Khi em rời ghế mây
Chỉ mùi hương ở lại
Tre biến thành thần thoại
Trúc biến thành hoang đường
Anh biến thành tai ương
Thấp thỏm bên chiếc ghế
Cái mùi hương ác thế
Không theo em bay đi
Mà quấn quít bên tre
Mà quẩn quanh bên trúc
Để riêng anh biết được
Có thực, mùi hương kia
Không một ai xẻ chia
Chỉ trừ ra chiếc ghế
Không ngu gì anh kể
Mùi hương này cho ai
Hỡi những chiếc ghế mây
Hiếm hoi trên trái đất
Hãy khinh chiếc ghế sắt
Hãy khinh chiếc ghế bành,
Những chiếc ghế vô danh
Trong căn nhà trải thảm
Nơi chân em chưa giẫm
Nơi tình em chưa ngồi
Nơi Chúa chưa ra đời
Nơi Phật chưa hiện đến
Nơi em chưa rón rén
Những gót chân tuyệt vời
Nơi mọi người hít thở
Chưa thấy mùi em rơi
Nơi đây anh đang hay
Chỗ này anh đang biết
Anh vuốt ve ghế mây
Như vuốt ve truyền thuyết
Tình yêu anh lẫm liệt
Thanh trúc phải cong vòng
Tình yêu anh tận cùng
Thanh tre đành duỗi thẳng
Anh đặt trái tim đắng
Vào chiếc ghế em ngồi
Trái tim trở nên ngọt
Chiếc ghế tình anh ơi
Chiếc ghế tình em ơi
Lúc người kia đi mất
Lúc người này cuối nhặt
Cái mùi hương chưa đi
Như không hề biệt ly
Như không hề xa cách
Trận gió có thổi sạch
Tất cả mọi đền đài
Cơn bão có đùa dai
Anh cũng không lo sợ
Khi lòng anh : em ở
Khi ghế anh em ngồi
Hưởng thời gian muôn thuở
Thuở bắt đầu lứa đôi803
Hai vợ chồng nhà nọ chuyển đến nhà mới ở tầng 5 một khu chung cư. Cô vợ nói:
Này anh, anh phải mua ngay rèm treo cửa sổ kẻo khi đi ngủ em thay quần áo, bên kia người ta nhìn thấy mất.
Khỏi cần! Họ nhìn thấy em tự họ sẽ phải mua lấy rèm che cửa nhà họ thôi.
2887
Thầy giáo đang cho các em học sinh làm bài kiểm tra trắc nghiệm. Thấy Mary, cô bé tóc vàng hoe cứ ném lên trời một đồng tiền, thầy hỏi:
- Mary, em đang làm gì vậy ?
- Thưa thầy, em đang ném đồng tiền để biết cách trả lời các câu hỏi. Nếu đồng tiền rơi xuống mặt sấp thì em trả lời là sai, nếu mặt ngửa là đúng.
Đến khi sắp thu bài, thầy giáo để ý thấy Mary một mặt nhìn bài, một mặt thẩy đồng tiền nhanh hơn. Thầy hỏi:
- Em làm gì nữa vậy hả Mary?
- Thưa thầy, em đang kiểm tra lại các câu trả lời ạ!1148
Hương tình thơ ấu phôi thai
Mất còn sao biết tìm ai phương nào
Cùng người ấy đi vào trong mộng
Bên tình yêu chẳng động lòng đâu
Một lần tưởng đã gặp nhau
Theo chung một hướng đi vào Tự Do
Cửa lòng vẫn đắn đo khép kín
Thuyền theo sông, bỏ bến chia đôi
Giao thoa Tình bỗng lên ngôi
Xây thành một khối suốt đời thờ tôn
Yêu nhau mãi... giữa hoàng hôn...
2923
Xiển làm thuốc. cho nên vua thường vời vào kinh chữa bệnh. Một hôm, vua đang nô đùa cùng bầy cung phi, thì thấy Xiển bước vào. Vua ngạc nhin hỏi có việc gì. Xiển đáp:
- Hạ thần nghe nói Hoàng thượng mắc phải bốn bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là "tứ chứng nan y", nên vội vàng vào thăm Hoàng thượng.
Vua khó chịu nói:
- Thiên hạ ác miệng nói càn như vậy, chứ lâu nay Trẫm vẫn khỏe mạnh, có việc gì đâu! À thế "tứ chứng nan y" là những bệnh gì?
Xiển tâu: - Dạ "tứ chứng nan y" họ nói đó là què, mù, câm điếc.
Vua nổi giận:
- Ðộc ác đến mức ấy là cùng! Trẫm mà biết kẻ nào bịa chuyện phao đồn ra đầu tiên thì Trẫm sẽ cắt lưỡi chứ không tha!
Xiển nói:
- Hạ thần nghe thiên hạ đồn như vậy. Bây giờ mới biết là sai. Nhưng nghĩ cho kỹ, thì lại thấy là có nguyên do cả đấy ạ!
Vua hỏi: - Nguyên do như thế nào?
Xiển giả bộ rụt rè: - Xin Hoàng thượng tha tội kẻ hạ thần mới dám nói.
Vùa bằng lòng. Xiển nói:
- Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc dày xéo mà Hoàng thượng cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họn lầm tưởng là ngài điếc.
Vua biết Xiển chửi mình, tức uất người nhưng không đủ lý lẽ để bắt tội được.2700
Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổị Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đị Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơị
Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm saỏ Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Ðàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấụ Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.
- Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hễ mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh", chị hỏng nghe saỏ
Má tôi chẩng hẩng:
- Vậỷ
- Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ?
- Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôị
Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.
Má tôi cũng khóc nhiều rồị
Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôị Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt, "Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó - bà chỉ tay ra bến - gần hết đời rồi tao có được vui đâu".
Ðó là lúc "ổng", tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.
Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.
Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậỵ Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng.
Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nộị Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, "làm gì má cũng phải giữ ba", tôi đùạ má tôi xua tay:
- Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.
Nói rồi má tôi trùm cái khăn lên đầu bước xuống xuồng, đưa tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến, đôi mắt như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôị Chơ vơ, cô độc. Má biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói với theo:
- Sao má lo quá, má sợ ba mầy, ổng mà chết ổng cũng xuống sông để chết.
Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồị
Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩạ Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổị Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu tiụ Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông . Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước, đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng lộng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đềụ Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơị Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héọ Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồị Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kiạ Ba tôi thở dàị Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội làu bàu: "Vậy ra má đã làm sai cái gì?" và má tôi tuyệt vọng: "Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?".
Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một ngườị Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỷ tỷ lý do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ... mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nộị Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôị Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.
Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ rạ Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nàọ Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồị Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt.
Ở cái xóm quê, mười người đàn ông thì nhậu nhẹt hết chín, trong chín người hết năm nhậu về chửi vợ, đánh vợ như đánh bịch muối, ba tôi là người duy nhất còn lạị Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụỵ Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.
Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngàỵ Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti-vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầụ Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi: "Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt saỏ".
Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đờị Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoàị
Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.
Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than:
- Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.
Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì cười:
- Dà, đêm nay nhiều gió thiệt - Dì vẹt mớ quần áo, kim chỉ trên cái sạp tre - Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.
Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghẹ Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đối mặt với nhaụ Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay mầu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheọ Má tôi nghĩ thầm trong bụng: "Xấu hơn mình nhiều". Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Ðồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở, với lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng: "Cha có trà uống thì còn gì bằng, mà chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm". Dì ngước lên cười: "Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó...". Má tôi hỏi:
- Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được saỏ
- Dà, cũng được, chị.
- Ủa, chồng chị đâủ
- Dà, dì bối rối, ảnh... đi xa lắm.
- Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.
Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhaụ Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:
- Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.
Tốt saỏ Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầỵ Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kiạ Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xấp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc mầụ Má tôi vọt miệng:
- Ủa, chị có cháu nhỏ à?
Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau nặng. "Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừạ Tôi... tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cườị..". Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại: "Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôị Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồị..".
Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào:
- Ðàn bà mình sao khổ vậỷ
Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồị Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữạ Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữạ Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đấu mặt lại ngủ... Còn người ta, nhớ thương đứt ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống. Ðau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất càỵ Dường như trời bớt gió nhiều rồị Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:
- Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.
- Sớm vậy saỏ
- Dạ, tôi thường đi... trước lúc người ta thức...
- Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong...
- Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.
Vậy rồi hai người chia nhau đị Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại: "Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi". Má tôi không nói, quay đi và khóc.
Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má tôi cũng không kể với ba cái đêm gặp "tình địch" ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn mầu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.
... Bây giờ má tôi muốn gặp dì, nhưng lâu quá, chờ hoài không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi, không biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội tôi, bình yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôị
Ðó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảỵ
Trong buổi tiệc tầm thường mà chủ nhà cố gắng làm ra vẻ thật long trọng, một thực khách vừa uống xong tách nước nóng sau khi tráng miệng thì có tên hầu bàn đến hỏi rằng:
Thưa ngài dùng thêm tách nữa không? Ngài dùng trà hay cà phê.
Ông khách đáp:
Cám ơn anh! Nếu tách tôi uống vừa rồi là cà phê thì anh đem lại cho tôi một tách trà, con nếu đó là trà thì tôi muốn uống cà phê.
2854
Một người đàn ông bước vào một Công ty cho vay nợ và hỏi phải trả lãi bao nhiêu nếu anh ta vậy hai lăm đô la trong sáu tháng.
- Một đô la và năm mươi xen - nhân viên công ty nói với anh ta.
Anh ta nói:
- Được lắm. Tôi xin vay số tiền hai lăm đô là, nhưng tôi muốn xin để lại đây chiếc xe ôtô mới của tôi làm đồ thế chấp cho các ông cho đến khi nào tôi trả lại hai lăm đô la!
Ngày hôm sau, anh ta kể lại câu chuyên này với anh bạn.
Người bạn nói:
- Họ chắc chắn phải nghĩ cậu điên, có đời thủa nhà ai lại thế chấp chiếc xe ôtô mới để công ty cho vay nợ hai lăm đô la trong sáu tháng!
Anh ta nói:
- Thì cứ để người ta cho tớ là điên cũng được. Ngày mai tớ sẽ đi châu Ấu trong sáu tháng. Ơở đâu mà tớ có thể đỗ xe với khoảng thời gian lâu như thế mà chỉ phải trả một đô la rưỡi hả cậu?
Người tài xế xe tải dừng lại trước một phụ nữ xinh đẹp xin quá giang với chiếc can nhựa.
- Bia đấy à? - Anh ta tò mò hỏi.
- Không.
- Rượu vang đỏ?
- Không.
- Vậy chất lỏng trong can là thứ gì?
- Xăng.
- Cô mang nó theo làm chi? Thời buổi này cây xăng mọc nhan nhản khắp nơi...
- Tôi thường vẫy xe đi nhờ và thừa biết giới tài xế đường dài các anh! Khi chạy tới một cánh rừng vắng là ai cũng giở cái điệp khúc muôn thuở: “Hết xăng!”.913
Một phụ nữ hỏi ông chủ hiệu về loại thuốc dưỡng da đang bày trên tủ:
- Thưa ông, loại thuốc này có tác dụng không? Ông chủ liền nghiêm giọng quay lại gọi một cô gái trẻ măng:
- Mẹ ơi, mẹ cho bà này xem làn da của mẹ đi!
2396
Người cao làm thợ quét vôi, người đeo kính cận hút trôi màn hình. Còn dân thấp khớp chúng mình...
Hai người bạn lâu ngày gặp nhau:
- Lúc này nghề nghiệp sao rồi?
- Tôi bị thất nghiệp mấy tháng rồi. Tôi có bệnh nên đứng lâu cũng không được, ngồi lâu cũng chẳng xong, bất cứ sự xáo trộn dù nhỏ nào của thời tiết cũng làm tôi mệt mỏi.
- Tóm lại là ông mắc bệnh gì?
- Bệnh thấp khớp.
- Trời, tưởng gì. Chắc chắn, tôi sẽ kiếm được cho ông việc làm phù hợp.
- Việc gì?
- Dự báo thời tiết.
1386
Sau buổi lễ tựu trường, thầy hiệu trưởng đi một vòng quanh các lớp để kiểm tra ý thức học tập của học sinh. Đột nhiên, nghe thấy tiếng ồn khủng khiếp phát ra từ một phòng học, ông liền chạy vào và thấy cậu trai cao nhất lớp đang hò hét to mồm nhất.
Ông hiệu trưởng tóm lấy cậu trai nọ, lôi lên phòng giám hiệu, quát cho một trận và bắt ngồi ở đó đến khi nào cậu ta chịu xin lỗi.
Trở lại phòng học, thầy hiệu trưởng lập lại trật tự và lên lớp cho các học sinh một hồi về sự quan trọng của ý thức kỷ luật. Sau hơn nửa giờ, ông hỏi:
- Bây giờ có ai muốn nói gì nữa không?
Một nữ sinh đứng lên, lí nhí:
- Thưa thầy, xin thầy vui lòng trả lại giáo viên cho chúng em!
Thầy giáo:
- Tất cả nộp bài về nhà!
Học sinh:
- Thưa thầy, hôm nay mới là ngày khai trường, làm gì có bài về nhà?
Thầy giáo:
- Thế à! Vậy thì đây là cái cớ cuối cùng và duy nhất trong cả năm học được tôi chấp nhận cho việc không làm bài về nhà đấy nhé!
Trời buông gió mây chiều trôi lững thững
Gieo lá vàng giăng mắc trải đường đi
Bước chân ai nghe xào xạc buồn hiu
Người phu quét đường mồ hôi lấm tấm
Hàng phượng vĩ ngày hè hoa rực đỏ
Đứng chơ vơ càng ngượng ngịu khẳng khiu
Trên ghế giá người chìm trong thinh lặng
Dõi bâng quơ nhìn lá một chiều Thu.
Một quý bà ngồi lên xe ngựa, anh xà ích không tài nào thúc được chú ngựa cất bước, anh ta tuyệt vọng quay sang cầu xin bà khách:
- Bà làm ơn thở khẽ một chút, tiếng thở của bà làm con ngựa nhầm với tiếng "P... rư... rừ" của tôi mỗi khi tôi ra hiệu cho nó dừng lại.
1776
Một bà góa đi gọi hồn chồng: - Anh đó phải không, Bert?
- Ừ.
- Anh có khỏe không?
- Khỏe, người nhẹ lắm.
- Thế anh làm gì ở đó?
- Ôi, tuyệt lắm! Suốt ngày đi bơi và bắt cá.
- Có cần em gửi xuống thứ gì không?
- Giun.
- Anh nuôi cá cảnh ư? Hay làm mồi câu?
- Để ăn, suốt ngày xơi cá, thèm thịt quá!
- Khiếp! Anh đùa à, ai lại đi ăn giun?
- Quên không nói cho em, anh bây giờ hóa thành con vịt rồi.
Trong bệnh viện tâm thần các bác sĩ quyết định làm một cuộc điều tra xem bệnh nhân nào có thể ra viện. Các câu hỏi đưa ra rất đơn giản như "mắt đâu", "mồm đâu", "mũi đâu"... nhưng không có bệnh nhân nào trả lời chính xác. Cứ hỏi mắt thì lại chỉ vào mồm, hỏi mồm thì chỉ vào tai... Duy nhất có một bệnh nhân đang ngủ, bác sĩ dựng dậy và hỏi:
- Mồm đâu? - Anh chàng ngáp một cái rõ to.
- Mắt đâu? - Anh lại đưa tay giụi mắt.
Lập tức bác sĩ viết giấy cho anh ta ra viện. Lúc đó các bệnh nhân khác xúm lại hỏi bí quyết của anh chàng nọ. Anh chàng lấy làm phấn khởi, vỗ đét một cái vào mông trả lời: "Các cậu phải biết nghĩ bằng cái đầu của mình đi chứ".927
Mùa hạn năm đó, tui quảy gùi, vác mác lội từng ăn ong. Đi từ suốt sáng cho tới trưa mà vẫn chưa cạo được ổ nào, còn đóng kèo gát toàn là loại mới ốp lưỡi mèo, mật mới tráng ống. Buồn tình, tui mới lột gùi để mác với dao tre một bên, lấy tấm vải nhựa ra, trải dựa gốc tràm, nằm ngủ một giấc. Tui nằm tréo nguẩy, chân này gác xiên lên chân kia. Lúc nghe nắng nóng nóng bên mang tai, tui mới giật mình thức dậy.
Cũng còn nằm nguyên tư thế cũ, tui móc gói thuốc ra vấn hút. Đang lúc nhả khói, phun mây phì phèo, tui bỗng nghe ở đâu đây có tiếng bầy ong mật vỗ cánh rì rào. Tui ngó dáo dác, định ngồi dậy đi tìm. Nhưng chực nhìn xuống cái chân đang tréo nguẩy của mình thì... trời đất! Ổ ong đang đóng dưới bụng ống chân tui. Thấy mình ngủ nằm tréo nguẩy, nó tưởng đâu cái kèo mà áp lại đóng.
"Mầy đem nạp mạng, sẵn đây tao cạo luôn". Nghĩ vậy nên tui hút mạnh mấy hơi thuốc phà khói vào tổ ong. Bị khói thuốc Gò Vấp cay mắt, bầy ong bỏ ổ, bay tán loạn. Tui với lấy cây dao tre để bên cạnh xắn lấy tàn ong bỏ đi, tấm tàn lớn bằng cái sàn vậy. Còn lại khúc mức, tui xeo thêm mấy nhát dao tre nữa, nó rớt xuống tấm vải nhựa cái đụi, một khối mật vàng óng bằng trái dừa khô nằm trưu trứu trên tấm vải nhựa.1183
Một con chuột và một con voi cùng đi qua chiếc cầu ọp ẹp. Chuột lên tiếng:
- Anh thấy không, chiếc cầu này đang run lên bần bật dưới sức nặng của “chúng ta” đấy!
Trong góc tường, hai con gián nói chuyện với nhau:
- Không biết tối nay chủ nhà có xịt thuốc trừ gián không nhỉ?
- Tại sao cậu lại mong như thế?
- À sáng mai con trai mình làm đám cưới. Nếu xịt được ít thuốc, nó sẽ bóng bẩy hơn!
Hai con bạch tuộc cùng xem tấm ảnh của siêu ca sĩ Madonna.
- Một cặp chân bốc lửa ! Chàng bạch tuộc đực khâm phục thốt lên.
- Ðúng, nhưng anh để ý mà xem, số chân mới ít ỏi làm sao. Chẳng hợp thời trang tí nào cả!2678
Một anh chồng được nổi tiếng là "Nể vợ" nhưng không bao giờ nhận danh hiệu đó và luôn bị bạn bè trêu chọc.
Những lúc lén đi nhậu với bạn bè, bao giờ anh cũng đem theo sổ hộ khẩu trong túi. Khi nào bí vì bạn bè động đến chuyện "Nể vợ" là anh ta rút phăng sổ hộ khẩu chỉ cho lũ bạn.
Nhìn vô đây nè, bây có thấy trong này ghi rõ tao là... Chủ hộ không?
2792
Trên con đường quan gồ ghề đá trắng, người đi chợ phủ làm từng đám nhộn nhịp. Những bác nhà quê, cổ phanh rám đỏ, bước dài, hơi hất đầu gối. Những người đàn bà gánh hàng chạy chạy từng bước nhỏ, một tay vung vẩy như làm dáng; họ không vội vàng, nhưng sao có vẻ tất tả.
Một cái xe tay lạch cạch vượt lên. Ba bốn người ngồi trên, có người phải vắt bộ giò đen, gầy và gân guốc lên cái chắn bùn. Bác xe cắm cổ kéo: vậy mà còn nghĩ chuyện chơi khoảnh, đợi gần sát một đám người bác bỗng quát lên; mấy chị con gái đang mải chuyện vội nhảy ngang một cái sang lề đường, điệu bộ rất xấu. Qua cơn hốt hoảng, họ tít mắt cười với nhau; vài chị lên tiếng trách mắng, nhưng lại trở lại ngay câu chuyện bỏ dở. Khách xe văng lại sau chuỗi cười ha hả, dài và khoái trá.
Lúc xe tới chỗ ngã ba gần chợ phủ, một người đàn ông trong bọn nhảy xuống. Điểm đủ ô và quạt trong tay rồi, ông ta bước vào hàng quán cạnh đó.
Mụ hàng đon đả:
- Mời ông Phó vô đây. Bữa ni có thịt cầy béo lắm.
Đó là một mụ già, giọng nói vạm vỡ hơi rè. Ông Phó ngồi trên chõng rồi, mụ không đợi bảo, rót đầy một cút rượu trắng, nút sơ bằng nhúm lá chuối khô, đem tới đặt trên bàn, trước mặt người khách hàng quen. Mùi men tỏa thơm trong quán hẹp: mụ hít hít mà nói:
- Tôi có pha thêm "nố ta" vô đó.
"Nố ta" tức là cái khoản rượu lậu.
Mụ lại bưng tới một đĩa thịt cầy, trông đen đen hơi bẩn; mùi riềng the gắt xộc vào mũi. Mụ nói:
- Ông Phó nhắm đi. Con chó béo ngậy, tôi mua chẵn mười quan đó, ông nhắm đi, uống rượu cho tỉnh người rồi mua bán cho tinh. à ông đi chợ làm chi đó?
- Tôi đi tậu con bò mụ nạ.
Mụ già hoạt bát, đưa đẩy câu chuyện. Mụ khen ông Phó giỏi làm ăn, tậu thêm được nhiều ruộng, đến đỗi năm con vừa bò vừa trâu làm không xuể. Vừa nói mụ vừa nhìn ông Phó, dõi theo từng gắp và từng tợp rượu, vẻ như chia sẻ sự ngon lành của khách.
Mặt béo ông Phó đỏ dần, khiến đôi môi càng tái đi. Ông nói:
- ấm bụng lạ. Rượu vô rồi thấy người mình như nở ra, như to thêm. Mụ cho tôi cút nữa.
Chợt ông nhìn ra đường mà kêu:
- Bác Xã! Bác Xã! Vô đây làm vài chén đã.
Người bị gọi như vậy, đang cắm đầu đi vội về phía chợ, đứng giật lại, rồi bước vô quán. Mụ hàng lanh lẹn lấy thêm rượu, đặt thêm một đôi đũa và một cái chén mà mụ đã thò ngón tay ngoáy cho bớt bẩn.
Bác Xã xoa hai tay vào nhau, nhìn chén rượu trắng lờ lờ và đĩa thịt chó, vẻ nắc nỏm. Ông Phó giơ tay:
- Mời bác. Ta!
Chén thù chén tạc, hai người chuyện nở như ngô rang. Họ ngồi trong dáng điệu quen, một chân co lên trên chõng cho đầu gối gần ngang cổ. Họ nhai cách chậm rãi, sau vài ba hớp rượu thì dừng lại, hút điếu thuốc lào hoặc xỉa răng và mút chúp chíp. Bác Xã càng uống càng tái mặt, lại càng điềm đạm hơn, trong khi ông Phó, say mèm, nói bậy bạ huyên thuyên, công kích người này người khác.
Trong não bị kích thích, ông hồi tưởng lại một mối hiềm cũ giữa ông và bác Xã. Câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, giữa hai chén rượu, nhân sự cạnh tranh về ngôi thứ sao đó, và mối hiềm đã kết thúc cũng giữa hai chén rượu, thứ nước cay kỳ dị có phép hun nóng những cuộc xung đột mà cũng làm nguôi dịu những sự hằn thù.
Vốn tính xung động, ông Phó thấy cái hồi ức trỗi dậy cách gay gắt; bụng ông cháy bừng, vì rượu, nhưng ông lầm tưởng đó là sự tức giận. Ông nghiền ngẫm lại mối thù hằn, những thiệt hại đã chịu. Ông bắt đầu nói bóng gió đến chuyện cũ.
Bác Xã thấy khó chịu. Bác đáp lại bằng những lời đo đắn, nhưng đích đáng.
Cuộc trao lời gay gắt dần. Ông Phó to tiếng và thô tục hơn, bác Xã cay độc hơn. Ông Phó vừa nói vừa nhổm nhổm như cách muốn xông tới.
Mụ quán bắt đầu lo ngại. Mụ nghĩ: "Rồi ai trả mình tiền rượu đây?". Một thằng bé hàng xóm khoảng năm sáu tuổi nhưng không mặc quần thơ thẩn vào đứng xem, tay chắp sau lưng làm cái bụng thêm ỏng. Vài ba người đi chợ, nghe tiếng cãi cọ, ghé nhìn rồi bỏ đi.
Thốt nhiên ông Phó đứng dậy, nắm cái cút lia mạnh vào mặt kẻ địch. Bác Xã nghiêng mình tránh kịp. Cái cút đập vào cột tre, vỡ toang. Sau tiếng vỡ, tiếp theo một giây im lặng ghê gớm. Mụ quán đứng run, không nói được nên lời. Mụ ấp úng kêu: "Ua trời là trời!".
Bác Xã vụt hất tung cái bàn: ông Phó bị bàn thúc tới ngã ngửa ra, cái chõng theo đà trượt về sau. Ông gượng dậy rất nhanh. Hai người bíu lấy nhau. Bác Xã nắm được cổ ông Phó vít xuống ghì chặt giữa hai bắp đùi, nắm tay lại tha hồ đấm: bác đấm như mưa vào hông, vào bụng, vào chân đối thủ; ông Phó hục hặc đầu rất mạnh cố gỡ.
Chợt từ mình ông Phó một vật văng ra, nẩy trên đất rồi trượt trượt tới nấp dưới chân tủ rượu. Cuộc đấu vẫn mê mải. Bác Xã vẫn thắng thế, giáng nắm tay túi bụi lên mình ông Phó.
Ông này gỡ được đầu ra, vừa định đứng thẳng người dậy, thì lại bị một quả đấm vào hông, chỗ mạng mỡ. Ông "ực" một tiếng, lảo đảo, hơi há miệng. Mắt ông mờ đi, rồi mềm như bún, ông sụp đổ xuống đất, nằm quỵ im lặng.
Bác Xã dừng lại, hai bàn tay còn nắm. Bác đá hất mình ông Phó cho bật ngửa ra, thân hình ông này giật nẩy rồi từ từ đổ xuống. Ông không thở nữa, hai mắt trương trắng dã, mép sùi chút bọt. Thằng bé đứng coi kêu lên: "Chết rồi! Chết rồi!" và chạy đi loan báo tin án mạng.
Tiếng kêu của nó đánh thức sát nhân. Bác Xã nhìn cái xác một lần cuối cùng, nhìn xung quanh một thoáng nhanh rồi như cách không việc gì đã xảy ra, không có vẻ đi trốn chút nào, bác thủng thẳng bước ra, vừa đi vừa nói: "Tôi ra chợ đây, tôi ra chợ". Mụ hàng vội nắm lấy áo bác, kêu ầm: "Không được, không được, ông định đổ vạ cho tôi à?". Bác Xã hất tay mụ, khiến áo bác rách soạc một đường dài; đoạn bác bỏ đi.
Bị hất ngã, mụ quán ngồi bệt luôn trên đất. Mụ nhìn quanh vẻ ngờ ngạc, không biết làm thế nào. Mụ lô la: "Ua làng xóm ơi, đến mà coi, ông Xã đập chết ông Phó rồi!". Rồi mụ nói nhỏ một mình, giọng mệt nhọc vì kinh khủng: "Ua trời ơi là trời! Có ai ngờ ri không!".
Mắt mụ chợt để ý đến vật nằm cạnh chân tủ. Mụ bò lệt sệt trên đất, cầm lấy xem. Đó là một cái ví đã cũ bụng dày cộm. Vì bị đánh văng, ví nằm há miệng để lộ sống lưng của một tệp giấy dày; mụ rút tệp giấy ra xem. Do những hình vẽ màu và mùi thơm đặc biệt, cái mùi thơm "Tây", mụ nhận ra giấy bạc. Trong một cử chỉ gần như vô thức, mụ giắt xấp bạc vào thắt lưng, vứt cái ví vào chỗ cũ.
Người hàng xóm và người đi đường dần dần kéo đến, xúm quanh cái xác. Mụ nói như cần phải tự biện bạch ngay: "Ông Xã Điều đó, bà con ạ, ông Xã Điều đập mà nên nông nỗi rứa đó!".
Nhưng bây giờ, mối lo ngại của mụ không phải là cái xác đang nằm sóng sượt giữa quán mụ nữa. Mụ chỉ nghĩ đến xấp bạc. Vì lật đật, mụ giắt không được kỹ. Mụ ngờ nó còn lòi ra ngoài thắt lưng, nhưng không dám nhìn xuống: mụ bèn giữ ép vạt áo nâu trên bụng.
Người ta đứng nhìn xác chết, tò mò, không ai nghĩ đến chuyện cứu sống hay đi báo quan. Tiếng rầm rì nổi lên: người nào thấy xác rồi thì kêu một tiếng sẽ hoặc chặc lưỡi, bỏ ra ngoài cho người khác len vào. Họ hỏi nhau: "Ai chết đó?".
Vừa lo lắng nghĩ đến tập bạc, mụ hàng vừa nói vẩn vơ: "Rứa đó làng xóm nạ, nông nỗi rứa đó". Bứt rứt, không thể ngồi yên được, mụ đứng dậy đi lại, nhặt những mảnh vỡ, rồi nhân dịp đó đi ra sau. Vứt xong những mảnh vỡ vào đống rác, mụ ghé vào buồng, rút tập giấy bạc để cất vào rương tiền.
Ngoài kia, có tiếng đàn ông nói:
- Phải đi mời quan Phủ chớ, để mãi ri à?
Nghe tiếng "quan", mụ đâm luống cuống, mụ hí hoáy mãi không sao tra chìa khoá vào ổ được. Mụ bứt vứt giấy bạc vào đống quần áo tấp cạnh rương. Nhưng vì tay run quá, mụ vứt trật ra ngoài. Tập bạc đập vào vách, rơi xuống lăn cạnh chân mụ. Mụ toát mồ hôi: tiếng động vừa rồi, mụ nghe vang lên, tưởng chừng ngoài kia họ đều nghe rõ. Mụ đứng tần ngần một giây, rồi như thể chịu phục tùng số mệnh, như biết rằng mình sẽ không nuốt trôi được của gian kia, mụ cúi nhặt bạc, lận lại vào trong mình, đi ra. Mụ đã quyết định: Mụ sẽ trả lại số bạc. Mụ khom khom vờ nhặt những mảnh chai vụn, dạo bàn tay dưới gầm tủ rượu, lấy cái ví giắt nhanh tập bạc vào, rồi giơ ví trước mọi người mà kêu lên: "Nì, của ông Phó văng ra đó, bà con coi ni! Tôi tìm thấy dưới tủ, dưới ni đây!". Cẩn thận, như cách để cho người ta tin hơn, mụ chỉ vào chân tủ rượu.
Đoạn mụ tới đặt cái ví trên bụng xác chết. Có ai nói: "Chắc nhiều bạc trong nớ"; không hiểu tại sao, mụ quán thấy vui sướng nở ruột nở gan, gần như kiêu hãnh. Mụ nhìn mọi người, như muốn nói: "Tôi có biết, rứa mà tôi không lấy".
*
* *
Bây giờ, chuyện đã kết liễu. Mụ quán có bị đòi lên nha hai lần; quan Phủ hỏi mụ cặn kẽ, vặn điều này, bẻ lời kia. Mụ cuống lên, trả lời bậy, rồi lại phản cung. Thầy Đề gắt om. Người ta chép, người ta đọc lại cho mụ nghe biên bản lời khai, người ta bắt mụ điểm chỉ; mụ để mặc cho làm, lòng sợ hãi trước tất cả những nghi thức rắc rối, kỳ cục kia. Và mụ mừng rằng mình đã khôn ngoan trả lại tập bạc. Mụ nghĩ: "May! Thật là trời phật phù hộ, xui mình không cất được tiền vô rương".
án đã xử xong ở tòa sơ cấp. Bác Xã chờ ngày giải tỉnh để người ta thẩm lại án. Mụ quán lại được yên ổn làm ăn như cũ.
Một đôi khi ngồi buồn không có khách hoặc nằm chưa ngủ được, mụ quán nghĩ đến tập giấy bạc. Mụ ước lượng giá trị của nó: "ít ra cũng dăm chục, tập bạc dày lắm; vả ông Phó hôm ấy định đi mua bò".
Năm chục! Cả một gia tài! Mụ tưởng nghe lại mùi giấy bạc thơm thơm. Chao ôi! Đã một lần mụ mang năm chục trong thắt lưng! Vậy mà trời phật không độ, tiền đến với mụ rồi tiền lại đi, giống như chuyện những người kém phúc kia, bắt được thoi vàng thì vàng hóa ngay thành đất. Mụ buồn rầu nhưng đành chịu.
Nhưng mối tiếc tham nung nấu dần lòng mụ. Mụ bắt đầu tự trách mình ngu dại, tiền đến trong tay lại nhè xua ra. Sự lo sợ của mụ thực đã quàng xiên: nào có ai chứng kiến việc mụ lấy bạc? Thằng bé hình như cũng không thấy cái ví văng ra, nếu thấy nó đã mách lại cho người ta nghe rồi. Ai có thể biết được ông Phó mang bạc trong mình? Có bà Phó, nhưng bà có dám đoan chắc rằng bạc mất tại quán rượu không? Mụ cứ việc giấu kỹ tiền, chôn xuống đất nếu cần, rồi ít lâu sau, khi việc đã nguôi, lấy ra mà tiêu phí. Với năm chục, mụ có thể mua một chức Nhiêu cho đứa em trai, mở to thêm quán rượu, và nhất là cất lại mả chồng, điều dự định xưa cũ mà vì đồng tiền eo hẹp mụ chưa thực hiện được.
Mụ nghiền ngẫm ngần ấy ý nghĩ, lâu dần thành một ám ảnh. Mối tiếc của khiến mụ lúc đầu buồn rầu, rồi đau xót, rồi gần như phẫn nộ, như thể mụ đã bị ai làm thiệt hại. Việc buôn bán của mụ kém sút đi.
Sau cùng, không ngăn được nữa, một hôm mụ lên quan! Mụ lên đòi lại số tiền.
Thầy Đề, người kinh đô, thấy mụ bèn hỏi:
- Chi đó nữa, mạ?
Mụ chào lễ phép rồi nói duyên cớ cuộc đi của mình. Các thầy cười ầm cả lên. Thầy Đề vặn:
- Rứa đó là tiền của mạ?
Mụ đáp rất cứng cỏi:
- Tiền của tôi.
- Chứng cớ ở mô?
A, điều đó mụ chưa bao giờ nghĩ đến. Hình như trong bụng, mụ cho, cách rất tự nhiên, rằng không ai chối cãi được quyền sở hữu của mụ trên số bạc mà mụ đã cầm, đã ngửi thấy mùi thơm, đã lận trong thắt lưng, đã định bỏ vào rương, chung lộn với tiền mình. Không phải mụ ngu ngốc, nhưng lòng tham bừng cháy và nỗi tiếc day dứt đã làm loạn trí nghĩ của mụ. Mụ bèn đáp.
- Không, tiền của tôi thật mà.
Người ta đòi cho được chứng cớ: mụ quán, kém lý nhưng cứng cổ, chỉ đáp một mạch, giọng chậm rãi và tin tưởng:
- Tiền của tôi... tiền của tôi...
Thấy cái trò đùa kéo dài, người ta đuổi mụ ra; mụ không chịu. Một bác lính lệ nắm tay mụ kéo, mụ cưỡng lại, ngồi sụp, cho chân trượt sệt sệt trên nền gạch hoa. Lôi đến đầu hè, thấy chung quanh không có ai, bác lệ mới ghé tai nói nhỏ:
- Mụ mần chi rứa cho mất công. Quan với các thầy chia nhau lủm hết từ đời mô rồi.
- Lủm cái chi? - Mụ lơ ngơ hỏi lại.
- Cái khoản tiền mụ đòi đó.
Bác lính cười khề khề, nhe hàng răng vẩu vàng ệch.
Mụ nhìn bác với đôi mắt ngơ ngơ ngác ngác, như không hiểu hoặc không muốn hiểu. Chán quá bác lính bỏ đi.
Tan buổi hầu, mụ mới chịu ra về. Hôm sau mụ lại đến, rồi những hôm sau nữa, đều đặn y như người làm việc bàn giấy. Mụ đem dùng cái khí giới độc nhất của đám dân thôn quê hèn yếu: sự dai dẳng. Mụ ngồi bệt trên nền gạch, đầu nghiêng, một tay tì má, trông như cách lo nghĩ. Thỉnh thoảng, mụ nhắm mạnh mắt, làm cho một tí nước mắt kẻ già tiết ra ở khóe mi màu đo đỏ. Theo tật quen, da gò má bên phải của mụ đôi khi giật giật, khiến những nếp nhăn hình cánh quạt giãn ra, co lại.
Ngồi buồn, mụ chuồi người nhặt một cái kim găm, dùng đầu ngón tay vuốt cho sạch rồi gài lên khăn chít. Hoặc mụ lê tới gần sọt giấy, lấy ra từng mảnh giấy một, căng thẳng ra như cách muốn đọc chữ trong ấy, đoạn lại vứt vào sọt.
Người ta quát mắng, mụ ngồi thu mình lại như để vững thế thủ hơn. Càng bị xua đuổi, mụ càng bám dai, càng tin tưởng rằng mình đã chịu thiệt hại.
Thế rồi quan phủ nổi nóng. Dọa suông không được, ông sai đem giam mụ. Mụ bị giam hai ngày; thằng em lên xin tha cho mụ, phải dùng sức mới đưa được mụ về nhà.
Từ đó, mụ thành buồn bã, câm lặng; tập bạc ám ảnh mụ như một bóng ma. Mụ có thêm một cớ để chua xót vì đời, cái đời độc dữ và cướp bóc.
Chị vợ phụng phịu nói với chồng:
Anh chàng diễn viên trong kịch tỏ tình với người yêu thật là nồng nhiệt. Còn anh, chẳng bao giờ nói nổi với em một câu như thế.
Nhưng em biết rằng anh ta khác với anh. Anh ta làm như vậy là được trả lương, còn anh...
2856
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê ...
Bờ đẹp đẽ cát vàng
-- Thoai thoải hàng thông đứng --
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng ...
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt ...
Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết,
Để những khi bọt tung trắng xóa
Và gió về bay tỏa nơi nơi
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi