Thủa nhỏ, tôi tin cả ma lẫn quỷ. Quỷ, theo trí tưởng tượng của tôi, là những quân đầu trâu mặt ngựa, hung ác vô ngần, có những cánh tay nổi đầy bắp thịt rắn như sắt, và những bàn tay gân guốc cầm những kìm để cặp lưỡi, vặn răng, những bàn vả, những búa rìu, những cưa để bổ xẻ tội nhân. Tôi liên tưởng đến những hình cụ ghê gớm như vạc dầu, cột đồng lửa... đến cả những cầu vồng với đàn chó ngao đứng chực sẵn dưới. Những hình ảnh kỳ quái, ghê sợ ấy không phải tự óc non nớt của tôi nghĩ ra, mà do ở những bức tranh treo ở chùa Huệ, mỗi khi có đám chay lập đàn phá ngục.

Còn ma thì mỗi lúc tôi tưởng tượng một khác, tùy theo câu chuyện người ta kể cho tôi nghe. Có lúc tôi tưởng tượng ra một người con gái xinh đẹp như một nàng tiên. Có lúc là một vị ác thần với nét mặt thay đổi đủ các hình kỳ quái, dữ tợn.

Những sự tưởng tượng ấy in sâu mãi vào óc tôi và nung đúc tôi thành một đứa trẻ nhút nhát. Nhưng tính tự đắc của tôi lại rất mãnh liệt, có khi làm át hẳn tính nhút nhát của tôi đi.

Tôi còn nhớ, một đêm tối trời và giá lạnh, anh tôi kể xong một chuyện ma. Rồi muốn thử xem trong chúng tôi có đứa nào bạo, anh tôi đặt ra một cuộc thi rất giản dị nhưng rất khó cho những tay nhút nhát. Cuộc thi như thế này: ở tận cùng vườn có cây ngâu. Ai ra tận đấy, bẻ được cành ngâu cầm về, sẽ được cuộc.

Vừa nghe nói đến cây ngâu, tôi đã rủn cả người, rợn cả tóc gáy. Vì cây ngâu không cách cây sung mọc trên bờ ao mấy. Và cây sung đã nổi tiếng sẵn ma.

Chúng tôi nhìn nhau. Xem chừng anh nào cũng muốn thi tài, song chẳng một anh nào dám nhúc nhích... Bỗng một anh ló đầu ra khỏi cửa lại thụt vào ngay, lè lưỡi, trợn mắt, tỏ vẻ sợ hãi.

Sách, người anh họ đã lớn, đứng cạnh phỉnh tôi: "Ai chứ Tíu thì bạo lắm. Đâu nó còn đi được nữa là từ đây đến cây ngâu."

Anh tôi nói khích:

- Có các vàng cũng đố dám!

Lòng tự đắc của tôi bỗng sôi nổi. Mặt tôi nóng bừng vì cơn tức khí. Không nghĩ ngợi, tôi chạy vụt ra sân, bước mạnh bạo vào trong vườn.

Trời tối đen như mực. Tôi đâm choạng vào các bụi cây. Luống cuống, quên cả lối, mò mãi chẳng tìm thấy cây ngâu. Trở về không thì bẽ quá. Anh em còn ai cho mình là bạo nữa. Họ sẽ thi nhau chế riễu mình. Lòng tự đắc bắt tôi tìm cho được cây ngâu, dù lúc ấy trí tôi rối loạn, chân tay tôi bủn rủn và quả tim tôi đập như trống ngũ liên. Vừa đi vừa sờ soạng, tôi lần ra tận gốc sung mà không biết. Sờ đến cái da xù xì của nó, tôi giật mình, lạnh toát cả người.

May mà lúc ấy yên gió. Không một quả sung nào rụng, không một con ếch, con nhái nào nhẩy xuống ao. Thật, chỉ thêm một tiến tõm, không biết tôi sẽ trở nên thế nào?

Tôi bước giở lại, mồm luôn luôn đọc hai câu chữ nho: "Thiên tích thông minh, thành phù công dung." Thường tôi vẫn thấy nói: ma bao giờ cũng sợ giời, sợ thần thánh, nên lúc nào đi đêm, tôi cũng nhẩm đọc hai câu ấy để làm bùa trừ tà.

Cây ngâu cách cây sung có vài bước. Tôi tìm được, bẻ vội một cành. Cái mừng đắc thắng làm cho lòng tôi bớt sợ. Song chỉ một loáng, đâu lại hoàn đấy. Cái sợ có phần tăng gấp bội.

Hai cẳng chân tôi như bị chuột rút. Tôi cố dấn bước mà không sao dấn lên được. Đằng sau tôi như có người đuổi theo, tiếng chân nện thình thịch, sắp sửa vồ lấy tôi. Lúc ấy, nếu có ai hét một tiếng, chắc tôi sẽ ngã sấp xuống, chết ngất đi.

Tôi được cuộc, được tiếng bạo nhất nhà, nhưng đã hao tổn bao nhiêu tinh thần. Từ đấy, nhiều phen tôi điêu đứng khổ sở về cái bạo bề ngoài. Còn gì khổ bằng một anh tí hon nhát gan, làm ra mặt bạo. Động có cuộc thử thách là bắt buộc phải đến tôi. Nhát cũng được, nào ai cấm. Nhưng mà đã trót bạo mất rồi, không sao đủ can đảm mà thú thực mình nhát được nữa.

Một buổi chiều, tình cờ chúng tôi đứng trước một túp lều tranh bỏ hoang, ở sau trường học. Túp lều ấy, khi trước là nhà Cai trường. Từ khi hắn chết, người kế chân hắn sợ, không dám ở. Họ đồn nhà ấy có ma.

Vì thế, chưa nói đến cuộc thi, tôi đã tái mặt, đau khổ như người sắp chịu tội. Trời ơi! ước gì anh tôi quên.

Tôi chưa kịp lủi thì anh tôi đã họp lũ trẻ lại, thách vào trong túp lều, đánh nhau với ma.

Sách cũng có đấy. Hình như giời sinh ra anh chỉ để làm khổ tôi. Anh quay ra nhìn tôi, nói: "Xem chừng ở đây lại chỉ có Tíu là bạo nhất. Quỷ nó còn chả sợ nữa là ma".

Tôi tìm cách thoái thác:

- Cuộc thi phải có thưởng.

- Một xu nhé? - Anh tôi hỏi.

- Một xu thì chả bõ.

- Thế bao nhiêu?

- Một hào. - Tôi chắc không khi nào anh tôi chịu bỏ ra một hào.

Như thế cuộc thi sẽ hoãn và tôi cũng không đến nỗi mất thể diện.

Chẳng ngờ anh tôi nhận lời ngay.

Làm thế nào? Đành nhắm mắt bước liều vậy. Trong nhà ba gian xiêu vẹo, tường vách kín như bưng. Và hôi hám và ẩm thấp, lạnh lẽo, rùng rợn như một nhà hầm chứa... ma. Tôi chưa kịp định thần thì hàng chục con đom đóm lập lòe bay loạn xạ. Không biết anh tôi bắt bỏ vào từ lúc nào? Con nào con ấy như sấn lại tôi, khiêu khích. Tôi liều mạng, đấm đá, quay tít đi mấy vòng, rồi chạy vội ra ngoài thở hồng hộc.

Anh tôi và lũ trẻ kêu lên: "Vừa mới thoáng một cái đã ra. Không được! Thua cuộc rồi!

Tôi làm ra mặt giận dỗi, vừa nói vừa lảng đi chỗ khác: "Tôi biết mà! Các anh đánh lừa."

Đêm ấy và luôn mấy đêm liền, tôi chiêm bao thấy toàn ma, và mắt con nào con nấy tròn xoe, đỏ như hòn than hồng. Con kéo lên ngực bóp cổ, con nhe răng nhọn như răng bừa, con lè lưỡi dài lê thê. Tôi thất đởm, kêu ú ú, hai tay ôm chặt lấy anh tôi.

Thầy tôi cho vì âm hư huyết ráo, bốc thuốc cho tôi uống. Thầy tôi biết thuốc. Me tôi vẫn mê tín, cho là bệnh nhà người, mua vàng hương đi lễ các đền miếu. Chỉ có tôi là biết rõ bệnh tôi, song vì lòng tự đắc quá mạnh, không khi nào tôi chịu thú...

... Tôi đã lớn, đã theo học năm thứ nhất trường Bảo hộ. Nhờ về khoa học tôi đã hiểu biết, đã quả quyết nói là không có ma. Và những ma trơi, những thần đất chập chờn, đuổi nhau trên gò đống, chỉ là chất lân tinh ở hồ, ao tù hãm bốc lên, gặp dưỡng khí trong khí giời, bùng cháy. Tôi hiểu biết thế. Nhưng tính tôi vẫn nhút nhát sợ ma, sợ quỷ như xưa.

Lắm đêm, ngồi một mình trong căn phòng vắng vẻ, đèn sáng hẳn hoi, tôi thấy rờn rợn, tưởng một vật ghê gớm như một con ma ở trên nóc nhà sắp rơi phịch xuống, hoặc ở xó xỉnh hay trước mặt sắp hiện lên để hại tôi. Rồi thần hồn nát thần tính, một con chuột khẽ động dưới khe hòm, một tiếng cú vẳng ngoài xa, cũng đủ làm cho tôi mất vía. Có khi chẳng cần phải c1910




Thưa các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hỏi tôi trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: Cái đó còn tùy theo trạng huống.

     Tôi cũng Chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.

     Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.

     Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.

     Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.

     Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa bao giờ được gặp.

     Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới ; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.

     Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.

     Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.

     Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phớt tỉnh Ăng- lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.

     Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.

     Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm chỗ bấu víu.

     Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng ; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.

     Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.

     Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông ; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng chứng kiến.

     Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng hai đồng bọn.

     Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.

     Nhưng nàng vẫn không tin.

     - Dầu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.

     Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói:

     - Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.

     Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí còn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.

     Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi ; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tôi và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng.

     Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.

     Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa ; cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường. Cũng may nàng không hề hấn gì.

     Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi. Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:

     - Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.

     - Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết thì bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.

     Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:

     - Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Picadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi giống như đười ươi.

     Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đã biết rồi, không lẽ tôi lại làm ngơ. Thế là cái máu yêng hùng của tôi sôi lên sùng sục. Tôi quên hẳn cái tư cách nhân viên ngoại giao của tôi : phải tránh né tất cả mọi xì căng đan vì có khi, chỉ cần một sự rắc rối nhỏ nhặt do tôi gây ra là sẽ trở thành một biến cố ngoại giao giữa hai nước.

     Sau khi giao phó nàng cho cô em họ, tôi lao tới cái khách sạn đó, mặc dù nàng hết sức khuyên can.

     Đó là một khách sạn loại trung bình, nằm lọt thỏm giữa những tòa building đồ sộ. Tôi đẩy cái cửa quay, bước vào và đảo mắt nhìn người gác đêm ; nhưng căn phòng trống vắng, không có một ai.

     Khi nhìn thấy thang máy nơi hậu phòng, tôi lặng lẽ tiến vào.

     Đến lầu 2, trong lúc tôi bước ra thì ở hành lang, một cánh cửa, đối diện với thang máy, hé mở. Đó chính là phòng số 15. Một người đàn ông ăn vận chỉnh tề xuất hiện. Bộ quần áo đâu có tạo ra được ông thầy tu. Đúng thế! Chỉ cần nhìn cái bản mặt cô hồn, tôi cũng biết chính là hắn, kẻ tôi đang tìm kiếm.

     Tiên hạ thủ vi cường, tôi đấm ngay một phát vào giữa mặt hắn, và khi hắn loạng choạng dựa vào tường để cho khỏi ngã, tôi sử dụng một thế nhu đạo khóa tay hắn lại. Rồi tôi áp dụng một thứ ngôn ngữ bẩn thỉu nhất mà tôi chợt nhớ ra để bảo với hắn rằng: nếu hắn còn tiếp tục hành hạ người đàn bà ấy, một phụ nữ chân yếu tay mềm mà tôi đã hứa bảo vệ, thì tôi sẽ giết hắn như một con chó ghẻ.

     Sau đó, tôi phủi áo và buông tha cho hắn.

     Được trả lại tự do, nó lẹ làng như một con rắn, luồn vào trong thang máy. Hắn kéo cái cửa ngoài lại, và khi cảm thấy mình đã được an toàn sau khung sắt, nó bèn cười gằn rồi cất tiếng sủa:

     - Hừ! Đồ chó đẻ! Đồ tiện dân! Đồ trôi sông lạc chợ! Bộ mày tưởng mày hay hóm lắm đấy hả? Được rồi, mày cứ việc quay trở lại với con điếm thối tha kia đi, và mày cũng nên bảo cho nó biết trước rằng, nhất định tao sẽ thanh toán được nó. Đó là luật Vendetta. Mày đã nghe rõ chưa? Khi tao muốn, tao sẽ có cách. Có thể ngày mai, và cũng có thể tháng sau. Nó có thể chuồn đi bất cứ đâu tùy thích, nhưng tao sẽ bám sát nó. Nó sẽ không bao giờ biết là khi nào thì xảy ra sự việc đâu. Có điều nó phải xảy ra, vậy thôi. Chào, đồ chó đẻ!

     Cái thằng khốn kiếp ấy cười vào mũi tôi rồi đóng cái cửa sắt bên trong. Tôi sôi tiết lên và làm một cử chỉ bất ngờ: cầm ngược cái ba- toong, tôi thọc qua khung cửa sắt. Thực tâm, tôi chỉ muốn đập vào mặt hắn. Nhưng tôi đánh hụt, và cái cán cong của cái ba- toong ngoặc luôn vào cổ hắn, và khi hắn bấm nút để cho thang máy hạ xuống thì lại đúng vào lúc tôi kéo được cái đầu của hắn ra phía trước.

     Cổ hắn bị kẹt giữa sàn thang máy và sàn hành lang. Thang máy trong lúc vút xuống đã kẹp nát bét đầu nó như một trái dưa hấu, đồng thời cái cán ba- toong của tôi cũng gãy vụn.

     Sống lưng tôi lạnh toát. Tôi vội phóng nhanh xuống cầu thang. Hậu phòng vẫn vắng lặng và kế bên, cái thang máy, bên trong có một cái xác cụt đầu, đã trở về vị trí cũ.

     Tôi bước vội đến cửa quay và ra khỏi khách sạn. Chẳng có một ai trông thấy tôi. Rồi tôi lặng lẽ trở về nhà.

     Sáng hôm sau, tôi đọc thấy trong các báo mẩu tin về "tai nạn" xảy ra đêm qua tại khách sạn Phượng Hoàng ; phía dưới bản tin có vài dòng cáo bạch khẩn thiết khuyên mọi người hãy đóng chặt hai cánh cửa thang máy lại trước khi bấm nút.

     Bây giờ, như các bạn thấy đó, định mệnh quả thật là kỳ lạ! Vì cũng chính trong ngày hôm ấy, một vị đạo cao đức trọng ngụ ở một căn nhà áp phía sau sứ quán đã tới xin lỗi chúng tôi: trong lúc lau khẩu súng bắn chim, ông ta đã vô ý để cho đạn nổ làm vỡ mất một khung cửa kính của sứ quán.

     Nếu súng của ông ta không bị cướp cò thì đâu có nên chuyện.

     Một sự ngẫu nhiên, có phải không, thưa các bạn?
812




Bạn tôi mang thai vì bị cưỡng hiếp, nhưng cô ta can đảm giữ lại cái thai đó cho đến chín tháng khổ nhọc. Sau đó, cô y sanh ra một đứa bé trai vào tháng mười hai năm 1992. Lúc đó chúng tôi chỉ là bạn ở cùng phòng.



Khi sanh ra, đứa bé rất là yếụ Vừa chào đời, đứa bé phải vào phòng mổ để mổ tim. Bạn tôi thấy vậy nên nói với tôi rằng cô không thể chăm sóc một đứa bé bệnh hoạn như thế, nên tôi đ nhận đứa bé làm con nuôi và chăm sóc cho nó.



Ðứa bé ở trong bệnh viện được sáu tháng. Rồi, chúng tôi đem về nhà, nhưng đứa bé chỉ sống được thêm một tháng rưỡi nữa thì chết. Tôi rất là đau khổ vì tôi thương đứa bé thật nhiềụ Khi đứa bé chết, tôi đau lòng như là chính con ruột của mình chết vậỵ Tôi thường ra nghĩa địa thăm mộ đứa bé đến 4 - 5 lần mỗi ngàỵ Vì tôi nghe có người đồn rằng đừng nên vào nghĩa địa sau 4 giờ chiều vì sẽ quấy nhiễu người chết, cho nên tôi chỉ đến nghĩa địa thăm mộ đứa bé trước khi trời tốị



Nhưng một đêm, vì cái gì đó thúc giục tôi phải đi đến nghĩa địạ Ðêm đó khoảng mười giờ, tôi không ngần ngại lên xe và lái đến nghĩa địạ Mộ của đứa bé nằm ở ngay cổng trước, thường thường khi vào trong nghĩa địa tôi lái thẳng đến mộ của đứa bé và tắt máy ngồi ở trong xe chứ tôi không dám bước ra ngoài vì sợ thú hoang ở chung quanh (vì lúc trước tôi đã thấy một con gấu), vì vậy nên tôi ngồi trong xe và nhìn ngôi mộ đứa bé rồi thúc thít khóc. Ðêm hôm đó, nhằm ngày rằm nên trăng tròn sáng tỏ, vì vậy tôi mới mạnh dạn bước ra khỏi xẹ Bỗng nhiên, ngay khi ấ y, một vùng ánh sáng màu xanh dịu hiện ra phía trên ngôi mộ. ánh sáng màu xanh đó tỏa sáng khoảng năm thước ngay trên ngôi mộ của em và có hình dạng giống như chữ V lật ngược, nó đã chiếu sáng trong vòng mười phút. Lúc đó tôi không thấy sợ sệt gì hết, nhưng vì thấy hơi kỳ lạ cho nên tôi vội vã bước lên xe rời nghĩa địa ngay sau khi ánh sáng đó hiện lên chừng hai phút. Tôi lên xe và đề máỵ Tôi đề đến 5, 6 lần nhưng máy vẫn không nổ. Cuối cùng tôi đành ngồi đó trố mắt nhìn vì kinh ngạc. ánh sáng hiện ra trong vòng mười phút thì tan đị Ngay khi ánh sáng biến mất, tôi liền đề thử máy xe một lần nữa thì chiếc xe lại nổ máy được và tôi vội lái ra nghĩa địa liền.



Ðúng một tuần sau, khoảng tám giờ tối, tôi và bạn của tôi (người mẹ của đứa bé) cùng với bà chị của cô ấ y, đang ngồi trong phòng khách xem truyền hình thì tôi thấy chiếc nôi nhỏ, mà chính tay tôi đã chọn mua, đang lơ lửng bay trên không ngang qua phòng khách. Lúc đó tôi cũng không sợ gì cả, vì tôi nghĩ là đứa bé làm. Ngoài ra, vào một đêm giữa khuya khi thức giấc, tôi thấy đứa bé mặc bộ đồ khi chôn ngồi trên một đám mây, ngay dưới chân giường của tôi, bé đã mỉm cười với tôi rồi từ từ biến mất.



Tôi nghĩ tất cả những hiện tượng đó đều là dấu hiệu từ em muốn cho tôi biết rằng đừng có buồn phiền vì cái chết của bé, vì bé đã không còn đau đớn vì bệnh hoạn nữa
587




Ðó là một du khách đặc biệt, ông ta thường có mặt ở lăng rất sớm, không qua cửa chính, bởi người bán vé vào thăm lăng gần tám giờ mới làm việc, còn ông, bằng cách nào đó đã đi dạo trên những con đường rợp bóng thông, tùng, sứ, nhãn từ sớm tinh mơ, khi cái hoàng cung u trầm, diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong màn sương. Có khi ông còn làm việc trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt của đêm chưa hẳn qua, ngày chưa hẳn tới. Mắt mở căng, ông cố nắm bắt một chút lạnh lẽo, ẩm ướt, run rẩy, tái xám của thứ ánh sáng ma quái bằng những nhát cọ khắc khoải, bướng bỉnh cho đến lúc tóm bắt được nó trên lụa trước khi nó vuột vào rạng đông.

Khi hoàng cung của cõi chết bắt đầu hiện ra rỡ ràng, diễm lệ dưới ánh dương quang, họa sĩ ngừng tay. Ông ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tĩnh mặc như một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm. "Ta trồng nơi đây nhiều cây để gọi chim về...", vị vua chủ nhân lăng từng ước muốn như vậy ở văn bia. Ðối với họa sĩ, khoảnh khắc ấy thật kỳ diệu. Nỗi đời tan biến và ông đắm chìm trong bản hợp xướng tuyệt vời của các chú chim bé bỏng. Chính giữa lúc ấy ông bỗng nghe một tiếng thở dài, ông giật mình nhìn quanh. Chẳng có ai ngoài ông và lũ chim.

Càng ngày họa sĩ càng cảm thấy ông không chỉ một mình trong sớm tinh mơ. Có ai đó luẩn quẩn quanh ông. Một tiếng chân, một tà áo mơ hồ như ảo giác đã làm ông mất thanh thản. Ðôi khi ông tưởng như nhìn thấy một đôi mắt trong lùm cây trước mặt, một đôi mắt đen hơm mầu đêm, nhìn ông chăm chắm. Bấy giờ ông không làm việc được nữa. Cây cọ vẫn mơn man trên nền lụa nhưng trái tim ông thì đang rình rập. Ông chơi trò cút bắt với một cái bóng. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện, đằng trước, đằng sau... và bao giờ cũng đè nặng lên ông cái nhìn trĩu nặng và nóng bỏng. Thế mà chủ nhân cái nhìn là cô bé mười lăm mười sáu tuổi, một cô bé như bước ra từ một bức tranh cổ với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời, tay đầy hoa sứ, người sực nức mùi thơm ngọt đậm. Ông đang túm vạt áo mầu lục của cô, còn cô thì run rẩy như một cọng cỏ. Họa sĩ bật cười ha hả. Kẻ rình ông và ông rình lại chỉ là một cô bé đứng thấu ngực ông! Buông áo cô ra, ông ngắm cô từ đâu đến chân, lập tức cô bỏ chạy. Vệt cỏ sáng lung linh rồi khuất trong mầu cây. Ông mơ hồ nghe vọng tiếng lục lạc.

Họa sĩ ra đi thật sớm từ ngày gặp cô. Ông ước ao thực hiện một bức chân dung về cô bé lạ lùng kia, cô bé như một mảnh cổ kính vỡ ra từ đâu đó quanh đây. Thức dậy cùng tiếng chuông chùa, ông có mặt ở lăng khi nó chưa tỉnh ngủ. Ông biết ông không chỉ một mình nhưng nếu ông quay lại lập tức ông chỉ thấy một ảo ảnh, một mảng lục non mơ hồ thấp thoáng trong sương. Càng ngày ông càng thiết tha được vẽ ảo ảnh đó. Có lần ông thử vẽ phác cô căn cứ vào khoảnh khắc đối diện lần đầu nhưng ông không thể nhớ nổi. Gương mặt cô nhạt nhòa và ông chỉ phác họa một cái bóng cũng nhạt nhòa như thế dưới cây đại nở đầy hoa, giữa chòm lâu đài, miếu tạ nên thơ. Khi ra về, ông để phác họa lại. Sáng hôm sau, nó vẫn ở đấy nhưng được buộc bằng một dải lụa. Mở ra, ông thấy cô bé đã nhốt mình lại bằng một dãy tường thành lởm chởm gươm nhọn. Thỉnh thoảng, từ những viên gạch rêu phong ló ra một đầu người, khuôn mặt dữ dằn khắc nghiệt. Còn những công trình kiến trúc xinh xắn quanh cô thì bị bôi đen ngòm trông như những nấm mồ, ông sững sờ, cô bé chỉ đứng thấu ngực ông có phải là một cô bé không nhỉ? Tiếng thở dài, rồi bức tranh này nữa! Những gì ông thể hiện hoàn toàn đối nghịch với ông. Chốn lăng tẩm nên thơ dưới mắt ông trở thành một mộ địa thực sự dưới mắt cô - lạnh lẽo, âm u, tàn nhẫn. Ông lại nhìn bức tranh gần hoàn thành trên giá. Lềnh bềnh trong sương, nom nó như được vớt lên từ cõi chết, nhợt nhạt trong ánh sáng yếu ớt rồi dần ửng hồng, rõ nét, rõ ràng khoe với ngày một vẻ đẹp tang tóc mê hoặc, cổ kính yên bình. Ông đã ra đi bao ngày trong sương sớm giá buốt, trong tờ mờ tranh tối tranh sáng để cố bắt kịp khoảnh khắc giao thoa giữa ngày - đêm, sống - chết, vui - buồn... Nhưng bây giờ nom nó chỉ là một tác phẩm cùng - kiểu - với - mọi người, tái hiện một vẻ đẹp được thừa nhận. Còn cô, tại sao cô lại phủ nhận.

Mấy tuần nay, cô đã dám thơ thẩn nhặt hoa sứ gần ông. Thường khi ông vẽ thì cô ngồi chơi với đống hoa rụng. Cô sắp chúng thành một con chim xoạc cánh, một dãy núi, một cây thông...

Ông nói với cô:

- Em sẽ vẽ được đấy.

- Nhưng em không vẽ như ông. Chán chết!

- Em muốn vẽ gì?

- Cỏ.

Họa sĩ lấy quyển sổ phác họa, vẽ cho cô một con đường mờ mịt, khuất lấp sau ngọn cỏ. Cô lắc đầu:

- Cỏ đám cưới kia.

Rồi cô chạy đi và trở về bên ông với đôi tay đầy hoa dại. Cô tung chúng lên cỏ.

Thế là ông vẽ cỏ - đám - cưới. Hoa tóc tiên rực rỡ mầu nhưng thắm, hoa ngũ sắc đỏm đáng. Hoa bâng khuâng mơ màng. Hoa lồng đèn ngộ nghĩnh... Chúng cưới nhau trên cỏ, khiêu vũ, đùa chơi, gối đầu trên cỏ. Hai mươi năm cầm cọ, họa sĩ chưa bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Mầu sắc cứ tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào vào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui trên nền cỏ rạo rực. Họa sĩ như lành bệnh hẳn sau đợt tranh vẽ cỏ. Ông theo cô vào thế giới cỏ bất tận, đầy bí ẩn giàu tưởng tượng của cô. Sau này khi ông mất, người ta tìm thấy rất nhiều tranh cỡ nhỏ vẽ cỏ. Chúng chẳng bao giờ giống nhau và cũng chẳng chỉ mầu xanh. Họ đặt chúng sang một bên, chép miệng: "vớ vẩn".

Ðã đầu đông, trời có những ngày se lạnh, ông vẫn lên lăng, ông lên chơi với cô bé. Giữa họ không tuổi tác, khoảng cách, thời gian. Sáng nay, đứng cách nhau nửa sải tay, ông bàng hoàng nhận ra cô bé lớn nhanh quá. Cô thiếu nữ mười lăm mười bảy hai mươi và bây giờ, trước mặt ông, nom cô như một thiếu phụ héo hon, bất hạnh. Phải vẽ nhanh kẻo không kịp nữa, ông nhủ thầm.

- Này em, tôi muốn vẽ em trên cỏ và sau đó em đặt một cái tên gì đó tùy em. Nhưng phải mau lên, kẻo tôi vẽ bà già mất!

- Thì em "già rồi"! - Cô cười, hé những chiếc răng tựa ngọc.

Thiếu phụ biến mất. Trước mặt ông lại là cô bé, nom như cọng cỏ, một cô bé thơ ngây và xa lạ, cô đơn và lạc lõng, như đi ra từ một câu chuyện xa xưa. Ông bối rối ngơ ngác.

- Khi vui em trẻ, khi buồn em già. Ông đừng để ý.

- Bé như em có chi mà buồn?

- Em chẳng làm được chi theo ý em. Cô xịu mặt.

- Thế em muốn chi?

Cô nói lảng:

- Sáng nay cỏ rét đấy!

- Sao em biết?

- Chúng xanh ra.

- Em có rét không? Em mặc phong phanh quá!

Ông cởi áo khoác choàng lên vai cô. Cô rùng mình. Bàn tay cô như muốn hất ra, nửa như bấu chặt. Cô lắp bắp:

- ấm quá... ấm quá... Em chưa khi mô ấm như thế ni.

- Cho em luôn đó.

- Em không được nhận. Em phải đi đây. Mai ông đến không?

- Nếu em chịu ngồi cho tôi vẽ?

- Nhưng phải sớm nữa kia.

- Sớm quá làm sao thấy em. Ngày mai em có muốn tôi đem gì cho em không? Kẹo, búp bê? Cho em đừng mau lớn quá.

- Không! Em chỉ muốn ra ngoài kia. Cô chỉ tay về phía núi xanh xanh - và... đi với ông. - Em chưa hề đi với người đàn ông nào cả.

- Mai ta đi.

- Em không được phép.

- Trốn!

- Không trốn được.

- Tường thấp lắm. Tôi sẽ đỡ em trèo.

Nhưng cô sợ hãi thật sự. Mặt cô tái mét. Mắt nhìn ngược xuôi. Ông chợt nhớ những đầu người dữ dằn ló ra từ những viên gạch cô vẽ và sự khiếp sợ của cô như luồng gió tạt qua làm ông rùng mình. Ðó là buổi cuối cùng ông gặp cô trên lăng.

Khi cô đi rồi, ông trở về nhà, từ lăng đến chỗ ông ngụ ở làng Dương Xuân Thượng không xa lắm. Người bác già càu nhàu: "Mi là thằng điên. Ði chơi sớm rứa có đi chơi với ma. Ði về sớm rứa có vẽ người chết. Trời đất thì độc địa. Mấy chỗ đó thì đầy âm khí. Vua mô mất cũng hàng chục tá đàn bà con gái theo hầu, suốt đời hương khói...". Người bác bỏ lửng câu nói, vấn điếu thuốc Cẩm Lệ rồi bặt luôn, đứng dậy đi ra vườn.

Ông vào phòng mở tung mọi cánh cửa. Sớm mai phảng phất mùi mít chín cây. Chiếc bàn nhỏ bừa bãi thuốc lá, sơn cọ. Góc phòng có một bức tranh đậy sùm sụp mảnh vải. Ông đến giật tấm vải phủ. Người đàn bà trong tranh trần truồng tắm nắng mai, mắt nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm. Thoạt đầu ông chỉ muốn tái hiện gương mặt người vợ khi bắt gặp nàng trong tay "vị - cứu - tinh". Mắt trừng trừng, những nhát cọ sắc như dao, ông rạch trên mặt vải những đường nét biến dạng của một gương mặt no nê khoái cảm để nó không còn trú ẩn trong tâm thức ông nữa. Mỗi ngày, ông đứng bảy đến tám giờ bên giá vẽ. Nhưng càng vẽ, nỗi căm thù, khinh bỉ càng biến mất. Chỉ còn ông và hội họa của ông. Người đàn bà trong tranh không còn là hình ảnh của vợ ông nữa, đó chỉ là một người nữ đang sống những phút mê đắm trần thế phù du, gương mặt nhăn lại như đau đớn. Một đợt sóng buồn âm u thương cảm trào dâng làm dịu dần những nhát cọ của ông, làm khinh phiêu những sợi tóc rối của người đàn bà, khiến nàng bơi trong làn ánh sáng dữ dội và mê hoặc.

Ngày cuối, khi đường cọ sau cùng, kiệt sức và trống rỗng, ông bàng hoàng nhận ra đó là một tác phẩm đẹp nhất của ông, ông đã trút cạn ở đó nỗi đắng cay và nguồn sinh lực, sự thống khổ và niềm đam mê. Từ lâu ông không làm việc như thế. Từ lâu ông đã vẽ - như ngủ. Ðôi tay tài hoa của ông điều khiển lấy mọi việc. Chúng làm đủ trò ảo thuật trên vải. Kỹ thuật càng tinh tế, tranh ông càng toát ra cái vị vô hồn. Chúng không có những ngóc ngách bí ẩn. Không có nguồn sinh lực tiếp máu cho hình khối, mầu sắc, đường nét. Những điều đó, dường như chỉ mỗi mình ông nhận thấy bởi chúng vẫn thường được ca ngợi, ham chuộng và biến thành những chồng tiền rất dày. Chúng nhìn ông với vẻ ngạo nghễ, xa lạ. Tranh ông ngày càng có mặt ở nhiều gallery trong nước và nước ngoài. Cha đẻ của chúng thì không hề thấy. Chỉ người vợ gương mặt trang điểm kỹ lưỡng như đeo mặt nạ, nụ cười đông cứng chuẩn mực trên môi và một người đàn ông lịch sự, nói tiếng Anh như gió, luôn tràn trề vẻ xót thương và lòng tận tụy trong việc bồi đắp tiền bạc, danh vọng cho ông. Vợ ông gọi hắn là "vị cứu tinh". Càng giàu có, người ta càng thấy họa sĩ lang thang trên đường phố, như một kẻ vô gia cư, áo quần lôi thôi, tóc tai bù xù. Có khi ông biến đi đâu cả hai ba ngày, đám bạn bè thừa thãi lời khen và bia bọt không thể nào thấy được. Chỉ có lũ chim sẻ biết. Ông cho chúng ăn, thì thầm trò chuyện với chúng. Sau hai, ba ngày, ông ló đầu ra, tóc tai đầy mạng nhện, quẳng xuống từ căn gác xép sát mái mấy bức tranh vẽ những mảng trời không yên tĩnh bé bằng manh chiếu, những bức tranh vợ ông cằn nhằn vì bán không chạy. Có lần bà bắt gặp ông ở họa phòng vào hai giờ sáng, ngọn nến trước mặt, lầm thầm trước một khung tranh trắng toát, còn những hình nhân trong bức tranh quanh ông thì như lũ âm binh, vàng vọt, dài thượt, leo lét nhảy múa dưới ánh nến. Họa sĩ cầm nến dí vào chúng với vẻ ghê tởm. Vợ ông hét lên. Từ đó ông trở thành bệnh nhân của bệnh viện tâm thần. Giới hội họa xôn xao bàn tán. Họ gọi đó là số phận thiên tài. Còn "vị cứu tinh" thì được dịp chứng tỏ lòng tận tụy.

Quả từ khi có hắn, tiền bạc vào nhà ông như nước và ngược lại, nước cuốn theo sự đói nghèo, yên bình, đam mê sáng tạo và cả hạnh phúc.

Vâng! Nếu không có "vị cứu tinh" xuất hiện vào một chiều mưa tám năm về trước, ở gallery tẻ lạnh của ông thì bây giờ ông không ở đây mà bên cạnh vợ con hoặc trong cái chòi nhỏ sau vườn, nơi ông đắm chìm trong đơn độc sáng tạo. Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước những bức tranh ế ẩm của người họa sĩ vô danh có vẻ mặt đăm chiêu, khắc khổ. Vốn sống bằng nghề môi giới tranh, anh ta đánh hơi mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này. Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh á Ðông. Ngày hôm đó, họa sĩ đem họ về nhà. Ông lôi ra từ dưới gầm giường, trên mái, trên vách những bức tranh chưa hề được triển lãm. Chúng nóng hôi hổi như những viên hồng ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất. Hai vị khách ngồi chồm hổm, có khi gần như bò để xem tranh. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, chẳng khung, chẳng tên nhưng cõi người nặng trĩu, ngọn gió hư vô xào xạc trong vô thanh cứ làm họ bàng hoàng. Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh liệt ứ trào khỏi mầu sắc và hữu hạn.

Từ đó cuộc sống ông không còn là của ông nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào trong nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái, thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không còn nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng... hoàn toàn xa lạ!

Bây giờ ông ở đây sau khi li dị. Ra tòa vợ ông là kẻ thắng thế vì nghiễm nhiên ông là kẻ suy nhược thần kinh nặng trước mọi người và cả y học.

Thoạt đầu ông định nghỉ ngơi ở Huế vài tuần nhưng ông đã ở nửa năm và không muốn đi nữa. Ông không ngừng ngạc nhiên trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố này. Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của một đại lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã, mái trĩu thời gian vẫn tự tại có mặt bên cạnh những ngôi nhà kiến trúc kiểu mới như một đại diện của quá khứ. Ông lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn, chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Ông lang thang khắp chốn Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh cho ông.

*

Ông bắt tay vào việc thực hiện chân dung thiếu nữ áo lục lúc Huế thật sự bước vào mùa đông. Không gian trắng xóa mưa buồn, lê thê giọt vắn, giọt dài sướt mướt. Trời lạnh như cắt. Người bác già co ro xuýt xoa bên cái lồng ấp nhỏ bằng tre ủ những cục than hồng. Còn ông, ông đóng cửa và bắt đầu vẽ.

Chưa bao giờ ông làm việc khó khăn đến thế. Mấy lần thay lụa, cô vẫn như cái bóng không nắm bắt được. Khái niệm về thời gian và tuổi tác không tồn tại nơi cô. Ông hình dung cô lúc mới gặp, cô thiếu nữ trẻ măng, bối rối thì cô lại hiện trên vải như một thiếu phụ, khóe miệng cay đắng, đuôi mắt li ti vết chân chim. Có lúc người thiếu phụ ấy lại như cọng cỏ mùa xuân xao xuyến, áo mầu lục non, ánh mắt cháy bỏng... Cô hiện ra lung linh và bất định, lúc già, lúc trẻ, lúc buồn, lúc vui, lúc rõ như sờ nắn được, lúc nhạt nhòa mơ hồ như một ảo ảnh đến nỗi ông có cảm tưởng ông bệnh và cô chỉ là một ảo giác của người bệnh. Bức chân dung về cô mấy tuần rồi vẫn dừng lại ở cái nền và y trang. Buông cọ vì bất lực, ông mặc áo ấm và đi lên lăng. Từ sau buổi sáng ấy, ông không còn được gặp cô nữa. Lúc đó đã bốn giờ chiều. Trời thật rét. Chẳng có du khách, cũng chẳng có cô, chỉ có những tượng đá trầm mặc và ngàn thông rũ tóc khóc than. Sự quạnh vắng của cõi chết thật khủng khiếp. Ngồi một lúc ông đứng dậy ra về, và đúng lúc đó, ông trông thấy cô. Cô đứng trầm ngâm bên hồ bán nguyệt, lặng lẽ nhìn về phía núi. Trời lạnh mà cô vẫn phong phanh tấm áo mỏng. Mừng rỡ ông kêu lên. Ông vừa chạy vừa gọi. Tiếng chân ông dội vào hoang vắng. Tiếng gọi của ông loãng trong tiếng thông xào xạc. Ông chạy và cảm thấy khoảng cách giữa ông và cô không ngắn lại. Lật đật ông vấp té. Khi đứng dậy, cô không còn ở đó nữa. Tuyệt vọng, ông tựa vào bờ thành thở hổn hển. Hơi thở phả ra lập tức biến thành khói trắng tan trong lạnh giá.

Tối hôm đó ông bị ốm. Người bác già vừa nấu cháo hành giải cảm vừa lầm bầm gọi ông là thằng điên. Vùi trong chăn, ông mơ hồ nghe tiếng gõ vào cửa kính. Mưa đấy. Ông thầm nhủ. Nhưng không phải mưa. Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt ông đã hoài công tái hiện trong tranh. Run rẩy, ông ngồi dậy. Không kịp bật đèn, đi chân trần, ông đến mở cửa. Một tấm thân mảnh mai, sũng nước đổ ập vào ông. Ông dìu cô đến giường và bật ngọn đèn ngủ. Cô tơi tả như một cành hoa trong mưa gió. áo quần ướt đẫm, tóc bết dính, cái lồng ấp nhỏ trong tay cô cũng tắt ngúm và đầy nước; chỉ có đôi mắt cô là như hai hòn than rực cháy sự liều lĩnh, thách thức. Ông lấy áo quần mình tự thay cho cô. Tay ông chạm vào làn da mịn bóng như sa tanh phảng phất hương trầm. Cô nhắm nghiền mắt, lả đi trên gối, phập phồng thổn thức dưới tay ông. Thay áo cho cô xong, ông kéo chăn lên tận cằm, bước xuống tìm nến. Ông tắt đèn thắp hết nến lên và quỳ xuống bên cô, nâng gương mặt cô trong tay. Bây giờ ông có thể chạm nó như một thực thể, thấy rõ từng nét mày, khóe môi, cả nốt ruồi son bên cánh mũi. Dưới ánh nến, được rửa bằng nước mưa và nước mắt, gương mặt đó sáng rỡ vì hạnh phúc, nồng nàn, trẻ măng. Ông kéo giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục. Ông làm việc mê man. Khi ông rời nó, cô đã ngủ. Trong giấc mơ, cô lắp bắp những lời vô nghĩa đối với ông:
- Tử Cấm thành... xin lửa... đêm đông chí...
Tắt những ngọn nến, ông nằm xuống bên cô.

*

Sáng hôm sau, họa sĩ dậy trễ. Người bác bưng ly sữa đến tận phòng. Ông càu nhàu khi thấy cửa không cài. Cái thằng đãng trí đã để gió lùa suốt đêm. Ông đến lay đứa cháu còn nằm trong chăn ấm. Lập tức ly sữa lai láng trên nền. Ông già mếu máo kêu lên. Nhưng căn phòng rộng trong khu vườn mít chỉ có hai người. Một nằm đó, bình yên như ngủ, thân thể lạnh giá. Một đứng đó, mếu máo cô độc. Bên cạnh họ là bức tranh chưa ráo sơn trên giá. Người thiếu nữ trong y trang mầu lục, cổ đeo kiềng vàng, tươi tắn như chiếc lá mùa xuân. Quanh cô, dờn dợn một biển cỏ. Trước mặt, một rặng núi xanh. Gió lạnh tạt vào phòng, gờn gợn bức tranh lụa. Người đàn ông già kinh hoàng dụi mắt. Ông thấy một cái bóng nữa bên cô, nhạt nhòa, cao lớn. Cả hai sóng đôi chạy về phía núi.

Nhận được tin ông mất, người vợ cũ và "vị cứu tinh" ra Huế ngay lập tức. Họ không để ý người chết. Họ để mắt tới những bức tranh nhất là bức tranh thiếu nữ áo lục. Họ gói ghém chúng cẩn thận. Chúng sẽ theo họ về bằng máy bay.

Khi hai người thận trọng tháo gỡ giấy bọc để trình bày với giới mua tranh kiệt tác cuối cùng của họa sĩ tài ba, họ kinh hoàng nhận thấy thiếu nữ áo lục đã mất mặt. Gương mặt diễm lệ, tươi tắn dường kia chỉ còn là một khoảng trống không đường nét, không mầu sắc, một khoảng trống thật tệ hại trong bức tranh đáng lẽ thật toàn bích.
599






Cuối khu nhà thương tỉnh ở góc rào phía tây có một ngôi nhà nhỏ. Cổng để mở ngày đêm, cửa há hoác cho nhìn thẳng vào trong. Trong nhà trơn trụi, không có gì, trừ một cái bệ hình chữ nhật nằm dọc chính giữa nền. Tường quét vôi vàng, ban đêm ánh đèn điện gây nên một bầu không khí hồng dịu như trong một tổ yêu đương của cặp vợ chồng mới.

Nhưng màu hồng dịu ấm cúng đó chỉ là một lời rủa độc, bởi giữa những bức tường, chất chứa một niềm lạnh lẽo bi ai, và lẩn quất hơi âm rùng rợn. Bởi nhà đó là nhà xác. Đó là nơi quàn của bao nhiêu thi thể tàn tật, đã bị bệnh não cấu xé, ray rứt từng miếng thịt hay cào đục cả bộ phổi lá gan, trạm nghỉ của những linh hồn vừa được giải thoát sau một cuộc dằn vặt đau đớn và nhiều khi dây dưa.

Xa trong kia là nhà điều trị bệnh hoa liễu. Nhà xác chiếm một góc biệt lập, nhưng cứ chiều chiều, bọn gái đĩ đang chữa bệnh lần ra đứng ngó nơi cổng hậu ngay cạnh đấy. áo cộc tay để lộ da thịt béo tròn, môi dày vẫn tô đỏ chót, họ đùa chọc khách qua đường và mua những thứ quà rẻ, khoai chuối, chè xanh. Người ta kể rằng đêm đêm họ thường trèo tường lẻn ra, bán dâm cho một số đàn ông nhiều thèm muốn hơn là nhiều xu.

Năm 193… lòng mang nhiều tuyệt vọng cay đắng, tôi thường lảng vảng chốn này. Bởi một hấp lực ma quái âm u, tôi ưa lui tới nhà xác, để được đắm trong không khí thân thuộc của sự chết, và nghe phảng phất hơi lạnh rợn tia từ những thân thể cóng đờ.

Xác chết phần nhiều vô thừa nhận. Tụ hội nơi đây, một lần cuối, những kẻ ăn mày ghẻ lở, mụ già lang thang cảnh sát bắt được nằm co quắp dưới sương khuya, đứa du đãng nhẩy tầu trốn vé bị đập đầu vỡ óc, thằng bé con chết đuối vớt ngoài sông đào đục ngầu chảy ven tỉnh. Cái chết với họ đã là một sự giải thoát. Trên mặt hom hem, nét mếu của đau đớn còn ghi lại. Đôi người giữ trên môi một cái cười gằn dữ tợn. Có kẻ trưng một bộ mặt dọa dẫm, miệng nhô cách khiêu khích. Phần nhiều trông thiểu não, với những chân tay que củi, những manh quần áo rách tươm để lộ ngực toàn những xương sườn.

Đôi khi, sau một chuyến tầu tới, người ta khiêng vào một kẻ bị nạn, chân bị nghiền nát bét chỉ còn là một cục nhầy nhụa đỏ và trắng, sọ vỡ để thoát chất óc lèo nhèo.

Duy có một lần, tôi trông thấy trên bệ một khuôn mặt trẻ con bình tĩnh. Thằng bé nằm như ngủ, da mặt trắng trẻo, thon và khôi ngô. Nó mặc một cái áo dài đen, một cái quần khá trắng. Lông mi rất dài và rất đen tỏa bóng xuống mắt. Tôi lấy làm lạ vì không có kẻ thân nào túc trực cạnh nó. Cạnh bệ, thấy còn để một cái mũ, và một tay nải nhỏ màu nâu, đợi giờ thiêu hủy. Thằng bé là con nhà ai, và vì cơ sự nào đã rơi rụng chốn này? Mang tay nải lang thang, có phải nó đi tìm mẹ? Hay vì nó ở với một ông chú khắc nghiệt, nó đã bỏ ra đi?

Tôi đến gần, và bỗng giật mình. Một mắt của nó, mắt bên trái, hé mở lờ đờ nhìn tôi. Lúc nãy, vì đứng xa và ngang tầm đầu thằng bé, tôi không nhận thấy điều đó. Đột nhiên nhìn thấy con mắt mở, tôi tưởng như, cảm biết tôi đến gần, nó đã giương một con mắt chết để nhìn tôi. Con mắt nhìn tôi lặng lẽ, rất buồn rầu bởi bóng hàng mi dài và rậm. Người ta chỉ thấy một lát mỏng của con ngươi đen. Thằng bé nhìn tôi, môi cong ngây thơ hơi bìu bĩu. Trong chốc lát, tôi tưởng nó sẽ mở miệng nói với tôi những lời chắc hẳn buồn vô hạn. Con mắt độc nhất lờ đờ nhìn tôi.

Tôi xáp gần hơn nữa, nhẹ đưa tay vuốt làn mi thằng bé. Con mắt như ưng thuận, nhắm lại, nhưng rồi chỉ vài ba giây sau, hàng mi lại nhướng dần, nhướng dần rất nhẹ, và con mắt lại lờ đờ nhìn tôi, rất buồn rầu...

Thường mỗi sáng, nhận giấy báo, một người lính đem hai người phạm dẫn một cái xe bò vào cổng nhà xác. Họ lấy đi quan tài do nhà thương phát, bỏ cái xác vô thừa nhận vào, rồi chở trên xe cải tiến về phía nghĩa địa Tập phúc. Họ làm công việc ấy cách vô tình nên tàn nhẫn. Người chết bị xang đưa nhồi lắc, chắc hẳn có khi qụy gối hay cụp đầu mà tụt hẳn về một phía bởi quan tài nghiêng dữ quá: rồi tiếp tới cuộc hình phạt dài khi cái xe bánh gỗ vừa lăn vừa nhảy lộc cộc trên con đường đá gồ ghề...

Ngày đầu, người lính ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chúng tôi bắt quen nhau, như hai người khách bắt quen vì năng gặp nhau cùng trong một tửu điếm. Và một hôm, trong khi trông coi phạm làm việc, tay cầm chiếc roi nhỏ, bác kể cho tôi một chuyện ghê gớm, mà tôi thuật lại dưới đây.

*
* *

"Bữa ấy, tôi nhận phần việc đi chôn một mụ ăn mày, chết hồi đêm tại nhà thương. Theo thói thường, tôi đứng xa xa, để mặc cho hai tên phạm đi lấy xác nhập quan. Mới khoảng chín giờ sáng mà trời bức tối lạ. Mây kéo đen một góc trời. Tôi biết trước cơn giông sắp tới.

Tôi bèn giục hai tên phạm đẩy xe chạy: tôi rảo bước theo sau. Đi chưa được nửa đường, mưa đổ xuống; một trận mưa rất dữ dội, chỉ một lát sau, con đường đã thành dòng suối đỏ ngầu. Chúng tôi vẫn cố chạy: nhưng sau, mưa to quá vuốt mặt không kịp, tôi bảo dừng lại trú cạnh một cây bàng lớn. Tuy bị nước rỏ từ cành lá xuống nón xuống vai lộp bộp, chúng tôi cho còn dễ chịu hơn là tắm mưa ngoài kia. Nhưng mụ chủ cái quán dựng sau cây bàng đã đứng chõ mồm hét mà đuổi chúng tôi quầy quậy. Tôi không chịu đi. Mụ không biết làm sao, bèn chắp hai tay vái lia lịa, xin chúng tôi đi đi cho, đừng để xác chết ám trước cửa hàng mụ. Nghĩ thương tình, tôi lại bảo hai tên phạm đẩy xe chạy một mạch cho đến nhà hội Tập phúc, rồi chúng tôi trú dưới mái hiên. Quan tài làm bằng gỗ xấu lại đóng cẩu thả: gặp nước mưa, ván cong lên, khe hở hoác ra. Nước chảy từ ván ròng ròng, một thứ nước vàng đục. Trong hai tên phạm có một đứa trông thật dữ tợn, chúng tôi quen gọi là thằng Hùm, hoặc Hùm Xám. Hắn nói đùa:

- Coi, mỡ con mẹ chảy ra đó. Hứng lấy thắp đèn được.

Mưa ngớt dần. Tên phạm thứ hai bỗng nói:

- Có ai rên ở đâu đây.

Thằng Hùm bô bô:

- Con mẹ chứ ai nữa!

Hắn nói chơi để dọa, không ngờ lại là chuyện thực. Chúng tôi nhận qua tiếng rên rỉ đưa từ trong áo quan ra, yếu ớt và đứt đoạn. Chắc hẳn người chết gặp nước lạnh giội đã sống lại. Tôi còn chưa biết làm thế nào thì thằng Hùm nói oang oang:

- Bắt chúng ông xe trở lại nhà thương thì chúng ông chả chơi!

Suy nghĩ một chốc, tôi cũng cho không nên chở mụ ăn mày trở về: mụ sống lại cũng chỉ được vài giờ là cùng. Nhưng tiếng rên rỉ cũng làm rối óc tôi.

Tiếng rên đứt. Tôi thầm mong trong bụng: "Lạy trời nó chết!". Nhưng chỉ một giây sau, lại nghe tiếng mụ cào ván.

Thằng Hùm nhặt một cái cọc tre, dùng hàm răng sắt của hắn tước cho hơi nhọn một đầu rồi lèn đoạn nhọn cố thọc vào một khe hở của quan tài. Đoạn hắn đè ngang cái cọc nậy tấm ván lên. Hắn mở thành một khe hở khá rộng, ghé mắt nhìn. Bỗng hắn hất ngửa đầu ra sau. Chúng tôi kinh ngạc thấy ba đầu ngón tay nhăn nheo run run rờ rẫm chuồi ra ngoài quan tài. Thằng Hùm vội rút cái cọc. Khe hở khép lại, mép gỗ cắn lấy ngón tay người nằm trong. Ba ngón tay run rẩy rất khẽ, rồi dần dần đổ xuống yên lặng trong khi tiếng rên rỉ lại nổi lên.

Tôi không giữ được bình tĩnh nữa. Tôi vội hét thằng Hùm:

- Dun tay người ta xuống!

Hắn cầm cái cọc tre thọc thọc vào ba ngón tay.

Tôi lại hét, gần như hoảng hốt:

- Thôi, đem chôn! Đem chôn ngay!

Hai tên phạm khiêng quan tài ra nghĩa địa, tuy trời vẫn còn mưa. Chúng chạy nhanh, nhồi lắc chiếc áo quan rất dữ, làm cho nước lọc bọc trong ấy.

Chúng đào hố rất khổ công. Xẻng vừa xúc được một cục đất thì nước lại tràn ngay vào chỗ trũng mới. Đào xong, chỉ thấy trước mặt một vũng nước vàng đục lợn cợn váng. Hai tên phạm vứt bừa quan tài xuống đó, đoạn cúi xuống cố sức dìm. Nước tuôn vào trong quan tài do những kẽ hở, kêu lóc bóc lóc bóc. Khi nước vào đã nhiều, quan tài chìm xuống, những bọng không khí trào lên vỡ bùng bùng. Tôi giúp hai tên phạm đổ đất lên trên.

Khi về, thằng Hùm nói:

- Lắng tai mà nghe khi ta dìm áo quan; có tiếng con mẹ uống nước ừng ực.

Cõ lẽ hắn nói thật; nhưng tôi cố không tin, bởi điều đó ghê rợn quá!

1072




Sau một ngày làm việc bình thường, nhà vật lý Sophie B. trở về nhà và gặp tai nạn giao thông. Cô bị thương nặng, phải chuyển vào phòng hồi sức cấp cứu. Sau này cô nhớ lại: "Đột nhiên, tôi nhìn thấy mình nằm dài trên giường cạnh bác sĩ và y tá. Lúc ấy, tôi đang ở trên cao, tựa lưng vào trần nhà. Tôi nhìn thấy cả bụi phía trên đèn chiếu".

Theo lời kể của Sohpie B., cô cảm thấy như bị rơi vào đường hầm tối đen và đầu bên kia chìm ngập trong luồng ánh sáng kỳ lạ sáng hơn ánh nắng nhưng không gây chói mắt. Thế rồi cô hồi tưởng cuộc sống đã qua, nhớ từng sự kiện nhỏ hoặc tưởng đã quên, nói chuyện với nhiều người rất thân quen... Sau đó, cô nghĩ đến con cái và mẹ đang bị bệnh nên quyết định nhập vào xác trở lại. Lúc ấy, cô cảm thấy đau khủng khiếp khắp toàn thân. Nhiều năm sau, Sophie B. chỉ dám kể lại lần xuất hồn ấy sau khi đã đọc được nhiều bài viết nói về hiện tượng này.

Các nhà tâm lý học và các bác sĩ gọi trạng thái xuất hồn của Sophie B. là kinh nghiệm cận kề cái chết. Theo một cuộc thăm dò của Viện Gallup, 15% dân Mỹ đã từng sống qua trạng thái này. Số người xuất hồn rồi quyết định quay trở lại thế giới loài người kể lại cảm giác có khác nhau nhưng vẫn còn nhiều điểm chung nhất.

Các nhà khoa học nghiên cứu về kinh nghiệm cận kề cái chết đã lập ra những diễn tiến tiêu biểu của hiện tượng này như sau: cảm thấy thoát ra khỏi cơ thể, đi qua một đường hầm hoặc nơi tăm tối, có cảm xúc mãnh liệt, nhận ra luồng ánh sáng huyền ảo hay giọng nói kiểu như "giờ của bạn chưa tới", gặp người quen hay tiên thánh, cảm thấy rất sáng suốt, hồi tưởng dòng đời diễn tiến nhanh, đạt đến mức giới hạn nào đó, quyết định quay trở lại cơ thể và cuối cùng nhập vào cơ thể.

Tùy theo người, chuyện kể về hiện tượng này có khác nhau về chi tiết. Trẻ con không gặp thần thánh gì ở cuối đường hầm mà thường gặp bạn bè, thầy cô, cha mẹ... Trong phần lớn trường hợp, người đã từng xuất hồn thường tỉnh dậy trong trạng thái khỏe khoắn, nhưng cũng có lúc hoảng sợ không rõ do nhìn thấy "hỏa ngục" hay cái chết. Muốn biết xem kinh nghiệm cận kề cái chết có xảy đến cho bất kỳ ai hay không, cần phải so sánh nhóm người suýt chết nhưng chưa trải qua hiện tượng này và nhóm người đã trải qua trong những điều kiện giống nhau giữa hai nhóm. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được giải quyết vì ít ai để tâm nghiên cứu.

Thông thường, người đã từng xuất hồn là bệnh nhân nằm trong phòng hồi sức cấp cứu hoặc phòng mổ nên các nhà khoa học nghĩ rằng có thể có một số loại dược phẩm tác động đến não gây nên hiện tượng này. Cho đến thập niên 1980, các bác sĩ thường sử dụng loại thuốc gây mê mạnh Kétamine để gây mê trẻ em, người bị bỏng khi cần cấp cứu. Kétamine sẽ khiến cho bệnh nhân cảm thấy tách rời khỏi cơ thể nên không cảm thấy đau khi chịu phẫu thuật. Khi nghiên cứu thêm về Kétamine, nhà tâm thần học Karl Jansen người Anh phát hiện Kétamine bám vào cơ quan thần kinh thụ cảm N-méthyl-Daspartate để ức chế và gây nên trạng thái như xuất hồn. Ngoài Kétamine, các nhà khoa học còn nghi ngờ các phân tử endorphine là nguyên nhân tạo cảm giác khoan khoái, khả năng hồi tưởng cùng lúc nhiều kỷ niệm đi kèm theo trạng thái xuất hồn. Nhà tâm thần học Meduna đã từng thí nghiệm cho nhiều người hít hỗn hợp khí oxy và carbonique. Trạng thái thiếu oxy hoặc hấp thu quá nhiều khí carbonique sẽ khiến cho một số người thấy đường hầm, ánh sáng, nhớ về kỷ niệm và cảm thấy thoát ly khỏi cơ thể. Hiện tượng này thường xảy ra nơi nạn nhân bị mất quá nhiều máu, người bị chết đuối ở phút lâm chung và người mắc chứng động kinh.

Ngay từ thập niên 1950, bác sĩ phẫu thuật thần kinh Wider Penfield đã từng thí nghiệm dùng điện cực kích thích thùy thái dương của một số bệnh nhân còn thức và họ đã cảm thấy như xuất hồn khỏi cơ thể. Ở Pháp, bác sĩ Patrick Chauvel ở Bệnh viện thần kinh Rennes đã định vị được một cụm neurone thần kinh giữ nhiệm vụ tạo ra trạng thái mơ nơi người mắc chứng động kinh, chỉ có điều người bị động kinh thường hoảng sợ, buồn rầu, cô độc trong khi người xuất hồn lại mang cảm giác an bình hơn.

Bác sĩ thần kinh Michael Persinger người Canada còn quan sát thấy người nào có thùy thái dương hoạt động không ổn định (có nghĩa là có khuynh hướng mắc chứng động kinh) lại dễ sống trong trạng thái xuất hồn hơn người khác và chấn thương não ít quan trọng đôi lúc cũng gây nên trạng thái xuất hồn. Để giải thích cảm giác bước vào đường hầm, nhìn thấy ánh sáng chói lòa nơi người đã xuất hồn, nhà tâm lý học Suzanne Blackmore người Anh cho đó là do hệ thống thị giác bị rối loạn, phát sinh từ tình trạng thiếu oxy hoặc rối loạn các chất hóa học trong hệ thần kinh. Lúc ấy, các giác quan (mắt, tai, mũi, da...) không còn thông tin được với vỏ não nên vỏ não tự phát ra nhận thức. Chính vì vậy, người xuất hồn nhận thấy luồng sáng mạnh và huyền bí khác với ánh sáng thông thường.

Như thế cho đến nay, phần lớn các đặc điểm của kinh nghiệm cận kề cái chết đã được giải thích rõ bằng luận chứng sinh lý học hợp lý. Dù vậy, những người đã từng xuất hồn khó chấp nhận các luận chứng này mà cứ tin rằng có thế giới bên kia, có thiên đàng, tiên Phật... Niềm tin của họ mãnh liệt đến nỗi sau khi từ cõi chết trở về, đột nhiên họ sống khác trước, sùng tín hơn, biết hy sinh hơn, nhân ái hơn và hầu như không còn sợ cái chết nữa.


user posted image

595




Cha Sơn là một quân nhân thời chiến sau khi miền nam bị giải phóng Cha Sơn bị đi học tập cải tạo lúc đó sơn tròn 8 tuổi cái tuổi còn qua nhỏ để nhận thức nổi mất mát của gia đình sơn chỉ biết hỏi Mẹ là Cha đi đâu vậy cứ lần những câu hỏi thơ ngây đó đã vô tình làm cho Mẹ buồn và khóc rất nhiều nhưng chỉ 3 năm sau khi sơn tròn 12 tuổi thì đã nhận thức được và không còn hỏi nữa mà con phụ mẹ làm những thức ăn mà Cha sơn thích để theo mẹ vào trại cải tạo thăm cha cứ thế mỗi năm Sơn chỉ gặp cha được một hai lần vào mùa hè của năm 1980 là lần thăm cuối cuối của sơn gì ít lâu sau Mẹ và Sơn nhận được hung tin cha sơn bi bệnh mà chết mà bọn cai tù thiệt là ác ngay cả xác cũng không được nhận về chôn mà họ chi cuống vào bằng chiếc chiếu rồi đào đại một cái lổ rồi quăng cha sơn xuống nhưng quăng một xác chết của một loài thú hoang xong rồi phủng bằng mặt đất ít ngày sau khi mẹ sơn và sơn đến nơi mặt dù ngoài trời miền bắc giá lạnh của mùa đông
hai mẹ con van lạy bọn cai tù cho họ biết nơi chôn cha của sơn như họ như là loài quỹ không có linh hồn không lòng thương hại mặt cho Sơn và mẹ lạy lụt đến đâu họ cũng như không biết không hay cuối cùng có một người dân ở gần đó cảm thấy thương và đã chịu dẩn hai người đi thăm khi đến nơi chỉ thấy một bãi đất hoang không biết nơi chôn cha là đâu Me và Sơn đành thấp vài nén hương khấn lạy xong rồi về sau khi về đến nhà mẹ sơn vì đau buồn mà bệnh và gia đình sơn kinh tế bế tắc cũng nhờ Mẹ Sơn ngày thường buôn bán cũng để đành một ít và sơn buổi sáng đi học còn buổi chiều phải đi bán báo và giấy số để kiếm tiền trong khoãng thời gian 4 năm vừa nuôi mẹ bị bệnh vừa phải để dành tiền để thi vào đại học thời gian cũng mau quá mùa thi đã đến sơn nạp đơn để thi sơn ngày ngày vẫn ôn bài thi và đi bán báo đơi thông báo để vào trường thi thì hởi ơi thông gởi về nói là Sơn là con của ngụy quân nên không đủ tiêu chuẩn thi vào đại học thế là giấc mộng bị tan dở mẹ sơn biết được con mình thích học nên đã tìm cách cho con đi vượt biên để mong sao con mình tìm được tương lai tốt nhưng sơn không muốn đi vì sơn vốn thương mẹ và sơn cũng có người yêu nên sơn không muốn đi nhưng bao nhiêu lần khuyên của Lan người yêu của Sơn và Mẹ nên sơn quyết định ra đi ngày sơn đi trời u ám và sắm sét rất nhiều như báo một đềm hung nhưng đã đóng tiền rồi nên sơn ra đi khi thuyền của sơn vừa rời khỏi đất liền thì bị bọn công an biên phòng phát hiện họ rượt theo và nổ súng vào thuyền sơn tất cả mọi người hốt hoãng vì mạng thuyền trúng đạn và nước vào quá nhiều cuối cùng thuyền sơn đã chìm dần vào đái biển mang theo sơn và hơn 100 người khác trước khi chết sơn có nguyện rằng nếu trời có thương cho xác của sơn trôi về quê như lời nguyện xác của sơn theo sóng biển trôi vào đất liền và theo dòng nước về đến quê của sơn và đêm hôm đó Mẹ sơn đã được sơn báo mộng rằng " Mẹ ơi con lạnh quá mẹ ơi mẹ kêu người ra đâu sông đón con về " cùng lúc Lan cũng được sơn báo mộng " Lan anh đã chết rồi từ nay mẹ anh nhờ em châm sóc ngày mai đây người ta sẽ đưa anh về anh thiệt lạnh quá" như lời con kêu gọi người mẹ già xấu số lại phải mất đi một người con và vì đau khổ tột cùng bà đả chút hơi thở cuối cùng kể từ đó nhà của sơn người ta thường thấy có hai mẹ con của sơn trong đó con cân nhà thì lúc có đèn lúc không thĩnh thoãng người ta còn nghe thấy tiếng khóc nức nở của mẹ sơn nữa ai nấy trong xóm đều sợ mà dọn nhà đi duy nhất có nhà Lan là không sợ cha, mẹ của Lan còn động viên con làm bàn thờ cúng và vang váy từ đó họ không còn xuất hiện nữa.
594




Con người là một con vật biết suy nghĩ, biết tư duy; Vì thế, dù bận rộn với bao khó khăn trở ngại trong cuộc sống; dù tin tưởng vào tôn giáo này hay tôn giáo khác, hoặc vô thần đi nữa, con người cũng phải ít nhất một lần trong đời đặt câu hỏi rằng: Tại sao mình lại sinh ra ? Tại sao con người lại đau khổ ? Tại sao trên cõi đời này lại có kẻ giàu người nghèo, và đôi khi sự giàu có không phải là do công lao khó nhọc tạo thành, mà là do do những hành động gian tham, tàn ác tạo nên. Ðiều khó giải thích hơn nữa là tại sao kẻ ác đôi khi lại được trường thọ, hạnh phúc, sang giàu, còn người thiện lương, hay giúp đời, cứu người mà thường gặp nạn, khổ đau, nghèo nàn hay yểu mệnh? Lại có kẻ mới chào đời đã mang dị tật, hoặc đui, mù, câm, điếc, bại, liệt, thiếu hụt tay chân v.v... Nguyên nhân nào đã sinh những trường hợp lạ lùng và vô cùng trái ngược như thế ? Nếu loài người được Thượng Ðế toàn năng sáng tạo, thì tại sao Ngài lại thản nhiên trước những bất công vô lý ấy ?

Tất cả những câu hỏi nêu trên, có lẽ sẽ được lý giải phần nào qua sự tìm hiểu, nghiên cứu và nhận định, soi sáng của các nhà nghiên cứu lỗi lạc về những hiện tượng luân hồi, tái sanh, nghiệp quả. Những nhà nghiên cứu này phần lớn là những khoa học gia, những người được xem như đã mạnh dạn bước qua ngưỡng cửa giới hạn của khoa học thực nghiệm để tiến vào thế giới tâm linh có tánh cách siêu nhiên kỳ diệu .....

****** Xin mời các bạn đọc những câu chuyện có thật đưới đây để hiểu rõ thêm về luân hồi, nhân quả, và tiền kiếp... hậu kiếp...

****** Những câu chuyện này được trích từ "Những Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Và Hậu Kiếp" của Ðoàn Văn Thông biên soạn và nhà sách Nguồn Sống xuất bản.


NHỮNG NGƯỜI TRỞ VỀ TỪ CÕI CHẾT

Sau đây là tài liệu... đã thu thập được từ những người đã gần gũi với cái chết hay đã có lần sống lại, đã trải qua một đoạn đường vượt xa ranh giới cõi sống và cõi chết, nghĩa là đã bước đi một khoảng đường qua bên kia cửa tử để rồi vì một lý do nào đó lại quay về... và đã sống lại. Sau đây là ba trường hợp của những người chết đi sống lại đã mô tả... và đã đăng tải trong báo Tiền Phong 1992...

1. Một người tên là Iva Brawn, sinh sống ở Lamirada (Cali) đã bị tai nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người này bị xe hất tung đi rất xa và ngất xỉu. Trong thời gian mê man như chết đó, người này đã thấy nhiều hình ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu chói lòa bao phủ và có tiếng nói phát ra từ ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ không sao cả" sau 6 ngày hôn mê, người ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi bà sống lại và bà kể chuyện nầy cho người chồng nghe. Mấy năm sau, chồng bà Iva Brawn mất và một năm sau, bà Iva đang nằm ngủ bổng nhiên thấy chồng mình xuất hiện nói với bà rằng: "Cách đây mấy năm, mình có kể cho tôi nghe những gì mà mình đã thấy trong vụ tai nạn xe hơi, nhưng tôi không hiểu, giờ đây tôi đã hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là nước. Mình không thể tưởng tượng được là nước ở đây đẹp đến cở nào... "

2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể lại rằng, bà bị chính người chồng dùng dao quyết đâm chết nhưng nhờ bề trên che chở, bà đã được sống lại trước sự kinh ngạc của các y tá, bác sĩ ở bệnh viện. Stooksbury kể rằng: "Lúc bị ngất đi và được mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết vì máu ra quá nhiều, riêng tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối đen...ở ngưỡng cửa sinh tử, tôi đã trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rõ ràng, bà đưa tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hãy trở về: "Hãy trở lại đi, chưa tới lượt con đâu!".

3. Bà Connie Zickefoose ở Cloverdale (tiểu bang Ohio) kể rằng: Lúc đó tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc tôi quay cuồng rồi một màn đen phủ ập lên... tôi thấy mình đi trên con đường đầy ánh sáng, hoa nở, hồ nước với cá bơi lội muôn màu... Tôi vào một căn phòng, trong đó có chúa Jesus. Chúa ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "Con không vào được đâu! Vì một khi con đã vào thì không thể ra được - phải nhanh lên vì ở đây không có thì giờ, và trên cõi thế giờ của con sắp hết rồi! Thế rồi tôi trở lại, tôi thấy thân thể tôi rõ ràng ở trên bàn sanh, mặt tái nhợt. Các bác sĩ đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ rằng tôi đã chết. Rồi tự nhiên họ reo lên vì biểu hiệu sự sống của tôi đã thể hiện qua cái máy gắn vào cơ thể tôi...

Kể từ khi cuốn sách "Life after Life" xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề tiếp cận với những hình ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích và nghiên cứu.

Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một trường hợp có thật đã xẩy ra như sau:

Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, thì bé này đã ngưng thở gần 20 tiếng đồng hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đã chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô hấp nhân tạo, cháu bé đã tỉnh lại và sau đó đã kể những gì cháu đã trải qua trong thời gian coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một người mà cháu nghĩ rằng đó là Chúa Trời. Người hỏi : "Cháu có muốn ở lại đây không thì cháu trả lời muốn nhưng người lắc đầu: con còn mẹ, con có trách nhiệm với người mẹ đang còn sống, vì thế con nên trở về..."

Ngoài ra cháu còn kể rằng cháu đã gặp nhiều trẻ con và người lớn, những người này đi lại tự nhiên nhưng nét mặt không vui và không rõ nét lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như chuẩn bị đi đâu, có lẽ đang chờ tái sanh. Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi cháu bé rằng: cháu đã tỉnh lại lúc nào cháu có biết không, thì cháu bé trả lời là khi nghe Chúa bảo con có trách nhiệm với mẹ đang còn sống hãy trở về thì vừa lúc cháu tỉnh lại...


 


VẾT SẸO TỪ TIỀN KIẾP

...Dấu tích luân hồi là những gì khả dĩ giúp chứng minh Luân Hồi là có thật, hay ít ra cũng là hình ảnh của dấu ấn một thời quá vãng nào đó ở con người. Ðể dễ hiểu hơn chúng ta thử đọc câu chuyện có thật sau đây đã xẩy ra ở Ấn Ðộ, mà báo Inda Today đã đăng tải như sau:

Titu là một cậu bé con mới 5 tuổi có cha mẹ là Samti và Makhavia Pratxa ở làng Varkhe... Lúc cậu bé vừa lên năm thì người mẹ rất ngạc nhiên khi nghe cậu lập đi lập lại câu nói lạ lùng:

- "Tôi chính là người đàn ông chủ cửa hàng bán máy phát thanh ở Agra. Vợ tôi là Uma, tôi phải đến đó. Tôi chính là Suresh Verma". Cha cậu bé cũng rất ngạc nhiên khi nghe con nhắc lại câu nói này, người cha kéo con lại phía bên mình và hỏi:

- "Con có thể nói rõ thêm cho ba nghe về điều con nói không?". Cậu bé chậm r%C
3593




Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.

Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.

Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.

Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.

Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.

Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.

Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.

"Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?"

Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.

"Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?"

Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.

Nàng ngước mắt nhìn ông. "Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.

Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.

Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.

Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.

Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.

Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.

Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.

Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.

"Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.

Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.

"Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?"

Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.

"Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho."

Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.

Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu c578




Vào một lần đi du lịch ở Ddà Lạt. Khoảng 2 năm về trước (1998)....Cậu mợ tôi đi du lịch chung với một nhóm người......và ghé sang Ðà Lạt. Dà Lạt là một nơi nghỉ mát rất nổi tếng, khung cảnh thoải mái và mát mẽ, hầu như ai cũng thích đi nghỉ mát ở đâỵThế rồi cậu mợ tôi và các đoàn thể đi tham quan khắp nơi như thác Camly, hồ than thở,thung lũng Tình Yêu, tháp Prenn...v.v........Sau một ngày đi chơi mệt mỏi cậu mợ tôi và những người đi cùng mướn nhà tr.o để nghỉ qua đêm. Vào lúc 5 giờ sáng khi mọi người còn đang an giấc thì bất thình lình cậu mợ tôi và những người khác b.i đánh thức bởi hai người thanh niên trong nhóm đi du lịch. Hai cậu thanh niên đó mặt mày xanh xao trong có vẻ sợ sệt...và giống như vừa gặp phải chuyện gì....môi hai cậu run cầm cập và nói không ra tiếng....làm cho cả đòan điều hoảng hốt và cậu mợ tôi cũng run lây theo....cả đoàn đều xúm quanh hai cậu ta và hỏi h.o chuyện gì đã xảy ra thì hai cậu mới rút hết bình tỉnh và kễ lại:
"Vào lúc 6 giờ chiều.......hai chúng tôi đi dạo tới chợ Ðà Lạt,đang lang thang thì chúng tôi bỗng thấy một cô con gái rất đẹp mặc đồ trắng đứng bên trên những bậc thang kế bên khu chơ.. Nàng ta ngó chúng tôi và mỉm cười, nàng trông rất đẹp và duyên dáng.Chúng tôi không ngần ngại đến gần và trò chuyện, h?oi thăm về đời sống ở đây. Sau một hôì trò truyện thì nàng ta ngỏ ý muốn mời chúng tôi đ괮 nhà dùng trà.Thấy cô gái không có vẻ ác ý lại mời mọc hết sức nên chúng tôi không thể nào từ chôí được và cùng người đẹp về nhà nàng. Tôi nhớ nhà nàng rất xa, chúng tôi phải đi qua một dãy núi mới đến được. Ngôi nhà tọa lạc trên một dãy núi, chung quanh thì toàn là rừng .Bước vào nhà chúng tôi có cảm tưởng như bước vào một cáu huyệt vì trong nhà tối và lạnh lẽo thêm vào đó nữa là trong nhàvào nhà vắng hoe. Tôi hỏi "cô ỡ một mình chăng ??" cô gái mỉm cười nói "d.a không anh. Em ỡ? với mẹ em.....ừ..hôm nay m.e em đi vắng không có ỡ?nhà.Bên ngoài trời cũng gần tối rồi với lại xung quanh đây không còn chỗ nghĩ? chân. Nếu 2 anh không ngại thì có thể ngủ lại đây qua đêm chờ trời sáng rồimới trở về ".Lúc đó...chúng tôi vì thấy cô ta đẹp và vì cô ta không có ý gì là xấu cả, ngoài ra trời bên ngoài cũng đã về đêm nên chúng tôi bằng lòng ngủ lại qua đêm. Cô ta sắp xếp cho chúng tôi ngủ trên bộ ván ngoài nhà.Vừa đặt lưng xuống là chúng tôi ngủ ngay và không còn biết trời trăng gì cả cho dến khi khoảng hai ba giờ sáng tôi cảm thấy mắc di tiểu vội bước ra ngoài sân..nhà cô ta để đi tiện. Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh tôi không để ý đến cảnh vật xung quanh mình cho đến khi bước lại vào trong để ngủ tiếp thì một luồng gió lạnh không biết từ đâu tràn đến làm cho tôi phải rùng mình mấy cái. Ngay lúc đó thì một bóng hình đứng trước măt tôi ihoảng 2, 3 thước gì đó, tưởng là gặp cô gái chủ nhà nên tôi liền lên tiếng hỏi: "Cô không đi ngủ saỏ" ,không có tiếng đáp lại. Nôi liền d.ui mắt mấy cái để nhìn cho rõ xem cái bóng trước măt tôi là ai thì hỡi ôi chỉ thâý chung quanh mình là hằng sa số những ngôi mộ và trước mặt tôi khoảng 3 thước là thằng bạn đang ôm một cái .......mộ bia mà ngủ ngon lành. Tôi liền lay hắn dậy để kể rõ mọi sựiệc thì chúng tôi suýt la lớn lên khi phát hiện ra tấm hình của cô gái trên tấm bia mà chúng tôi gặp chiều nay Bên dươí là dòng chữ: Trần Thi. Nồng Nhung, sinh năm 1976 ,chết năm 1997. Quá sợ hãi chúng tôi liền chạy một mạch về đâỵCái nghĩa đ.ia đó nằm ở trên cái đồi phía bên kia......."

Sau khi nghe 2 cậu thanh niên kia kể xong mợ tôi liền trấn an họ và bảo là sáng nay sẽ đi xem cho ra lẽ. Sáng hôm đó mọi người ra xe để đi đến ngọn đồi mà 2 chàng thanh niên hôm qua nói là đã gặp Ma ở đó. Khi đến nơi thì mọi người mới tin rằng 2 chang trai kia đã nói sự thật.
584




Ma quỉ đã có từ đời thượng cổ, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những câu chuyện ma thường được kể vào những buổi tối mà thính giả luôn luôn là một lũ trẻ con ngồi trên giường với những đôi chân nhỏ bé rút lên vì sợ. Mà sợ cái gì?
Sợ giữa lúc đang say sưa nghe chuyện, lỡ một bàn tay lạnh buốt nào đó từ trong gầm giường thò ra nắm chân lôi xuống thì lôi thôi... Ở Âu châu, đã có một thời, người xứ Wales tin tưởng mãnh liệt vào "ánh lửa ma" và đã có rất nhiều câu chuyện về loại lửa này được kể đi kể lại.
Ánh lửa ma có hình dạng một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đường đi của đám tang. Những người có đủ can đảm tới gần ánh lửa ma sẽ có thể thấy mặt người sắp chết. Lửa xanh báo hiệu cái chết của trẻ con và lửa vàng dành cho người lớn.
oOo
Một ngày vào đầu thế kỷ trước, trong một ngôi làng nhỏ ở miền Bắc xứ Wales, có hai cậu bé bà con gần tên là Tom Llewellyn và Evan Pugh ở hai trang trại cận kề và là đôi bạn thiết.
Khi Tom 18 và Evan 16, hai người phải chia tay khi gia đình Evan dọn tới một ngôi làng khác cách ngôi làng cũ khoảng 10 cây số. Đã từ bao năm qua, đôi trẻ vẫn luôn chơi đùa bên nhau, nên bây giờ khi phải chia tay, cả hai cảm thấy như bị mất mát một cái gì rất quan trọng, họ cảm thấy rất nhớ nhau dù cả hai bà mẹ đều hết lời khuyên giải.
Một thời gian sau, hai cậu đã tìm ra một giải pháp: Cứ mỗi cuối tuần, hai cậu lại thay phiên tới thăm nhau.
Một ngày cuối tuần vào cuối mùa thu, đến lượt Evan tới thăm Tom. Sau một ngày chơi đùa thỏa thích trong hai ngày trời mát dịu, giữa vẻ đẹp hiền hòa của miền quê, trong cái nắng trong vắt như pha lê, cuối cùng đôi bạn cũng phải chia taỵ Theo tục lệ xứ Wales, chủ nhà thường tiễn khách một đoạn đường và Tom lấy một cái khăn quàng thật dầy quấn quanh cổ, đưa tiễn Evan trên con đường làng, vừa đi cả hai vừa thảo luận cho chương trình tuần sau, khi đến lượt Tom tới thăm Evan.
Đi được một đoạn thì trời nhá nhem. Evan nói với bạn:
- Cậu đã tiễn tôi hơn ba cây số rồi. Thôi cậu về đi.
Tom đáp:
- Ờ, tới chỗ nhà thờ thì tụi mình chia tay.
Trên đường tới nhà thờ, cả hai đi ngang một nghĩa trang lạnh lẽo, bao quanh bằng những hàng cây gầy guộc. Đột nhiên không hiểu tại sao, Evan bỗng rùng mình run lẩy bẩy. Thấy thế Tom bảo bạn:
- Nếu lạnh, cậu lấy cái khăn choàng này của tôi đi. Evan lắc đầu:
- Không, tôi không lạnh, nhưng hôm nay tự nhiên sao tôi cảm thấy sợ hãi lạ lùng. Có thể vì nghĩa trang này! Nhưng tụi mình đã đi ngang đây nhiều lần mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hãi hùng này.
Tom liếc nhìn bạn với vẻ tinh nghịch:
- Ờ, có lẽ vì mấy cành cây khẳng khiu này trông giống những cánh tay ma đang vươn ra tính chụp lấy cậu đó.
Nói rồi, Tom quơ quơ hai tay trên đầu bạn, miệng giả bộ rên la như tiếng ma kêu qui? khóc. Evan bật cười đưa tay chụp lấy tay Tom, nhưng Tom đã lanh lẹ rụt lại rồi phóng mình chạy về phía hàng cây bao quanh nghĩa địa. Trong bóng tối mịt mù, bóng Tom khi ẩn khi hiện, Evan chi?
nhắm hướng và nghe tiếng chân bạn mà chạy theo. Khi vừa chạy tới thảm cỏ mịn màng bên ngoài hàng cây, chợt Evan bị một bàn tay lạnh buốt chụp lấy và nghe thấy một giọng nói thì thầm bên tai:
- Evan! Đứng thật yên. Coi kìa!
Phía bên kia nghĩa trang lạnh lẽo chập chờn một ánh lửa mạ Khi hai cậu bé chăm chú nhìn, ánh lửa như bùng lên. Evan nuốt nước miếng một cách khó khăn, thì thầm hỏi bạn:
- Cái gì đó Tom?
Giọng nói của Tom đầy khích động:
- Ánh lửa ma! Nó chỉ xuất hiện để báo tin cho người sắp chết.
Tóc gáy Evan đột nhiên dựng đứng. Cậu ráng thều thào hỏi bạn:
- Ai đang cầm ngọn lửa đó.
- Không ai hết. Nhưng ngọn lửa có hình khuôn mặt người sắp chết.
Ánh lửa chập chờn vẫn chậm chạp di chuyển giữa những ngôi mộ im lìm. Evan lập cập nói với Tom:
- Đi đi, lẹ đi Tom! Nó đang tiến về phía tụi mình.
Tom nắm chặt tay bạn:
- Không, cứ ở đây đi. Nó không làm gì được tụi mình vì nó chỉ di chuyển trên đường đi của người chết.
Yên lặng một chút, Tom nói tiếp:
- Tôi muốn biết người sắp chết là ai. Cậu có muốn đi với tôi không? Evan cảm thấy hết sức hãi hùng, toàn thân run lẩy bẩy. Cậu chỉ muốn chạy về nhà thật lẹ tìm một nơi ấm cúng giữa những người thân nên cậu ú ớ:
- Không... không... Tôi không đi đâu.
Tom hoàn toàn không có vẻ gì là sợ sệt:
- Cậu đừng sợ. Coi kìa, nó đâu có tiến tới phía tụi mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó dù vẫn nghe lão già Price thường xuyên nhắc nhở. Đi! Nếu mình tới trước cửa nhà thờ trước khi ánh lửa tiến vào bên trong, mình có thể thấy được khuôn mặt của người sắp chết. Cậu có đi với tôi không?
Evan không nói nổi nữa mà chỉ rên rỉ:
- Không... không... Tôi không muốn biết ai sắp chết... Tôi không muốn thấy ngọn lửa mạ.. Tôi không muốn thấy gì hết...
Tom nhún vai:
- Được rồi! Nếu cậu cứ run rẩy như con gái thế này thì tôi đi một mình.
Evan nắm tay bạn:
- Tom, đừng đi. Tôi sợ quá! Tụi mình rời khỏi nơi này ngay đi.
Tom có vẻ náo nức:
- Đừng sợ! Tôi không thể bỏ qua dịp may hiếm có này. Tôi không tin lão Price và lần này tôi sẽ có thể chứng minh được là lão ta nói láo. Tôi hỏi cậu lần chót, cậu có đi với tôi không?
Evan vẫn run lẩy bẩy:
- Không! Đó chỉ là loài ma quái mà tụi mình nên tránh xạ Không, tôi không đi và cậu cũng đừng đi.
Tom cả quyết:
- Nếu không muốn đi, cậu lên chờ tôi trên đường. Coi xong mặt xác chết tôi chạy lên với cậu ngay.
Dứt lời, Tom chạy thẳng về phía nhà thờ đứng chờ ngọn lửa ma trong khi Evan lập cập chạy ngược lại, nhẩy qua mấy bụi cây ven dường rồi ngồi run rẩy trên thảm cỏ chờ bạn mà tim đập liên hồi.
Trong nghĩa trang, Tom vừa chạy vừa theo dõi ánh lửa ma vẫn đang từ từ di chuyển giữa những tấm mộ bia lạnh lẽo. Cậu không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy tò mò. Khi tới gần cửa nhà thờ, cậu ngạc nhiên khi thấy hai cánh cửa mở rộng. Tom tự hỏi không biết có nên bước vào hay không, nhưng rồi cậu quyết định đứng núp sau một thân cây nhỏ bên ngoài chờ đợi, vì tuy không nhát gan, cậu cũng hơi mê tín. Biết rằng Thánh David chỉ dùng ngọn lửa để báo hiệu một cách thân thiện, giúp những ai sắp về với Chúa biết trước để dọn mình chứ Thánh David không bao giờ làm hại ai, và cũng nghĩ rằng một ánh lửa cỏn con không thể làm hại được mình, nhưng những câu chuyện truyền kỳ về ngọn lửa ma luôn luôn là những câu chuyện kinh hoàng khiến Tom cảm thấy ở bên ngoài dầu sao cũng vẫn an toàn hơn. Nếu bước vào trong, lỡ hai cánh cửa đột nhiên đóng sập lại rồi đèn nến bên trong đột nhiên tắt ngóm và ánh lửa chợt biến thành một cái gì khủng khiếp thì quả là hết thuốc chữa.
Đang suy nghĩ miên man, Tom thấy ánh lửa ma đã tới thật gần. Nó lập lòe vượt qua tấm mộ bia cuối cùng và chậm chạp tiến về phía cửa giáo đường. Tom nín thở đợi chờ và đột nhiên cậu cảm thấy toàn thân lạnh ngắt...
Ánh lửa vẫn chập chờn tiến tới... Tom nhìn trừng trừng như bị thôi miên. Khi ánh lửa tới gần hơn nữa, Tom nhận thấy thoạt tiên nó chỉ là một đốm xanh lập lòe, rồi đột nhiên biến thành khuôn mặt trắng bệch của một xác chết, khuôn mặt mà Tom biết nhưng không thể gọi tên.
Tới sát bên Tom, khuôn mặt của xác chết chợt mở bừng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn cậu bằng một ánh mắt ma quái, hai khóe miệng đầy nhớt rãi nhếch lên thành một nụ cười khủng khiếp...
Tom la lên một tiếng hãi hùng làm vang động cả nghĩa địa im lìm như muốn đánh thức tất cả những hồn ma đang nằm yên dưới đáy mộ. Rồi cậu phóng chạy giữa những mộ bia như bị ma đuổi, té lên té xuống nhiều lần để cố tránh thật xa khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái.
Khi nghe tiếng bạn la, Evan đã đứng bật dậy lo lắng đợi chờ. Khi Tom xốc xếch chạy tới như kẻ mất hồn, Evan vội vàng hỏi bạn:
- Cái gì thế? Cậu thấy cái gì thế? Có điều gì ghê gớm đã xẩy ra phải không? Mặt tái ngắt không còn hột máu, Tom thở hổn hển:
- Không... Không có gì hết... Có điều... lão già Price chỉ là một thằng điên! Evan nắm tay bạn, mặt đầy vẻ lo âu:
- Không có gì hết? Thật không? Tại sao cậu lại la hét thất thanh như vậy?
- La hét? Tôi có la hồi nào đâu! Mà có hay không... tôi cũng... không biết nữa! Evan vẫn thắc mắc:
- Cậu nhìn thấy cái gì? Cậu thấy khuôn mặt người chết qua ánh lửa ma phải không?
Tom run lẩy bẩy:
- Không... tôi không thấy gì hết... Thôi, cậu về đi, về ngay đi kẻo trễ quá rồi.
Evan hỏi tiếp:
- Cậu thấy khuôn mặt của ai? Có quen biết với tụi mình không? Tom vẫn run lẩy bẩy, cố gắng trả lời bạn một cách khó khăn:
- Không... không có gì hết... không có ai hết... trễ quá rồi... cậu về đi.
Evan nhìn bạn lo lắng:
- Ừ, trễ thật rồi, nhưng cậu có sao không? Tôi lo quá!
Tom cố trấn an bạn:
- Không, tôi không sao đâu. Thôi cậu về đi, tuần tới tụi mình gặp lại.
Evan nói một cách miễn cưỡng:
- Thôi được! Tôi về. Tuần tới tụi mình gặp lại.
Rồi Tom và Evan chia taỵ Trong khi Evan rảo bước về ngôi làng của cậu thì Tom vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng, vừa đi vừa run lẩy bẩy.
Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu nhìn con hỏi bằng một giọng đầy kinh ngạc:
- Tom, con có sao không? Sao mặt con xanh mướt như vậy?
Tom như chợt tỉnh, nói với mẹ:
- Dạ không, con không sao hết. Có lẽ tại trời hơi lạnh và con hơi mệt.
Đêm hôm đó, Tom thao thức mãi. Khuôn mặt ma quái mà cậu nhìn thấy buổi chiều lúc nào cũng như đang trừng trừng nhìn cậu trong đêm tối. Cậu cố xua đuổi khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái, nhưng khi chỉ vừa chợp mắt, cậu thấy mình đang đi trong nghĩa địa và khuôn mặt trắng bệch của xác chết lại xuất hiện qua ánh lửa, nhìn cậu nhếch mép cười khiến cậu la lên một tiếng hãi hùng, mở bừng mắt, mồ hôi toát ra như tắm.
Mấy ngày sau đó, mọi việc diễn ra một cách bình thường. Tom đã có vẻ phục hồi sau cơn xúc động, tuy những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa trang hoang vắng không thể nào rời khỏi đầu óc cậu. Nhiều khi trong lúc đang làm việc, Tom ngưng lại, nhìn trừng trừng về phía trước thật lâu cho tới khi cha cậu thúc cậu, cậu mới như chợt tỉnh tiếp tục làm việc.
Tới sáng thứ sáu Tom cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chân tay cậu như rã rời. Thường thường mỗi chiều thứ sáu sau khi làm việc, Tom và Evan lại gặp nhau. Tuần này, đáng lẽ Tom chạy sang nhà Evan, nhưng tới buổi chiều, cậu bị ngất xỉu cả thẩy ba lần. Lần cuối, sau khi té xỉu trong phòng khách, Tom không còn đứng dậy được nữa. Mẹ cậu rờ trán cậu:
- Con nóng quá! Cái thời tiết quái gởn ày làm cho con tôi bị cảm lạnh rồi. Thôi, con về phòng nằm nghỉ đi.
Tom gắng gượng phản đối:
- Tuần này con phải đi thăm Evan.
Mẹ cậu lắc đầu:
- Con yếu quá đi làm sao được. Thôi, con cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi cái đã. Tuần này con không đi thăm nó được rồi.
Tom im lặng vì biết mình không đi nổi. Cha cậu phải bồng cậu vào giường. Nằm trên giường, đôi mắt Tom mở trừng trừng như muốn nhìn xuyên qua cái trần nhà trắng xóa. Nhiều lần cậu muốn nói với mẹ về những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa địa vào tuần trước nhưng lại thôi. Mẹ cậu đem vào cho cậu một tô cháo nóng hổi nhưng cậu không thể nào nuốt nổi. Cuối cùng, cậu thều thào nói với mẹ:
- Mẹ Ơi! Con muốn gặp Evan. Mẹ làm ơn gọi nó đến đây cho con.
Mẹ cậu lắc đầu:
- Không được đâu con. Con không được khỏe, gọi nó tới làm gì. Thôi, con chịu khó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày cho khỏe đi đã, rồi cuối tuần tới Evan sẽ tới gặp con chứ có lâu la gì.
Tom cố năn nỉ mẹ bằng một giọng nói đứt quãng:
- Mẹ làm ơn... gọi nó tới... tới đây cho con... Con phải gặp nó... ngay tối naỵ.. Con không thể... chờ... lâu... hơn... nữa...
Mẹ Tom cương quyết:
- Con mệt quá rồi. Con cần phải nghỉ ngơi. Con đang bệnh, nếu Evan tới đây nó cũng chẳng làm gì được cho con. Thôi con cứ nghỉ cho khỏe đi đã, sáng mai mẹ sẽ nhờ người nhắn lại với nó, chắc chắn nó sẽ thông cảm. Mẹ nghĩ rằng ngày mai nó sẽ có thể tới thăm con.
Nước mắt dâng ngập đôi mi, Tom muốn gặp Evan ngay nhưng cậu không thể cãi mẹ, vì dù có muốn cãi, cậu cũng không thể nói nên lời. Cuối cùng, cậu gắng gượng thều thào:
- Mẹ... mẹ.. làm ơn...
Rồi Tom lại ngất xỉu. Mẹ cậu vội gọi chồng lấy nước lạnh lau mặt cho cậu. Đứng nhìn khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt sâu hoắm của con, bà Llewellyn cảm thấy thương xót vô cùng. Bà nghĩ thầm, biết đâu khi gặp Evan con bà lại chả khá hơn. Bà bèn nói với Tom:
- Thôi được. Để mẹ nhờ ba sang đón Evan. Bây giờ, con phải ráng ngủ một chút nghe không.
Cha của Tom vội lấy xe ngựa sang đón Evan. Đang nóng ruột không biết tại sao trời đã tối mà Tom chưa tới, vừa thấy chiếc xe ngựa thoáng hiện bên ngoài trang trại, Evan vội vã phóng ra. Khi được cha của Tom cho hay tự sự, Evan bèn xin phép cha mẹ, lấy vài món đồ cần thiết bỏ vào cái túi nhỏ, nhảy lên xe ngựa.
Từ giã cha mẹ Evan, cha Tom đánh xe chạy về nhà thật lẹ. Chỉ độ trên dưới nửa tiếng đồng hồ, xe ngựa đã về tới nơi. Evan nhảy xuống, chạy thẳng vào phòng ngủ của bạn. Vào tới nơi, Evan vô cùng kinh ngạc vì người nằm trên giường trông không giống người bạn thân của cậu chút nào. Thân thể Tom co rúm lại như chỉ còn một nửa. Con người đầy sinh lực của Tom dược thay thế bằng một thể xác ốm yếu tong teo. Khuôn mặt tươi vui hồng hào của Tom bị thay thế bởi một khuôn mặt hốc hác, tái mét của một người lạ mặt. Evan bước tới bên giường cầm tay bạn. Cậu cố nén lòng nhưng nước mắt vẫn trào ra. Đôi mắt Tom nhắm nghiền dù mí mắt có hơi lay động. Evan bóp chặt tay bạn và bắt đầu khóc rấm rứt. Đột nhiên Tom mở mắt nhìn Evan chăm chăm. Evan hỏi:
- Tom, cậu có nhận ra tôi không? Evan
đây.
Đôi mắt Tom vẫn nhìn Evan trừng trừng. Một lát sau, Evan thấy đôi môi bạn mấp máy nhưng không thành tiếng. Evan quì xuống, ghé tai sát vào miệng bạn. Trong sự yên lặng nặng nề của căn phòng nhỏ, Evan nghe bạn thều thào: - Evan... cậu... ánh lửa... nghĩa trang...
Chỉ nói được mấy tiếng, Tom ngưng lại thở một cách mệt nhọc. Evan siết chặt tay người bệnh như muốn truyền thêm sinh lực. Cậu nói nho nhỏ:
- Tom, nếu cậu mệt thì cứ nghỉ đi. Tôi ở lại đây với cậu trong dịp cuối tuần này mà. Cậu nhắm mắt lại ngủ cho khỏe đi.
Tom vẫn nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn:
- Không... tôi phải nói... Evan... hãy hứa... giữ... bí mật... đừng nói... với... ai...
Nói tới đây, đôi mắt Tom như lạc thần khiến Evan hoảng hốt lắc mạnh tay bạn:
- Tom, Tom, cậu có sao không?
Tom lắc đầu thật nhẹ, cố thều thào:
- Evan... cậu hỏi tôi... thấy gì... tôi thấy... mặt... người chết...
Nói tới đây, đầu Tom hơi nghiêng sang một bên khiến Evan vội buông tay bạn, rồi dùng cả hai tay đặt đầu Tom lại trên gối cho ngay ngắn. Tom tiếp tục thều thào:
- Lúc đó... tôi không... nhận rạ.. nhưng đó là... khuôn mặt... của... tôi... Dứt lời, đầu Tom ngoẻo sang một bên. Giọng nói Tom tắt lịm. Hơi thở yếu ớt của Tom cũng tắt theo.
Evan bàng hoàng đứng dậy nhìn thẳng vào Tom. Trước mắt cậu là xác chết của một người trông hoàn toàn xa lạ, người đã nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của chính mình qua ánh lửa ma.

589




Vào một buổi sáng mùa thu, Alexis Gheria thức giấc trong một trạng thái trì trệ cực độ. Nàng nằm trơ ra hơn một phút, đôi mắt đen huyền nhìn thẳng lên phía trần nhà. Nàng cảm thấy mệt mỏi quá chừng. Chân tay nàng hình như bị bọc trong một lớp chì. Có lẽ nàng đau mắt. Phải nhờ Petre khám bệnh xem sao.
Cố hít một hơi yếu đuối, nàng từ từ chống khuỷu tay ngóc dậy.

Bất chợt, Gheria rú lên.

Trong phòng ăn sáng, bác sĩ Petre Gheria giật mình rời tờ báo nhìn lên. Trong khoảnh khắc ông đẩy chiếc ghế ra sau, quẳng khăn ăn lên bàn, chạy vội về phòng giữa nhà. Ông lao nhanh qua căn phòng trải thảm đỏ và nhảy lên cầu thang từng hai bước một.

Ngồi ở đầu giường, Alexis kinh hoàng nhìn lên người mình: một vệt máu đọng lại.
Bác sĩ Gheria ra hiệu đuổi người tớ gái đứng lặng người ở cửa phòng há hốc miệng nhìn bà chủ. Ông đóng cửa và vội quay lại với vợ. Nàng hổn hển:

- Petre!

- Từ từ em ạ!

Ông đỡ vợ nằm ngửa ra trên chiếc gối hoen máu.

- Petre, cái gì vậy anh? - Nàng khẩn khoản.

- Cứ nằm yên đi em - Ông ta đưa tay lướt ngang ngực vợ, dò xét. Bỗng nhiên ông nín thở. Nghiêng đầu vợ qua một bên, ông kinh hoàng nhìn ngây dại vết thương nhỏ trên cổ nàng và dải máu ươn ướt hãy còn tuôn ra từ đó.

- Trời ơi, cổ họng em!

- Không, đó chỉ là...

Bác sĩ Gheria không nói hết câu ông biết rõ đó là cái gì. Alexis bắt đầu run rẩy :

- Trời ơi! Trời ơi!

Bác sĩ Gheria đứng dậy quày quả bước vào phòng rửa mặt. Ông mở nước vòi rồi quay vào chùi vết máu. Chỗ bị thương bây giờ đã rõ, hai vết như kim châm, sát tĩnh mạch cổ. Khi bác sĩ Gheria sờ vết thương, vợ ông rống lên và quay mặt đi.

- Em nghe anh này - Ông ta nói có vẻ bình tĩnh - Chúng ta nhất định không chịu tin mê tín dị đoan nghe em. Em có...

- Em sắp chết tới nơi rồi.

- Alexis, em có nghe anh không? - Ông nắm chặt hai bàn tay vợ.

Nàng quay mặt lại, nhìn ông với cặp mắt trắng dã. Nàng hỏi :

- Anh cũng biết đó là cái gì rồi chứ?

Viên bác sĩ nuốt nước bọt. Ông cảm thấy hương vị tách cà phê buổi sáng còn sót lại trong miệng :

- Anh biết có lẽ nó là gì. Chúng ta rồi cũng phải biết điều gì có thể xảy ra. Tuy nhiên...

- Em chết tới nơi rồi.

Gheria nắm lấy tay vợ, bóp thật chặt :

- Alexis, không ai có thể cướp đoạt em của anh nổi đâu.

Solta là một ngôi làng với ngàn dân ở chân dãy núi Bihor, Rumani. Đây là một nơi với những truyền thống hắc ám. Dân chúng mỗi khi nghe chó sói tru xa xa là không cần suy nghĩ gì thêm, vội làm dấu thánh giá. Trẻ con thì thay vì hái hoa, hái lá lại lo nhặt tỏi mang về để ở cửa sổ. Trên cửa mỗi nhà đều có vẽ một chữ thập. Và tai ương do quỷ hút máu gây ra cũng thông thường như tai ương của những bệnh tật hiểm nghèo. Lúc nào chúng cũng lảng vảng ở đâu đó.

Bác sĩ Gheria nghĩ mông lung về những chuyện đó trong lúc ra đóng cửa sổ căn phòng của vợ. Trên đỉnh núi xa xa lập lòe mấy đốm lửa. Chẳng bao lâu trời sẽ tối hẳn và dân chúng ở Solta đều đóng chặt cửa những ngôi nhà để được bảo vệ bằng đám tỏi của họ. Gheria biết mọi người đều đã rõ những gì xảy ra cho vợ chồng ông. Chị bếp và chị tớ lo tầng trên đã xin nghỉ việc. Nhờ sự cứng cỏi của lão quản gia Karel mà họ mới chịu ở lại. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu. Trước quỷ hút máu người thì không còn lý trí, lý luận gì nữa hết.

Ông đã thấy điều đó ngay từ buổi sáng ông ra lệnh tìm xem trong phòng bà chủ có con vật nào mang nọc độc hay không. Đám người làm rón rén bước vào làm như căn phòng trải đầy trứng, mắt thì trắng dã như không có con ngươi, tay chân thì luýnh quýnh. Vì họ biết chắc là chẳng có con bọ, con trùng nào ở trong phòng cả. Gheria cũng vậy. Nhưng ông vẫn nổi giận trước sự nhút nhát của họ, và càng giận dữ ông càng làm họ sợ hơn.

Rời cửa sổ, ông quay lại mỉm cười và nói :

- Và bây giờ thì chẳng có ai có thể vào phòng này đêm nay nữa.

Ông ngưng lại khi nhận ra nét khủng khiếp trong đôi mắt vợ. Ông cố vớt vát :

- Không có gì vô nổi đâu em ạ.

Alexis nằm yên không động đậy, một tay xanh mét gác trên ngực, nắm chặt xâu chuỗi thánh giá nàng mới lấy trong hộp nữ trang ra. Đã lâu lắm nàng không đeo xâu chuỗi này, từ khi ông tặng nàng xâu chuỗi nạm kim cương nhân dịp lễ thành hôn của hai vợ chồng. Đúng là cái nguồn gốc quê mùa đã khiến trong lúc kinh hoàng này, nàng tìm sự bảo vệ ở chuỗi thánh giá đơn giản thủa xa xưa. Nàng trẻ con quá, Gheria âu yếm mỉm cười nhìn vợ.

- Em không phải vậy, em ạ. Tối nay thế nào em cũng được ngủ yên.

Mấy ngón tau nàng vội bấu chặt xâu chuỗi hơn.

- Không, em cứ đeo nếu em thích. Anh muốn nói tối nay anh sẽ ở suốt đêm cạnh em.

- Anh sẽ ở với em?

Ông ngồi xuống giường và nắm tay vợ.

- Thế em nghĩ là anh có thể bỏ em một lúc nào đó một mình à?

Nửa giờ sau nàng đã ngủ say. Bác sĩ Gheria kéo một chiếc đến ngồi cạnh giường. Ông tháo kính ra, lấy tay trái xoa nắn sống mũi. Rồi ông thở dài ngắm vợ. Nàng đẹp quá. Nhịp thở của bác sĩ Gheria trở nên dồn dập. Ông tự nhủ : "Làm quái gì có quỷ hút máu".

Có tiếng nện thình thịch ở xa xa. Bác sĩ Gheria lẩm bẩm trong giấc ngủ, các ngón tay ông co rút. Tiếng động lớn dần, và một giọng nói hoảng hốt phát ra trong khoảng tối:

- Thưa bác sĩ!

Gheria bật dậy. Trong khoảnh khắc ông bối rối nhìn về phía cửa ra vào khoá chặt.

- Thưa bác sĩ Gheria - Karel hỏi lại.

- Cái gì vậy?

- Thưa, yên ổn cả chứ ạ?

- Phải, mọi việc...

Bác sĩ Gheria khản tiếng thét lên, nhảy bật về phía giường. Trên người Alexis, một vệt máu gớm ghiếc bao phủ ngực và cổ nàng.

Karel lắc đầu:

- Thưa ông, cửa dù có đóng chặt cũng không thể ngăn được các linh hồn.

Ông ta đứng đó, cao lớn và lỏng khỏng, bên cạnh cái bàn nhà bếp, trên có đám đồ bằng bạc mà ông ta đang lau chùi khi Gheria bước vào.

- Ma quái có thể biến thành hơi khói chui qua nổi mọi kẽ hở dù nhỏ tới đâu đi nữa.

- Nhưng còn xâu chuỗi thánh giá! - Gheria kêu lên.

- Xâu chuỗi này vẫn còn nguyên ở cổ mà, không bị đụng tới. Trừ việc... có dính
máu. - Ông nói thêm, giọng buồn nản.

- Điều này tôi cũng không hiểu nổi - Karel nghiêm nghị trả lời - Lẽ ra xâu chuỗi phải bảo vệ bà.

- Nhưng tại sao tôi không thấy gì hết vậy?

- Hơi hám quỷ hút máu đã làm ông hôn mê. Kể ra ông cũng may mắn lắm mới không bị tấn công luôn đó.

- Tôi không nghĩ là mình may mắn - Bác sĩ Gheria đấm mạnh tay, nét mặt như một người mới phạm tội. Ông hỏi :

- Tôi làm gì bây giờ hả Karel?

- Thưa, đem tỏi ra treo - Ông già trả lời - Treo khắp các cửa sổ và cửa ra vào. Đừng để sót một khe hở nhỏ nào không có tỏi.

Gheria bối rối g591




Internet là một phương tiện truyền thông thời cổ, phát triển rất mạnh vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi mốt. Ông Vương Yến Ngọc, ban tôi, nhà sử học tình dục thường nói: “Những gì tốt lành từ Internet đều là mạo nhận vậy”. Ông Phùng Tất Đắc, chủ bút tờ “Chó Chết Chẹt” cung có cùng chủ kiến: “Internet chỉ giỏi phục vụ công nghiệp tình dục, lừa đảo và cờ bạc mà thôi”. Riêng bản thân tôi nhận thấy rằng ngày xưa đã từng có thời kỳ mà Internet quán - tục gọi là Internet Cafe, đuợc mở tràn lan ở các nước thứ ba. Chúng không những gây tác hại lớn đối với bản sắc văn hoá dân tộc, làm ảnh hưởng trầm trọng đến thuần phong mỹ tục mà còn chính là môi trường vô cùng thuận lợi để ma quỉ hoành hành và tác oai tác quái. Câu chuyện dưới đây do tôi tình cờ lượm đuợc trong một xó xỉnh của mạng Internet cổ, âu cung có thể coi là một trong những ví dụ điển hình về tác hại của nó vậy.

Xưa ở Hà thành có bần si họ Phạm tên Thiềm, nhưng sinh nhằm năm Kỷ Tuất nên còn có tên gọi là Phạm Tuất Sinh, làm nghề tự do, quê ở Hào Nam, thân mình nở nang cao lớn, da trắng mặt đẹp, chỗ kín có nhiều nốt ruồi đỏ. Sinh vốn khiếu văn tho ca hát, bản tính lại hào hoa phong nhã, hết sức nịnh đầm nên rất đuợc phụ nữ thương yêu quí cảm. Đặc biệt mông Sinh thường ngày vẫn tiết ra một thứ hương lạ, vô cùng kỳ dị, đàn ông dính phải thì nóng bụng sốt ruột, đau óc váng đầu, đàn bà ngửi lâu thì sảng khoái đê mê, tâm thần dễ chịu. Có điều thứ hương này hoàn toàn không mùi không vị, nên nữ giới cứ gần Sinh là lúng liếng lả lơi mà chẳng hiểu nguyên nhân nguồn gốc, còn các bậc chính nhân quân tử thấy Sinh sát gái như nam châm hút nước thì ghen tức mà kháo nhau rằng Sinh lạm dụng bùa ngải để quyến ru nữ nhân vậy.

Nhân tết Đoan ngọ năm Canh Hợi Sinh đi choi đền chùa, khi qua chân cầu Cương Châu chợt thấy một ông già khăn xếp áo dài, đầu tóc gọn gàng mà lông miệng rậm rạp, ngồi bên cạnh một chiếc máy in cổ kính nối mạng, thiên hạ xúm quanh xem rất đông. Sinh tò mò vươn cổ chen chân, thấy ông già đang coi bói cho khách, chính xác đến độ những chuyện trăm năm sau vẫn có thể kể ra vanh vách, không sai một chi tiết. Tất thẩy đều xì xào sợ hãi khâm phục. Sinh thấy thú vị quá bèn xếp hàng bỏ tiền xin một quẻ cầu may, nào ngờ lúc máy in ra lá số, chỉ thấy ông già cau mắt nhíu mày, hai tai giật giật, miệng lẩm bẩm: “Số này nghèo hèn mà phú quí, tình này ******* dục mà đoan trang, mệnh này đoản thọ mà trường sinh, thật là phá cách không sao hiểu đuợc!”. Sinh sốt ruột gặng hỏi, ông già bèn nói: “Nếu chỉ coi bằng lá số thôi thì chưa đủ, xin thí chủ cho xem toàn bộ nhân diện cùng thân dạng” - Nói đoạn kêu Sinh cởi bỏ hoàn toàn y phục, Sinh bất đắc di phải nghe theo. Thiên hạ thấy sự kỳ lạ hiếm có, kháo nhau kéo đến xem đông nhu kiến. Ông già vừa ngắm vừa ngửi Sinh rất kỹ càng, chốc lại ngửa mặt lên trời lấy ngón tay bấm bấm, chừng độ một giờ ba khắc sau mới lắc đầu mà phán rằng: “Năm nay bản mệnh rất mờ mà tinh hoa lại phát tiết hết ra hai quả mông rồi, xác suất tử nạn trong 6 tháng đầu năm đạt 47%, trong sáu tháng cuối năm đạt 54%, tổng là 101% nên chắc chắn không thoát khỏi nạn kiếp, vậy xin thí chủ liệu đuờng mà lo trước hậu sự”. Nói xong ông già tắt máy rút điện ru tay phủi áo đứng dậy ra về, ai hỏi cung không nói thêm câu nào nữa. Nên nhớ thời đó chuyện tướng số tử vi kinh dịch tử bình phong thuỷ bấm độn vẫn bị coi là mê tín dị đoan, không có co sở khoa học. Sinh là người cứng bóng vía, lại có chút học vấn sơ khai nên coi những lời ông già nói chỉ là đồng cốt mê sảng không đáng tin mà quên bẵng đi.

Tháng ba năm đó kinh tế toàn cầu suy thoái, Phạm Tuất Sinh lâm vào cảnh túng thiếu, thường phải ăn chịu ở quán cơm bụi gần nhà. Mụ chủ quán cơm tên là Tồn Như Liên, ước chừng hai mươi bốn tuổi sáu tháng rưỡi, tuy không còn trẻ trung gì nhưng cũng thuộc loại lả lơi nhan sắc. Như Liên vốn cảm cái hương lạ của Sinh mỗi khi Sinh đến ăn chịu nên chẳng buồn để ý đến chuyện đòi tiền cơm nước, lại còn nhân lúc vắng khách buông lời ong bướm gạ gẫm: “Cậu mà chịu đồng sàng thì bao nhiêu nợ nần cơm bụi tôi hứa sẽ một tay xoá một tay tẩy mà bỏ hết, lại còn ngày ngày cơm rượu ba bữa, đồng thời sẽ kiếm cho cậu một việc làm an nhàn mà ổn định”. Sinh cả mừng, từ đấy sống cùng Như Liên già nhân ngãi non vợ chồng, nghia cơm bụi tình gối chăn xem ra rất đằm thắm. Thứ hương lạ phát ra từ mông Sinh chính là sợi dây vô hình nối kết tình cảm giữa hai người vậy.

Như Liên có cậu em vợ làm nghề vi tính, mở một quán Internet Cafe rất khang trang ở ngay đầu Giảng Võ, bèn giới thiệu để Sinh vào làm phục vụ. Công việc của Sinh là đếm giờ thu tiền, pha cà phê nước chanh chè Dilmah, mời chào học sinh choai choai tây ba lô khách vãng lai. Lúc rảnh ít khách Sinh cung tranh thủ ngồi tập toẹ sử dụng Internet, nào ngờ bản tính vốn thông minh nên tiếp thu rất nhanh. Sinh lại tự đọc sách thiết kế đuợc web site riêng cho quán, có khả năng thoả mãn các yêu cầu kín đáo riêng tư của khách hàng nên đuợc chủ quán rất tín nhiệm. Có điều Sinh trở nên mê Internet như điếu đổ, ngày nào không trực tuyến độ dăm ba tiếng đồng hồ là cơ thể bứt rứt không sao chịu đuợc. Đến giữa tháng năm Sinh đã trở thành cao thủ có tiếng về tìm kiếm thông tin thiết kế lập trình viết thư hội thoại tán gẫu, trình độ giả tên đổi giống cung đã đến độ xuất quỉ nhập thần. Đêm đêm Sinh thường hay lang thang khắp Internet trêu chọc tán tỉnh hẹn hò lăng nhăng, tự cảm thấy vô cùng thi vị.

Một đêm gió mưa tầm tã, Internet quán chẳng có mống khách nào, Sinh mắc màn ngủ sớm. Nửa đêm tỉnh dậy đi tiểu, Sinh tranh thủ bật máy định tán gẫu một lát cho vui, nhưng lạ thay kết nối vào đâu cung thấy vắng ngắt như chùa Bà Đanh, chờ đến đầu canh ba mới thấy có nick hoamai, hành tùn lạ lùng, thoắt ẩn thoắt hiện như là ma vậy. Sinh cả mừng bắn tin chào hỏi, gõ phím tanh tách. Nói chuyện hồi lâu thấy hoamai tâm đầu ý hợp lắm, cảm thấy nàng đáng yêu vô cùng, cách hành văn lại thỏ thẻ yểu điệu nhẹ nhàng như thục nữ còn trinh. Sinh cao hứng quá không còn kìm giữ đuợc nữa, bao nhiêu tài lẻ đều phun ra hết, lăn chuột thành ảnh đẹp, xuất phím thành thơ hay. Hoamai cũng hưởng ứng nhiệt tình, ngợi khen nức nở, nhận đuợc thơ Sinh gửi bao giờ cung hồi âm phúc đáp, mà lời lẽ ý tứ của nàng thường thâm thuý sâu sắc hơn hẳn, nhưng vẫn tỏ vẻ khiêm cung nhún nhường để Sinh khỏi hổ thẹn. Cứ thế hàng đêm Sinh cùng mỹ nhân làm thơ xướng hoạ, thật là mãn nguyện lắm lắm. Cung từ đó lúc nào Sinh cung ngơ ngác như người mất hồn, chẳng buồn làm việc gì, cả ngày chỉ rạo rực chờ đến đầu canh ba để đuợc tâm tình cùng hoamai, thật là chưa thấy dung nhan mà đã cảm nhau đến tận chân tơ kẽ tóc vậy.

Thời gian thấm thoắt, chốc đà chớm thu, Hà thành đã vào tiết mưa ngâu rồi. Nhân một đêm mưa dầm, hội thoại cùng hoamai trên mạng, Sinh thu hết can đảm mà gạn hỏi nàng về thân thế: “Nàng tên là Phí Hoa Mai, tuổi tròn mười bẩy chân dài ngực săn thì ta biết rồi. Chỉ buồn vì nàng dứt khoát không cho thấy ngọc diện, cương quyết chẳng cho nghe ngọc âm. Chắc chỉ coi ta như vật giải sầu trong thế giới ảo thôi chăng?”. Hoa Mai bị Sinh hỏi dồn, biết giấu cung không đuợc đành gạt lệ nói: “Việc đã đến nước này là do chàng ép thiếp đấy. Thiếp ra ở riêng ba tháng nay rồi, nhà cuối khu Văn Điển, sau Đài hoá thân...”. Sinh là người nhạy cảm, nghe nói đã có ý ngờ rằng nàng là ma, nhưng để chắc chắn Sinh vẫn nhấc phone gọi đến số điện thoại nàng cho để thẩm định lại. Quả nhiên người nhà thông báo Phí Hoa Mai bị cảm phong trúng gió trong khi mở cửa sổ chatting, trong vòng mười phút quên mất không thở nên đã tạ thế đúng vào đầu canh ba, cách đây tròn ba tháng rồi.

Tuất Sinh nghe vậy thì bi luỵ lắm, hôm sau bèn xin nghỉ phép đến thắp hương bên mộ chí của nàng ở Văn Điển mà lầm rầm khấn rằng: “Hôm nay trời nhẹ mây trôi, Tuất Sinh cảm khái đến ngồi thắp hương, buồn thay môi đỏ má hường, hồng nhan bạc mệnh xót thương vô cùng...”. Đang lúc nuớc mắt lã chã bỗng đâu có trận gió cuốn cờ xảy đến, cát bụi mịt mờ, Sinh thoảng ngửi thấy có mùi son phấn Hàn quốc cùng trầm hương hoà quện ngào ngạt, lại thấy chập chờn có bóng thiếu nữ áo trắng từ trong mộ chí lãng đãng lại gần ôm lấy đầu Sinh mà thơm vào trán. Trong chốc lát cảnh vật trở lại yên ắng như không có chuyện gì xẩy ra. Sinh bần thần chạy ra cổng nghia trang trả tiền gửi vé lấy xe phóng về, đến nhà soi gương đã thấy trên đầu có một chiếc mụn lớn, kích thước bằng hạt lạc, mọc ngay giữa trán.

Tồn Như Liên bình sinh vốn thích nặn mụn với trứng cá, ngặt vì bấy lâu nay Sinh đuợc ăn uống no đủ, chăn gối thoả thuê, kem dưỡng da và sữa rửa mặt lại dùng toàn của hãng có tên tuổi nên nước da nhẵn bóng mịn màng tựa như làn da của trẻ nhỏ vậy, dù là cố tình bới lông tìm vết cung không bói nổi một chiếc mụn con nào. Nay Như Liên thấy trán Sinh mọc mụn to tướng thì cả mừng, âu yếm đè ngửa Sinh ra salon định nặn bóp cho đã đời, cho phọt ra hết cả nhân lẫn mủ. Nào ngờ lúc vừa chạm nhẹ vào chiếc mụn thì người Sinh bỗng như bị điện giật, các cơ vòng co duỗi liên hồi, mắt đờ đẫn vô hồn trợn ngược, mép sùi bọt trắng xoá. Như Liên kinh hãi vội dìu Sinh lên giường ủ chăn đắp mền, tận tình chăm sóc đến tận đầu canh ba Sinh mới dần hồi tỉnh. Từ đó Sinh trở nên sợ hãi không dám cho ai sờ vào mụn nhọt của mình, mà Như Liên cũng cạch chẳng bao giờ dám nặn trứng cá cho người khác phái nữa.

Chiếc mụn mọc trên trán Sinh ngày nhỏ mà mềm mại, đêm to mà cứng ngắc, đặc biệt cứ sau nửa đêm khoảng đầu canh ba thì to đúng bằng hột vịt lộn lòng đào, cương lên khiến đầu Sinh đau buốt không thể tả. Một đêm đau quá không chịu đuợc, Sinh liều mình một tay chuẩn bị bông gạc tẩm xianua thuỷ ngân để sát trùng, một tay dùng dao cạo khứa mạnh. Tưởng rằng sẽ tung ra một đống máu mủ trắng đỏ lẫn lộn, nào ngờ chỉ cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng lâng lâng bay bổng, mà từ vết thương có một con bướm nhỏ bay ra, đôi cánh một chiếc xanh một chiêc đỏ trông vô cùng ngoạn mục. Sinh ngạc nhiên nhìn kỹ thì thấy thân bướm là một thiếu nữ tí hon đang khoả thân, cơ thể có đầy đủ các bộ phận như người lớn mà lại cân đối tuyệt đẹp. Con bướm như có vẻ e thẹn ngượng ngùng mà khép cánh che các chỗ kín lại, rồi thoắt cái bỗng to lên như thiếu nữ trưởng thành, khuôn mặt cực kỳ khả ái, cao chừng thước bẩy nặng sáu mươi cân. Cánh trái cuốn dưới đùi biến thành chiếc quần bò ngố màu xanh nước biển, cánh phải che trên ngực biến ra chiếc coóc-xê lụa đỏ màu cam rất đẹp. Sinh biết ngay là Hoa Mai hiển linh, bèn cầm tay âu yếm cười cười nói nói, trước cung thăm hỏi dăm câu cho lịch sự, sau là đua nhau lên giường mà đồng sàng giao hoan. Thật là thoả thuê mãn nguyện, bẩy mươi hai thế phượng rồng chẳng thế nào mà chưa từng thử qua vài ba lượt.

Sinh cùng Hoa Mai làm xong việc lớn, nghỉ ngơi uống nước cho đến khi có tiếng gà con gáy lảnh lót, chợt thấy Hoa Mai rùng mình, cơ thể biến đổi lạ lùng, chiếc cooc-xê lụa đỏ màu cam tung ra biến thành chiếc cánh màu đỏ bên phải, quần bò ngố mùa xanh nước biển tụt xuống thành chiếc cánh màu xanh bên trái, trong chốc lát Hoa Mai lại trở thành con bướm tuyệt đẹp chấp chới đôi cánh xanh đỏ mà bay dính vào trán Sinh tạo thành chiếc mụn lớn. Từ đó mỗi khi vắng vẻ Hoa Mai lại bay ra cùng Sinh tình tự, đôi lứa rất là tâm đắc. Có điều sau mỗi lần cùng nàng Sinh thường cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tựa như nguyên khí bị suy kiệt tổn hao rất nhiều vậy.

Một lần nhân việc đi mua linh kiện nâng cấp máy cho Internet Cafe, Sinh rủ Tồn Như Liên qua lại cầu Cương Châu, thấy ông già xem bói đầu tóc gọn gàng mà lông miệng rậm rạp vẫn đang ngồi đó. Nhớ lại hồi đầu năm Tết Đoan ngọ mất tiền oan, lại phải làm trò đùa khoả thân giữa trời cho thiên hạ cười cợt, Sinh căm tức lắm, bèn rẽ đám đông buớc vào chào hỏi: “Cụ ạ, nhờ trước đuợc cụ bói cho một quẻ mà bây giờ những gì cụ không nói đều linh nghiệm cả, thật là ơn này không biết lấy gì mà đền đáp”. Nói xong Sinh đặt lễ một tập đô-la tiền âm phủ, vái hai vái rồi lui ra, trong dạ rất lấy làm đắc chí. Nào ngờ chỉ thấy ông già nhẹ nhàng chỉ tay vào mặt Sinh rồi chậm rãi nói: “Tiếc thay, chết đến nơi rồi mà không chịu hối”, lại quay sang Như Liên bảo nhỏ: “Nàng phải sống với hạng người này âu cung là duyên nợ tiền kiếp mà thôi, liệu mà về sắm sửa hậu sự cho hắn thật chu đáo”. Nói đoạn cầm tập đô-la âm phủ Sinh đua xé tan làm ngàn mảnh, tung lên trời hoá ra một đàn nhặng xanh vo ve hồi lâu rồi bay đi mất.

Đến đầu tháng chín năm đó Sinh bắt đầu ngã bệnh, thoạt đầu chỉ thấy hoa mắt nhức đầu, mỏi xương đau khớp. Sau bệnh tình ngày càng nặng, sức lực cạn kiệt, hàng ngày chăn gối cùng Như Liên không quá nổi ba lần, hơn nữa mỗi khi đồng sàng, chiếc mụn trên trán lại sưng tấy đỏ ửng, đau nhức như trăm ngàn mũi kim chọc thẳng vào não bộ khiến cho cuộc truy hoan cung không đuợc trọn vẹn hoàn mỹ. Đến độ trung tuần tháng mười thì căn bệnh phát ra nhiều biểu hiện kỳ dị với các triệu chứng lâm sàng đặc biệt lạ lùng, thí dụ cứ đêm ngủ là đồng tử con ngươi lại giãn rộng, hoặc sáng sớm ngủ dậy là lại cảm thấy buồn đi tiểu. Những triệu chứng như vậy khiến các bác si giỏi ở các bệnh viện lớn cung không thể nắm bắt đuợc nguyên nhân nguồn cơn của gốc bệnh chứ chưa nói gì đến việc chữa chạy. Như Liên vô cùng lo lắng, nhưng lần nào đua Sinh vào viện cung đều bị trả về gia đình nên nàng chẳng biết phải giải quyết thế nào.

Một đêm đầu canh ba, con bướm Phí Hoa Mai lại bay ra đòi giao hợp. Sinh rền ri cáo ốm. Hoa Mai không chịu, cứ thế khoả thân lên giường mà nằm. Sinh sợ nguy đến sức khoẻ, lấy tay ẩn nàng ra. Hoa Mai vừa thẹn vừa tức, bèn dùng móng tay mổ toang bụng dưới của Sinh, dễ dàng như ta dùng dao mổ trâu giết gà vậy, bao nhiêu lòng dạ tung ra hết. Hoa Mai chỉ vào đôi quả nhỏ màu trắng, dính vào nhánh dưới bên phải của hành tá tràng mà nói rằng: “Thứ hương lạ trên người chàng là do quả cật trắng này tiết ra, có gì là quí báu lãng mạn đâu mà phải tinh vi thế”, nói đoạn dứt đứt ném mạnh ra sân cho gà. Sinh đau quá hét toáng lên, choàng tỉnh giấc mộng, thấy phía dưới chăn đệm đã ướt sung rồi. Từ đấy bệnh tình càng ngày càng nguy kịch.

Tồn Như Liên vốn có tình cảm sâu đậm với Tuất Sinh nên không đành lòng thấy cảnh người yêu hấp hối đau đớn. Nhân nhớ về ông già coi bói chân cầu Cương Châu, một bữa cuối tháng chạp nàng bèn gọi xe ôm, đem lễ vật đến quì xuống mà cầu khẩn xin cứu giúp. Ông già cười nói lơi lả: “Nàng vẫn còn trẻ đẹp, lại đuờng đuờng là chủ một quán cơm bụi, việc gì phải hết lòng với một kẻ phàm phu tục tử, bạc tình bạc nghia như hắn?”. Như Liên cứ kiên nhẫn quì mà không chịu đứng lên. Một lát ông già lại hỏi: “Người đẹp có dám hôn ta chăng?”. Như Liên nhìn ông già tuy còn tráng khí minh mẫn nhưng nước da đã đến hồi nhăn nheo, mà lông miệng lại rậm rạp quá nên cung có ý ngại, chỉ hiềm nghi đến Sinh nên cố nén kinh tởm mà vươn cổ há miệng thơm ông già một cái. Lúc chạm vào môi ông già những tưởng toàn mùi thuốc lào bia rượu, nào ngờ chỉ thấy hương thơm LipIce toả ra ngào ngạt, lại thấy hai chiếc răng cửa của ông già bỗng nhiên mắc dính vào cổ họng mình, không làm sao nhổ ra đuợc. Ông già đuợc Như Liên thơm xong chẳng nói câu nào, phủi áo đứng dậy, cười ha hả để lộ khuôn miệng trống hai răng cửa rồi bỏ đi mất.

Như Liên cảm thấy vô cùng uất hận nhục nhã, chỉ mong sao chết đi cho rồi. Bèn chạy về nhà định tự tử thì thấy Sinh cung đang con hấp hối, tay đã bắt đầu bắt bươm bướm. Đồng thời lại thấy một con bươm bướm rất đẹp một cánh xanh một cánh đỏ cứ chập chờn bay trong giường, đuổi thế nào cung không đi, đánh thế nào cung không chết. Như Liên giận quá bèn quát lớn, bỗng nhiên cảm thấy hai chiếc răng của ông già trong cổ họng đuợc văng ra, bèn đua tay ra đỡ thì ra là một chiếc vợt bướm tuyệt đẹp, trên cán có đề ”Made in Hell”. Như Liên tiện tay vợt một cái, đã thấy con bướm xanh đỏ mắc ngay vào trong vợt. Con bướm giãy giụa cắn xé điên cuồng nhưng chiếc vợt như có ma lực nên nó không sao thoát đuợc. Như Liên đang định lấy búa tạ đập chết bướm, bỗng thấy ông già xem bói xuất hiện ngay trên bệ cửa sổ. Ông già liếc mắt đua tình, béo má Như Liên một cái rồi nói: “Con bướm này ngày xưa vốn ở trên trời, một bữa dám lẻn vào vườn cấm mà hút nhuỵ hoa mai nên bị đầy xuống trần làm kiếp người trong mười bẩy năm. Lẽ ra khi chết phải về trời để đuợc đầu thai chuyển kiếp, nhưng do trong thời gian sống dưới trần trót ham thích Internet, bản tính vốn lại là loài bướm ong ưa chuyện ******* dục nên vẫn cố nấn ná chui lủi trong mạng mà tròng ghẹo nam nhân. Thôi để ta thu phục đua về trời”. Nói đoạn rút trong túi ra một bao nhỏ trong suốt làm bằng cao su mỏng, quát to lên một tiếng, thấy có làn khói trắng từ chiếc vợt bay thẳng vào bao. Ông già thắt miệng bao lại, hôn gió Như Liên rồi quay người nhảy qua cửa sổ mà bỏ đi mất.

Lát sau Phạm Tuất Sinh chợt tỉnh lại, tựa hồ như vừa trải qua một cơn ác mộng, tâm thần ngơ ngác chẳng nhớ những chuyện đã xảy ra. Đuợc mấy hôm thì sức khoẻ phục hồi như cũ, chỉ hiềm thứ hương lạ không mùi từ mông Sinh không còn toả ra như trước đuợc nữa. Dầu vậy Như Liên vẫn còn yêu Sinh lắm, lại còn lấy làm yên tâm rằng từ nay Sinh không còn cuốn hút nữ nhân đuợc, bèn làm lễ cưới linh đình. Sau rồi chồng ra mở riêng quán Internet Cafe, vợ làm chủ quán cơm bụi, con cháu đầy nhà. Thật là khí độ của một đại gia vậy.

Sau khi ông già đi, bên trong chiếc vợt vẫn còn thân xác của con bướm kỳ lạ, một cánh xanh một cánh đỏ mà thân bướm trông giống hệt cơ thể thiếu nữ đuong thì với đầy đủ các bộ phận. Như Liên bèn đem ngâm fooc-môn làm tiêu bản rồi tặng lại cho ông Thái Kim Châm là một nhà côn trùng học có tiếng thời bấy giờ. Đến nay tiêu bản đặc biệt này vẫn còn đuợc trưng bày ở tầng 3, viện bảo tàng sinh học Paris.
583


Powered by Blogger.