Phóng viên phỏng vấn một giám đốc có tiếng trong giới kinh doanh:
- Xin ngài cho biết nguyên tắc nào quyết định sự thành công của ngài?
- Tôi thành đạt nhờ hai phương châm: trung tín và khôn ngoan. Trung tín là đã hứa làm gì thì bất kể trường hợp nào, dù phải phá sản đi nữa, cũng vẫn cứ làm.
- Thật là một tấm gương mẫu mực cho giới kinh doanh. Thế còn khôn ngoan là thế nào?
- Khôn ngoan thì đơn giản thôi: Đừng hứa bất kỳ điều gì hết.
2337




Có một người gặp một người đàn ông đi trên phố, bèn nói:

- Ồ, anh H. thân mến! Anh thay đổi nhiều quá! Trước kia, mặt anh lúc nào cũng hồng hào, bây giờ mặt anh xanh xao quá đấy. Hồi đó anh bạn béo tốt là thế, bây giờ anh lại gầy nhom, khác xa ngày xưa.

Người kia nói:

- Nhưng thưa ông, tôi không phải là H.

- Sao, anh thay đổi cả tên của mình nữa kia à?1997







Tôi nghe tiếng người nói chuyện lao xao bên tai, và loáng thoáng hình như ai đó nhắc đến tên tôi. Đầu nặng như bị đội ngàn cân đá tảng, cả người rã rượi, cái mỏi mệt dị kỳ, như người bị tê liệt đang cố nhấc từng phần thể xác để mong chúng hoạt động được.  Miệng khô, và đắng chát, cái chát đắng như bị hành hình  bắt ăn cả chục quả hồng còn xanh.  Cơn khát đến hành hạ tôi thật tàn nhẫn. Tôi thấy như môi mình mấp máy xin xỏ điều gì.  Tôi nhận thức được có bàn tay ai thật dịu dặt trên trán:


            _  You're doing just fine.  Everything go well. You will be happy about the result.


Hình như tiếng tôi van vỉ:


            _  I'm so thirsty, so thirsty.


Vẫn giong nói diu dàng đó, nhưng đã từ chối lời tôi, lý do không tốt nếu uống nước ngay sau khi mỗ sẽ bị ói.  Trong thần trí đang rã rời mỏi mệt đến bải hoải tôi cũng còn bắt được cái ước muốn là ráng chịu thêm vài chục phút, khi được đẩy về phòng riêng, tôi sẽ được nhấm nháp ít đá cục.


            Tôi mở mắt, nhưng hình ảnh chung quanh còn lờ mờ chưa rõ, những bóng nguờøi áo trắng , áo xanh di động nhẹ nhàng,, những tiếng nói nhỏ thì thầm như sợ làm đau bệnh nhân sau khi mổ.  Định thần, tôi cố tập chung ý nghĩ và t?p chung tầm nhìn, tôi thấy được mấy bệnh nhân khác nằm bên, cũng im lìm bất động như tôi.  Chiếc đồng hồ treo trên tường chỉ 12 giờ rưỡi .  Có lẽ khi người ta đẩy tôi ra đây thì khoảng sau 12 giờ.  Tôi còn nhớ rõ trước khi mê man tôi đã hỏi : “Cuộc giải phẫu này dài trong bao lâu?”


            _  Chỉ khoảng từ 2 đến 2 giờ rưỡi thôi.


Nhưng tôi đã phải vô nhà thương từ bảy giờ sáng, để qua bao thủ tục và chịu sự sợ hãi từ đó cho đến lúc mê man khi bị đẩy vào phòng mổ.   Cơn mệt mỏi tận cùng lại trở về làm tôi chìm vào giấc ngủ một cách khổ sở.  Lúc sau tôi lại tỉnh vì có chất mát gì ở môi, à thì ra trong giấc ngủ tôi cũng kêu van để xin mấy giọt nước.  Người ta đã cho tôi ngậm chiếc khăn ướt.  Suốt từ 12 giờ đêm qua đến nay, chưa giọt nước nào vào cổ, thật kinh hoàng vì cái khát đang cấu xé, đang bắt tôi ăn cả vạn quả hồng xanh chát trong miệng. Tôi vẫn muốn nhắm chặt mắt, người lúc mê lúc tỉnh.  Tuy nhiên tôi ý thức được rõ ràng là mình đã không thể "đi" luôn  khi ngủ.!!



 




 



                                    #########################         



 



            Tiếng chuyển bánh của chiếc giường được đẩy đi, có tiếng ai đó:


            _ Here  is your family.


Tôi mở mắt, chưa nhìn rõ được một ai, nhưng biết tất cả những người thân đang lao xao ở chung quanh.  Nghe được rõ tiếng chị Minh:


            _  A, nó tỉnh lại rồi. Mừng quá.


Có bàn tay nào nắm chặt tay tôi,  một cái xiết tay mạnh, làm tôi biết ngay của Thuấn.


            Khi tôi được chuyển sang cái giường của phòng mình, thì tôi đã thấy mình thật sự trở về với dương thế, nghĩa là không hoàn toàn có lúc tôi thấy mình lửng lơ ở tận đâu đâu, Chân tôi giờ đã "đặt đất".  Lời cầu xin của tôi đã được ứng nghiệm, tôi đãï trải qua một cuộc giải phẫu tốt đẹp.


            Từng hụm nước đá nhỏ đã như những giọt nước tiên làm tôi tỉnh táo dần và xua được những cái chát đắng của hồng xanh trong miệng.  Đã hơn hai giờ chiều,  nhìn bao người thân đang đứng vây quanh giường, ai cũng hốc hác, nhưng thấy tôi tỉnh táo, nụ cười thật tươi trên môi tất cả mọi người thân.  Tôi biết tất cả chưa ai ăn gì, kể từ lúc theo tôi vào đây, hẳn giờ ai cũng đói lắm. Dù còn yếu, nhưng t%
C31006




Sau khi xảy ra vụ đụng xe, nạn nhân ngồi dậy quát vào mặt kẻ gây tai họa cho mình:

- Này, anh đi đứng kiểu gì vậy, làm hỏng hết cả hàm răng giả của tôi rồi. Anh có biết tôi phải trả bao nhiêu tiền để có nó không?

- Được rồi, tôi nghĩ rằng mình có thể bồi thường cho anh đấy.

Nói xong, anh ta lôi ra một chiếc hộp đầy những hàm răng giả. Sau khi thử nhiều lần, anh chàng kia cũng tìm được một hàm răng vừa khít.

- Thật tuyệt vời! Làm thế nào mà anh có nhiều hàm răng giả vậy? Anh là nha sĩ hả?

- Ồ không, tôi chuyên đi bốc mộ.1941




Bốn mươi ba tuổi, đã nhiều năm là giảng sư khoa Mỹ Thuật tại một đại học không đến nỗi tệ trong thành phố có nhiều sắc dân Mễ, Việt, Tàu này - Gã có khuôn mặt cương nghị, tóc chải gọn gàng lấm tấm vài sợi bạc, cặp mắt xanh tinh quái ẩn sau cặp kiếng trắng, lúc nào cũng quần jean, áo sơ mi màu nhạt là bộ cánh ưa thích mỗi ngày . Với dáng vẻ cao ráo, đạo mạo và ít khi cười đã tạo cho gã một khoảng cách với các sinh viên ở trường, có lẽ vì vậy nhiều sinh viên ngại gặp sau giờ học để hỏi bài trong suốt khoá học chăng ? Gã cóc cần, lại thấy khoái vì có nhiều thời gian đóng cửa phòng làm việc để đọc sách và để ngủ .

Đến một hôm, đó là sáng thứ Hai, vừa có lớp xong, nhìn đồng hồ còn gần hai tiếng nữa mới có giờ dạy kế tiếp, gã về thẳng phòng làm việc ở gần cuối dãy hành lang, ngả lưng trên băng ghế dài ngủ một tí cho lại sức sau chuyến đi trượt tuyết thứ Bảy rồi . Bất chợt nghe có tiếng gõ cửa, hình như tiếng động từ phòng kế bên, vài phút trôi qua, tự dưng có linh cảm là lạ, gã mở choàng mắt thì cũng vừa bắt gặp một đôi mắt to đen đang nhìn mình chăm chú, gã buột miệng hỏi: "Cô là ai, muốn gì ?"


- Xin lỗi tôi thấy cửa khép hờ, đã gõ cửa mấy lần, đành mạo muội vào hỏi thầy một số câu hỏi cho bài thi sắp tới ....



Gã ngồi thẳng dậy, lơ đãng nhìn người con gái đang đứng trước mặt - dáng mảnh mai, tóc đen dài đến ngang lưng, cái giọng tiếng Anh không chuẩn có lẽ là dân mới định cư ở Mỹ không lâu, khó biết là người Việt hay Tàu ? Có một số dữ kiện mà gã nhớ đến ngay vì lớp đó không có nhiều sinh viên, cô ta lại rơi vào tình trạng cá biệt ở chỗ là cái buổi học đầu tiên khi gã tự giới thiệu về mình xong cho phép sinh viên muốn hỏi câu nào cũng được tuỳ ý thì cô ta cười lém lĩnh, chộp ngay câu hỏi: "Thầy bao nhiêu tuổi ?"



Tức cười nhưng gã làm mặt nghiêm trả lời: "Tôi 43 tuổi, còn thắc mắc gì nữa không ? Câu hỏi kế tiếp không liên quan về đời tư nữa, okie ?"



Ngoài chuyện đó ra, cô ta hay đi trễ, thường ngồi cuối lớp, hễ sau mỗi lần có giờ cho sinh viên coi slide shows xong, đèn bật sáng là y như rằng thấy cô ta đang mơ màng suy nghĩ chuyện chi ra chiều lung lắm, đến nỗi vài lần gã chỉ mặt hỏi mấy câu trong giáo trình thì chỉ toàn được nghe những câu trả lời chẳng đâu vào đâu cả!

Lúc này gã buông một câu lộ vẻ bực dọc: "Tôi thấy cô thường mơ màng trong lớp học, hay đi trễ, bây giờ gần cuối khoá học mới chịu chiếu cố đến hỏi bài tôi là sao vậy ?"
Nhìn cô ta đỏ mặt, lúng ta lúng túng như gà mắc đẻ, chẳng nói câu nào, gã chợt thấy tội nghiệp nên có phần nhẹ giọng xuống: "Cô coi kỹ lại mấy phần tôi hay nhấn mạnh trong giờ giảng ở lớp, ráng nhớ những hình slide shows tôi đã cho coi mấy tuần trước cộng thêm những cái tôi đã bỏ trên website, nếu có thời gian thì tham khảo thêm về The New York School, The Bauhaus and the New Typography và Postmodern Design" .
Chẳng dám hỏi gì thêm, cô ta lí nhí cám ơn rồi quay ra cửa . Gã nói với theo: "Gần hết khóa học rồi, ráng đừng đi trễ và đừng daydream nữa nhé ...." - Vọng lại là tiếng chân hấp tấp chạy xuống cầu thang làm gã tự dưng bật cười .
Mà thật, từ hôm đó vào lớp là đã thấy cô ta rồi, sau đó cô ta có gặp thêm một lần ngay sau giờ học để hỏi rằng có thể nộp research paper vào ngày thi cuối khoá không, gã đành ừ đại nhưng không quên đe sẽ trừ điểm vì bài bị nộp trễ . Cô ta gật đầu nhìn gã rồi điềm tĩnh quay đi, cái nhìn ấy tự dưng làm gã lạnh xương sống!

Mọi chuyện trôi qua không có gì đáng để ý, hết khoá gã có một tháng nghỉ ngơi trước khi bước vào muà sau, thế là gã dành hai tuần đầu bay sang Austin thăm Jane, một trong những cô bạn gái gã quen lâu nhất; Sau đó trở về lại San Jose rủ vài người bạn lái xe về hướng 101 North để chèo thuyền dọc theo bờ biển - cái thú này gã mê từ hồi học đại học, ngoài sở thích lái xe mô tô - Cứ thế gã tha hồ rong chơi cho hết một tháng .

Khoá học này cũng như bao mùa khác, gã vẫn cỡi chiếc mô tô đi dạy mỗi ngày . Sáng nay trời trở lạnh, gió thổi vù vù hai bên tai khi chạy ở freeway, gã giảm tốc độ khi rẽ vào đường số Mười; Đang ngừng ở ngã tư chờ đèn báo hiệu xanh trước khi quẹo vào bãi đậu xe, gã thấy ngay tấm bảng trạm xe buýt ở góc đường, bóng người con gái áo len tím, màu tím của những chiều thứ bảy nhắm mắt lặn sâu trong hồ tắm . Chính là cô nhỏ sinh viên khoá trước, vẫn mái tóc đen dài, với chiếc cặp trên tay và nụ cười của nàng; Tự dưng bao suy tư của gã bị sắc vụn ra - Con người của gã là một nổi loạn, thích mạo hiểm . Từ bao năm nay, gã sống một mình, không có đam mê và tin yêu để dành cho bất kỳ một người con gái nào . Quen và giao thiệp với nhiều người con gái, gã chưa bao giờ có ý nghĩ chinh phục ai để tiến đến tình yêu, chỉ chinh phục để chiến thắng, để ngự trị và để huỷ bỏ, đó là một vòng-tròn-lẩn-quẩn! Cái thái độ thoã mãn của một người nặng bụng nằm mơ thấy mình đi ngoài . Gã bất cần những khái niệm về lăng nhăng, phiền phức, bần tiện hay cao thượng vì những khái niệm ấy con người tạo ra nó và từ đó nó quay lại tạo ra con người - Sức mạnh gì? Ma lực gì những ngôn từ ? Nó chính là con đẻ của con người, vậy thôi!
Thế mà giờ đây gã thấy mình chịu thua và yếu đuối bởi đôi mắt hiền mà trong sáng vô cùng, như ánh sáng của những vì sao lạ làm gã chăn chiên ngẩn ngơ với sự chiêm ngưỡng ngon lành! Để rồi nguyên ngày hôm đó và những ngày kế tiếp gã thấy lòng bất an, bồn chồn chi lạ! Bao nhiêu lần gã tự nhủ rằng tại sao lại điên khùng, nghĩ vẩn vơ đến một đứa con gái quá trẻ so với gã, gốc Châu Á, lại từng là sinh viên cũ ? Biết rõ đó là điều không nên có giữa vai trò người thầy và sinh viên nhưng gã không thể nào không nghĩ đến nàng . Chẳng biết tìm nàng ở đâu giữa khuôn viên đại học rộng lớn thế này ?

Bỏ mấy buổi tối lao đầu vô những chồng sách vở, gã lục tung cái mớ hỗn độn đó tìm cho ra bản danh sách sinh viên khoá trước có kẹp chung với tên, số điện thoại và địa chỉ điện thư những người đã xin được ghi danh vào lớp, trong đó dĩ nhiên có tên nàng là Nha-An . Khi tìm thấy nó, gã mừng quá, liền bấm số điện thoại nhưng nửa chừng lại thôi vì viết email có lẽ hay hơn . Đắn đo mãi gã cũng gởi bức điện thư đi, với nội dung chỉ vỏn vẹn vài hàng: "Bây giờ nàng đang học lớp nào ? Mọi thứ vẫn ổn chứ ? Và nếu có rãnh, cứ tự nhiên ghé ngang văn phòng, đánh thức gã bất kỳ lúc nào trong giờ nghỉ trưa như lần nọ (sau câu này có kèm cái mặt cười như có ý chọc nàng).
Cuối cùng gã hỏi thẳng rằng có thể cho gã cái hẹn đi uống café với nàng một lần nào đó được không ?"

Thư gởi đi hơn một tuần mà chẳng thấy hồi âm, gã nôn nóng cứ ra vô mở hộp thư một ngày mấy bận . Có lẽ nàng ngại chăng ? Hay là gã khó ưa lắm lắm ? Cái ngày nhìn thấy email của nàng nằm chễm chệ trong hộp thư, gã cười rạng rỡ hơn bao giờ hết, nhất là khi biết nàng cho gã cái hẹn chiều thứ Sáu tuần sau lúc 4 giờ ở quán café Nonós nằm ngay đường số Một cách trường không xa .
Thứ Sáu, gã diện bộ vó có vẻ trẻ trung một tí - quần jeans và áo sơ mi ngắn tay màu vàng, khoác thêm cái áo da bên ngoài . Dựng chiếc mô tô trước cửa quán café xong rồi bước vào ngồi đợi .
Sắp 4 giờ rồi đó, còn 10 phút nữa, chờ chút coi - thời gian chờ đợi như dài ra, ít khi nào gã đợi ai mà lại nôn nao như thế, làm như là mới bắt đầu hẹn hò người yêu thuở mới lớn vậy! Nàng không đến thì thế nào nhỉ ? 4 giờ đúng, trời không dưng đổ mưa phùn, ước gì gã đang dạo ngoài phố cùng nàng để biết đích thực rằng gã đang có những giây phút mộng mơ . Gã thả hồn lang thang đâu đó, rồi cho trí tưởng dừng lại trên một khuôn mặt, chỉ một khuôn mặt thôi! Nếu ai cũng được như vậy thì con người chưa đến nỗi chửi bới, hằn thù nhau nhỉ ?
Gã cười thầm vì ý nghĩ ngây ngô này, vừa lúc thấy nàng bước vào trong chiếc áo mưa hai màu trông dịu dàng làm sao! Hôm nay nàng có vẻ e dè, mắc cỡ nên cứ cố nhìn đi hướng khác, lẫn tránh ánh mắt gã. Suốt buổi nàng hầu như lắng nghe gã nói, nào là kể về chuyện dạy học, những kỷ niệm vui lúc đại học, về những lần đi chèo thuyền ... Nàng chỉ thỉnh thoảng trả lời khi được hỏi đến gia đình, về quê hương nằm bên kia bờ Thái Bình Dương, nghành đang học và về ý nghĩa cái tên nàng (bây giờ mới biết tên tiếng Việt của nàng là Nhã An, tức là đem lại sự bình an) .
Khi bước ra khỏi quán café thì đã hơn 7 giờ, đưa nàng tới chỗ đậu xe, gã lặng thinh cho đến khi nàng gật đầu chào sắp bước vào xe, gã tiến tới một bước gần hơn rồi không kiềm chế được, gã nâng cằm nàng lên, nhìn thật lâu vào đôi mắt ấy và cúi xuống đặt nhẹ một nụ hôn trên má, không quên chúc nàng một đêm ngon giấc .
Sau lần đó, gã viết cho nàng nhiều điện thư nhưng chẳng nhận được hồi âm; Thỉnh thoảng gặp mặt trong sân trường nhưng nàng vội rẽ sang hướng khác, chắc nàng chẳng yêu thích chi gã nên lại càng muốn tránh xa hơn ? Lòng kiên nhẫn cũng có giới hạn, gã không viết nữa bởi liệu có ai hiểu một người như gã có lúc lại cần một tình yêu hơn một thân xác nhỉ ? Thôi thì hai ba tháng nữa, mọi chuyện sẽ đâu vào đấy, rồi tất cả sẽ còn là kỷ niệm!

*****
Cuối năm ấy gã và Jane đính hôn, họ dự định sẽ tổ chức đám cưới trong thời gian rất gần . Mùa học tới gã đã được nhận vào dạy ở một trường đại học ở Austin, Texas, nơi Jane đang sống, nên bây giờ gã chỉ còn một tuần ở San Jose  để chấm bài, cộng điểm cho sinh viên trước khi nộp cho trường, rồi trả nhà trọ và thu xếp hành lý lên đường .
Sáng hôm nay vào văn phòng, tranh thủ hoàn tất những việc cần làm cho đâu vào đó, dọn dẹp xong thì đã xế chiều, gã chưa về vội, cứ ngồi thừ ra đó, mắt lơ đãng nhìn xuống khoảng sân bên ngoài cửa sổ, xung quanh thật yên tĩnh vì hầu hết các sinh viên đã thi kỳ thi cuối khoá từ mấy hôm trước. Gã tự hỏi không biết Nhã An đã đọc được bức điện thư chào giã biệt gã gởi hai đêm trước chưa ? Nàng có buồn khi hay tin gã sẽ rời bỏ nơi này không nhỉ ?
Đột nhiên cửa phòng bật mở, Nhã An bước vội vào và khép cửa lại, khoé mắt ướt sũng, có lẽ đã khóc rất nhiều trên đường tới đây, không nói gì nàng xà ngay vào lòng gã rồi khóc lặng lẽ như đứa con nít . Tâm thần bấn loạn, gã không biết xử trí thế nào, chỉ biết úp mặt vào tóc nàng và ôm lấy bờ vai thanh mảnh, lòng chợt dâng lên một cảm xúc khó tả! Giọng thổn thức, nàng bảo rằng chính vì biết rõ Ba mẹ nàng sẽ không bao giờ chấp nhận cho nàng yêu và lấy một người khác chủng tộc, lại lớn hơn nàng đến hai mươi tuổi nên nàng đã cố tránh mặt, rằng đã đọc đi đọc lại những bức điện thư nhận được nhưng không dám trả lời; Nhưng bây giờ biết gã sắp đi xa, nàng lại sợ hãi vô cùng, sợ sẽ đánh mất người mà lâu nay trái tim thầm rung động từ nụ hôn đầu ấy!
Từng lời nói của nàng như thấm vào da thịt, làm gã xúc động mạnh, vội cúi hôn những giọt nước mắt trên mi, trên má nàng, rồi miết nhẹ lên bờ môi cong cớn đáng yêu, những nụ hôn kéo dài, kế tiếp nhau không dứt!

Gã đã hôn lấy những chiếc hôn nồng nàn từ môi mắt nàng, mơn man từ cổ xuống bờ vai rồi dụi đầu vào đôi vú căng tròn như đứa bé khát sữa đã lâu, gã cắn thật mạnh vào da thịt đầy mẫn cảm ấy và nghe khao khát bừng cháy ... Bỗng dưng gã đẩy nàng ra, hai chân khuỵu xuống, giọng tha thiết: "Ta cần phải cho nàng biết một điều rằng .... ta đã đính hôn với người khác rồi, đó là lý do tại sao phải ra đi . Ngày trước chỉ vì lòng hiếu thắng và ý muốn chinh phục mà ta đã lôi kéo nhiều người con gái vào vùng nước mắt và vào những đêm khó ngủ; Nhưng bây giờ lại khác - Nhã An ơi, ta không muốn là một kẻ bần tiện đối với nàng vì ta biết những nụ hôn ban đầu tuy vụng dại nhưng cái dư vị của nó, nàng ơi cái dư vị của nó sẽ làm nàng thao thức và khổ suốt một đời! Thế nên ta thà đuổi nàng về để rồi giấu mặt trong xóm điếm, còn hơn là ..."
Lúc này đây gương mặt nàng trắng bệt, mắt không giấu được nét bàng hoàng, và hình như đang cố nén tiếng khóc sắp vỡ ra trong lồng ngực, hai bàn tay nàng xiết chặt vào nhau trông thật tội! Nàng chẳng thốt được một lời, trong khi gã cứ nửa quỳ nửa ngồi trên sàn nhà, tư thế giống kẻ tội đồ đang chờ đến giờ phút bị phán xét . Họ cứ im lặng như thế thật lâu cho đến khi bóng tối đổ xuống, nhẹ nhàng len qua cửa sổ và bao phủ lên hai cái bóng bất động trong phòng .
Giọng gã cất lên phá vỡ sự tĩnh lặng: "Hôm nay Nhã An có lái xe không ?"
Nàng lắc đầu thật nhẹ .
- Thôi để ta đưa nàng về .
Nàng ngoan ngoãn đứng dậy bước theo gã xuống hành lang dẫn ra chỗ đậu xe . Gã từ tốn đeo nón bảo hộ cho nàng, dặn dò phải vịn gã thật chặt kẻo té rồi mới rồ máy chiếc mô tô và phóng ra xa lộ . Những cơn gió chớm đông làm nàng rùng mình, gã kéo nàng gần lại như muốn truyền hơi ấm sang; Nàng cảm nhận cái hơi hướm của gã mới đáng yêu và quyến rũ làm sao! Rồi liên tưởng đến những ngày tháng sau này sẽ không còn gặp nhau nữa, nàng thấy trân quý từng thời khắc đang trôi qua, thầm mong đường về nhà cứ xa, xa mãi ...

Mấy đêm liên tiếp gã không tài nào chợp mắt bởi biết bao suy tư và hình bóng nàng cứ quẩn quanh đâu đó trong đầu - Phải sống làm sao trong những ngày tháng trước mắt khi cuộc đời gã đã lệ thuộc vào một mối hôn nhân với một người con gái khác ? Ra đi hay ở lại thì đàng nào cũng khó xử, đơn giản vì công việc và chỗ ở đã sẵn sàng ở bên ấy nhưng phải đánh đổi bằng sự chia ly với nàng, còn nếu ở lại thì phải nộp đơn xin việc lại từ đầu mà không chắc là sẽ có ngay trong cái thời buổi kinh tế bấp bênh như thế này! Và một điều quan trọng khác rằng liệu Nhã An có phải là tình yêu đích thực của đời gã ? Riêng với Nhã An, nàng có vượt qua được cái trở ngại lớn từ gia đình để đến với gã ???

Ngày lên đường gã cứ đi ra đi vô, nấn ná lại với hy vọng nàng sẽ đến vào phút chót; Cuối cùng không thể đợi được lâu hơn, gã lái chiếc xe truck thuê từ hôm trước, giờ đã được chất đầy những đồ đạc, chầm chậm rời khỏi chỗ trọ cũ hướng ra xa lộ . Gã nào biết được ở một góc khuất bên kia đường, Nhã An đang ngồi trong xe, nước mắt chan hoà, lặng lẽ chào tạm biệt, lá thư trong tay nàng nhưng sẽ chẳng bao giờ đến được tay người nhận - Lá thư được viết bằng nét chữ nắn nót màu mực tím:

Yêu dấu của em,
Em tin một điều và cố gắng sống với điều ấy: "Dream as if you will live forever, Live as if you will die tomorrow" - Chính điều này đã dẫn dắt em đến với anh, với tình yêu và thế giới của anh, một người đàn ông ngạo mạn, bản chất là một người dám yêu dám sống một cách cuồng nhiệt! Anh có tất cả những sự bất toàn của thế gian trong con người anh; Anh cũng có những đam mê, có những khao khát yêu đương cháy bỏng. Chính những điều này nên khiến anh là một kẻ rất đáng yêu và cũng rất đáng ghét!
Tình yêu chúng mình đẹp thật và mong manh như những ngọn nến trong cơn bão, em chìm đắm và ngất ngây rồi lo sợ, rồi hốt hoảng trước những ngày mai không biết mình thuộc về đâu ? Nhưng dẫu sao em đã sống, đã yêu anh và vẫn giữ anh trong lòng em, vẫn suy nghĩ và nhớ nhung khắc khoải, vẫn tiếp tục tin vào một điều gì đó mà nó trở thành nỗi ám ảnh rất lớn trong em . Thế nên, dẫu có lựa chọn lại một lần nữa, em vẫn sẽ chọn yêu anh và không nghĩ đến ngày mai vì ngày mai, tương lai, hứa hẹn, tất cả với em mong manh quá! Còn tuổi xuân của em, rồi em sẽ làm gì với thời gian phiá trước nếu mình không đến với nhau được ? Em sẽ chọn cho mình một thái độ sống và một niềm tin, em sẽ sống trong tâm trạng tin vào phép lạ, phép lạ nào đó, còn không thì cũng đã quá đủ cho một cuộc đời của em .
Yêu dấu ạ, anh hãy tự chăm sóc mình nha .

Em,
Nhã An

Nàng đọc lại lá thư một lần nữa, vò nát rồi gục đầu thổn thức .

Mùa đông năm nay San Jose thật lạnh, và có lẽ lạnh hơn bao giờ hết vì đã thiếu vắng một người thương ...

201




Một trại chủ có 10 người làm công trong nông trại; bởi vì không có người nào năng nổ được như ông ta tưởng, ông bèn nảy ra một kế mà ông tin là sẽ trị cho họ bỏ tật lười biếng. Một hôm, ông bảo:

Các anh này, tôi có một việc dễ dàng, thoải mái chôngười nào lười biếng nhất nông trại này. Mời người nào lười nhất bước ra phía trước?

Ngay thứ khắc 9 người trong bọn cùng bước lên.

Tại sao anh không bước ra phía trước cùng những người khác.

Ông chủ trại hỏi người còn lại.

Người này đáp:

Mắc công quá.

2882




Một anh chàng chạy xe vượt đèn đỏ. Cảnh sát giao thông giữ lại và một mực bắt anh ta viết bản kiểm điểm.
- Báo cáo anh, em không biết chữ.
- Ai cũng viết được hết, tội của anh nặng đấy! Chàng nọ loay hoay một lúc rồi quyết định nộp một tờ giấy trắng kẹp 20 nghìn đồng. Anh cảnh sát hồ hởi:
- Thế mà bảo không biết chữ. Viết thế này là được gần một nửa rồi đấy!

2395




Anh chồng đi làm về, thấy vợ có vẻ lo lắng bèn hỏi:

- Em gặp chuyện gì buồn phiền à?

- Em buồn lắm, bởi vì lúc là quần áo, em sơ ý đã làm thủng một lỗ trên chiếc quần mới của anh.

- Đừng nghĩ ngợi nhiều em yêu! Chẳng lẽ em không nhớ anh còn một chiếc quần mới giống hệt chiếc ấy sao?

- Tất nhiên là em nhớ chứ. Thế nên mới có cái để vá vào chiếc quần thủng này chứ.
1348




Chiều rất nhạt, dáng riêng em rất đậm
Anh đứng nhìn quên lặng lẽ chiều phai
Có những chiếc lá vàng rơi thật vội
Chờ xuân về đỏng đảnh gọi sương mai
Em chậm rãi đi trong chiều thong thả
Ngày cuối năm mưa lất phất mùa xuân
Chiếc lá rụng sau lưng người quét lá
Em nhặt thầm tìm chút biếc cây xanh!

Em nhặt tìm hun hút gió heo may
Hoa vạn thọ rực vàng sân Thánh Thất
Con cu cườm gọi tết vọng bên sông
Hoa sứ nở trắng hiên chiều sắp tắt

Lá xuân thì lạnh phớt giọng sương non
Em lãng đãng hay là anh lẩm cẩm
Hỏi thăm đường tìm địa chỉ mùa hoa
Quên chiếc lá xuân chiều xanh sắc ẩm .

1507




Nhà tui không nuôi bò, chỉ có một bầy heo với một bầy trâu. Đứng trong nhà dòm ra thì chuồng trâu ở phía tay trái, chuồng heo ở phía tay mặt. Ở xứ này, mùa mưa là muỗi kêu như sáo thổi, trâu hay heo gì cũng phải giăng mùng cho nó ngủ.

Đầu canh năm, bà nhà kêu tui thức dậy, mở chuồng lùa trâu ra ruộng cày. Tui chỉ để ý một điều là lúc ngủ phải quay đầu vô vách để khi giật mình đứng lên, đi ngay ra mở chuồng trâu phía tay trái, rồi lùa đi.

Giống trâu ở nhà tui là giống trâu "phồn" rất to con và mạnh: vai ngang, bụng eo thắt, mông to... Hôm đó, hừng đông, tui lùa hai con trâu "phồn" ra ruộng, gách ách cày. Nhưng không hiểu sao hai con trâu hôm ấy chúng lại cày hăng quá, bước đi ào ào nhanh vô cùng. Khoảnh đất một mẫu tây, cặp trâu đã cày khoảng được gần một nửa thì mặt trời ló mọc. Cặp trâu bắt đầu đi chậm lại, tui cứ cầm cày, mặt ngó xuống đường cày, miệng la: "Ví! Thá!...", tay thì quất roi tới tới. Nhưng lạ đời, chẳng những hai con trâu không chịu nghe "ví, thá" gì mà miệng cứ thở hồng hộc, bước đi lệch bệch...

Cày thêm một lúc nữa, hai con nằm ì ra. Tui nổi giận đánh mỗi con một roi thật mạnh. Nó la một tiếc "éc". Đến chừng nhìn kỹ lại tui mới bật ngửa ra... Hồi khuya, vì vợ tui sửa lại cái chõng ngủ ngược đầu, trước khi đi ngủ tui quên để ý. Đến chừng nghe bả kêu, ba sờ ba sết bật dậy, tui cứ đi ngay ra mà mở chuồng phía tay trái như hằng bữa. Ai ngờ mở lộn nhằm chuồng heo.

879




Đón em vê` gå.p cơn mưa
Gió nghiêng vành nón nước lùa tóc xanh
Trách giọt mưa nỡ vô tình
Rơi vào giữa lúc chúng mình đón nhau
Mưa chiê`u chå?ng tránh vào đâu
Cơn mưa xô'i xả biê't bao giò+ ngù+ng
Ưó+t thì ta đã ưó+t chung
Bưó+c cao bưó+c thâ'p ta cùng nhau qua
Mưa chi mưa trå'ng bãi bò+
Hàng cây đang thå'm bô~ng lò+ mò+ xanh
Mưa rơi rơi khå'p chung quanh
Nghe xào xạc lá vå.n cành mà mưa
Nưó+c trôi chiê'c lá vâ.t vò+
Ưó+c gì mưa cũng biê't chù+a em ra
Mong trò+i gió tạnh mưa qua
Đê? tóc em lại bay xòa sang tôi
Nê'u còn mưa nữa mưa ơi
Có bao nhiêu giọt tìm tôi mà vàọ

1526




Lối Rẽ Khiêm Nhường


     Có rất nhiều lối rẽ trên đường đời, mà con người, khi đã đi đủ dài để ngoái lại, có thể không sao nhớ hết.

      Tết năm ấy trời rét đậm. Thằng Trình rủ tôi ra sông xem cá đớp mồi. Trường cấp hai của chúng tôi nằm trên bãi bồi của con sông Bùi. Cứ đến vụ rét là sông Bùi bé tí lại. Lũ trẻ con chạy qua chạy lại trên bãi sông hò hét mà người lớn cấm có để ý. Đôi ba năm lại có đứa sảy chân vào chỗ cát xoáy dưới lòng nước mà chết. Người lớn bảo nó đến số.

      Tôi mặc chiếc áo len màu đen, mẹ tôi chắp nối từ các loại len vụn rồi nối lại, rồi đem nhuộm đen. Mẹ ngồi đan trước Tết hai tháng là xong, Mùng một Tết, tôi có áo mới để diện. Tôi mặc đi ra sông theo thằng Trình. Nó nhìn tôi rồi nhìn xuống sông, nói câu bâng quơ:

      - Con gái chưa lớn đã thích màu đen.

      Thằng Trình mặc áo đại cán màu xanh công nhân của bố mới thải cho, chiếc quần tây cũng màu xanh công nhân. Nom nó giống người ở Công ty gang-thép. Nhưng nhà nó lại buôn gạo. Cả trường tôi, từ thầy cô giáo đến học sinh đều ghét bọn buôn gạo. Đó là giai cấp bóc lột, không thể sánh ngang tầm với nông dân và công nhân nông trường trồng cam của chúng tôi. Trong khi gạo phải phân phối từng cân từng lạng cho mỗi khẩu ăn theo đúng tiêu chuẩn quy định của Nhà nước thì gạo nhà thằng Trình luôn được cất giấu trong buồng. Đôi ba lần tôi ngồi ăn cơm nguội cùng nó. Cơm nguội mà vẫn thơm phức. Chỉ cần rưới vài muỗng tương là có thể đánh bay hết một bát sắt. Tôi ghét bọn buôn bán tư thương, nhưng lại thích chơi với thằng Trình. Vì sao tôi không biết.

      Nước sông năm ấy cạn lắm. Những chùm gai xấu hổ mọc lan cả xuống mép nước. Cá nhô lên đớp mồi đặc cả khúc sông. Trình đặt lưới xuống, thả thính chờ một lúc rồi vớt lên vô khối. Tôi cũng vớt được vài lưới đầy cá cơm với mấy con trắm cỏ đang lớn. Chúng tôi nổi lửa trên bờ sông nướng cá. Bữa tiệc kéo dài tới tận khi trời sập tối.

      Tôi nhìn lên bầu trời, ước:

      - Ước gì có một ông Bụt thật để tớ chôn những bộ xương cá này xuống cát.

      Thằng Trình cười:

      - Con gái hay nhỉ, chỉ thích quần áo đẹp. Không biết con trai cóc cần để ý quần áo.

      Tôi cãi:

      - Bọn tớ mặc quần áo là để cho mình, không phải để cho con trai nhìn.

      Thằng Trình rút cây đàn bầu tự chế nhỏ xíu giắt ở cặp quần ra gảy. Nó gảy bài “Trống cơm” nghe da diết lắm.

      “Tình bằng có cái trống cơm khen ai khéo vỗ ấy mới vông nên vông... Một bầy tang tình con xít. Nó mới lội sông, nó mới đi tìm...”.

      Khúc “Trống cơm” tự chế kéo lũ trẻ chăn trâu ngồi túm lại xung quanh. Những con trâu thiếu cỏ ngày Tết rống lên gầm gừ. Nhưng rồi tất thảy đều im lặng. Cả lũ trẻ. Cả dòng sông và lũ cá đớp mồi. Cả những ngọn gió rét thi thoảng ập tới thổi bùng ngọn lửa. Chỉ còn tiếng đàn tràn ngập bãi sông.

      Lớp thằng Trình mới có thêm một đứa con trai từ trường khác chuyển về, tên là Vũ. Bọn con gái lớp tôi tò mò nhìn. Nom Vũ thật đẹp trai, con trai gì mà da trắng mịn, lại cao dong dỏng, lại mặc cái áo bludông có mũ phía sau, ối đứa nông thôn với cả dân trồng cam ở nông trường chưa được nhìn thấy cái áo có mũ như thế này bao giờ. Lúc tan học, Vũ đứng chắn ở cổng trường hỏi mượn tôi quyển vở sử. Tôi lấy ngay cho nó mượn cảm thấy hãnh diện, lại cũng cảm thấy ngồ ngộ.

      Mấy hôm sau Vũ hỏi tôi:

      - Tôi muốn kết bạn với Tâm, được không?

      Tôi chưa thấy đứa con trai nào trịnh trọng như thế. Tôi vốn đi đâu cũng xếp nhất trường cả Toán và Văn. Vốn con nhà cán bộ cách mạng, đi đâu cũng được ưu tiên. Nhưng tôi không thích con trai trịnh trọng với mình.

      Tôi cười:

      - Anh biết làm gì?

      - Tôi biết hóa trang để đóng những vai Yến Thanh với Lý Sư Sư trong tích Thủy Hử.

      Tôi trố mắt ngạc nhiên:

      - Tớ không biết mặt mũi họ thế nào cả. Nhưng sắp tới tớ phải đóng vai chị Vân.

      Thầy Lợi dạy văn chúng tôi xấu trai lắm. Mắt thầy hơi hiếng, lại lem nhem. Miệng đã méo lại vẩu răng. Nhưng mà lúc giảng văn, chúng tôi như bị thầy bỏ bùa mê. Cả những đứa dốt đặc cán mai cũng ngẩn tò te ra nghe thầy thúc trống khua chiêng, nghe thầy xua mái chèo hay cày cấy bên dòng sông Bùi mênh mang đưa nước về biển. Biển Đông hiền hòa của đất Việt đã chôn vùi bao lũ xâm lăng, những áng văn thơ vi vút trên bầu trời hòa bình. Những khúc quân hành đưa bước chân người anh hùng ra trận...

      Lúc tan học, gặp Trình ngoài lối đi tắt sau trường, tôi bảo:

      - Tớ chưa bao giờ thấy có bài thơ nào ca ngợi người bán gạo.

      Thằng Trình ngạc nhiên nhìn tôi, sau thì đỏ mặt, môi mím chặt. Bấy giờ nó thốc tới túm chặt tóc tôi, túm chặt dần chặt dần. Rồi tay nó nới lỏng:

      - Tâm quên bài thơ “Quanh năm buôn bán ở mom sông...” à?

      Tôi không quên. Nhưng dẫu sao thì cả nước vẫn đang phải phân phối từng cân gạo. Còn nhà nó lại ăn lãi người khác, lại chẳng phải thiếu gạo bao giờ.

      Thầy Lợi chọn tôi đóng vai chị Vân trong vở “Nổi gió”. Chọn thằng Mạnh, to khỏe nhất lớp, đóng vai trung úy Phương. Còn thằng Trình có nét tây tây, được chọn đóng vai đại úy Đuyn-lơ. Thằng Mạnh chúa hay quên, nên cứ tập đi tập lại cái câu:

      - Chị Vân, chị Vân, đêm nay em sẽ đưa chị đi...

      Tôi buồn cười quá phá lên cười. Thầy Lợi hô:

      - Dừng lại! Cười như thế nhé.

      Tôi phải cười đi cười lại đoạn chị Vân giả điên cho đến khi thầy Lợi gật đầu. Thằng Trình ngồi gảy đàn bầu phục vụ đội văn nghệ lúc giải lao. Nó cũng đăng ký một tiết mục độc tấu đàn bầu vào đêm biểu diễn kỷ niệm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản. Vai đại úy Mỹ của nó dễ ợt, chỉ nói vài câu lơ lớ là xong. Nhưng suốt thời gian tập nó không thèm nhìn tôi như trước đây. Đôi mắt nó lảng tránh, là lạ mỗi khi tôi cố nhìn thân thiện.

      Đêm biểu diễn. Vũ hát “Tình ca”. Dĩ nhiên chúng tôi phải nhờ vào Vũ hóa trang.

      Thầy Lợi đứng ngoài gật gù:

      - Con bé này ra dáng lắm. Hợp vai lắm. Nhưng mà đôi mắt buồn thế kia, lớn lên rồi thì khổ.

      Tôi cười, tôi thích người ta bảo tôi lớn lên khổ. Tính tôi từ nhỏ đã quái đản thế. Không hiểu sao. Thầy Lợi nói thì tôi lại càng tin. Tôi tin lớn lên dù kiểu gì cũng vẫn khổ. Tôi chuẩn bị cho nỗi khổ ấy với niềm kiêu hãnh như người ta biết chắc mình sẽ bước xuống mồ. Và khiêm nhường bước trên lối đi dành cho mình. Nhưng để đến được lối đi khiêm nhường đó, con người ta phải trả giá, thậm chí cái giá đắt đến khôn lường.

      Lúc Vũ hát bài “Tình ca”, tôi quên hẳn “Trống cơm” của Trình. Cô Dung thì thào với mấy thầy cô đứng cạnh:

      - Ai duyệt cho hát bài này thế? Ướt át quá. Lớn quá.

      Thầy Lợi bênh:

      - Bài này vừa tình cảm, vừa hùng tráng. Khuyến khích thanh niên lắm.

      Chúng tôi vẫn là trẻ con. Nhưng sắp đủ tuổi vào Đoàn. Thầy Lợi chỉ được vào Đoàn rồi hết. Nghĩa là thầy không được vào Đảng. Thầy lấy vợ là con địa chủ. Nghe nói cô ấy rất đẹp, nhưng vì là con địa chủ nên không ai dám lấy, đành lấy thầy giáo nghèo, lại toét mắt. Chỉ có lũ trẻ con chúng tôi biết thầy tinh tướng lắm. Được làm vợ thầy, coi như cô ấy đã được đi trên lối đi khiêm nhường của cuộc đời. Nhưng ở trường lúc nào người ta cũng xếp thầy vào hàng những người mù mờ ý thức giai cấp...

      Tôi không còn mày tao với thằng Trình. Không về nhà Trình ăn cơm nguội rưới tương. Cũng không còn cùng nó ra sông kiếm cá hay ngắm mặt trời lặn. Tôi cảm nhận làn da của mình đang bừng lên dưới nắng mới. Tôi biện hộ cho mình.

      Một hôm trong ngăn bàn học của tôi bỗng xuất hiện một lá thư. Tôi hoa mắt khi nhìn những dòng chữ quen thuộc nhảy múa trước mắt: “Tâm ơi, trái tim còn đập, anh còn yêu em”.

      Cái Thanh chồm lên giật tờ giấy đáng thương:

      - Chết nhé. Thư tình chúng mày ơi...

      - Cái gì vậy? Lũ con gái ngốc nghếch ùa tới.

      - Thư của thằng nào gửi cho cái Tâm. Cái gì thế này? “Tâm ơi trái tim còn đập, anh còn yêu em”. Eo ôi!

      Cái thời chiến tranh bom đạn, chỉ cần nói chữ “yêu” thôi người ta đã không dám, huống chi những đứa trẻ mới mười hai, mười ba như chúng tôi. Một cái nhìn như là sự phạm tội xấu xa. Lòng kiêu hãnh, mong muốn bảo vệ danh dự trỗi lên như thứ ung nhọt thường nhấn sâu con người vào nỗi hoảng sợ. Cha tôi là một sĩ quan cao cấp. Mẹ tôi là bác sĩ được cả vùng yêu quý. Tôi luôn là tấm gương mà mọi người trong vùng thường lấy ra răn dạy con cái vậy mà lại có “thư tình” sao? Mà lại là của ai cơ chứ. Gia đình ấy...

      Tôi giằng lấy tờ giấy, chạy vụt lên văn phòng nhà trường, nước mắt chảy ra giàn giụa. Các thầy cô giáo chuyền tay nhau mẩu giấy, cùng nhăn mặt phẫn nộ:

      - Ghê gớm quá. Mới tí tuổi đầu. Đứa nào thế nhỉ?

      Thầy Lợi đang soạn bài ở góc phòng, nhìn mẩu giấy rồi nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt của cô học trò cưng. Nước mắt của tôi hay sự nhu nhược của thầy đã phạm sai lầm?

      Chính thầy! Dù bây giờ thầy còn sống hay đã chết, tôi cũng xin dâng thầy lời phán xét duy nhất của tôi trong toàn bộ đoạn đường khiêm nhường để bước xuống mồ của thầy. Dù tôi biết thầy chỉ vì quá yêu quý tôi.

      Thầy Lợi ra lệnh thu vở của tất cả con trai khối 7 để dò chữ. Chẳng mấy chốc, kẻ phạm tội đã bị gọi lên gặp thầy hiệu trưởng. Cả trường xôn xao về việc thằng “con buôn” dám tỏ tình nhăng nhít với con gái một sĩ quan đang quên mình ở chiến trường. Vũ đến gần tôi, nhắc khẽ khàng:

      - Tâm đừng để bọn con trai đến gần. Chúng nó dễ nhờn lắm.

      Tôi nhìn Vũ, thấy ớn lạnh.

      Sau đó mấy hôm thì không thấy Trình đi học. Trình bỏ học lặng lẽ như dòng nước sông Bùi chảy về biển. Tôi muốn đến nhà để tìm, nhưng tôi đã lớn để hiểu rằng, mình không còn tư cách để nhìn thẳng vào mắt Trình.

      Chiến dịch Hồ Chí Minh mở ra đúng vào lúc chúng tôi đang học kỳ hai lớp mười. Từng đoàn quân mặt trẻ măng lên đường ra trận. Có một đoàn quân đi qua lớp học, cùng chững lại rồi gọi vọng vào lớp:

      - Tâm ơi! Trình muốn chào em.

      - Tâm ơi!

      Lớp học đang im phắc bỗng sôi cả lên, rồi nhào cả ra mấy cửa sổ. Cô giáo dạy sử cũng nhào ra. Chỉ có mình tôi không dám nhúc nhích khỏi chỗ của mình. Cô sử gọi:

      - Tâm ơi, ra chào các bạn kìa!

      Tôi khẽ vươn người ra cửa sổ. Tôi không nhìn thấy Trình đâu trong đoàn người đang bừng sôi nhiệt huyết. Nhưng tôi nghe rõ tiếng của Trình giữa cái không khí sôi động đó:

      - Tâm ơi, Trình đây! Chào Tâm nhé! Học giỏi để sau này thành cô giáo.

      Tiếng của Trình chìm trong tiếng nói cười vô tư của đồng đội. Có ai đó dõng dạc:

      - Tâm ơi quả đất xoay tròn. Trái tim còn đập anh còn yêu em.

      - Các em ơi, ở lại học nhé. Bọn anh đi đây!

      - Chúc chiến thắng trở về!...

      Tôi không biết về sau Trình có trở về khi chiến tranh kết thúc? Vùng quê có con sông Bùi chỉ là nơi mẹ tôi về công tác mấy năm.

      Tôi cũng không biết thầy Lợi sướng khổ ra sao? Có mệt mỏi trên con đường gập ghềnh đời thầy đã chọn?

      Vũ theo tôi một thời gian thì mệt, đành bỏ. Tôi vẫn gặp anh hàng tuần trên một trang báo lớn. Nhưng chưa một lần anh đưa tay ra giúp tôi khi tôi gặp trắc trở trong cuộc sống riêng. Chưa lần nào, dù chỉ một đồng xu cầu may.

      Bây giờ hễ có ai gảy đàn bài “Trống cơm” là tôi dừng xe lại bằng được để nghe trọn câu cuối cùng.

      “... Tình bằng tang tình con xít. Nó mới lội sông. Nó mới đi tìm. Em nhớ thương ai. Duyên nợ khách tang bồng”.

      Nhưng tiếng đàn bầu trong thành phố nghe sao lạc lõng. Mà cũng chẳng có ai chơi đàn bầu bên sông, dưới bầu trời đêm như cái đêm mùng một Tết năm ấy.

      Bây giờ tôi kể chuyện này cho người con trai tôi yêu. Không phải tôi vương vấn gì người xưa. Mà để anh hiểu, là anh đã dự phần trong một phần ngàn con đường đi tìm lối rẽ khiêm nhường của tôi. Để đừng đánh mất tôi.



Tác Giả: Võ Thị Xuân Hà

92




 - Tôi đi rồi - người phụ nữ nói với người giúp việc mới - đừng quên cho bọn trẻ ngủ lúc 9 giờ.

Khi về nhà, người chủ hỏi người giúp việc xem chị ta cho lũ trẻ ngủ ra sao.

- Rất tốt, thưa bà, tất cả bọn trẻ đều ngủ. Người giúp việc trả lời. - Chỉ trừ thằng lớn nhà chị, cái thằng mặt đỏ hung hung là không chịu nghe lời. Nó cứ chống cự lại tôi thế này này!

- Mặt đỏ hung hung - Bà chủ kêu lên - Trời ơi! Đấy là chồng tôi!

890




Tháng tư trải vàng hoa nắng
Có con bướm trắng đi về
Chập chờn hai tà áo lụa
Dịu dàng sang cả ngày rơi

Tháng tư cây gòn trĩu trái
Thả bông bay trắng con đường
Có người về qua nghiêng nón
Có người lòng những tơ vương

Tháng tư trải dài mộng ước
Vẽ trên trang giấy học trò
Nồng thơm chút tình sông nước
Ơi người có hiểu giùm cho ?821








Một ông khách gọi điện thoại đặt mua một vòng hoa phúng đám tang với hàng chữ như sau: "Hãy yên nghỉ, sẽ gặp nhau".


Một lát sau, ông ta lại gọi điện thoại cho chủ tiệm hoa và dặn thêm:

- Làm ơn viết thêm chữ "trên trời" nếu còn chỗ.

Ngày hôm sau, ông khách nhận được vòng hoa và đọc thấy hàng chữ sau: "Hãy yên nghĩ, sẽ gặp nhau trên trời, nếu còn chỗ".







1253




Một người phụ nữ tức giận xông vào văn phòng một bệnh viện tư nhân, quát tháo ầm ĩ. Bác sĩ trực ban nhã nhặn hỏi cô xem có chuyện gì và cô đập bàn quát.

- Có ai đó đã đánh cắp bộ tóc giả của tôi trong khi tôi đang phẫu thuật mắt ở đây ngày hôm qua.

Bác sĩ kéo người phụ nữ ngồi xuống và giải thích:

- Tôi chắc chắn với cô là không ai trong kíp mổ của tôi lại làm một việc như thế. Điều gì đã làm cô nghĩ nó bị lấy cắp ở đây?

- Sau ca mổ, tôi thấy mình đang đội trên đầu bộ tóc giả rẻ tiền và thật xấu xí.

- Tôi nghĩ... - Bác sĩ tiếp tục ôn tồn nói. - Điều đó có nghĩa là ca mổ cho cô đã thành công!1918




Trong một vụ đắm tàu, 10 người đàn ông và một cô gái bám vào sợi dây ròng xuống từ một chiếc máy bay trực thăng cứu hộ. Tổ lái thông báo, một người phải buông tay, nếu không sợi dây sẽ đứt và tất cả sẽ chết. Ai sẽ là vật tế thần đây? Cuối cùng, cô gái kể cho cánh đàn ông nghe một câu chuyện thật cảm động về sự hy sinh. Cô kết luận rằng mình sẵn sàng hiến dâng cuộc sống để cứu họ, rồi hô to:
- Hy sinh cao đẹp là bất tử! Cô gái chưa dứt lời, cả đám đàn ông đều... vỗ tay!
1781




Đang mùa phát đất, mà nước đầy ắp cánh đồng. Cái năm gì thiệt kỳ cục! Nước Sông Đốc màu ngà dâng lên, nước U Minh đen cuộn tràn xuống. Gió nam thổi hù hù. Trên ruộng mà sóng bủa ba đào. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ dựa, trôi tấp vào các ngọn cây đeo có đùm. Nước U Minh đỏ thẫm như nước trà, chảy ngập tới đâu thì cây cỏ èo ọp tới đó. Lợi dụng lúc này phát đất là tốt nhất.

Bữa đó tui vác phản ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phản. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thang gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mặt nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phản. Mài "nước lớn", tui lại mài "nước ngót" rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo. Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên:

- Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ vậy kìa! Quái lạ ! Tại sao lại ở ngay hè nhà mình?

Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như chiêm bao, tui không tài nào hiểu được. Cuối cùng tui phải cất tiếng kêu bả để hỏi sự tình. Chẳng ngờ bả chạy ra, ngẩng lên, vụt la oi ói :

- Bớ người ta ơi! Làm ơn cứu chồng tui!

Tui bật cười hỏi :

- Bộ bà điên rồi hả ?

Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc:

- Ông ơi! Ông phóng xuống đây, chạy lại đây, mau đi!

Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phản lên vai, bước xuống mô đất đi lại bên vợ tui. Bả nắm vai tui xoay ngược lại:

- Ông ngó trở lại coi, kìa !

Tui nhìn lại cái mô đất mình mới vừa bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi! Con rùa! Con rùa vàng lớn quá trời! Té ra tui ngồi mài phản trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà hỏng hay.1201




Xưa có một đoàn ca kịch vừa đi du lịch khắp nơi, vừa kiếm ăn bằng lối diễn tuồng. Trong các vở tuồng, đặc sắc nhất là vở tuồng "Quỉ La Sát" vừa rùng rợn lại vừa thích thú.

Chiều hôm nọ, đóng tuồng Quỉ La Sát hay quá rất được công chúng hoan nghênh. Ðóng xong đoàn ca kịch thu xếp đồ đạc để qua tỉnh khác. Có kẻ vì quá yêu chuộng, nài cầu ở lại bằng cách dọa dẫm: "Các ông ở lại đây sáng rồi hãy đi. Bây giờ đã chiều mà phải đi qua một cánh rừng rậm, trong rừng nhiều Quỷ La Sát lắm, nhất là lỡ ra đêm xuống mà chưa ra khỏi rừng". Mấy chàng kịch sĩ cười phì: "Chúng tôi đây vốn đã là Quỉ La Sát, còn sợ La Sát nào nữa!". Thế rồi cả bọn đồng sửa soạn cất bước vượt rừng. Nhưng chưa ra khỏi rừng thì trời đã tối hẳn. Cả bọn đồng ý nghỉ lại trong rừng, mai sáng họ sẽ đi. Họ đi bẻ cành khô, hốt lá về đốt lửa lên, rồi trải tạm những tấm màn phông để ngủ, cắt phiên ngồi canh lửa, rồi thì vì mệt mỏi đồng lăn ra mê mết.

Nửa đêm độ vào canh một, sương xuống nhiều quá, trời lạnh chành gác lửa run lẩy bẩy, bèn mở rương lấy tạm một bộ đồ diễn kịch khoác vào người rồi ngồi gật gù bên đống lửa hồng. Bộ đồ kia lại là bộ đồ Quỉ La Sát.  Có tiếng chim kêu, một người nằm ngũ vụt thức, ngoái cổ lên nhìn xem lửa còn cháy và người bạn canh lửa còn đó không. Nhưng kinh sợ biết bao! Người bạn canh lửa đâu chả thấy, chỉ thấy có một con Quỉ La Sát ngồi gật gù bên đống lửa. Lông gáy dựng ngược, hoảng lên, anh chàng chồm dậy vừa chạy vừa la: "Quỉ La Sát! Quỉ La Sát". Bọn người thức dậy mắt nhắm mắt mở, nghe kêu tưởng là có quỷ thực, cũng la lên và bỏ chạy theo người trước không kịp suy nghĩ. Anh chàng gác lửa thiu thiu, nghe tiếng kêu tỉnh dậy, thấy bọn kia chạy hết thì cũng tưởng rằng có quỷ thực, bèn vội vàng mang cả bộ áo La Sát mà chạy theo. Bọn trước chạy được một khoảng khá xa ngoái lui trông thấy "hắn" theo sau, càng sợ, càng chạy, anh chàng gác lửa thấy bọn trước chạy vùn vụt như tên thì tưởng đâu quỉ đã kề sau lưng mình rồi, nên lại cố gắng đuổi. Bọn trước thấy "hắn" đuổi gấp, lại càng hoảng hốt cứ thế chạy cho đến mệt nhoài, đuối sức, trầy da chảy máu, cuối cùng hết hơi nằm lăn ra, đến khi biết rõ, tất cả đều bị thương, đau đớn khắp mình...

Con người vì thành kiến sai lạc, vì vô minh che lấp nên đua nhau chạy theo ảo tưởng trần gian và mua chuốc lấy bao nhiêu là đau đớn khổ nhục.


Hết
483




Hai bạn gặp nhau ngoài phố, một anh mời anh kia:

Mời anh dùng cơm với tôi tối nay nhé!

Anh kia nói:

Tiếc quá! đêm nay nhạc sĩ Phong Ba trình diễn một buổi tối hòa tấu đặc biệt.

Bạn anh hỏi:

Anh được mời đi dự?

Anh kia đáp:

Không. Tôi có biết quái gì âm nhạc với văn nghệ. Tôi đi đớp và nhót với vợ nhạc sĩ chứ!

2850




Quan toà:

Anh thấy người nào có vẻ khả nghi trong vùng không?

Cảnh sát viên:

Thưa ngài, tôi có thấy một người. Tôi hỏi hắn làm gì vào giờ khuya khoắt này thì hắn trả lời rằng hiện hắn chưa làm gì cả nhưng hắn có ý định mần một mẻ trong tiệm kim hoàn quanh đây.

Quan toà:

Đúng vậy, chính hắn đã bẻ khoá hiệu "VÀNG RỒNG" và ăn cắp mười đôi bông tai.

Cảnh sát viên:

Thưa ngài, có lẽ hắn là thằng ăn trộm, nhưng hắn không phải là kẻ nói láo.


2893




Anh chàng này có chút ít chữ nho, nhưng phải cái tính rất keo kiệt, quanh năm suốt tháng anh ta chỉ có ăn của người ta chứ không chịu đãi ai, và nếu anh ta có phải bao ai một bữa nào, thì hôm ấy cũng kể như trời sập đổ xuống nhà anh ta. Cho nên để tránh việc khách đến gặp bữa, hàng ngày anh ta phải dọn cơm ở trong buồng mà ăn, hễ có ai đến, anh ta lánh mặt cho dễ.

Một bữa nọ, một người bạn đến chơi, chẳng thấy ai ở nhà. Anh này lên tiếng mãi mà chẳng thấy ai thưa. Anh biết là anh ta đang ăn ở trong nhà, nhưng cố làm bộ giả vờ như không biết.

Bỗng anh bạn nhìn lên vách thấy nhà anh ta có treo hai câu liễn:

"Tửu trung bất ngữ chân quân tử

Tài thượng phân minh thị trượng phu".

Hai câu này có nghĩa là:

"Trong khi uống rượu mà không nói mới là người quân tử

Việc tiền bạc có phân minh mới là kẻ trượng phu".

Người bạn mới đọc:

"Tửu trung bất ngữ chân quân liễn

Tài thượng phân minh thị trượng thiên".

Nguyên vì chữ "Tử" với chữ "Liễn" hơi giống nhau chỉ khác ở một chỗ là "Tử" thì có ngang, còn "Liễn" thì không. Chữ "Thiên" và chữ "Phu" cũng hơi giống nhau, chữ "Phu" thì nhô đầu, còn chữ "Thiên" thì không.

Anh bạn cứ thế mà đọc đi đọc lại nghêu ngao mãi. Anh chủ nhà trong buồng đang ăn, thấy chướng tai quá, cho là một thằng dốt, mới bỏ đũa chạy ra:

Bộ mù hả, chữ "Phu" với chữ "Tử" ràng ràng như vậy, mà đọc là "Thiên" với "Liễn".

Anh bạn trả lời:

Đâu có phải, vì từ nãy đến giờ nó cứ "Cắm cổ xuống" mà không "Thò đầu ra" nên mới đọc là:

"Tửu trung bất ngữ chân quân liễn

Tài thượng phân minh thị trượng thiên".

Còn bây giờ nó đã ló ra và đã thò đầu, thì lại đọc là "Phu" và là "Tử" có sao?

Nghe nói vậy anh chàng keo kiệt nọ mới biết bị đả kích, nên anh ta cứ cúi gầm mặt xuống.


2760




Trận chung kết giải nhi đồng, một cầu thủ "nhí" nhất định không chịu vào sân vì quên không mang tất chân. Huấn luyện viên hỏi:
- Tại sao em lại cứ phải có tất mới chịu đá bóng?
- Vì em hay nghe bố nói với các chú: "Các cậu cẩn thận đấy! Có chơi thì phải đi tất đàng hoàng. Thời buổi này mà cứ đá chân không là dễ bị dính SIDA lắm".
1761





     Thứ sáu, ngày 3 tháng 3 năm 1944. Đồng hồ trên tường chỉ gần 12 giờ khuya. Angelo Caponegro bồn chồn đứng ngồi không yên. Từ ba tháng nay, anh được bổ nhiệm làm trưởng ga tàu hỏa Balvano nằm giữa Naples và Rome. Vài tuần qua, anh bù đầu với công việc...

      Nước Ý đang trải qua thời kỳ hết sức đen tối. Từ mặt trận phía Nam, quân đồng minh đang tiến dần lên phía Bắc với những trận đánh nảy lửa. Được sự hỗ trợ của quân phát xít Đức, miền Bắc nước Ý vẫn nằm trong tay nhà độc tài Mussolini. Những tháng đầu năm 1944, nước Ý bị chia cắt manh mún, oằn oại trong cuộc chiến tàn khốc.

      Như các trưởng ga ở những vùng có chiến tranh, Angelo Caponegro làm việc dưới áp lực và tinh thần trách nhiệm cao. Bằng mọi cách phải bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu chở dân tị nạn ra khỏi vùng giao chiến mà không bị phi cơ Đức oanh tạc. Qua khung cửa kính, Angelo thấy khoảng trên chục hành khách đang chờ đi chuyến tàu số hiệu 8017 sẽ đến ga Balvano lúc 0 giờ 10 phút. Angelo đang trông chờ tàu đến. Đây là chuyến tàu cuối cùng trong ngày.

      Tiếng còi hú một hồi dài trong đêm vắng. Angelo bước ra sân ga. Chuyến tàu mang số hiệu 8017 mà trạm cuối là Rome đang chạy vào ga, nhả ra phía sau một vệt khói dài, đen kịt. Tàu giảm dần tốc độ rồi dừng hẳn giữa sân ga. Khách chờ bước vội lên tàu. Hầu như mọi hành khách trên tàu đều mệt mỏi ngủ gà ngủ gật. Tất cả đều đi đến ga cuối: Rome.

      Angelo đi lên phía đầu tàu để trao đổi với lái tàu. Do nguồn dân tị nạn tăng đột biến nên phải nối thêm 5 toa tàu và tăng cường thêm một đầu kéo... Angelo hỏi lái tàu:

      - Mọi việc êm xuôi chứ?

      Người nhễ nhại mồ hôi, lái tàu nghiêng mình ra ngoài cửa sổ đáp:

      - Đến đây thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng sắp tới sẽ khó khăn đấy. Qua ga Balvano tàu phải leo dốc đèo. Phải dự trữ đủ lượng than cho đầu kéo.

      Angelo trấn an lái tàu:

      - Tôi sẽ cung cấp đủ than cho hai đầu kéo.

      Than được chuyển ngay lên tàu. Trong lúc đó nguyên đoàn tàu dài nằm im: Tất cả hành khách đều ngủ vì mệt sau những ngày dài phải đối phó với hiểm họa chiến tranh...

      Việc tiếp tế nhiên liệu cho tàu mất hết 40 phút. Lúc 0 giờ 50 con tàu sẵn sàng chuyển bánh. Sau hồi còi dài, con tàu rùng mình chuyển động. Angelo đứng nhìn theo cho đến khi hai bóng đèn đỏ nơi đuôi tàu mất hút trong màn đêm. Anh quay vào phòng làm việc sắp xếp lại sổ sách và ngồi chờ cú điện thoại của Luigi, trưởng ga kế tiếp, thông báo chuyến tàu 8017 đến ga an toàn, trước khi lên giường ngủ. Đoạn đường từ Balvano đến ga Bella Muro dài khoảng trên 20 km. Thông thường tàu chỉ mất 15 phút hoặc tối đa là 20 phút nếu có tăng cường thêm toa.

      Dưới ánh sáng mờ tỏa ra từ bóng đèn trong phòng, Angelo bật lửa châm một điếu thuốc, mắt lim dim mơ tưởng sắp được ngả lưng đánh một giấc sau ngày làm việc căng thẳng. Anh mơ về ngày chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại trên đất nước... 1 giờ 5 phút. Giờ này chuyến tàu 8017 phải đến ga Bella Muro. Angelo nhìn vào chiếc điện thoại móc trên tường, bồn chồn chờ tiếng chuông reo và giọng nói quen thuộc của Luigi thông báo tàu đến nơi... Nhưng chiếc điện thoại vẫn im thin thít. Anh châm điếu thuốc thứ hai. Đồng hồ chỉ 1 giờ 25. Ba mươi lăm phút đã trôi qua từ khi tàu xuất ga. Bỗng chuông điện thoại reo vang. Angelo nhấc máy và nhận ra ngay giọng nói của Luigi, trưởng ga Bella Muro. Nhưng sao hôm nay giọng nói của Luigi không bình thường mà pha lẫn bực dọc:

      - Chuyện gì xảy ra với tàu 8017 thế? Chán chết đi được khi phải dài cả cổ ngồi chờ, tớ buồn ngủ quá đi thôi!

      Đến lượt Angelo giật mình:

      - Cậu nói sao? Nó đã rời khỏi Balvano được hơn 40 phút rồi còn gì!

      Bất chợt Angelo tỉnh táo hẳn, sự mệt mỏi tan biến nhường chỗ cho cảm giác lo lắng pha lẫn tò mò. Phải chăng đấy là linh tính báo trước điều gì không may xảy đến với tàu 8017? Angelo cảm thấy có điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Hẳn là tàu 8017 không bị dội bom bởi anh không nghe tiếng phi cơ hay tiếng bom nổ. Không lý gì tàu 8017 lại không leo nổi dốc vì nó được tăng cường thêm một đầu kéo. Có thể tàu leo dốc hơi chậm nhưng lẽ ra nó phải tới Bella Muro từ lâu rồi chứ...

      Để quên bớt âu lo. Angelo xem lịch tàu đến và rời ga của ngày hôm sau. Nhưng càng đọc nỗi lo âu càng lớn dần. Những con số chỉ giờ tàu đến và đi không còn đúng theo lịch như trước đây nữa. Từ nhiều tuần qua, lịch tàu chạy chỉ mang tính tượng trưng. Chiến tranh là như thế. Tàu đến rồi đi bất cứ lúc nào có thể để tránh phi cơ Đức. Lắm khi các trưởng ga chỉ được thông báo giờ tàu đến và đi vào phút cuối...

      Hai giờ khuya. Chắc chắn là có chuyện trầm trọng xảy ra với tàu 8017. Angelo gọi cho Luigi nhiều lần nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời “Nó vẫn bặt vô âm tín”.

      Giờ thì Angelo không thể ngồi chờ được nữa. Anh quyết định gọi báo cho trạm sửa chữa đầu máy nắm tình hình và yêu cầu gởi ngay đến Balvano một toa đầu máy để cùng phối hợp đi khảo sát tuyến Balvano - Bella Muro. Đầu máy đến Balvano lúc 2 giờ 40 phút. Từ ga Bella Muro, Luigi cho biết vẫn chưa thấy bóng dáng tàu 8017!

      Đầu máy đi khảo sát di chuyển với tốc độ khá chậm để đề phòng bất trắc... Tàu 8017 có thể đã trật đường ray... Trong tình huống tranh tối tranh sáng như thế này, cẩn thận là trên hết. Ở những cây số đầu tiên, không việc gì lạ ở hai bên vệ đường. Hai thanh ray của tuyến đường sắt chạy song song, thẳng tắp. Toa đầu máy đến đường hầm đầu tiên. Angelo bỗng hét to:

      - Dừng ngay!

      Tàu 8017 đang nằm bất động ở phía trước. Con tàu đã vào trong đường hầm, chỉ toa cuối cùng là còn nằm bên ngoài. Angelo và lái tàu nhảy vội xuống đất. Họ chạy đến tàu 8017. Đèn trong các toa tàu vẫn chiếu sáng nhưng tuyệt đối không nghe thấy một âm thanh hay tiếng động nào. Cả hai đầu máy kéo đều bặt tiếng. Sự im lặng đến rợn người ngự trị cả không gian tĩnh mịch của đêm tối. Tay cầm đèn, Angelo bước tới toa cuối của đoàn tàu. Trong ánh sáng mờ mờ, anh nhận ra vài bóng người trên đường ray. Anh rọi đèn vào... và khựng lại. Trước mắt anh là một phụ nữ gương mặt thất thần, bên cạnh là một cậu bé. Xa hơn một tí là hai ngươi đàn ông vẻ lừ đừ, mệt mỏi... Điều làm cho Angelo kinh ngạc là tóc người phụ nữ có màu xám trong khi gương mặt cô ta hãy còn trẻ, chỉ độ trên 20 tuổi. Cậu bé khoảng 6 - 7 tuổi nhưng mái tóc cũng phủ một màu xám! Angelo cất giọng hỏi:

      - Chuyện gì đã xảy ra thế này?

      Câu trả lời là tiếng khóc nức nở của người phụ nữ và cậu bé. Hai người đàn ông cũng tức tưởi khóc. Đi về phía họ, Angelo phát hiện mái tóc của cả hai cũng bao phủ một màu xám! Anh muốn hỏi thăm nhưng đành thôi vì họ đang ở trong tình trạng căng thẳng khó trả lời.

      Angelo cắn răng cầm lòng trước cảnh thương tâm. Anh bước tiếp về phía miệng đường hầm. Mỗi bước đi thể hiện sự gan dạ phi thường đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của một trưởng ga. Phải tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với tàu 8017.

      Anh vừa qua khỏi toa tàu cuối của đoàn tàu. Hiện anh đang đứng dưới vòm của miệng đường hầm. Khung cảnh hoàn toàn bao trùm bởi sự im lặng rờn rợn. Anh bước lên toa tàu kế tiếp, mở cửa và bước vào buồng đầu tiên. Có 8 hành khách ngồi trên hai dãy băng dài gồm phụ nữ, đàn ông và trẻ con. Trên sàn tàu là đống hành lý hỗn độn gồm đủ loại vật dụng mà người tị nạn thường mang theo. Mọi người có vẻ như đang say ngủ. Angelo đưa tay vỗ nhẹ vai người gần nhất. Ông ta lật ngang và lăn đùng xuống sàn tàu kéo theo tấm thân gầy còm của người phụ nữ ngồi kế bên.

      Năm phút sau, Angelo bước ra khỏi đường hầm, gương mặt thất sắc, tái xanh như tàu lá. Anh nói với lái tàu:

      - Tất cả đều hồn lìa khỏi xác. Trên 500 sinh mạng con người!

      Angelo làm bản báo cáo lên chính quyền các cấp. Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh nên sự việc được giữ bí mật. Mãi về sau, ủy ban điều tra mới công bố nội bộ nguyên nhân của vụ "tai nạn" được xem là sự kiện hy hữu nhất trong lịch sử đường sắt mà cho đến bây giờ ít người biết đến.

      Kết luận của ủy ban điều tra vụ tai nạn khá là hợp lý: Trong đường hầm có một đoạn dốc cao, có thể nói là cao nhất trên cả tuyến. Hai đầu máy không đủ sức kéo nên cả đoàn tàu đứng khựng lại. Than được đốt tối đa và lái tàu nhấn hết ga hòng vượt qua đoạn dốc. Chất lượng than lúc bấy giờ rất xấu. Khi đốt, nó thải ra lượng lớn ôxýt cacbon. Loại khí rất độc hại này nhanh chóng lan tỏa trong đường hầm. Hành khách và nhân viên đoàn tàu hít phải khí độc và tử vong.

      Trong đêm 3 rạng sáng 4-3-1944, có tất cả 521 nạn nhân chết trong vụ tai nạn. Chỉ 4 người còn sống sót nhờ ngồi ở toa cuối cùng nằm bên ngoài đường hầm lúc xảy ra sự việc. Tuy nhiên, họ cũng bị nhiễm độc khá trầm trọng. Tóc họ chuyển sang màu xám. Khí ôxýt cacbon đã làm tổn thương não bộ không thể nào hồi phục.

      Riêng đối với Angelo Caponegro, là một đêm kinh hoàng mà anh không bao giờ quên trong đời.

833




Chỗ sân ấy hồi hè tụi con nít còn cò cò, u hơi, vậy mà mới vài ba trận mưa mùa đã mênh mông nước. Rồi bèo lấm tấm xanh, rau ngổ, rau muống mọc đầy, vươn những cái ngọn non nhuốt, trắng phau phau. Từ ngoài đường vào khu nhà thuê chỉ còn một lối nhỏ lát gạch Tàu rêu trơn tuột. Dặn hoài, nhưng đêm qua, ông già Sáu Đèo lại trợt chân.

Ông còn ngồi loay quay ngoi ngóp dưới sân bèo thì vừa lúc Phi về, anh hỏi, trời đất, làm gì ngồi đây. Ông Sáu cười, hàm răng rống trơ, móm mém, "Qua chờ chú em về". Phi nắm tay đỡ ông dậy, xốc ông lên vai như xốc một đứa bé lên mười. Ông già dụi cái mặt già nua vào tóc anh, biểu:

- Chú em, tóc dài rồi, sao không chịu đi cắt đi, thanh niên để vậy coi bầy hầy lắm.

Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có người nhắc anh chuyện tóc tai.

Hồi ngoại Phi còn sống, thấy tóc anh ra hơi liếm ót bà đã cằn nhằn: "Cái thằng, tóc tai gì mà xấp xãi, hệt du côn". Phi cười, "Con làm nghệ sỹ, tóc phải dài chút đỉnh chớ, ngoại". Ngoại anh nạt, "Người ta nhìn nghệ sỹ là nhìn tài, nhìn tánh chứ nhìn mái tóc sao?". Phi không cãi nữa, cầm mấy ngàn chạy đi, lát sau đem cái đầu tóc mới về.

Nói cho cùng, anh không nghe lời ngoại thì nghe ai bây giờ.

Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày tha thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.

Phi mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Cũng như nhiều người ở Rạch Vàm Mấm này, ông ngờ rằng má Phi chắc không phải bị tên đồn trưởng ấy làm nhục, hắn lui tới ve vãn hoài, lâu ngày phải có tình ý gì với nhau, nếu không thì giữ cái thai ấy làm gì, sinh ra thằng Phi làm gì. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má".

Sau này ngoại hỏi Phi, ngày xưa ngoại tính vậy con có buồn không, Phi cười, làm gì mà buồn, ngoại. Nếu chuyện con ở lại làm cho hết thảy mọi người đều đề huề vui vẻ thì con cũng vui chớ.

Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.

Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Gặp bữa mưa thì trèo lên mái nhà thông máng xối, khi thì tiếp má khiêng mấy tấm dal lót sân sau, thấy gì làm nấy như ở nhà mình. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, tướng tá, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, lại như giễu cợt, đắng cay. Mà, ba thì dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" (còn có thể giống ai?). Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Hồi con mới vài ba tháng tuổi, lúc biết lật, có khi quăng cái đít không qua, không phải ngoại đã biểu má đừng đỡ tiếp để sau này làm việc gì con cũng tự làm được đó sao". Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Hồi còn ở đoàn cải lương Bông Tràm thì vui, đóng vai quân sỹ cũng vui, rồi đoàn giải thể, phía bên ca múa nhạc nhận Phi về, mùa nắng thì đi nông thôn, mưa ở lại thị xã, bạn đồng nghiệp rủ Phi đi hát rong ở mấy quán nhậu, nhà hàng, chạy show đám tang, đám cưới... Chỉ thiếu điều ôm cái thùng kẹo kéo ra ngoài đầu chợ vừa hát vừa rao thôi. Mà, ban đầu thấy ê chề, tủi cực lắm. Bây giờ thì không bỏ được, vì được sống tự do tự tại, được hát để vợi nỗi lòng chứ không hẳn vì đôi ba chục ngàn bồi dưỡng mỗi đêm. Nếu không có hợp đồng đi hát xa thì ba giờ chiều Phi vác cây đờn ra quán đến tận hai ba giờ khuya mới về, lúc về đã say. Thì khách người ta mời mỗi bàn mấy ly nào bia, nào rượu trộn lẫn lại làm gì mà không say. Say rồi hát nghêu ngao trên đường về. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?

Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà còn nghèo hoài. Nhiều bữa trời mưa thức dậy thì không thấy đôi dép đâu, cái thau nhựa bể vành dành để giặt đồ đủng đỉnh trôi lại. Bèo theo nước mơn man mấy cái chân giường. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô.

Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại, hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông già Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó.

Ông già Sáu mới dọn lại thuê một căn chung vách với nhà Phi. Ông cũng nghèo, lúc chuyển đến đồ đạc chỉ gói gọn bốn cái thùng cáctông, dọc đường rớt đâu mất một thùng đựng mùng mền quần áo nên chỉ còn bộ đồ duy nhất dính da. Ai cũng ái ngại, ông Sáu phủi tay cười, "Thôi, của đi thay người, ba thứ đó mà nhằm gì, mất con quỷ này mới tiếc". Ông chỉ tay vô cái lồng trùm vải xanh. Giở ra nhìn thấy một con bìm bịp chỗ nào cũng đen trủi, trừ đôi cánh màu xám. Đám trẻ xúm lại, bảo nhau "Ngộ quá ha. Nó hót làm sao?". "Bậy, bìm bịp đâu có hót, nó kêu, tiếng của nó phát ra từ trong cổ họng nầy nè. Giọng nó ấm lắm, tiếng kêu phát ra từ tấm lòng mà. Mấy con chim há mỏ ra hót lách chách thấy vậy chớ không chân tình đâu, rồi ông già dừng lại, nuốt nước miếng, hạ giọng, con người ta cũng vậy thôi hà". Đám trẻ nấn ná chờ hoài, mãi con bìm bịp mới cất tiếng kêu, tụi nó tiu nghỉu, "Kêu gì buồn thấu trời". Ông già cười hỉ hả, "Buồn hả, buồn chớ sao không. Trời sanh ra cho nó con mắt đỏ như khóc vầy không buồn sao được".

Lúc đó, Phi vừa ngủ dậy, đứng lặng, lắng nghe tiếng bìm bịp buồn buồn xa vời vợi trong ánh nắng chiều, Phi nhớ triền dừa nước xanh miết ở trước nhà ngoại mình, nhớ đứt ruột. Lúc đó, ông già đang mặc độc cái quần tà lỏn đã xoăn cón ngồi giặt bộ đồ kaki màu cứt ngựa, thân hình nhỏ quắt quằn quặt, chép miệng, "Con trời vật nầy lại kêu bậy, giờ nầy con nước đang chuẩn bị ròng sát đáy. Qua rành con nước tháng ba nầy quá mà. Nó bỏ sông lâu quá rồi. Chú em mầy nhớ quê hả ?". Phi gật đầu. Ông già rủ, "Vậy chút nữa qua nhà qua nhâm nhi mấy ly chơi". Phi không ngần ngại, nhận lời. Người ta buồn nhất, cô đơn nhất là khi ngủ dậy. Và khi ngoài trời đang nắng ráo mà không biết phải đi đâu, về đâu.

Nhà ông Sáu có sẵn rượu, nhưng ông bảo không phải ông ghiền, sẵn rượu để gặp tri âm nhâm nhi chút chơi, "Qua thích chú em qua mới mời". Đi lại vài ly, ông già hỏi:

- Chú em đang đau ở trong tâm phải hôn? Chỉ có người đau mới uống từng chút như vầy.

Phi cười, anh vốn ít lời, lại không thích kể lể chuyện mình. Ông già lại không ép, ông nói nỗi buồn như cái ao, càng đào càng sâu, ai ác làm gì. Mà, cái ông già nầy chắc cũng đang đau, cũng uống từng chút một đó chớ. Và uống tới chừng nào đó, ông già còn gõ chén ca "Chớ bìm bịp kêu nước lớn chớ em ơi. Buôn bán không lời... chớ buôn bán không lời... chèo chống mỏi mê...". Giọng ông già nghẹt mũi tựa như khóc. Rồi ngoảnh ra sân vắng, ông già chắc lưỡi, cha, tới sáng mai không biết đồ có khô kịp không đây. Phi về lục lọi cho ông vài ba cái quần tây với áo lẻ, lúc trở qua đã thấy ông già, treo bộ đồ trước mặt, vừa uống vừa quạt, dáng điệu vừa trịnh trọng vừa nhẹ nhàng, nâng niu như đang quạt cho người yêu mình.

Sáng sau, lúc Phi còn đang ngủ thì ông già Sáu vỗ vách, "Qua đi đây, chú em nhớ dòm chừng con quỷ sứ dùm qua nghen". Phi chợt tỉnh, bàng hoàng, đó là lúc anh đang mơ màng nghe tiếng mưa long tong trên mái nhà, Phi đang thèm ai đó gọi mình thức dậy. Đợi qua cơn xúc động thì ông già đã đi xa rồi.

Ông Sáu Đèo làm nghề bán vé số, có tối ông gặp Phi ở ngoài quán. Lúc thì cho hay, sao phơi giày mà để mưa ướt mem vậy. Sao đồ ăn không chịu đậy kỹ, để mèo vô ăn hết cá chiên rồi, nó còn tha cái đầu qua nhà qua. Nhưng lần nào ông cũng đứng nghe anh hát, hết bản, vỗ tay xong, ông cũng "boa", không phải cái kiểu kẹp tờ giấy bạc giữa hai ngón tay rồi phe phẩy trước mặt anh, ông từ tốn rút trong túi ra tờ giấy bạc hai ngàn, nhét vào túi Phi rồi cài nắp túi cẩn thận. Trân trọng như trân trọng người nghệ sỹ.

Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười, "Tính chết mấy lần rồi, nhưng còn mắc nợ đời. Nợ thì phải trả chớ bỏ đi đâu. Thứ nhất là nợ con quỷ sứ nầy nè, tội nghiệp". Ông kể, có lần định đem con bìm bịp cho người ta. Cậu đó cũng tử tế lắm, bữa đó nhậu cườm cườm, qua với nó mới bàn về rượu. Qua nói chuối hột mà ngâm rượu uống say lúc nào không biết, nó cãi, bìm bịp ngâm rượu mới thiệt là ngon. Qua thôi. Sau nầy có ông cán bộ giàu lắm, mua vé số của qua hoài, nghe kể có con bìm bịp, ổng xin, qua đem lại, nhưng cả tuần nó không kêu tiếng nào, thấy qua lại thăm, nó nhìn đứt ruột lắm. Qua xin lại, đem về, những thứ quê mùa như nó, ở nhà lầu thì không cất tiếng được". Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua, nhiều lúc phò con bìm bịp nầy như phò bà già vợ vậy mà vui". Đi bán ở đâu, lâu lâu ông cũng tạt về nhà, quăng mấy con cá ươn cho "con quỷ sứ", xong rồi từ giã, "Tía đi nghen". Trời mưa dầm, ông già đội áo đi kiếm cóc, rắn mối cho nó ăn. Vui buồn gì cũng tía tía con con. Có đêm con bìm bịp kêu suốt, những tiếng bịp bịp ngắn ngủn buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó. Lúc nào qua thấy nhớ sông nó đều kêu như vậy. Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng lang thang xứ nầy xứ nọ. Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì chở thuê gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà Mau, nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi, ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, "Chú mầy cạo mạnh tay làm qua đau quá". Ông quay lại, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng, "Con làm bác đau thật à, chỗ nào vậy bác?". ừ, cái chỗ nầy, chú mầy không làm qua hết đau được đâu. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim. "Cổ đi rồi. Sống khổ quá nên cổ bỏ qua. Cổ lên bờ, không từ giã gì hết, bữa đó đúng là qua bậy, qua nhậu xỉn quá trời, rồi cũng có cự cãi mấy câu, cảnh nhà không con nên sanh buồn bực trong lòng, qua có hơi nặng lời, cổ khóc. Lúc thức dậy thì cổ đã đi rồi. Qua đã tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà chưa thấy. Kiếm để làm gì hả ? Để xin lỗi chớ làm gì bây giờ. Mà, kiếm hoài không gặp, qua sợ mình mắt dở rồi nên nhìn không ra cổ, tới chết không biết có gặp được không". Ông Sáu ngừng lại, lấy tay quệt nước mắt, "Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?". Phi không biết. Không biết.

Vì không biết nên ông già phải đi tìm để hỏi cho ra. Rồi một bữa, ông bày ra bữa rượu để từ giã Phi, ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy. Phi hỏi ông sẽ đi đâu mà cảm giác giọng mình đang run rẩy. Ông Sáu cười, "Cha, để coi, chỗ nào chưa đi thì đi, còn sống thì còn tìm. Qua nhờ chú em một chuyện, chú em nuôi dùm qua con quỷ sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc giữa đường lăn ra chết, để con "trời vật" nầy lại không ai lo. Qua tin tưởng chú em nhiều, đừng phụ lòng qua nghen". Phi dạ. Ông dặn đi dặn lại, con bìm bịp nầy ăn tạp lắm, nó khoái ăn cá ươn, cá chết, chú em mầy đừng có sợ nó hư bụng, nó sành ăn tổ cha. Cũng đừng chấp nê mấy thứ hư thúi đó, cho dù ăn gì thì nó cũng kêu hay, như con người ta vậy, nhìn nhau phải nhìn mặt tốt của nhau. Mai mốt nó đẻ trứng, chú em lấy giấu đi, để nó thấy mấy cái trứng mồ côi nó tủi. Hai người ngồi ở sân sau, dưới một đêm trăng sáng, trăng đầy. Có lần ông bảo, sướng nhất là được uống rượu dưới trăng.

- Chú mầy uống đi, buồn gì, hai đứa mình có duyên gặp đây, có phải là vui biết bao nhiêu không? Nhưng qua có lời dặn lại, chú em đừng bao giờ uống say quá, chỉ những người sầu muộn mới uống say thôi.

Ông đi rồi, chỉ còn lại Phi và con bìm bịp, thấy nó cứ thắc thỏm mổ cái mỏ vào mấy nan tre, tưởng nó đói, Phi đi bắt rắn mối cho nó ăn. Nhưng nó không ăn, cả đêm kêu thê thiết, những tiếng bíp bíp nhỏ xuống cái xóm Rạch Chùa từng giọt như giọt máu. Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập cánh xao xác, đứng niễng đầu nhìn anh buồn lắm, sao anh ngồi đây mà tía tôi đâu? Phi cười buồn bã, ước gì tao biết được bây giờ tía đang ở đâu. Tía thấy tao buồn nên để mầy ở lại,nhưng rồi lúc ông già bé nhỏ ấy buồn, ai kêu nước lớn cho ông nghe.

Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến say... Nhưng không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn ông đàn ang ai để tóc dài.
215




Năm 1994 là năm mà nền kinh tế Orange County bị bế tắc trầm trọng, nạn thất nghiệp gia tăng... đó là nguyên nhân đã khiến cho hàng loạt người đã rời bỏ nơi đây để tìm sinh kế nơi các tiểu bang khác. Trong dòng người ra đi tìm sự sống có ba anh em tôi!
Chúng tôi lái xe đến Fort Smith thuộc miền Bắc tiểu bang Arkansas vào đúng nửa đêm... sau 3 ngày đêm vượt hơn 2000 miles. Tất cả chúng tôi đều quá mệt mỏi, nên đã quyết định đậu xe trong khuôn viên của một "Gas Station" để ngủ, chờ sáng...
Sáng hôm sau, chúng tôi đi tìm thuê Apartment ở khu downtown của thành phố. Đang dọ hỏi đường đi, chúng tôi lại gặp một nhóm gồm 4 người, cũng từ Orange County ra đi như chúng tôi, họ gồm có đôi vợ chồng trẻ, và hai thanh niên, bạn của đôi vợ chồng này...
Cùng chung cảnh ngộ, nên dễ cảm thông nhau, và đồng kết bạn và cùng thuê nhà ở chung.
Chúng tôi thuê được 1 phòng của Fourplex có 1 bath 1 bedroom. Trong bathroom để cho 3 thanh niên, ngủ ở living room thì có cặp vợ chồng trẻ, tôi và cô em gái tôi. Chúng tôi cùng apply xin việc tại công ty OK Food.
Ca 1 (shift 1) 5 người trong đó có tôi.
Ca 2 (shift 2) chỉ có một mình Hùng (do Hùng xin vì hắn ta không thức sớm nổi).
Hằng ngày từ 3:00Am, chúng tôi phải thức dậy lo chuẩn bị đi làm (Theo xe ủi tuyết, đến Parking của hãng ngủ tiếp trên xe, chờ đến 5:30 am vào ca). Riêng Hùng, hắn ta ngu đến 2:00 Pm mới vào ca
2. Phần cô em gái tôi, vì dị ứng với thời tiết mùa Đông nên bi cảm cúm luôn nên phải ở nhà lo cơm nước cho mọi người.
Ba ngày nơi căn nhà trọ trôi qua thật yên lành. Sáng ngày thứ tư, khoảng 8:30 am Duyên (em gái tôi) đang chuẩn bị lo thức ăn nơi nhà bếp, cô giật mình vì nghe tiếng la ú ớ của Hùng trong phòng ngủ..
Cô chạy đến đập cửa phòng gọi Hùng khoảng 10 phút sau mới có tiếng trả lời và Hùng mở vội cửa chạy ra, nhớn nhát và có vẻ hồi hộp chạy thẳng ra living room ngồi xuống nền thảm, nói với Duyên rằng:
-Anh ta bị "Ma" đánh, đuổi anh ta...
Duyên cũng có phần lo lắng, nhưng cô cố trấn tĩnh và khuyên Hùng ráng bình tĩnh để mà họp tất cả anh em lại để hội ý cùng quyết đinh. Hùng quyết định, ngay hôm nay Hùng nghỉ việc, ở nhà chờ 5 anh em chúng tôi đi làm về để bàn bạc.
Mọi người tắm rưa? xong là vào ngồi tại living room để nghe Hùng kể:
-Từ đêm đầu tiên vào nhà này, liên tiếp cho đến hôm nay là ngày thứ tư, mỗi đêm Hùng đều mơ thấy một người đàn ông Việt Nam, mặt tròn, đầu hói, luôn luôn với nét mặt nhăn nhó,
cau có đến nói với Hùng rằng: đây là phòng của ông ta và ông ta yêu cầu Hùng phải rời khỏi nơi đây!
-Chuyện trong mơ, theo Hùng nghĩ: đó chỉ là dị mộng... nhưng đêm nào cũng xảy ra như thế, cho đến sáng nay là lần thứ tư, Hùng thấy ông "ma" này nổi giận, mắng chửi Hùng và xô anh ta té từ trên giường xuống sàn nhà...
Hùng la ú ớ, khi nghe tiếng đập cửa của Duyên, Hùng mới tỉnh giấc và thấy mình đang nằm dưới sàn nhà cách xa giường ngủ khoảng 1 yard! Và khắp thân thể đều bị ê ẩm! Nhưng cố bò lại mở cửa chạy ra ngoài... !
Câu chuyện của Hùng vừa kểà xong, thì tiếp đến Lê và Thư, hai thanh niên cùng phòng với Hùng cũng nói. Đêm nào hai em cũng nghe có tiếng động như có người đi. Có tiếng nước chảy trong bathroom, có tiếng soong, nồi, chén, dĩa va chạm nhau ở nhà bếp...
Còn Lê nói:
-Có đêm thức giấc đi tiểu, thì dường như có bàn tay nào đó sờ vào lưng Lê, còn Thư thì kể:
-Lúc đang tắm thì nghe có tiếng gõ cửa và có tiếng người hối Thư tắm nhanh cho anh ta vào tắm... Lật đật tắm lẹ để nhường phòng tắm... nhưng khi xong trở ra, Thư hỏi mọi người thì ai cũng tắm rồi cả.
Thư và Lê còn cho biết, có lúc nằm còn xem Tivi nhưng họ cảm thấy có ai đó khiêng cái giường họ lên... khi họ ngồi dậy thì cái giường rớt xuống nền nhà nghe thành tiếng "cụp". Mọi sự việc đã xảy ra trong suốt 4 ngày qua... tất cả 3 thanh niên đều nghĩ "Không phải là ảo tưởng mà là sự thật"nên họ đều sơ...
Do đó đêm nay tất cả đều ra nằm ngủ chung ngoài living room. Một đêm an toàn ngủ tại living room đã làm mọi người an tâm trở lại.
Đến đêm thứ bảy, weekend đầu tiên, chúng tôi quây quần bên nhau tại living room người xem tivi, người đọc báo, hai cô gái thì trò chuyện về cuộc sống hôm naỵ Chờ xem bản tin 9:00 Pm của đài ABC băng tầng số 4 xong, thì mới tắt neon đi ngủ...
Bỗng tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe tiếng xã nước trong bath room, như có người đang tắm.
Mọi người, nhất là 2 cô gái rất sợ hãi...
Tôi quyết định lấy cây đèn Pin bảo Hùng và Thư theo tôi, còn Lê ở lại living room với 2 cô gái..bath room hoàn toàn khô ráo.
Không còn nghe tiếng nước chảy. Đêm đó, hầu như mọi người đều mất ngủ, chỉ riêng tôi còn ngủ được một chút ít. Cứ mỗi lần có ai cần đi tiểu, thì lại đánh thức tôi dậy để đưa dẫn giùm... khiến tôi cũng chỉ ngủ được rất ít..!
Sáng chủ nhật, tôi quyết định cùng nhau đi chợ mua ít thực phẩm, về nấu mấy món ăn cúng người khuất mặt!
Tôi khấn người khuất mặt nhận phần cúng này, chúng tôi dâng cúng với lòng chân thành, cầu xin người tha thứ và độ trì cho chúng tôi: những người tỵ nạn đầy khó khăn nơi xứ lạ và vì cuộc sống, vì việc làm nên phải tha phương cầu thực và lưu lạc như thế này. Cầu mong "người" thông cảm cho hoàn cảnh và đừng làm cho chúng tôi sợ nữa, tôi cũng khấn hứa rằng: đi tìm thuê nhà khác với sự phò trợ của "người".
Cúng xong, chúng tôi dọn ra ăn thật vui vẻ, bỗng cô em gái tôi nói với mọi người:
- Ông ta bảo rằng: ông là người Việt Nam di tản sang Mỹ hồi 30 tháng 4 năm 75, ông cũng là công nhân của hãng thực phẩm này, ông làm shift 1, vợ con ông làm shift 2. Khi ông đi làm về nhà, thì vợ con ông đã đi làm, ông tắm rửa xong, ông bị chóng mặt quá, ông cố lết vào phòng thì té cạnh giường chết vì đứt mạch máu não..đến ngày hôm sau vợ con ông mới phát giác...
Nghe xong câu chuyện, ai cũng bùi ngùi cho ông, gia đình ông và ngay cả thân phận chúng tôi (có điều xin ghi chú: Cô Duyên, được hồng ân Thiên Chúa cho nên Duyên nghe được tiếng người chết nói).
Ngay chiều hôm đó, Hùng xuống phố Downtown chơi, gặp một người Việt Nam cùng làm chung hãng chỉ cho chúng tôi thuê được một townhome cách căn nhà "Ma" khoảng nửa miles.
Trưa thứ hai từ hãng ra về chúng tôi dọn nhà ngaỵ Chúng tôi báo cho bà chủ nhà về việc chúng tôi "moved" chưa hề có ý định xin lại bớt tiền nhà, thế nhưng bà chủ đã sẵn sàng bớt lại cho chúng tôi 20 ngày, và chỉ yêu cầu chúng tôi đừng bao giờ tiết lộ về tin tức "căn nhà ma" của bà...
Chúng tôi làm việc cho OK Food được 6 tháng, thì hãng bắt đầu suy xụp, vì ảnh hưởng chung của nền kinh tế Mỹ. Mỗi tuần chỉ làm có 3 ngày, do đó cuộc sống chúng tôi lại bị khó khăn, nên chúng tôi bắt buộc phải rời thành phố đầy băng tuyết này để đi tìm sinh kế nơi khác.
Cuối năm 1995, chúng tôi được người bạn ở San Francisco gọi lên và giới thiệu cho 3 anh em chúng tôi làm quản gia một "Tòa lâu đài" và quản lý nhà hàng. Được bà chủ nhà (Tòa lâu đài và nhà hàng) đã vui vẻ, lịch thiệp ân cần đón tiếp chúng tôi với lòng tha thiết, bà cũng ưu ái trả lương rất là vừa phải, bao ăn, ở tại tòa lâu đài.
Sau khi mời chúng tôi ăn lunch tại nhà hàng, bà đích thân đưa chúng tôi về tòa lâu đài lúc 1:00 PM để chúng tôi nghỉ ngơi ít hôm, trước khi bắt tay vào việc.
"Tòa lâu đài" sừng sững trên một ngọn đồi, nhìn xuống trước mặt là một hồ nước khá to, chung quanh "lâu đài" là một dãy Apartment khá sang trọng, bên trong bức tường bao quanh tòa lâu đài là những "vườn hoa muôn sắc" thật là rực rỡ thanh tao..!
Tòa lâu đài có diện tích khá rộng, trên 25,000 sqft nằm trong một khu vườn rộng trên 60,000 sqft và được xếp hạng là Tòa lâu đài thứ 12 trên đất Mỹ. Tòa nhà có 3 tầng, khá rộng mà hệ thống đèn quá cũ kỹ nên không đủ ánh sáng, do đó các phòng hơi tối và lạnh lẽo... !
Đêm đầu tiên 3 anh em chúng tôi ngủ tại living room nhỏ bên trái, lúc 9:00 Pm tôi và cậu em trai còn xem tin tức trên tivi, cô em thì nằm trên sofa... Đột nhiên có một làn gió mạnh,... thổi ngang làm cho tất cả chúng tôi đều rùng mình ớn lạnh... mặc dù quanh chúng
tôi chẳng có một cửa sổ nào mở cả, tôi vội đứng lên đi xem tất cả các cửa sổ, nhưng tất cả đều đóng kín! Khoảng 15 phút sau, chúng tôi lại nghe nhiều tiếng động phát ra từ trong các
phòng ngủ ở tầng trệt và trên lầu, có tiếng đóng và mở cửa..rồi liên tục hướng nhà bếp có tiếng cọt kẹt, tiếng nồi, niêu, xoong, chảo va chạm nhau... tiếng chân người chạy trên tầng 2... !
Tôi cũng giật mình chới với, nhưng cố trấn tĩnh lại để không làm hai đứa em sợ. Tôi bảo: có lẽ bên ngoài gió to nên gây ồn như vậy thôi, ..tivi vẫn để cho mọi người xem, cho đến lúc ca?
ba chúng tôi đều ngủ quên luôn..
Đến khoảng nữa đêm, cô em gái giật mình thức giấc ngồi bật dậy, gọi tôi và cậu em..cô nói:
-Em sợ quá anh ạ, em vừa mơ thấy một ông Mỹ già, cao và ốm, đầu bạc trắng, đến đuổi anh em mình ra khỏi nơi đây ngay tức khắc! ông hỏi tại sao dám vào nhà ông ta ngủ?
Tôi dịu dàng trấn tĩnh cô em:
-Chỉ là giấc mộng thôi em à! Chẳng có gì mà phải lo sợ. Nói xong tôi lại âm thầm cầu nguyện Chúa và Đức Mẹ độ trì, đồng thời tôi cũng khấn xin "ông chủ Mỹ" cho chúng tôi được tạm trú chờ thuê apartment xong chúng tôi sẽ move ra.
Chúng tôi muốn kéo dài thời gian lưu ngụ với hy vọng là "Hồn ma chủ nhà" sẽ thông cảm, nhưng chúng tôi chỉ ngủ yên được đêm thứ hai, qua đêm thứ ba thì tình trạng xảy ra y như đêm hôm đầu tiên...
Sự việc xảy ra đã làm chúng tôi bắt đầu "lo sợ" nên đến sáng ngày thứ tư, tôi phải báo với bà chủ lâu đài:
-Chúng tôi từ chối việc làm mà bà có nhã ý giúp đỡ, vì chúng tôi không thể ở "Tòa lâu đài" này được lâu hơn vì có "Ma".
Bà gật đầu, suy nghĩ một lúc, bà bão:
-"Tôi đề nghị anh đem tượng Chúa về thờ, phần bà thì có thờ Phật trên lầu rồi. Bà còn bảo chúng tôi ráng cầu nguyện thì sẽ yên thôi".
Thật ra, anh em chúng tôi đã làm tất cả những gì bà đã nghĩ, nhưng vô hiệu! Tôi chỉ còn một hy vọng cuối cùng, sáng hôm sau, tôi đến tiệm Mc Donald mua một phần hamburger đem về cúng, tôi vừa khấn cúng xong, thì cô em la to lên:
-No, I don't care, go out go out
Tiếp theo là hệ thống alarm trong nhà rú lên ầm ỉ, tôi cố trấn tĩnh nhưng tay run cầm cập, gọi cậu em theo tôi, đến tắt alarm nơi cửa chính, còn cô em thì bỏ chạy ra sân trước mặt mày tái mét!
Tắt alarm xong, tôi và cậu em trai bật đèn tất cả để tìm xem có ai lọt vào nhà không? Dù giữa ban ngày nhưng lòng tôi cũng cảm thấy hồi hộp khi bước lên lầu 1, 2 rồi tầng thứ
ba... nhưng chẳng có gì!
Cho tới giai đoạn này, tôi mới bắt đầu cảm thấy lo sơ... nên quyết định lại quay về Orange County mà không báo với bà chủ tốt bụng, sau đó tôi gởi trả chìa khóa "Lâu đài" qua đường bưu điện, với lời cám ơn bà, và xin thứ lỗi vì đã phụ lòng bà! Trở lại vùng đất gọi là "thủ đô tỵ nạn" để sống thì rất là tốt, nhưng chỉ có việc làm là quá khó khăn thôi.
Sáng chủ nhật chúng tôi đi lễ sớm lúc 6 giờ sáng, chúng tôi chỉ cầu xin Chúa- Đức Mẹ cho anh em chúng tôi có việc làm.
Lễ xong, ra bãi đậu xe, em gái tôi gặp nhiều người quen trong đó có cô bạn thân từ hồi còn ở Việt Nam, đôi bên tâm sự và cô bạn cho biết ở Riverside có một linh mục chết bởi tai nạn
nhưng rất thiêng liêng, vì ông hay đẩy xe... có người gọi là "ma đẩy xe". Tin đồn nhiều, nên nhiều người đã thực hành theo tin này và cho biết kết quả là có thật...
Vì tính hiếu kỳ, và sẵn có niềm tin, nên anh em tôi cùng vợ chồng một bạn thân, quyết định đến nơi "linh mục hiển linh" để cầu nguyện và thực hiện theo tin đồn, ngay vào trưa chu?
nhật tháng 7 năm 1996, chúng tôi hoàn toàn toại nguyện với ý định của mình. Chúng tôi xuống xe cùng cầu nguyện và cám ơn "Vị linh mục Việt Nam thiêng liêng" đã làm phép lạ tại nơi đây, mà ngài đã vĩnh viễn nằm xuống để về nước Chúa, nhưng vẫn hướng dẫn mọi người củng cố niềm tin qua việc đẩy xe của Ngài...
Ai cần đến với Ngài, xin đi free way 91 East quẹo sang freeway 60 East chạy khoảng 4 miles ra Exit Nason, quẹo trái lên cầu, xuống dốc cầu quẹo chữ U trở lại đậu dưới dốc cầu khoảng 100m tắt máy xe, trả số về (N) mọi người ngồi yên và tập trung cầu nguyện, trong vòng từ 10 phút đến 30 phút, xe sẽ được đẩy... di chuyển từ từ...

"Ma" là những mẩu chuyện huyền thoại, ít ai tin. Nhưng đối với cá nhân tôi và 2 đứa em là những "chứng nhân" thực sự và cũng đã từng là "nạn nhân" bị "Ma" đuổi, ngay trên đất Mỹ này. Xin ghi lại nơi đây để mọi người suy gẫm.

1626





Cầu vồng bình yên

      Tôi hai mươi mốt tuổi, học kiến trúc, thích nghe rock, chơi game online, ít nói và không có điểm gì nổi trội. “Đôi khi mày nhạy cảm đến sến ốm” – Đăng, thằng bạn thân tôi, nói thêm.

Dung là bạn gái của Đăng. Đăng đã đi du học Sing. Nó không bày trò “ký thác người yêu cho thằng bạn thân”, không phải vì sợ kết cục như trên phim và truyện: thằng bạn thân cùng cô bạn gái nắm tay nhau đi về phía mặt trời, mà chỉ đơn giản cả ba chúng tôi xem đó là một trò ngớ ngẩn. Càng ngày người ta càng tự tin về những gì mình có. Hay càng ngày cách người ta suy nghĩ về tình cảm hời hợt thấy rõ?

Đăng đi. Tôi và Dung hầu như không giữ liên lạc dù sống khá gần chỗ nhau. Vài ba lần gặp nhau online, hỏi nhau có nhận mail của Đăng không, rồi thôi. Cho đến một ngày, Đăng gọi tôi, bảo: “Từ nay mày giúp tao để mắt đến Dung. Dạo này...”, “Dạo này làm sao?” - tôi ngắt lời nó. “Không! Chẳng có chuyện gì, nhưng mày sẽ giúp tao như thế chứ?” - Đăng gằn giọng. Tôi toan từ chối, rồi bỗng nhiên nghe cổ họng mình ậm ừ. Đăng thở nhẹ: “Ừ, vậy nhé, nhờ mày!”.

Tôi gọi cho Dung: “Lâu quá không gặp, dạo này Dung thế nào?”. Nghe giọng cô ấy run lên rồi lanh canh như tiếng thìa khuấy trong lòng ly rỗng ở đầu dây bên kia: “Tôi không ổn chút nào, Nguyên ạ!”.

Tôi ngẩn người siết cục điện thoại đến nóng bỏng và ướt nhẹp mồ hôi trong tay, không biết nói gì. Một cảm giác xót xa òa đến. Tôi thường ngẩn ra khi cảm nhận được sự cô độc và trống rỗng. Như lúc thấy một mầm cây bé mọc ra từ khe nứt của bức tường, một con chim sẻ lượn qua lại trong vùng trời nhỏ bé, tù túng... Nó trực tiếp đụng chạm đến những vấn đề của riêng tôi.

Nổi gió

Chúng tôi gặp nhau ở quán cà phê Văn. Quán nằm ở trên đồi cao, đứng từ trên gác gỗ nhìn xuống có thể thấy thành phố với những mái nhà loang lổ như một kẻ bị lở lói trên đỉnh đầu, không lộng lẫy đẹp đẽ như khi người ta nhìn trực diện. Dung gầy đi và xanh, xõa tóc ra nên trông rất già, vạt áo sơmi khoác còn cẩu thả dính một vệt acrylic. Nó như vết xước mang màu của bầu trời chiều giấu nặng mưa.

Dung đặt balô chứa đầy cọ xuống bộ salon cũ trên gác gỗ, lùa tay vào mái tóc bù xù khẽ giải thích: “Xin lỗi, tôi vừa ở xưởng vẽ về”. Tôi tròn mắt ngạc nhiên nhìn Dung quẳng gói Dunhill lên bàn sau khi rút một điếu, điềm nhiên châm lửa đốt. Nhìn cô ấy nhả khói điệu nghệ, tôi thần người, không thể tìm lại từ con người đó cô gái rụt rè, yếu ớt thường đứng sau lưng Đăng ngày nào.

Dung thôi nhìn xuống thành phố, đưa mắt sang tôi: “Hôm ấy tôi nói linh tinh thôi. Đừng để ý! Đăng nhờ Nguyên gặp tôi sao?”. Tôi không trả lời: “Dung hút thuốc thế này lâu chưa?”. “Từ dạo Giáng sinh. Đi một mình ngoài phố nhà thờ, trời lạnh, nó giúp tôi bình tĩnh và ngừng rủa Đăng giờ này anh đang ở đâu vậy” - Dung đáp điềm nhiên. Tôi miết thành salon gỗ đến bỏng rát bàn tay. Tiếng Dung cười khành khạch: “Gì vậy? Thất vọng? Hay thương hại tôi?!”.

Khi nào muốn có ai đó cùng đi cà phê, cứ gọi tôi, như một người bạn!”- Tôi tần ngần khi dắt xe giúp Dung. Cô ấy khẽ bảo: “Ok! Nguyên này, đừng kể với Đăng tôi đang trong tình trạng hiện giờ, được chứ?”. “Được” - tôi liếm môi, gật đầu. Dung đỡ lấy chiếc xe ga nặng nề, cái dáng mảnh khảnh xiêu đi. Nụ cười khó hiểu chưa kịp tan trong mắt tôi, cô gái biến mất. Chiếc xe để lại một làn bụi rát.

Mây đen

Tôi van lạy bản thân mình hãy thất hứa với Dung, phải nói cho Đăng nghe tất cả. Đăng cần phải biết người cần được nó chở che đang hoang mang, mệt mỏi dường nào. Nhưng tôi không làm được. Lời hứa với Dung cứ quay cuồng trong óc, không cho phép tôi mở lời. Vả lại nếu vậy, ở xa Đăng sẽ lo lắng và dày vò kinh khủng. Tôi quyết định gặp Dung lần nữa.

Dung không tươi tỉnh hơn, nếu không muốn nói là suy sụp thêm. Cô gái vẫn hút thuốc, rất nhiều. Đang ngồi, bỗng Dung đặt điếu thuốc gác ngang tách cà phê, từ từ tiến về phía bể nước bé xíu ở bancông căn gác gỗ. Cô ngồi mê mẩn ngắm những vạt bèo tấm xanh non trong đó. Chợt lúc ấy, tôi như thấy lại Dung yếu đuối, rụt rè của Đăng ngày trước. Điếu thuốc vẫn cháy, rơi tàn và đầu lọc xuống tách cà phê, tắt ngúm.

Cô gái quay lại bàn, đôi mắt vụt tối. Dung thản nhiên kể chuyện tên sếp không đứng đắn nơi cô đang làm thêm, nhưng đó là một công ty lớn và nhiều cơ hội cho sau này khi ra trường nên cô không thể nghỉ việc, rồi những áp lực ở trường đại học, cuộc sống một mình không người thân... giọng lạnh tanh. Tuyệt nhiên không hề nhắc đến Đăng.

Tôi suy đoán, có lẽ gặp nhiều vấn đề, Đăng lại không bên cạnh cùng giải quyết, Dung rơi vào trạng trái khủng hoảng như vậy. Cũng tự hỏi tại sao tôi và Dung không thân nhưng cô gái lại thổ lộ chuyện đó. Rồi nhận ra, không, cái cách của Dung chỉ bình thản như nói một câu chuyện phiếm cho qua cữ cà phê mà thôi.

Tôi quen ông chủ quán, xin vớt một ít bèo tấm bỏ vào bịch nilông mang về. “Tặng Dung này!”. Dung nhìn tôi, hơi ngạc nhiên rồi mỉm cười, nhận lấy. Bàn tay lạnh toát của cô gái khẽ chạm vào tay tôi khiến như có một dòng điện chạy dọc sống lưng, tê dại.

Tối ấy, tôi nhận ra mình đã nghĩ về bạn gái của thằng bạn thân quá nhiều. Tôi tự trừng phạt mình bằng cách rời PC, leo ra cửa sổ ngồi trên nóc nhà bên cạnh và ngẫm nghĩ. Đáng lẽ đã có thể đưa ra một quyết định gì đó nếu Dung không nhắn tin “Cảm ơn Nguyên, về mọi điều!”.

Chúng tôi gặp nhau thêm nhiều lần sau đó, chẳng nói nhiều. Chỉ là ngồi và có người đối diện, vậy thôi.

Hồng thủy

Bầu trời thành phố xám xịt và quay quắt như trong cơn hồng thủy. Mưa lao đầu vào cửa kính như một tên điên. Tôi bỗng nhiên nghĩ đến Dung, cô gái tội nghiệp của thằng bạn thân tội nghiệp. Cả hai đều bất lực trước những điều đang đến. Cảm giác tội lỗi khiến tôi tránh Đăng. Nó không biết tôi đang invi, cứ gửi mãi những dòng offline: “Mày thế nào? Dung sao rồi?”.

Những lúc như vậy, tôi ngồi lặng. Tôi thương cô gái ngồi lạnh lùng, cô độc hút thuốc, nhả khói trong những chiều cùng nhau cà phê trên gác gỗ. Đó rõ ràng có phải là cô gái của Đăng ngày nào đâu. Giá họ đừng là một...

Chuông điện thoại vang lên gấp gáp đến ngột ngạt. Dung gọi. Tôi hớt hải nhấc máy. Giọng cô ướt nhòe: “Nguyên! Đến đây! Làm ơn...”.

Tôi lao ra khỏi nhà. Cô gái đứng ở trạm xe buýt dưới cơn mưa tầm tã, nước mưa bết vào người, đôi mắt thất thần, những cây cọ từ balô chưa kịp kéo khóa rơi vung vãi xuống hè, xấp hình họa nhòe nhoẹt ướt thòi ra từ clipboard buông thõng trên tay. Hốt hoảng nhận ra trong tay kia của cô gái nắm chặt một cái gì đó. Tôi run lẩy bẩy, miệng lảm nhảm gọi tên Đăng như thằng ngớ ngẩn, cuối cùng cũng gỡ được khỏi tay Dung một mảnh thủy tinh vỡ. Bàn tay gầy guộc và lạnh toát chằng chịt vết cắt, máu hòa với mưa thành một thứ nước màu hồng loãng tuếch.

Tôi nói như hụt hơi: “Đăng nó biết cô như thế này thì nó quay quắt đến chết mất!”. Nghe tên Đăng, cô gái bỗng gục vào vai tôi òa khóc. Tôi vô thức ôm chặt lấy Dung, len lén chùi giọt nước đang rỉ ra trên khóe mắt mình, nóng bỏng. Cây sao to ở gần trạm xe buýt oằn mình trong cơn mưa tầm tã.

Tạnh

Tôi đưa Dung về từ bệnh viện. Bàn tay trái của cô gái quấn băng trắng toát trông rờn rợn. Dung ở căn phòng cũ kỹ trên tầng năm của một chung cư, một mình. Phòng hơi tối, cửa sổ gỗ cũ kỹ đóng kín mít, một vài tờ phác thảo bay vung vãi từ xấp giấy chất ngồn ngộn trên nóc tủ gây cảm giác buồn bã và chán nản. Ở nơi để PC có một cốc gốm lớn chưa kịp rửa, đáy còn đọng cặn cà phê đặc sánh và rất nhiều tàn thuốc, khung ảnh chụp Dung và Đăng trong đêm Giáng sinh năm ngoái bị vùi dưới những cuốn sách đồ họa khổng lồ.

Cô mời tôi ngồi, dùng một tay để pha trà mặc kệ tôi ngăn lại, mái tóc khô vểnh lên và cái dáng mảnh khảnh in lên nền sáng mờ mờ trông giống một con sẻ gầy tội nghiệp. Tôi phát hiện vạt bèo tấm lần trước được thả vào cái ly thủy tinh đặt trên kệ sách, chết trong trạng thái biến màu nhợt nhạt vì thiếu nắng.

Dung ngồi co ro, châm thuốc và nhả khói. Tôi khó nhọc: “Mọi việc sẽ lại ổn, phải không?”. Cô cúi mặt: “Đáng ra tôi nên nghe lời Nguyên sớm hơn... Tôi sẽ nghỉ việc ở đó, Nguyên ạ!”. Tôi mỉm cười nhẹ nhõm. Cô gái khẩy tàn thuốc ra sàn dù chiếc gạt tàn thủy tinh để trước mặt, nói nhỏ: “Phải, hai mươi tuổi, thật ngớ ngẩn khi phải chịu đựng những thứ quá giới hạn chỉ vì theo đuổi tham vọng của mình”.

Tôi hít sâu mùi khói trong căn phòng chật: “Hãy chăm sóc cho mình và thông cảm cho Đăng! Nó luôn trăn trở về cô. Cô có hiểu cảm giác bất lực khi không thể làm gì cho người mình yêu thương không?”. Dung dụi điếu thuốc vào cạnh bàn, ho khan.

...Tôi hẹn Đăng trên mạng. Sau nhiều cố gắng, cuối cùng tôi cũng thú nhận được rằng mình yêu Dung. Nín thở chờ đợi Đăng disconnect đột ngột, hay gõ lại “Mày đùa đấy à?”. Phải, cho dù mọi điều tồi tệ xảy đến, tôi tự hứa với mình không được che giấu một điều gì, và sau đó, sẽ mãi mãi biến mất khỏi mối quan hệ phức tạp ấy.

Nhưng không, Đăng chậm rãi: “Tao hiểu. Mày thì tốt hơn tao, Nguyên à! Tao mong mày và Dung vui!”. Tôi lập cập: “Mày... mày sao thế?”. Dòng chữ hiện ra trên monitor làm tôi choáng váng: “Tao và Dung nói chia tay khá lâu rồi, từ khi tao nhờ mày để mắt chăm sóc cô ấy. Có quá nhiều vấn đề và không được chia sẻ khiến cả hai đều mệt nhoài. Rất may là cô ấy không quá bị ảnh hưởng vì điều đó...”.

Cầu vồng bình yên

Mưa. Trời liên tục trút xuống thành phố những cơn mưa lớn. Tôi chạy đến khu chung cư cũ với túi nilông đựng bèo tấm trong tay, sải chân nhảy một lúc hai ba bậc thang rồi dừng lại, đứng rất lâu trước cửa nhà cô gái, nước mưa từ mặt, từ áo nhỏ long tong. Đến khi đủ can đảm, tôi gõ nhẹ cửa.

Dung xuất hiện, mặt đỏ phừng và yếu ớt, bàn tay chưa tháo băng, tròn mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Chưa kịp hỏi gì tôi, cô gái bỗng lảo đảo, phải bấu chặt vào cạnh tường. “Cô sao thế?” - tôi hốt hoảng. “Tôi ngây ngấy sốt từ hôm đó. Có lẽ do những vết cắt và mưa. Đừng bận tâm, tôi ổn mà!” - Dung gượng cười. Tôi cắn môi, đứng lặng. Cô gái mở rộng cánh cửa.

Xin lỗi Dung, tôi không hề biết...”. “Chẳng sao, trong suy nghĩ của Đăng, tôi vẫn ổn và vững vàng. Thế là đủ!”. Tôi cúi đầu. Cô bật cười: “Nguyên đừng như thế. Dạo trước có nhiều chuyện xảy ra, tôi sốc mạnh, làm phiền Nguyên nhiều. Gần đây rảnh rỗi, thử sắp xếp lại mọi thứ trong đầu, thấy nó cũng không quá rối rắm như mình vẫn tưởng”.

Tạnh mưa. Cô gái đứng dậy mở toang cửa sổ, cánh cửa ngỡ như không bao giờ được chạm đến: “Nguyên, xem này!”. Ánh nắng sau mưa tràn vào phòng. Tôi chớp chớp mắt để thích ứng với luồng sáng mạnh đột ngột, nhận ra ngoài ô cửa là một tổ chim bồ câu. Có lẽ nó thuộc về ai đó ở khu nhà bên cạnh. Hai con chim trắng toát rụt rè thò cổ ra xem trời đã thật sự tạnh chưa. Rồi vững tin, chúng cùng nhau tung cánh lên bầu trời đầy nắng.

Dung đưa cho tôi hai chiếc gạt tàn thủy tinh lớn, sạch bóng. Có vẻ gần đây cô ấy thôi hút thuốc. Tôi vớt đám bèo tấm vừa mang đến thả vào đấy, đặt nó lên bệ cửa sổ. “Ở đây chúng sống tốt! Dung sẽ mở cửa sổ thường xuyên chứ?”. Cô gái mỉm cười.

Trên những nóc nhà lở lói của thành phố mọc lên cầu vồng sau mưa. Dung đặt bàn tay quấn băng trắng lên mép cửa sổ, hơi vươn người về phía trước: “Tôi đang nghĩ giá được chạm vào những tia cầu vồng ấy! Còn Nguyên?”. Tôi thì thầm: “Đây là định nghĩa về “bình yên” hoàn hảo nhất mà tôi từng biết!”. Cô gái quay sang nhìn tôi lạ lùng rồi bật cười, tiếng cười nhẹ nhõm. Hơi thở của người đang sốt nóng bỏng ập vào má.

Chúng tôi yên lặng đứng cạnh nhau bên ô cửa cũ kỹ ấy, thật lâu. Cầu vồng sau mưa bình yên lạ kỳ. Tôi toan nói một điều gì đó nhưng kềm lại được. Rồi mọi thứ cần đến sẽ đến, như vòng tay siết chặt cô gái và giọt nước mắt nóng bỏng của gã tôi dưới cơn mưa hôm nào, tự nhiên, lặng lẽ, chân thành...


Tác Giả: Nguyễn Thiên Ngân

7


Powered by Blogger.