nhìn sách mà lòng cảm thấy vô cùng hãnh diện. Tôi ngây ngất ôm chặt mấy cuốn sách vào lòng, như sợ chúng mất biến đi…

Buổi tối sau khi các con đi ngủ, tôi nhón gót đến gần kệ sách. Lấy chúng xuống, tôi ngắm nhìn một lúc. Đôi mắt lim dim, tôi hồi tưởng lại thuở tôi còn là một văn sĩ trẻ đầy tham vọng tại quê nhà. Những kỷ niệm cũ vẫn còn sôi động trong lòng tôi. Vâng, quả thật ngày xư a tôi vui lắm khi cuốn sách đầu đời được xuất bản …
Có tiếng động đâu đó trong nhà.
Tôi vội bỏ sách lại lên kệ. Ngồi xuống một chiếc ghế bành gần đó, tôi giã vờ như đang đọc báo, và nghe tiếng chân rất khẽ của người vợ hiền bước đến. Nàng sà tới ngồi bên cạnh nũng nịu “Ai đọc báo kiểu gì mà cả giờ rồi vẫn còn ở trang nhất”. Tôi cười giả lả “Hôm nay đi làm mệt quá em, anh cầm báo mà ngủ gật, có đọc được gì đâu”. Vợ tôi cười to “Thiệt không đó ông xã ?” Tôi cảm thấy nhột nhạt, đành thú thật với vợ về sự có mặt kỳ bí của mấy cuốn thơ trên kệ tủ. Vợ tôi làm mặt nghiêm một lúc, rồi như tội nghiệp tôi, nàng thầm thì như mọi khi “Em in cho bố đó ! quà sinh nhật bố năm mươi lăm tuổi” . Tôi không thể nào cầm được nước mắt.
Run giọng hỏi “Tiền đâu có mà in lắm thế “. Nàng không trả lời. Về sau tôi biết được tiền in thơ là do nàng đã chắt bóp dành dụm lâu nay để thực hiện giấc mơ thầm kín của tôi.

Việc tự in mấy tập thơ làm quà của vợ làm tôi nhận thấy con đường trở về với bút mực ở ngay tầm tay. Tôi phải nắm lấy cơ hội. Như cây đang héo úa vừa được tưới nước, tôi tươi tỉnh hẳn lên.

Vợ tôi gom góp những bài thơ bài văn của tôi như một tín đồ sùng đạo. Nàng không se sua nữ trang quần áo với bạn bè, không đi du lịch đây đó, không cờ bạc. Mỗi tuần nàng kiếm thêm việc làm phụ trội để mỗi năm in cho chồng dăm ba cuốn sách.

Kệ sách càng lúc càng đầy hơn. Với số lượng sách in của gia chủ mỗi ngày mỗi tăng, kệ sách của tôi không còn chỗ cho bằng hữu nữa. Để không bị mang tiếng có mới nới cũ, vợ tôi quyết định mua một cái mới dành cho sách của những tác giả khác.

3.-

Tôi đứng nhìn kệ sách trong nhà xe.

Những lúc tôi ngồi vào bàn viết, hồn nhập hội theo bút và lòng sống hoàn toàn với các nhân vật trong truyện sắp viết, vợ tôi hay khe khẽ đến đặt ít cái khăn tay thơm ướt trên bàn gần đó. Một bình nước trong. Một đĩa bánh ngọt. Hay vài cái kẹo vừng tôi yêu thích. Lắm lúc nàng lại xê dịch cái quạt máy quay cho đúng chỗ hay thắp thêm ngọn đèn cho đủ sáng. Lúc nào làm gì nàng cũng làm rất khẽ, như sợ tôi động tâm mất hứng viết.

Những lúc tôi ngả người trên chiếc ghế bành hiệu Lazy Boy nằm duyệt lạỉi bản thảo, vợ tôi hay kéo ghế ngồi bên cạnh yêu thương lấy tay xoa bóp hai bả vai tôi . Hay nàng ngồi bệt xuống thảm nắn mấy sợi gân cốt nơi bàn chân của chồng. Đôi khi nàng ghen vu vơ với một nhân vật nào đó trong truyện. Tôi luôn luôn cười với nàng “Ghen gì ! nhân vật tuyệt vời nào trong truyện cũng mang dáng dấp của em”.. Người đàn bà khóc vì nàng biết tôi đã nói thật. Đúng thế, vợ tôi biến hóa thành nhiều người trong những tác phẩm của tôi. Dù nhân vật chính của câu truyện bắt đầu có là một kẻ xấu xa đốn hèn hay một người vô tích sự đi nữa, thì khi kết thúc, tôi luôn luôn uốn nắn xoay sở làm sao cho nhân vật đó trở thành một người lòng tràn đầy nhân ái và tận tụy. Đó chẳng phải là hình ảnh của vợ tôi sao ?.

Những lúc đêm khuya cùng nhau bàn bạc về một mẫu hình bìa cho một cuốn sách mới, vợ tôi thường nấu chè đãi tôi. Chè hạt sen nấu âm ỉ với đường phèn có vị ngọt rất thanh. Nấu xong nàng hay để vào tủ đá vài giờ nên khi húp vào miệng, nước chè mát lịm gây cho lưõi tôi một cảm giác ngây ngất, và hạt sen tan trong miệng lúc nào không hề biết. Trong câu chuyện với cô em gái, tôi ví von tình yêu của vợ tôi dành cho tôi y hệt chè hạt sen nấu đường phèn. Vị ngọt ngào mềm như lụa dần dà thấm trong tôi . Và từ đó Thơ tuôn như giòng suối mật. Cô em gái cười ngất “Tưởng như anh mê say văn chương thi phú, nhưng kỳ thật anh đã dùng văn chương để thần thánh hóa vợ”.Tôi khựng người lại, chới với nhận ra là cô em nói đúng.

Những lúc sách được in về, vợ chồng vui mừng tái tê. Một tác phẩm mới ra đời tất nhiên mang đến cho tôi niềm tự hào đã hoàn tất được một việc đáng kể, nhưng đồng thời cũng cho chúng tôi thêm một âu lo về số phận vô định của nó.
Dần dà cái kệ tủ chật cứng, và đâu đâu trong nhà cũng thấy sách chất ứ . Nhà xe đầy ắp những thùng giấy má của tôi. Sách tôi đã viết không tiêu thụ được trong xã hội quần chúng nơi đất nước tôi định cư, vì chúng được viết bằng tiếng mẹ đẻ. Quá đắt đỏ nếu tôi thuê người dịch ra tiếng nước khác, và khả năng sinh ngữ của tôi chưa đũ để đảm trách được việc đó. Sách của tôi viết khó phổ biến rộng rãi, không bán được trong cộng đồng người cùng xứ sở tôi, vì đó không phải là một cái gì nóng sốt đòi hỏi họ cần phải có.

Cuộc sống tha hương của những người di dân đã tạo ra nhiều nhà văn , trong khi số lượng độc giả càng ngày càng ít đi. Tác phẩm in ra được trao đổi giữa họ hơn là bán buôn. Thật tình lắm lúc tôi cảm thấy chán ngán và đau lòng nhắm mắt lại khi đi ngang qua những đống sách bám đầy bụi của mình. Nhưng người vợ kia, khi nào nàng cũng giữ vững tinh thần. Thầm thì bên tai tôi nàng nói ”Bố ơi, đừng bỏ cuộc. Em lúc nào cũng mê say những gì anh viết…”

4.-

Tôi đứng nhìn kệ sách trong nhà xe.

Bao nhiêu mùa Xuân Hạ Thu Đông trôi qua nhấp nháy. Hôm kỉa hôm kia hôm kìa tôi nghe bọn con kháo nhau trong nhà bếp. Đề tài luôn luôn là cái kệ sách cổ lổ sĩ nằm chình ình giữa phòng khách, và bà mẹ. Đứa con gái lớn than phiền rằng lúc này mẹ già quá, tánh tình khó chịu, hễ nói động tới cái kệ sách là mẹ giận hờn, bỏ cơm, nằm vạ.

“Chắc nên đưa mẹ vào viện dưỡng lão cho mọi người được khỏe”. ỹCô ta nói.
Đứa con gái thứ hai băn khoăn “Vậy mỗi đứa mình phải đóng góp bao nhiêu cho cái việc đó?”
Miệng cười toe, đứa con dâu châm vào:
“Tại sao chúng ta phải trả? tiện nhất là lấy tiền an sinh của mẹ để trả những chi phí cho mẹ.”

Vợ tôi ngồi ở góc phòng, mắt nhắm nghiền, miệng nín thinh. Bà như người vừa câm vừa điếc. Tôi đứng bên cạnh, lấy tay vén những sợi tóc bạc loà xoà trước trán cho nàng. Tôi nói những lời thương yêu an ủi để làm vơi nỗi đau khổ của nàng, nhưng chắc chắn là nàng không nghe được. Vì vợ tôi vẫn ngồi yên như tượng.

Khi đứa con trai bắt đầu đề cập tới việc khuân kệ sách ra để ở nhà xe thì vợ tôi bỗng đứng lên rất dữ tợn ”Mẹ cấm tụi bây không được làm như vậy. Cấm !Cấm nghe chưa! Ngày nào tao còn sống thì không ai được đụng tới tủ sách. Tủ sách trước nay ở đâu phải ở nguyên đó “.Thằng con trả lời “ Mẹỉ làm gì dữ vậy ? những sách đó có giá trị gì ! in ra cho cố, bán không ai thèm mua, để chật nhà chật cửa dẹp là vừa...” Hắn nhấn mạnh ở những chữ sau. Cô con gái lớn ngắt lời “David, không được nói vậy ! Dù gì cũng là công sức của bố. Đó là những gì bố đã hoàn tất được “. David, thằng con trai đang mang giòng dõi họ tôi, đang có huyết thống của tôi trong cơ thể nó, đứa con trai tôi đã nuôi nấng với tất cả tình yêu thương và đặt bao nhiêu hy vọng vào, hắn đi tới đi lui múa tay trong không khí “Xời ! chị nói công sức của bố làm tui tức cười. Công sức để lại thành tiền thành bạc thì mới đáng là công sức. Còn đây, xin lỗi, chỉ là đống giấy lộn thôi”.

Đứa cháu nội hai tuổi của tôi thấy cha nó hùng hổ thì khóc ré lên. Mẹ nó dỗ mãi mới nín. Cô ta ôm con vào lòng nói lẫy “ Gớm, cái thằng oắt con này cùng phe bà nội hay sao ấy !” Rồi cô ta châm dầu vào cho câu chuyện thêm phần bi đát “ Mấy chị nhớ hông, ông già thức đêm thức hôm viết bài, mẹ thì ăn không dám ăn, đi chơi không dám đi, bao nhiêu tiền của đem đi in sách làm gì không biết nữa ! Những ngày ra mắt sách người ta đưa tiền mua sách mà như là bố thí”.

Nghe tới đây vợ tôi nấc lên , năn nỉ “ Tội tôi lắm các cô cậu ơi, đừng nói nữa. Xin tha cho tôi nhờ “. Tôi ngồi thộn một chỗ chỉ biết lắc đầu ngao ngán. Mà kể ra lũ con tôi nói cũng đúng. Mặc dù những nhận xét hay quan điểm của chúng thật dã man, nhưng đó rõ ràng là một sự thật trắng trợn không chối cãi được. Những tác phẩm của tôi chỉ có giá trị với vợ chồng chúng tôi thôi, bởi vì chúng liên hệ đến phần đời của chúng tôi. Chúng làm cho sự hiện hữu của chúng tôi vui tươi hơn, có ý nghĩa hơn trong những tháng năm vời vợi thương nhớ quê hương. Trong những tháng năm đau xót vì mất nước và mất bản thân. Trong những tháng năm lạc lõng giữa quê người mà nơi đây đang cần thời gian để hòa nhập nhịp nhàng những nền văn hóa dị biệt. Bạn bè hay những ai tham dự những buổi ra mắt sách là những người can đảm. Họ đến để cổ võ cho tôi, vì cả nễ hơn là vì lòng hâm mộ tác giả. Họ vỗ tay cho tôi hay họ ca tụng tôi chỉ để hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ làm y như thế cho họ. Một ngày, khi tất cả các vì sao từ từ rụng hết, thì ai còn đây để ngợi ca những áng văn chương mà giòng người lưu vong thuộc thế hệ đầu tiên đã để lại ???

Bọn nhỏ rời phòng. Bà vợ già yếu của tôi nằm yên trên chiếc ghế bành năm xưa tôi hay nằm duyệt bản thảo. Đến phiên tôi ngồi thụp xuống ôm chân vợ, nhẹ nhàng xoa bóp cho nàng. Không biết vợ tôi có cảm được không ? tôi thì thầm với nàng “Lúc đầu anh đã bảo đừng in những của nợ mà mẹ chẳng chịu nghe!” Tôi chắc là nàng chẳng nghe được lời tôi, nhưng trông kìa, đôi mắt người vợ dấu yêu long lanh hai ngấn lệ.

5.-

Tôi vẫn đứng nhìn kệ sách trong nhà xe.

Buổi sáng hôm đó trời mưa buồn như ri. Thằng con trai dìu vợ tôi ra chiếc xe Van. Gương mặt vợ tôi lạnh lùng đến khiếp sợ. Đôi mắt nàng sụp xuống, hai mép miệng giật lia lịa như đang giận ghê gớm mà không thèm nói. Đứa con dâu vừa cột dây buộc cháu nội của tôi vào chiếc ghế trẻ nít trong xe vừa nói với chồng “Em đã cho hai chị biết địa chỉ của viện dưỡng lão rồi. Chắc chiều họ sẽ chở đồ đạc của mẹ vào “.
Hừ ! Tụi nhỏ thật tệ. Chúng đã trù tính đâu vào đó. Bà già đang bị đá ra khỏi nhà, và tôi thấy tội nghiệp cho vợ tôi biết bao. Từ nay nàng sẽ ở một nơi chốn mới với một nỗi lòng ê chề đắng cay.

Buổi chiều hôm đó trời mưa gió không ngớt. Đứa con dâu lui cui dọn dẹp nhà xe để dời kệ sách của tôi ra đây. Hai đứa con gái chở tất cả áo quần và những vật dụng cần thiết cho mẹ cũng đã trở về. Thằng David từ đâu cũng vừa về tới, đem theo một người bạn trẻ. Chúng nó cùng nhau nhích chiếc kệ từng bước một từ phòng chính ra nhà chứa xe. Tôi âm thầm đứng nhìn lòng đau như cắt .

Khi những cuốn sách bắt đầu được xếp lên kệ, đứa con gái lớn cầm cuốn thơ của tôi lên ngắm nghía một lúc rồi lẩm nhẩm “Nghĩ cho cùng, ông bà già tội thiệt”. Rất nhanh, nó bỏ cuốn thơ vào trong túi xách kế đó. Lại nhặt cuốn khác lên ngắm nghía, rồi lại bỏ vào túi xách. Cô em thắc mắc “Chị lấy chi vậy ? đọc đâu có hiểu mà lấy ? Con cái mình lớn lên cần chi đọc ba cái thứ sách này ? Thế hệ của những người như bố mẹ qua đi rồi là hết”. Im lặng một giây. Tiếng cô chị bỗng dưng hạ giọng ngậm ngùi “ Lấy chứ, lấy để làm kỷ niệm, vì họ là bố mẹ. Không có họ, không có mình”. Rồi cô oà khóc lớn. Mấy đứa con khác ngơ ngác một lúc rồi cũng rơm rớm nước mắt khóc theo.

Cả ba đứa con tôi vừa xếp sách lên kệ vừa yên lặng khóc. Tại sao dám làm những chuyện tày trời rồi lại khóc nhỉ ? A ! nước mắt tống biệt, chắc vậy ! Tuy nhiên khi nhìn những đứa con ruột thịt khóc tôi cũng thấy mũi lòng.
Người bạn của con trai tôi , thằng Joe, khoãng chừng ba mươi mấy, cầm lon bia nốc cạn một hơi, cất giọng “ Nè, khóc vậy đủ rồi “ Chỉ chỏ cái kệ sách hắn hỏi “ Chỉ có chừng này sách thôi hử ?” Cô con gái nhỏ đáp “Đâu có, còn cả hơn trăm thùng chất ở trong nhà kho sau góc vườn kia nữa”. Thằng Joe cười lớn, ba hoa chích choè “Ông cụ của các bạn chắc chắn là rất buồn khi thấy những gì mình làm không đi đến đâu. Nói thiệt nhe, nếu nhắm tác phẩm của mình có tầm vóc quốc tế thì nên in, chứ nếu những gì mình viết chỉ để xả buồn có tính cách cá nhân không đem tiền bạc lợi lộc gì hết, thì viết xong đăng báo cho vui, rồi quên luôn. Nếu giỏi, lượng sức làm được chuyện đội đá vá trời thì nên làm. Bằng không tất cả chỉ nên xem như một cuộc vui giai đoạn, chờ ngày đi vào vĩnh cửu.” Hắn ngước cái mặt lên khoái chí với những gì mình vừa nói, rồi tiếp tục “ Bày đặt in chi cho tốn tiền tốn bạc, bây giờ mất công con cái đem đi đổ “.

Trời ! lời nói chi sỗ sàng. Tôi thảng thốt vì cái ý nghĩ vừa tàn bạo vừa rất đúng của thằng Joe. Phải, những người bỏ nước ra đi đến đây họ là những kẻ thua cuộc, bất kể vì lý do gì. Quê hương cũ dứt điểm xóa tên tuổi họ. Quê hương mới rễ bén còn non. Đa số những đề tài trong văn chương hải ngoại xoay quanh những hoài hương ngậm ngùi. Những tình ái cá nhân. Những hồi ký tự đề phong xưng tụng mình anh hùng, hay cố gắng đưa ra một số lý do bào chữa biện minh sự ra đi bỏ cố hương của mình. U hoài thương tiếc quá khứ. Ưu tư thấp thỏm cho một ngày mai chưa biết đi về đâu. Cũng có một số sách viết về khoa học, hay khảo luận nhưng số người đọc rất hiếm hoi và chọn lọc. Thế hệ những người di dân đầu tiên là những người tiên phong, họ hy sinh và cực khổ nuôi các con . Thế hệ thứ hai lăn xả vào xã hội mới, học hành thật giỏi. Đa số thành công đem về cho gia đình những mảnh bằng làm rạng ngời bức tường vôi, nhưng đồng thời cũng đem về nhà những lời nói, cách cư xử làm đau lòng cha mẹ.

Tôi thở dài “Thôi bố hiểu rồi .Bố tha cho các con đó”. Tôi quay lưng lầm lũi bỏ đi trong mưa gió…

Thỉnh thoảng tôi vẫn về đứng nhìn kệ sách trong nhà xe để nhớ lại cái đam mê ngày xưa. Đứng đó trầm tư. Có một ràng buộc luyến lưu nào đó làm tôi đi không đành.

6.-

Trời vẫn còn tinh sương. Mặt đất bốc hơi trắng xoá trên một bãi rộng mênh mông. Thỉnh thoảng có một vài chiếc xe thùng, xe vận tải chở đầy nhóc rác rến tấp một nơi nào đó đã được chỉ định. Người tài xế nhảy xuống hoặc một mình hoặc với một hai người phụ, họ vội vàng cầm xuổng cầm chỗi tống rác xuống bãi. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc, và những làn khói mỏng là là trên mặt đất kia do rác rến thối rữa lên men bốc hơi.
Tôi đứng đây từ chạng vạng tối hôm qua. Thằng con trai tôi cùng bạn nó chất đầy chiếc xe thùng, thuê của hãng U-Haul, tất cả những sách vở báo chí tài liệu tôi đã gom góp dành dụm từ ngày tôi đặt chân đến đất mới. Thơ, Văn, biên khảo, luận cứu do tôi nặn óc ra viết ngót nghét hơn sáu chục cuốn. Ngoài ra còn hơn chục xấp bản thảo chưa in. Tất cả là những lao lực tôi đã đổ vào suốt một đời.

Các con đã an trí bà vợ tôi tại viện dưỡng lão rồi. Việc tống khứ tất cả xe sách này mà chúng coi như RÁC RẾN, là một điều tất nhiên. Chiếc kệ sách tôi đánh vẹc ni ngày nào đã được bửa ra thành nhiều mảnh nhỏ. Những thanh gỗ theo nhau bay xuống vực sâu. Nhìn chiếc kệ sách lúc tàn đời, một thời nào nó đã từng là người bạn thiết của tôi, lòng tôi như muốn vỡ ra.

Tiếp đến là những xấp giấy rời. Mỗi khi bàn tay của hai người thanh niên vung lên là những trang giấy chi chít chữ bay tung như những lá truyền đơn. Ô hãy nhìn xem, những con chữ từ những trang giấy bay ra như hàng tỉ tỉ cánh bướm. Những chú bướm tí ti yêu dấu đập đôi cánh tơi tả…Tuyệt vời thay cho chính tôi! Tuyệt vời thay ý nghĩa separatio ứng dụng như một nhựa sống thần kỳ! Phải, chất lãng mạn trong tôi vẫn còn dù trong giây phút đớn đau. Hình ảnh ngàn vạn mảnh giấy bay lượn trong ánh chiều tà, trong giờ hoàng hôn trên bãi vắng mông mênh ít người, thật tuyệt vời. Trong phút chốc, tôi cảm thấy bị khích động vô cùng, cõi lòng ôi lai láng tràn trề, ôi vui lạ lùng. Thế ra trong sự Chết vẫn có sự Sống, dù mong manh.

Cuối cùng David đứng trên xe, dùng sức mạnh đá hơn trăm thùng sách xuống vực. Giữa lưng chừng trời thùng giấy cạc tông vỡ toang và sách, cuốn này nối cuốn kia tuôn ra như suối. Trong chuỗi ánh sáng màu tím cam của hoàng hôn đang lịm chết, suối sách chảy giòng thần thoại tuyệt luân. Suối sách ! Suối của muôn tiếng thì thầm biến ảo, suối của ngàn vạn mộng mơ đang thoi thóp… Trái tim tôi gào khóc tận cuối chân trời. Hồn tôi vút cao, lên lên cõi ta bà rồi lại phóng sâu chìm chìm vào vùng tuyệt kỷ siêu linh. Nỗi cô đơn huyền diệu trong tôi tan trong say ngất chao đảo. Như tia xẹt, linh hồn tôi nhập vào dòng suối kỳ lạ kia. Chơi vơi. Ngã nghiêng. Hụt hẫng…

Hơn trăm thùng sách trong một thời gian kỷ lục đã được đổ xuống hố đất. Chiếc xe lại rú lên, nhả khói đặc sệt , ồn ào phóng nhanh như đưa con tôi chạy trốn.

Tôi thủng thẳng bước lại chỗ chiếc xe đậu lúc nãy. Một số sách của tôi rơi rải rác đây đó. Tôi cúi xuống nhặt một cuốn. Từ đâu, một ngọn gió buốt lạnh tận xương tủy bất ngờ thổi tôi bật ngửa. Rác rến bay từng luồng xoay vòng, xoay vòng, xoay quấn lấy tôi. Cuốn sách rung bần bật trong tay nhưng tôi ghì cứng nó lại. Từ trong sâu thẳm của cõi lòng vang vọng lời biện giải thiết tha: “Ta là Thơ . Ta là nỗi đam mê cuồng cháy. Ta là nét đẹp tuyệt song. Ta, đêm sâu trong sầu muộn. Vũ trụ nơi nào, chính ở trong ta?”

Thần gió ngưng thổi, vạn vật lại hài hòa như cũ.

Gió đêm hiu hiu lật giúp tôi từng trang. Dưới ánh sáng xanh xao huyền hoặc của đêm trăng lưỡi liềm, tôi miên man đọc những sáng tác xưa. Lờ mờ đây đó, bóng đen những chiếc xe ủi đất nằm yên lặng nghe tôi ngâm nga những lời thơ sầu thảm…

7.-
Ban ngày bãi rác rất ồn ào. Sinh hoạt thật náo động. Từng đoàn xe tải này đến từng đoàn xe tải khác từ muôn phương trong thành phố liên tục nối đuôi nhau đến đây để tống xuất đồ xú uế. Mùi hôi kháy cả mũi. Hàng chục chiếc xe to lớn dềnh dàng màu vàng sẫm trang bị những cần xúc chạy lui chạy tới trên những đống rác vừa mới được ai đó đổ xuống. Xúc bên này đổ bên kia. Những chiếc xe tăng khổng lồ, vàng khè, nặng nhọc chạy nghiến lên muôn triệu rác rưởi. Nào sắt nào kẽm nào gỗ nào cây nào bàn ghế nào tường vôi nào áo quần. Mắt tôi chóa lên trước sự hủy diệt. Mỗi ngày, cùng với những chất dơ dáy, những gì cũ nát lỗi thời và phế thải đều được đưa về đây. Cùng trong một không gian, tôi nhìn thấy Hiện Tại, Quá Khứ và Tương Lai. Tôi nhìn thấy sự Sống và sự Chết lẫn lộn vào nhau, xoay vần trong nhau và dựa vào nhau để rồi tan biến trong nhau.

Ánh tà dương trở về chiếu những tia vàng vọt thương đau. Hàng ngàn cánh chim mầu trắng bạc đập cánh la đà bay trên cánh đồng rác. Tôi dõi mắt theo nhìn con dã thú bằng sắt Bulldozer đang trườn tới chỗ sách của tôi được đổ đêm qua. Nó dang đôi cánh tay dài ngoằn ra. Hai bàn tay, to như hai cái chậu, đầy móng vuốt, phụp xuống tàn bạo trên đống sách. Hốt một mẻ sách lớn rồi hất tất cả sang một bên. Phụp xuống một lần nữa sâu hơn để hốt mẻ khác, rồi lại hất lên đám trước. Cứ như thế cho đến khi hai bàn tay nỉa sắt thọc xuống đám rác cũ rữa thối. Mỗi lần con dã thú xong trò chơi xới trộn, xê mình đi chỗ khác là hàng ngàn con chim đói ăn lại sà xuống mổ mồi lia lịa. Đám rác cũ được xới lên đầy nhúc những dòi bọ bò lổm ngổm trên những vần thơ mỹ miều của tôi, trên những dòng văn óng mượt, trên xương máu tim óc mồ hôi của một đời tôi nhọc nhằn…

Thình lình có những luồng sóng tràn tới vây xoáy lấy tôi, càng lúc càng đáng sợ. Lửa ngọn khiếp đáp, nhiệt lượng tàn canh. Đó có phải là thời điểm của lúc nghiền nát cùng tận?! Một sức nóng vũ bão như đang ngấu nghiến tôi. Tôi nghe một điệp khúc kỳ quái “Tái tạo. Tái tạo. Tái tạo…”. Điệp khúc này càng lúc càng dồn dập, thôi thúc, gần như ép tôi vào một trạng thái điên cuồng.
Trong bức bách tôi cố gắng không gục ngã. Trong tôi gào tiếng ngợi ca đức thánh.

Ai đó vỗ nhẹ vào vai tôi . Một giọng nói rất mơ hồ rót vào tai “ Xác thân anh đã rữa thối từ lâu rồi. Đi thôi “
Tôi nói “Không đi. Trái tim trong tôi vẫn còn vang tiếng đập. Những công trình của tôi vẫn còn đây. Với những tận tụy tôi đã dâng hiến cho đời, làm sao tôi có thể bỏ đi được? “

Tiếng nói như gió thoảng lại lọt vào tai “Cái Tôi mà anh nói đã hết rồi. Anh đã nhiều lần về nơi nhà xe, cố bám víu vào những gì anh tự cho là những hoàn tất tuyệt tác. Cuộc chơi đã tan, màn đã hạ, và công việc tẩy uế đang tiến hành… Cũ sẽ thành mới. Mới theo thời gian lại trở nên cũ. Bánh xe quay tròn mãi thành vòng không bao giờ ngưng và sự bất diệt không hề có . …Những gì để lại không thuộc về bất cứ ai …”

Viết xong ngày 01-20-2001 lúc 12:26 am
HKKM
1658


Powered by Blogger.