Ông Tư Mốt chỉ cái dải xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh dập dờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái "mấy hồi" của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt).
Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc "mứt" nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, giậm chân giậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sĩ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn.
Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá "Cương quyết chỉ chết vì già".
Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi ông còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về.
Nên ông bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, "Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế". Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rộng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hóa kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um...
Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, "Có chớ sao không, hễ mày nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi". Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi bệnh giùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra.
Thuốc hết, huyện chưa kịp gửi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mày quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sĩ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nỗi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, "Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...". Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi.
Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong "mà". Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chỗ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao.
Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gửi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi.
Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẽ thọt "Ba em gửi anh ít khoai" rồi về. Lần sau, nó xắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi "Ăn khoai nè". Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gũi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, "Con Nga lo cho anh bay xong chưa ? Mắc gì mà mày cười suốt từ ngoài đường vào đây ?". Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa...
Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng:
- Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ.
Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẽ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề.
Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào).
Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không ? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mày có con rồi, mày đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, "Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ". Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn.
Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà.
Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ nghiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, "Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta ? Em hổng có đi chung" (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười, coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh ?
Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.
Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao ? Tuyệt không đáng gì à ? 1473
Nhà nọ, có một ả tính hay khờ khạo. Khi đi lấy chồng, chồng biết vậy mới giao hẹn: "Muốn làm việc gì thì cũng phải hỏi tôi rồi mới được làm".
Thấy cái váy nâu đã cũ, chồng mới may cho vợ một cái váy lụa. Hôm có khách, chị vợ đứng trong nhà cầm váy mới giơ khỏi cửa buồng hỏi chồng:
- Mặc váy nha?
Người chồng nói trệch ra để khách không biết tính đần dại của vợ mình:
- ừ thì đem mặc cho em.
Bỗng từ trong buồng tiếng chị vợ vọng ra:
- Không! Tôi mặc cho tôi kia, không mặc cho em đâu!405
Ðể tình yêu của bạn trở thành mãi mãi Khi tình yêu đến, có người vồn vã đón nhận, có người trìu mến nâng niu, có người hững hờ, lạnh nhạt...Những thái độ ấy, xét cho cùng, không phải tự nhiên mà có. Nó tất nhiên xuất phát từ ý nghĩ mà bạn đang nhìn tình yêu từ gó độ nào và tình yêu ấy đối với bạn quan trọng ra sao..Tuy nhiên các nhà tâm lý đã rất...tâm lý khi "soạn thảo" ra những lời khuyên tốt nhất cho bạn và tất nhiên là dành cho mỗi trường hợp khác nhau với một mong muốn rằng: Hãy làm cho tình yêu của mình trở thành mãi mãi....! Những lời khuyên cho lần hẹn đầu tiên.... * Trong ngày hẹn đầu tiên, khi đến một hiệu ăn hay một quán cafe, hãy để ý đến thái độ mà anh ấy đối xử với người bồi bàn (lúc gọi thức ăn, khi tính tiền....). Ðiều ấy có liên quan gì đến bạn nhỉ? Bởi vì trong một thời gian không lâu nữa, anh ấy sẽ dành cách đối xử ấy cho bạn. Người bồi bàn là người "cho", họ sẽ phục vụ hết mình mà không màng đến người khách ấy sẽ dành cho mình thái độ gì; điều đó có nghĩa: Một khi bạn đã "điêu đứng" vì người đàn ông đó, anh ta sẽ đối xử với bạn theo cách như thế. * Nếu bạn muốn "chinh phục" chàng trai ấy ngay từ giây phút đầu tiên của buổi hẹn hò, hãy bộc lộ hết khả năng hiểu biết của mình thông qua những vấn đề mà hai người thảo luận, hãy cho anh ấy thấy rằng bạn là một cô gái đáng yêu cả hình thức lẫn cách sống, Tuy nhiên đừng nên tỏ ra mình hơn anh về mọi mặt. Anh ấy sẽ dễ dàng bị "sốc" khi có ý định đeo đuổi một cô gái có kiến thức vượt trội bản thân mình. * Ðừng quá thần tượng đối phương. Sẽ không có lợi gì cho bạn nếu bạn bắt đầu cuộc hẹn bằng những hình ảnh phóng đại mà bạn tự tạo ra khi nghĩ về anh ấy. Vì một khi "đời thường không như mộng" bạn sẽ thấy mình hụt hẫng, tình yêu theo đó cũng bay đi..... * Hòa nhập cái đang có vào cái sẽ có. Nghĩa là bạn phải biết chấp nhận anh ta cả ưu lẫn khuyết điểm. Nếu có thể như thế mối quan hệ mới phát triển tốt đẹp, còn bằng không, thì thà "một mình một cõi" còn hơn là phải tự ràng buộc mình vào một mối quan hệ chẳng đi về đâu... * Những điều trong mơ chỉ đẹp đối với những ai đã từng có những giấc mơ đó. Không nên làm nhàm chán cuộc hẹn bằng cách cứ huyên thuyên kể về những giấc mơ của mình. tất nhiên bạn có ý đồ của bạn khi "buộc lòng" nói ra những điều đó, nhưng những giấc mơ tương tự như: "Em vừa mơ thấy chúng mình cưới nhau anh ạ!" sẽ làm anh ấy "sợ" bạn mất thôi. * Tình yêu anh ơi cút bắt trò chơi...". Không phải ngẫu nhiên mà một nhạc sĩ lại ghi trên khung nhạc của mình những lời ca như thế. Nhưng xin hãy hiểu theo nghĩa lạc quan nhất của nó, hãy tạo thêm hứng thú cho những ngày hẹn hò bằng những trò chơi "ú tim". Tuy nhiên cũng không nên đi quá xa nhằm tránh để anh ấy nghĩ rằng bạn xem thường anh ta. * Sống thực với những gì mình nghĩ. Ngay từ giây phút đầu tiên bạn hãy sống bằng những quan điểm thật của mình. Vì khi mối quan hệ tiếp tục, bạn sẽ không thể nào che dấu được điều đó. Bạn yêu nhạc sôi động, bạn thích những chỗ đông người ...hãy cứ nói thật đi. Nếu anh ấy chấp nhận tính cách của bạn ngay từ thuở ban đầu nghĩa là anh ấy chấp nhận những gì thuộc về bạn. Tình yêu khởi đầu như thế sẽ bền vững hơn. * Bạn nói:"Anh đáng ghét lắm" sau lần gặp đầu tiên, thì mối quan hệ của hai người có thể đi xa hơn. Nhưng khi bạn bày tỏ: "Em yêu anh mất rồi" thì có lẽ bạn sẽ chẳng bao giờ gặp lại anh ấy nữa đâu. * Ðừng quá tán dương. Dù rằng bạn quá phấn khích vì anh ấy chính là người đàn ông lý tưởng mà bạn từng ước ao, nhưng cũng đừng tâng bốc anh ta bằng những lời trên mây. Cảm giác đó sẽ là cho người đàn ông nghĩ rằng bạn đang "vồ vập" anh ta. * Ðừng chủ động hẹn cho lần sau. Nếu người đàn ông ấy muốn gặp lại bạn tự khắc anh ta sẽ biết mình phải làm gì. Vì thế, việc hẹn hò cho một lần sau nữa tất nhiên không phải là của bạn ...Và một tình yêu mãi mãi Muốn làm cho tình yêu sau hôn nhân của bạn trở thành một tình yêu bất diệt thì trước tiên bạn hãy chắc chắn một điều rằng cuộc hôn nhân của bạn được dựng xây trên nền tảng của một tình yêu chân thành và đúng nghĩa. Cuộc sống hiện đại đã đưa người ta đi xa hơn trong tầm hiểu biết, đi cao hơn trong tầm hiểu biết, đi cao hơn trên những nấc thang danh vọng của cuộc đời. Nhưng cuộc sống ấy cũng chính là con dao hai lưỡi, nó có thể làm cho con người thực dụng hơn trong tình bạn, tính toán hơn trong đời sống thường ngày, và so đo hơn trong chính tình yêu của mình. Có một nghịch lý mà con người chúng ta lại mặc nhiên chấp nhận là nhiều cặp vợ chồng không lấy nhau vì tình yêu nhưng khi đứng đối diện trước toàn án ly hôn, họ bảo:"Chúng tôi không thể tiếp tục sống trong cuộc hôn nhân này vì nó không có tình yêu". Cái nghịch lý ấy làm tất cả chúng ta cảm thấy buồn cười, nhưng vừa cười vừa thương bạn nhỉ! Dù biết rằng không có một tôn chỉ nào có thể khiến cho một cuộc hôn nhân sống mãi, nhưng ít ra những "bí quyết" sau đây của các nhà tâm lý cũng có thể giúp bạn ít nhiều trong việc duy trì hạnh phúc: * Phải biết san sẻ những suy tư tình cảm của nhau. Thoạt nghe thì có vẻ chỉ là một điều dễ dàng. Tuy nhiên, việc hòa nhập một tâm hồn khác đối với một số người không phải là điều đơn giản, Nhưng bạn hãy thử nghĩ xem, nếu hai người yêu nhau mà không thể hòa nhập vào nhau thì làm sao có thể sống bên nhau cho đến suốt cuộc đời. * Cư xử với nhau như khách. Đừng lầm tưởng "như khách" nghĩa là xa lạ và khách sáo với nhau mà là phải biết trân trọng nhau như lúc ban đầu, cư xử một cách lịch thiệp và hòa nhã như tiếp đãi những người khách * Giải quyết xung đột. Có lẽ hơi thừa khi bạn đọc đến đây, vì không ai mà không hiểu điều đơn giản ấy. Nhưng vấn đề là ở chỗ bạn giải quyết xung đột như thế nào. Vì thật ra không có một "công thức" nào chỉ dẫn cho bạn cả. Mỗi trường hợp, mỗi tính cách phải giải quyết theo một kiểu khác nhau. Chẳng hạn, bạn không thể nào cải tay đôi với một anh chồng nóng tính như lửa, cũng như không thể ngồi im chịu trận khi đức lang quân của bạn là người thích "thuyết giáo" hay ưa lên lớp người khác..... * Có một câu nói mà bạn có thể ghi vào sổ tay của mình: "Ðàn ông khi hôn nụ hôn được nụ hôn thứ nhất, sẽ nài xin nụ hôn thứ hai, mạnh dạn hôn nụ hôn thứ ba, nhận nụ hôn thứ tư và chịu đựng tất cả những nụ hôn còn lại". Tất nhiên người viết bài này không có ý bảo rằng bạn nên dừng lại ở nụ hôn thứ hai hoặc ngồi đếm xem anh ấy hôn mình bao nhiêu cái, mà hãy biến tất cả những nụ hôn trong cuộc đời mình thành những nụ hôn lúc nào cũng mang một hương vị mới mẻ, và làm cho anh ấy luôn luôn trân trọng tình cảm của bạn như thuở ban đầu.
quý. Làm được điều đó bạn sẽ cảm thấy mối quan hệ của bạn đang được đặt trên nấc thang cao nhất của tầm giá trị.
Chúc một ngày hạnh phúc Chị tôi, trong bộ đồ bệnh nhân, bước đi theo người y tá vào phòng mổ. Nhìn dáng liêu xiêu của chị, tôi thấy chạnh lòng mà không dám khóc. Tôi chưa thấy ai sắp được mổ bước đi vô hồn mà vội vã như chị.
Năm mươi tuổi đời, xinh đẹp và độc thân. Giống như những bông hoa chưng trong mùa nắng; những cơn buồn nhiều hơn cuộc vui đã làm cho nhan sắc chị tàn phai nhanh dần theo năm tháng. Sống cởi mở với cuộc đời nhưng số phận vẫn như không buông tha cho chị. Một khối u nào đó, có lẽ hình thành từ những nỗi buồn lẻ loi trong nhiều năm tháng đã lớn dần lên trong người chị. Vài lần chị vẫn do dự chưa quyết định có nên cắt bỏ nó hay không. Vì sự tồn tại của nó hơn mười năm nay thật sự chưa phiền hà
đến chị là bao, ngoài những cơn mệt mỏi vô cớ không thường xuyên mà chị nghĩ rằng do mình bắt đầu có tuổi. Thế rồi sau một đợt khám tổng quát rồi đến khám chi tiết, bác sĩ nói bằng một giọng thật nhẹ nhàng nhưng gây chấn động chẳng khác nào quan tòa vừa tuyên án tử hình: một u nang buồng trứng, một u xơ tử cung cần cắt bỏ vì nó không còn chức năng gì nữa ngoài việc có thể chuyển sang ung thư và gây tử vong.
Chiều hôm qua, lúc hai chị em ngồi ở phòng khám, miệng chị mếu xệch, chực khóc: “Nên mổ không em?”. Chao ôi, đó là câu hỏi khó trả lời nhất trong đời tôi. Thường ngày, tôi vẫn trả lời những bệnh nhân của mình bằng những câu hỏi hết sức tự tin và tế nhị: “Không sao đâu, mổ xong là hết bệnh”, “Bệnh này thường lắm, nhiều người mổ lắm, nghỉ ngơi một thời gian thì bình phục hoàn toàn, không có tai biến gì đâu”... Thế nhưng, với chị, sao tôi không có can đảm trả lời như vậy. Mỗi một ca mổ đều là một sự can thiệp bất thường của bàn tay con người vào những chức năng sống của cơ thể. Làm sao ai có thể chắc chắn được không có điều gì xảy ra? Ai có thể chắc chắn được không hề có một tai biến nào. Mỗi một ca mổ là một chuyến đi về định mệnh. Trông bề ngoài, chị vẫn như một người khỏe mạnh, đang đi đứng yên lành. Nếu tôi lắc đầu: không nên mổ, thì tôi đã ngăn chặn một cơ hội sống của chị tôi về sau. Tôi đã trả lời chị bằng một câu hỏi: “Bác sĩ còn đưa ra cho chị phương án nào nữa không?”. “Không còn cách nào khác em ạ”. Chị thở dài ảo não.
Chiều hôm qua, trong khi hai chị em ngồi đợi làm thủ tục nhập viện, chị đã nói với tôi: “Em ạ, hay là mình đi thẳng lên Đà Lạt chơi một chuyến rồi về Nha Trang quách cho rồi”. Lời đề nghị mới hấp dẫn như thể dường như cuộc sống thật tươi đẹp không biết gì là tật là bệnh. Quả thật, chỉ cần bước ra khỏi Bệnh viện Từ Dũ này, đón một chuyến xe đò thì đến tối hai chị em chúng tôi đã ở nơi nhà ông anh. Lâu nay bận rộn không có dịp đi thăm nhau. Chỉ một chuyến xe, chúng tôi có thể thoát khỏi thành phố Sài Gòn bụi bặm nóng bức này và tận hưởng một không khí mát lạnh của vùng cao nguyên; để rồi vài ngày sau cuộc sống lại trở lại bình lặng như thành phố biển tôi đang sống; để rồi khối u vẫn cứ thỉnh thoảng cuộn lên những cơn mệt mỏi bất thường trong người chị như cơn sóng ngầm. Cuộc sống là một bài thi trắc nghiệm mà trong đó buộc mình phải đánh dấu vào một ô vuông nào đó. Ô vuông của cuộc đời chị, tôi nào dám mạnh mẽ đánh dấu vào.
Mới sáng hôm qua, hai chị em còn đi siêu thị lựa thứ này thứ kia, chị ướm thử hết áo này áo nọ, tỉ mỉ chọn lựa từng màu son môi, từng chiếc túi xách. Mỗi lần vào thành phố, chị không bao giờ quên việc đi mua sắm. Chị như luôn cảm thấy hạnh phúc trong công việc này. Mua sắm cho mình và mua quà cho mọi người trong nhà. Chị luôn có sở thích mua sắm và ăn hàng. Mỗi khi buồn, chị đi mua sắm. Mỗi khi buồn, chị đi ăn hàng. Mỗi lần chị rủ tôi đi ăn là tôi biết chị có điều không vui. Chị thích nói với tôi một câu: “Cuộc sống là món ăn mà buồn vui như gia vị”. Mới sáng hôm qua, chị hồn nhiên bên những chiếc tủ lạnh như những cô gái mới lớn mà buổi chiều chị đã như một bà già, lưng còng hẳn xuống và vai so lại ủ rũ như con gà mái đứng dưới mưa, mặc dù chị đang diện một bộ đồ thật đẹp. Ngồi trên hàng ghế đợi, có lẽ, chị cũng không nghĩ đến điều gì xa xôi quá hăm bốn tiếng đồng hồ. Chị đang chờ nghe gọi tên mình, chờ thủ tục nhập viện, rồi sau đó sẽ chờ phẫu thuật, chờ kết quả. Cả phần đời còn lại như được quyết định bằng hăm bốn tiếng đồng hồ nữa thôi. Tất cả quá khứ cũng trở nên vô nghĩa, tương lai thì miễn dự định. Vậy mà ngay trong chính cái thời khắc hăm bốn tiếng đồng hồ này, chị không làm gì được cho mình, và tôi không biết làm gì cho chị ngoài việc ngồi chờ.
Sáng hôm qua, tôi chở chị đi mua chim phóng sinh. Có ai đó mách rằng phóng sinh chim sẽ được mạnh khỏe và sống lâu. Những con chim nhỏ bé bay lên cao bên trên tháp chùa Vĩnh Nghiêm trông thật dễ thương. Chúng bỗng gieo trong lòng tôi một niềm tin mạnh mẽ rằng chị tôi sẽ khỏi bệnh. Những con chim như mang theo một lời nguyện cầu của tôi trình lên đấng tối cao nào đó, cầu xin cho chị tôi được an lành. Một người bạn của tôi nói đùa: “Chim ở đây quen rồi, chúng nó bay một vòng rồi quay trở lại chui vào lồng của người bán chim thôi”. Mong sao không phải như vậy. Nếu không thì số phận của người phụ nữ như chị tôi cũng luẩn quẩn như những con chim sẻ chỉ biết đường về lồng chim.
Cánh cửa tự động của phòng mổ khép lại sau lưng chị. Tôi có cảm tưởng mình không còn biết gì về chị nữa. Ngay cả bộ đồ mặc cho bệnh nhân mổ trên người chị cũng quá lạ lẫm. Chẳng lẽ nào đó là hình ảnh cuối cùng của chị mà tôi ghi nhận lại? Bây giờ có lẽ chị đang trả lời những câu hỏi của nhân viên gây mê. Những câu hỏi người ta thường hỏi cho đến lúc bệnh nhân không trả lời được nữa và chìm lỉm trong giấc ngủ của cơn tiền mê. Bây giờ có lẽ bác sĩ đang “khai đao”. Tôi bỗng hoảng hốt. Dường như tôi đang lạc mất chị. Tôi cố nhớ lại chị. Tôi cố tưởng tượng ra lúc hai chị em đang sóng sánh cùng nhau. Nhưng tôi bất lực. Ngày ngày chị chăm sóc cho mỗi người trong gia đình. Mọi thứ đều có bàn tay chăm chút của chị, nhưng dường như trong nhà không ai bận tâm đến những gì chị đã làm, cứ như một sự hiển nhiên. Bây giờ, thời gian như ngừng lại. Những kỷ niệm của tôi v53
Anh chồng bị gọi nhập ngũ, trước giờ lên đường, anh ta gọi người bạn thân nhất đến và nói: "Mày biết đấy, tao chỉ tin tưởng mày. Bây giờ, trước khi lên đường, tao giao cho mày chìa khóa trinh tiết của vợ tao. Sau 5 năm, nếu tao không trở về thì mày có toàn quyền sử dụng nó". Họ chia tay nhau, kẻ ở nhà, người ra quân cảng. Tàu sắp nhổ neo thì người bạn chạy ra bến, khoa chân múa tay lia lịa, anh chồng bắc tay làm loa, hỏi to: - Có chuyện gì th...ế...ế? Trên bờ, anh bạn thân gào lên: - Đưa nhầm chìa khóa r...ồ...i...!!!
Hoá ra anh cũng là người rất nhút nhát.
- Đúng thế, anh rất giống bố anh. Vì nếu bố anh không nhút nhát thì anh đã lớn hơn bây giờ ít nhất là 3 tuổi rồi.
1303
- Từ trường học đến cậu bao xa?
- À, khoảng 3km đường chim bay.
- Thế còn chim đi bộ thì bao xa?
- !!!
MR: Ê, hột mít!
AD: Người ta “lớn” dzầy mà hột mít hở?
MR: Ừ, thì là hột... vịt!
AD: (xách guốc lên)
Hai nữ sinh viên tâm sự:
AD1: (hơi bự): Ê! Thằng Tam “mỏng” hỏi tao ăn cơm quán nào chỉ nó với. Tao sợ bị “mọc đuôi” lắm! Có nên chỉ không vậy?
AD2: Ðuôi đầu gì! Ý nó nói mày mập đó!...
AD1: Trời!!! (xỉu)1073
Cô chủ và con sen đi đò. Con sen ăn trầu thế nào nhỡ tay đánh rơi cái ống vôi bạc của cô chủ xuống sông. Sợ cô chủ mắng nó mới lập mưu hỏi:
- Thưa cô, cái gì mà mình biết nó ở đâu rồi thì có cho là mất được không ạ?
Cô chủ vô tình trả lời:
- Thế thì cái ống vôi của cô không mất. Con biết nó nằm dưới đáy sông, con vừa đánh rơi xuống đấy ạ!
Một buổi trưa, Quỳnh vào hầu Chúa, không thấy Chúa ở cung, hỏi thị vệ, thì ra Chúa đương giấc. Quỳnh không được tiếp, sẵn bút nghiên, đề ngay hai chữ vào tường rồi giở ra về.
Lúc Chúa dậy ra công đường, thấy ở tường có hai chữ "ngọa sơn" nét mực hãy còn ướt, không biết ai đề và cũng không biết nghĩa làm sao, hỏi thị vệ mới hay Quỳnh đề. Đến buổi hầu chiều, đông đủ các quan, Chúa hỏi, không ai tán được, phải triệu Quỳnh đến.
Quỳnh đến, Chủa hỏi . Quỳnh thưa:
- Hai chữ ấy có nghĩa gì sâu sắc đâu, hạ thần cứ lấy nghĩa đen mà viết, không dám có ý tứ gì hiểm hóc cả.
- Cứ cắt nghĩa cho ta nghe, không hề chi mà ngại.
Quỳnh ngập ngừng mãi, mới nói:
- Chữ "ngọa" nghĩa là "nằm", "nằm" hẳn khong ai nằm không, tất phải ngáy, chữ "sơn" nghĩa là "núi", "núi" ắt phải có đèo, vậy hợp hai chữ làm một thì nghĩa là "ngáy đèo".
Cả triều thần ai cũng cười. Chúa cũng bật cười. Tan hầu, các quan trách Quỳnh:
- May mà Chúa rộng lượng, chứ không thì hôm nay ông mất đầu!
Quỳnh cười không nói gì.
2632
Ba chàng trai là bạn thân của nhau, cùng làm việc trong một công ty, lại cùng yêu cô Masako, một nhân viên mới được nhận vào làm. Masako thật xinh, hơn nữa đôi mắt nhìn mới đắm đuối làm sao.
Công ty không lớn lắm, chẳng bao lâu ba chàng trai đều hiểu bản thân họ đã xảy ra chuyện gì. Ba chàng đều ra sức “tấn công'' cô gái, hẹn cô đi xem phim, chơi công viên, ăn cơm hết lần này đến lần khác. Masako không từ chối một ai, nhận lời của cả ba chàng, vì thế chẳng chàng nào đoán chắc cuối cùng cô đã ngả về ai. Sau một thời gian nôn nóng chờ đợi, ba chàng không sao kiềm chế nổi và đều ngả bài ngửa với Masako: chính thức cầu hôn cô.
Masako trả lời ba chàng như nhau và đều hợp tình hợp lý: Lời cầu hôn quá đột ngột đối với cô, cô chưa hề chuẩn bị tư tưởng, xin cho cô được nghĩ ba ngày.
Ba ngày sau, ba chàng trai đúng hẹn đến nơi Masako chọn để gặp cô, chẳng ngờ ba chàng đều cùng gặp nhau ở đó. Ba chàng vô cùng hồi hộp, không biết Masako định liệu ra sao. Cậu A cố lấy vẻ bình tĩnh nói:
- Mình rất tự tin, Masako nhất định sẽ chọn mình.
Cậu B liền dội một gáo nước lạnh:
- Chưa chắc đâu, có lẽ cả ba chúng mình đều chưa đúng với ý cô ấy!
Cậu C dàn hòa:
- Chúng mình nói gì cũng vô ích thôi, chờ xem Masako quyết định như thế nào vậy.
Rồi Masako thướt tha đi tới, cô tỏ vẻ khó xử nói:
- Em vô cùng cảm ơn các anh đã dành tình cảm nồng nhiệt cho em, nhưng ba anh đều có những điều kiện không ai kém ai, vì thế em không biết chọn ai cả. Sau ba ngày suy nghĩ, em vẫn không sao đi đến quyết định cuối cùng được.
Cậu A sốt ruột hỏi:
- Vậy chúng tôi phải làm sao đây để có đủ tư cách trở thành ý trung nhân của em?
Masako dịu dàng đáp:
- Em nghĩ chỉ có thể quyết định sau khi được thấy kết quả phấn đấu của cả ba anh.
Cậu B nhanh nhảu nói:
- Như thế có nghĩa là từ nay trở đi, ai phấn đấu có hiệu quả hơn thì em lấy người ấy có phải không?
Masako gật đầu liền mấy cái. Ba chàng đưa mắt cho nhau, cảm thấy Masako nói rất có lý, đành nói:
- Thôi được rồi, chúng tôi làm theo ý em!
Masako ước hẹn với ba chàng sau ba năm nữa gặp lại ở nơi này.Từ đó trở đi, ba chàng trai ra sức phấn đấu, làm việc không biết mệt. Ba chàng ngầm thi đua với nhau, chỉ sợ người khác tiến nhanh hơn mình. Thấy thế, người trong công ty đều gọi họ là ''ba cỗ máy''. Trời không phụ người có công, chưa đến ba năm, cả ba chàng đều được công ty giao cho chức quản đốc.
Tối hôm trước ngày Masako tuyên bố quyết định chọn ai, ba chàng rủ nhau cùng vào một quán rượu. Họ đã đi tới thỏa thuận: Bất kể Masako chọn ai thì ba người vẫn là bạn thân như xưa. Ai không được Masako chọn cũng không nên chán nản, vẫn yêu công việc như yêu bạn gái thứ hai của mình, tranh thủ đạt thành tích cao hơn nữa.
Sáng hôm sau, Masako đến văn phòng, trao cho giám đốc đơn xin nghỉ việc.
Giám đốc tươi cười nói:
- Chóng quá nhỉ, hợp đồng của cô đã đến ngày hết hạn rồi! Ba năm trước, sau khi nhận được báo cáo của cô, tôi đã để ý quan sát ba chàng trai đó, quả nhiên họ tiến bộ với tốc độ phi thường. Chúc mừng cô, trong ba chàng ấy bất kỳ cô chọn ai, tôi cũng vui lòng làm ông mối. Ha, ha, ha...
Masako nghiêm trang nói:
- Thưa giám đốc, người thay chân tôi đang đợi ông ở ngoài cửa.
- Thế à? Thật không? Xin mời vào! - Giám đốc nói.
Masako ngoảnh lại vẫy tay, từ ngoài cửa bước vào một cô gái trẻ, xinh đẹp đến mức ai trông thấy cũng phải yêu. Giám đốc nghiêng mình trước cô gái mới đến:
- Xin chào và nhờ cô giúp đỡ! Giám đốc lấy trong két sắt một xấp tiền, bỏ vào phong bì, trao cho Masako để thưởng cho cô. Masako giơ hai tay đỡ lấy phong bì, cúi thấp người xuống nói:
- Xin cảm ơn giám đốc! Để tăng cường sức làm việc ở quý công ty, mong giám đốc từ nay về sau để ý nhiều đến công ty của chúng tôi.
Nói xong, Masako đưa cho giám đốc một tấm danh thiếp, trên đó in nổi bật mấy chữ sau:
YAMAMURA YOKO
Công ty cho thuê Sức Mạnh Tình Yêu.
2183
Trong phòng trực cấp cứu, ba bác sĩ đang đánh bạc. Họ lần lượt đặt giá cho ván bài của mình:
- Tôi đặt 100.000!
- Tôi chơi gấp đôi: 200.000!
- Tôi chấp cả hai ông luôn: 500.000! Con bệnh ở giường bên không nén nổi tò mò vì thấy canh bạc đã đến hồi "khát cháy cổ", anh ta ráng hết sức nhỏm dậy nhìn:
- Trời! Các ông chơi... bằng ống penixilin à?
2441
Nhân viên đến cơ quan làm việc với hai tai băng bó. Sếp ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra với cậu vậy?
- Hôm qua, vợ đi vắng nên tôi phải ủi đồ. Khi cô ấy gọi điện thoại về, tôi đã sơ ý nhấc bàn ủi lên nghe.
- Vô lý! Tại sao tai kia của anh cũng bị băng bó?
- Thưa, tôi lại nhầm lần nữa vì vội gọi bác sĩ.
2261
Ngày mình mới đặt chân đến đây, cái thành phố ở góc nước Mỹ này, mình thấy rất nhiều hoa. Hoa mọc hầu như khắp nơi, đến nỗi mình cứ tưởng ở đây hoa dại cũng đẹp đến vậy... Sau này mình mới biết rằng, từng khóm hoa ở đây đều có bàn tay người quan tâm chăm sóc; ngay cả những bụi hoa mọc ra từ những kẽ đá chung quanh nhà ai, cũng không phải mọc lên một cách tình cờ, như một loài hoa dại.
Năm đó mình học lớp mười, một cái lớp thật đặc biệt, chì có ba thằng con trai. Một thằng thì lúc nào cũng như ở trên mây; chẳng thèm ngó ai; nên mình cũng không thèm ngó hắn. Một thằng nữa thì trông yểu điệu thục nữ, phát ngán. Thằng thứ ba là mình, từ hồi học lớp chín đã được bọn cùng lớp đặt cho cái nick công tử bạc liêu. Mình không chơi với hai tên có tài, nhưng quái dị kia. Còn lại mười đứa con gái, thì khỏi nói - phá như qủy!
Ngày đầu tiên mình vào lớp, một nàng nghênh mặt lên, phán một câu: "Có vô lộn chuồng không đó?" Thú thực, ngoài những năm tiểu học ngây thơ, đây là năm đầu trung học, mình học chung với con gái, nên hơi mắc cỡ, chẳng nói năng gì, đi thẳng đến chỗ ngồi của hai tên cùng phái. Sau này, mình biết tên của nàng đó là Nhiên. Cũng dân số trong lớp như vậy, bọn mình học chung với nhau hai năm nữa; và cùng trải qua những kỳ thi của quận, của thành phố, rồi lên đến cấp quốc gia. Thân nhau hơn, vui hơn. Ừ, tuổi học trò dường như chỉ có vui; buồn có chăng, chỉ để trang điểm cho ra vẻ cuộc đời.
Và mãi đến những ngày cuối cùng của năm mười hai, mình và Nhiên mới có cái hẹn đầu tiên. Gọi là hẹn hò, phải không, vì đó là lần đầu chỉ có hai đứa với nhau. Hôm đó, không phải là chiếc áo dài trắng Nhiên vẫn mặc đến lớp hàng ngày, mà là một chiếc áo đầm với những chiếc bông to màu sáng thanh nhã. Đó là một buổi sáng cuối tuần bình yên, nắng dịu, mặt đất âm ẩm mát mẻ sau cơn mưa đêm hôm trước. Đó đây, lẩn khuất trong những đám cỏ xanh ven đường, là những cánh hoa dại.
"Nhân hái cho Nhiên mấy cành hoa dại kia đi" Vậy là những cánh hoa đầu tiên mình tặng một người con gái lại là những cánh hoa dại. Bây giờ, nghĩ lại, sao thấy mình dạo đó khờ qúa, chưa biết mua hoa để tặng người ta. "Nhân ơi, ở đó có nhiều hoa dại không?" Trong lá thư gửi cho mình mới đây, Nhiên đã hỏi mình như vậy.
Trả lời sao đây nhỉ?
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Suối Trường Sinh
Miya Jima nước Nhật Bản xưa kia là một hòn đảo nổi tiếng linh thiêng. Dân ở đảo này hầu như không ai có quyền chết.
Đảo này là một trong ba thắng cảnh đẹp nhất xứ Phù Tang. Toàn đảo có một ngôi đền danh tiếng ở ngay trên bờ biển. Cửa chính của đền hướng ra biển. Những lối đi trong đền dựng không biết bao nhiêu những cây đèn bằng đá, liên tiếp từ cửa này đến cửa khác. Nơi đây có những con nai đi lại nhởn nhơ không chút sợ sệt sự qua lại của những người mộ đạo. Không khí rất trong lành, biện một màu xanh biếc. Bên kia eo biển, xa xa hiện lên những dãy núi tim tím, những cánh buồm rơm vuông vắng của những chiếc thuyền đánh cá phản chiếu ánh sáng mặt trời, trông như những đám lửa nhỏ nổi lên mặt nước.
Trong số dân cư ngụ tại đảo nầy có hai vợ chồng người tiều phu già, hết sức già. Chồng là Yoshida, vợ là Fumi. Họ được cả làng yêu mến vị nể. Ai nấy đều khen sự kiên nhẫn chịu đựng mọi sự mà họ đã trải qua, và ca tụng sự trung thành của hai người đối với nhau trên sáu mươi năm chung sống.
Họ không quen nhau mấy, hồi mà cha mẹ họ quyết định sự hôn nhân. Yoshida chưa bao giờ dám nói chuyện với Fumi, nhưng khi gặp nhau trên bãi biển thì chàng cứ nhìn nàng bằng cặp mắt trìu mến và cứ nhìn theo nàng mãi. Nàng đi thong thả, hơi cúi về phía trước(đó là lối đi của những thiếu nữ có giáo dục). Những ngày hội, chàng thích tìm nàng trong đám đông để thấy khuôn mặt trái soan của nàng, có cặp má đào đỏ hây, cái áo dài màu ngọc trai xám có thắt ngang một cái thắt lưng lớn, gấu áo viền bằng lụa nâu có thêu những bông cúc trắng.
Fumi cũng không khao khát ngày cưới lắm, vì nàng biết đời nàng đã được định đoạt rồi, và mấy tháng trước ngày cử hành hôn lễ, nàng đội cái mũ "mũ cưới" tượng trưng cho người con gái sắp thành hôn. Bản tính Fumi dịu dàng, mà nàng vẫn sợ trước những sự nghiêm khắc, những sự bất hòa có thể xảy ra giữa vợ chồng. Nàng nghĩ đến câu phương ngôn: "Lòng người đàn ông dễ thay đổi như trời thu". Nhưng nàng sẽ nhất định giữ được tình yêu của chồng bằng sự kiên nhẫn, dịu dàng và sự âu yếm kín đáo của nàng. Nàng có biết câu phương ngôn: "Nếu người ta ngồi ba năm trên một tản đá đó cũng sẽ nóng..."
Cuộc hôn nhân của Yoshida và Fumi đã được cha mẹ định đoạt đúng luật lệ cổ truyền, nên được vui vẻ và tồn tại giữa hai vợ chồng. Ngay từ buổi đầu, Yoshida yêu Fumi với tất cả mối tình nồng thắm của tuổi trẻ và Fumi đền đáp lại bằng sự yêu kính chồng rất mực.
Họ được hưởng những lúc vui sướng cũng như những hồi buồn bã. Vui, là họ sinh liên tiếp ba trai. Rất buồn là ba con lúc đã trưởng thành lại bị chết một ngày vì nghề đánh cá. Một hôm ra khơi, biển đã cướp mất cả ba người con. Yoshida và Fumi trong lòng tan nát, cố chịu đựng trước bạn bè, gượng cười ra vẻ thản nhiên. Nhưng khi chỉ có riêng họ, họ khóc sướt mướt. Tay áo họ luôn luôn đẫm lệ đau thương. Họ đặt bài vị ba con trên một cái bàn nhỏ bằng gỗ quý, tại một căn phòng đẹp nhất để ngày đêm tưởng niệm. Mỗi ngày trước bữa ăn, họ đặt thức ăn lên một cái bàn bằng gỗ sơn, đốt hương để khấn các con về thụ hưởng. Những lúc đó họ ngồi hàng giờ để nghĩ tới những người con đã mất.
Bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng, họ lấy sự kính yêu nhau làm nguồn an ủi duy nhất. Mỗi người đều muốn làm cho người kia bớt đau khổ, họ tìm đến cách âu yếm lẫn nhau. Dần dần tâm hồn họ bình thản trở lại, và họ trở nên kiên nhẫn. Họ lấy câu tục ngữ sau đây để tự an ủi: "Khi hoa anh đào đã tàn, không phải lấy sự tiếc thương mà làm cho hoa anh đào nở được"
Giờ đây họ đã già lắm, già như những con đồi mồi cổ kính. Yoshida thì nhăn nheo, khô héo, chân tay run rẩy, Fumi thì tóc và lông mày đã rụng nhẵn.
Người ta gặp họ đi chơi với nhau, bước chân chập chạp, vợ đi sau chồng một chút (vì tập tục như vậy) Thỉnh thoảng đôi cvợ chồng già này đi đến tận ngôi đền nguy nga làm cho hòn đảo nổi tiếng khắùp nước.
Ở nhà, dù Fumi đã nhiều tuổi, vẫn cố gắng giữ gìn nhà cửa được sạch sẽ, xinh xắn. Bà ưa màu trắng của bức tường bằng giấy và ánh sáng của chiếc chiếu mới với một ý nghĩ rất tế nhị hòa hợp tình cảm, bà thường thay đổi sự trang trí tùy theo thời tiết, tùy theo từng mùa hoặc tùy theo màu sắc của từng ngày, tùy theo nỗi buồn trong tâm tưởng khi treo những bức tranh lụa trên tường, một trong cái bình bằng đồng bà cắm ba cành hoa rất khéo léo mỹ thuật.
Đôi khi cạnh lọ hoa, bà đặt hai pho tượng nhỏ, tượng trưng cho hai ông bà già đang quét là thông. Đó là tiêu biểu tình nghĩa vợ chồng những cặp vợ chồng già được ví như hai cây thông đã mật thiếc mọc liền thân với nhau đến nỗi trông như một và cùng già bên nhau.
Cũng có khi Fumi đặt trên bàn một pho tượng sơn, tượng một vị thần mà bà thích nhất, một vị thần rất ngộ nghĩnh, có bộ râu dài, đội một cái mũ kỳ lạ, tay cầm một cái gậy, còn tay kia cầm một quyển kinh, đó là một trong bảy vị linh thần, mà là vị thần tượng trưng cho hạnh phúc của tuổi già.
Yoshida và Fumi kể là đôi vợ chồng già sung sướng, biết gác ra ngoài những nỗi khổ cực của loài người để hưởng sự yên tĩnh và thương yêu lẫn nhau.
Nhưng dù sao họ vẫn có một mối sầu vương vấn. Bây giờ họ đã quá già, lòng luyến tiếc thời trẻ trung xưa kia đã quá xa. Người nào cũng nghĩ rằng: Khi mà một trong hai người chết đi, người còn sống sẽ đau khổ biết chừng nào, cô đơn biết chừng nào! Giá bây giờ họ còn trẻ cả hai, họ sẽ hưởng được một cuộc sống lâu dài bên nhau. Đời sống họ sẽ trở nên thơ mộng biết bao, êm đềm biết bao!...
Một buổi thu, trời trong sqng, Yoshida như có một cảm hứng huyền bí gì, đi về phía rừng một mình. Nơi đây, trước kia ông đã làm nghề đốn củi rất cần cù, bây giờ trước khi chết muốn nhìn lại cây cối mà ông đã sống gần suốt đời.
Nhưng khi đến nơi, ông không còn nhận ra phong cảnh xa xưa kia nữa. Ngay cửa rừng ông không còn thấy cây Phong to lớn lá đỏ của mùa thu, nổi bật giữa đám lá thông xanh thẫm. Ông không nhận thấy cả cái suối nước trong, trong một cách lạ lùng, màu xanh lơ...
Sau khi đã ngồi, ông thấy khát nước, thấy có một núi trong xanh ngay cạnh lối đi. Với hai lòng bàn tay, ông bốc nước lên, uống thông thả...
Nào ngờ? Khi nhìn bóng mình trong suối nước, ông thấy
thay đổi hết: Tóc đã trở n%C 3?n đen nhánh, mặt hết nhăn nheo, trong người các bắp thịt có một sức mạnh đang vươn lên. Yoshida đã trẻ lại như người mới hai mươi tuổi, ông đã vô tình được nước suối "trường sinh".
Khỏe mạnh, tươi vui, đầy nhựa sống, ông già Yoshida bây giờ là một chàng thanh niên trẻ trung yêu đời. Anh ta sung sướng chạy về nhà.
Bà già Fumi trông thấy một thanh niên đẹp trai đi vào nhà. Bà thốt lên một tiếng: "Ồ" rồi từ ngạc nhiên đến sợ hãi, làm bà chết đứng như người mất trí.
Yoshida vội an ủi vợ và giải thích rõ ràng sự may mắn vừa đến với anh.
Bây giờ đến lượt bà lão đáng thương vừa cười vừa khóc vì sung sướng. Sáng mai bà cũng sẽ ra cái "suối tiên" đó. Uống nước rồi, khi về, bà cũng sẽ trẻ lại như một thiếu nữ hai mươi.
Hai vợ chồng sẽ lại sống cuộc đời tươi đẹp, với bao sự vui thú của tuổi trẻ và sẽ hài lòng khi nghĩ đến những kỷ niệm đã qua.
Sáng hôm sau khi nắng hồng mới hé, sau làn không khí trong trẻo. Fumi vội vàng đi ra cái suối nước trong... Yoshida ở nhà, anh ta đợi, không có gì sốt ruột. Anh biết rằng phải mất độ hai giờ cho một người già để đi đến suối, và lúc về sẽ mau hơn.
Vậy mà đã hơn hai giờ, Fumi vẫn chưa về. Yoshida ngạc nhiên: Từ suối về có bao xa, mà sao lâu đến thế? Rồi những giờ phút trôi qua, sự sốt ruột của anh càng lúc lại càng tăng.
Thời giờ cứ tiếp tục trôi đi một cách tàn nhẫn, chậm chạp. Đã ba giờ qua, bốn giờ qua, năm giờ qua... Sự gì đã xảy ra?
Yoshida không còn kiên nhẫn hơn được nữa, vì sự sợ hãi cứ tăng dần lên. Anh đóng cửa lại rồi chạy ra rừng.
Anh chạy vội đến chỗ "suối tiên". Anh nghe thấy nước chảy hòa lẫn tiếng lá reo trên cành. Chú ý im lặng tìm kiếm một vùng rộng, mà vẫn không thấy vợ đâu, anh bắt đầu thất vọng.
Bỗng một tiếng kêu, một tiếng rên, có lẽ một con vật bị thương... làm cho anh chú y.
Yodhida đã đến gần bờ suối... Khi đến tận bờ, anh đứng lại, ngạc nhiên trông thấy giữa đám cỏ cao, có một bé con... một đứa bé gái độ chừng vài tháng, chưa biết nói, chỉ giơ tay về phía anh với vẻ thất vọng...
Yoshida bế đứa bé lên. Nhìn vào mắt đứa bé, cặp mắt lạ lùng! Cặp mắt đó làm cho anh nghĩ đến những kỷ niệm xa xôi của đời anh. Sao lại có cặp mắt giống hệt cặp mắt vợ anh một cách lạ lùng đến thế? Anh đã nhận được cặp mắt của người vợ anh: Khóc khi anh buồn, cười khi anh vui. Lòng anh xúc cảm mạnh.
Rồi đột nhiên anh hiểu được tất: À, ra chính đứa bé này là vợ anh, là bà vợ già của anh, là Fumi đáng thương đã trẻ lại. Và đã trẻ quá, vì nó muốn trẻ lại hơn chồng, nên đã uống quá độ, nên đã biến thành một đứa hài nhi...
Yoshida thở dài, bồng đứa nhỏ lên và mang nó sau lưng, như bà mẹ thường địu con... Anh buồn bã trở về, nghĩ rằng, từ đây anh sẽ phải như một người cha săn sóc và nuôi dưỡng dạy bảo đứa bé mà trước đây là vợ mình: Người bạn trung thành của anh trên đường đời.
Lời bàn:
Văn u mặc bao giờ cũng trang nghiêm nhẹ nhàng... tuyệt nhiên không có giọng hề chọc cười thiên hạ một cách rẻ tiền. Bài văn trên đây là một ví dụ điển hình
Yoshida là một tượng trưng của một hiền giả Đông phương, biết "tri túc, tri chỉ" (biết đủû biết dừng lại), mặc dù cái mộng của con người, ai cũng muốn sống lâu mà không chịu già.
Nàng Fumi là đại diện tâm hồn thiết thực của loài người nói chung, nhất là người đàn bà muôn thuở nói riêng. Có người đàn bà con gái nào mà không sợ cảnh già, mặc dù đã da mồi tóc bạc. Trẻ mãi là cái mộng duy nhất của người đàn bà để được yêu thương. Sự quá đà của nàng Fumi trong vấn đề "phản lão hoàn đồng" là cái bệnh chung của loài người. Bởi vậy, câu chuyện u mặc trên đây làm cho người ta lỡ cười lỡ khóc
Đáng thương hại là "anh chồng" lại trở thành "ông cha", "chị vợ" lại biến thành "đứa con" để cho người đàn ông đến bao giờ phải đóng vai của một người bảo hộ mà tạo hóa dường như đã an bài? Đây là cái hài kịch của thiên thu: Người chồng nào cũng phải là cha nuôi dưỡng và che chở cho người đàn bà đã trao thân gởi phận cho mình. Và chính thế mà người đàn bà và con gái nào cũng yên chí thiết một "ông" chồng có đủ điều kiện để vừa làm một người chồng và một người cha với nghĩa thiêng liêng của nó.559
1. An nhớ lần đầu tiên An biết Oanh là qua lời chị Huệ : ''Thôi, An lông bông tìm kiếm đâu cho xa, ở lớp ngoại ngữ ban đêm của chị có một con nhỏ tên Oanh, hiền lắm, lại chăm học. An để chị làm mai cho!''. Lúc đó, An vừa ở bộ đội xuất ngũ về, chưa tìm được việc làm, một mảnh tình vắt vai cũng chưa. Con gái hiền thì được chứ hiền lắm như lời chị Huệ nói thì An không ham. Nhưng cũng cười: "Ừ, thì hôm nào có dịp, chị làm mai con nhỏ đó cho em !''.
Chị Huệ chưa kịp tạo ra một dịp nào để làm mai thì một buổi sáng đi uống cà phê, An gặp Oanh đi với Thảo. Thảo là con nhỏ gần nhà An, hồi nhỏ chảnh chọe kinh khủng, lớn lên tự dưng thấy đằm thắm hẳn. Thảo gọi : ''Anh An ngồi cùng bàn với tụi này cho vui !'', chỉ cô gái đang ngồi bên cạnh, giới thiệu : ''Ðây là Oanh, bạn học bên trường Kinh tế với em''. Oanh nói giọng nhỏ nhẹ : ''Chào anh !'', rồi cười, nụ cười mỏng mảnh như sương. An nhìn Oanh, nhìn đôi mắt trong veo của Oanh, như có sợi gì đó đang vấn vít trong tim mình, thật nhẹ. Rồi Thảo chợt nhớ ra: "À, Thảo quên, Oanh học Anh văn ban đêm chung lớp với chị Huệ!''. À, thì ra là người quên. Panh tủm tỉm cười: ''Chị Huệ hay kể về anh An em chị hiền lắm. Oanh không ngờ được hân hạnh gặp người hiền ở đây''. An kêu thầm : ''Oan gia, chị Huệ ơi là chị Huệ!''.
2. An không nhớ mình bắt đầu chơi thân với Oanh và Thảo từ lúc nào. Chắc là nhờ chị Huệ đánh tiếng nhờ vả : ''Thằng em tao về đây chưa có bạn bè gì, hai đứa bây đi đâu, rủ nó đi với !''. Thật ra thì cũng chẳng ai rủ ai, chỉ toàn là tình cờ thôi. Chị Huệ bảo An ở nhà rảnh rỗi làm gì cho phí, đi học Anh văn đi, sau này sẽ có lúc cần dùng. An cắp sách đi học Anh ban đêm, lớp bằng A, tức là sau Oanh và chị Huệ một lớp. Thảo cũng đi học ở trung tâm ngoại ngữ này. Buổi tối tan học, An hay gặp Oanh và Thảo, ba anh em rủ nhau đi uống sữa đậu nành, hoặc ăn chè. Vì An chưa có việc làm nên đi ăn chè hoặc uống sữa đậu nành, có lúc An trả tiền, có lúc Oanh giành trả. An tỏ ra băn khoăn thì Oanh cười : ''Anh An đừng lo, tụi em giàu lắm !''. Chơi với nhau một hồi, An mới nhận ra, Oanh không hiền lắm như lời chị Huệ quảng cáo, chỉ ít lời thôi. Oanh cũng nói là hồi mới gặp Oanh thấy An hiền lắm rồi bỏ lửng câu ở chỗ này. Vậy là sao ? Buổi tối về nhà nằm mơ màng, An nhớ nhất là cặp mắt trong veo của Oanh. Trong veo đến mức, An không dám nói gì, làm gì để tiến đến gần Oanh hơn, vì sợ mình không khéo sẽ làm tổn thương đến cái tình bạn trong veo vừa mới chớm.
Rồi An cũng xin được việc làm, một chân lễ tân khách sạn do Oanh giới thiệu, vì chủ khách sạn là bạn thân với ba Oanh. Tháng lương đầu tiên, ba anh em rủ nhau đi lòng vòng suốt buổi chiều đến tối, đi ăn, rồi đi hát karaoke. Trong phòng karaoke, Thảo có vẻ vui lắm, nói cười nhiều lắm, nhưng đến lúc An tình cờ bấm bài Lời của gió, cười cười nói là để tặng Oanh thì không dưng, Thảo lặng lẽ hẳn, Oanh cũng im lặng làm An thấy áy náy vô cùng. Mình đã làm một điều gì không phải lúc ?
3. Oanh hẹn An đi uống cà phê riêng. Lần đầu tiên được hẹn đi uống cà phê riêng, An choáng người vì hạnh phúc. Ngồi trong quán vắng, Oanh nhìn thẳng vào mắt An, giọng nghiêm trọng hơn thường ngày : ''Anh An thấy Thảo thế nào ?''. Không dưng An cảm thấy có một điều gì đó, dè dặt : ''Thảo là một cô bạn tốt!''. Oanh cúi mặt, dùng ngón tay thấm nước vẽ mấy vòng tròn trên mặt bàn, ngọ ngoạy không yên, rồi ngập ngừng : ''Em cũng không biết nói sao nữa, Thảo mến anh lắm !''. Ðó không phải là điều An chờ đợi được nghe từ chính miệng Oanh. Bao nỗi hồi hộp, bối rối trong An tan biến đi hết, An thấy mình bình thản, như là đang nghe một câu chuyện không hề liên quan gì đến mình, buông một câu vô thưởng vô phạt : ''Anh cũng mến Thảo''. Oanh nhìn An thật lạ rồi lắc đầu : ''Nhưng cái cách anh nói không hề giống cái cách em vừa nói. Thôi, quên chuyện này đi, coi như em chưa hề nói gì với anh''. Im lặng một lúc lâu, rồi An rụt rè nhìn Oanh, nói một câu dò hỏi : ''Sao em cứ lo chuyện của Thảo mà không nghĩ gì đến mình ?''. Oanh cười cười : ''Anh đừng lo cho em. Em có bạn trai rồi''. An bất ngờ đến chẳng nói được câu nào. Một trò đùa với An, có phải ?
Không phải là chuyện đùa ! Thảo cũng công nhận : ''Oanh có bạn trai rồi!'' nhưng chị Huệ thì khăng khăng khẳng định : ''Con gái nói mà, tao học cùng lớp Oanh, tao biết, nó chưa có gì đâu ! Bồ bịch gì mà tối thứ bảy nào cũng thui thủi đi về một mình''. Rồi chị Huệ khuyên An : ''Mày cứ tiến tới đi!''. An thấy buồn và hoang mang. Mình thân với Oanh là thế, Oanh tốt bụng là thế, sao tình yêu vẫn mãi là một điều khó nói.
4. Bẵng đi một thời gian dài, có đến cả tháng, không thấy mặt Oanh, Thảo thì đi học một mình. Hai anh em vẫn hay đi uống sữa, ăn kem sau giờ tan học. Một bữa, An làm như vô tình : ''Sao lâu nay không thấy Oanh hở Thảo ?''. Thảo cười : ''Bây giờ thì Oanh quên anh em mình rồi. Bồ nó về!''. Giọng An nghe thật lạ: ''Ở đâu về?''. ''Ở Mỹ. Oanh với anh Phong quen nhau hồi còn đi học, anh Phong đi Mỹ bốn năm nay, bây giờ mới về''. Thảo còn làm như vô tình kể thêm vài chuyện vu vơ nữa về Oanh, về Phong, nhưng An không nghe được gì, hai tai An như ù đi. Không phải là lần đầu tiên An biết yêu nhưng cảm giác này thật khó mà chịu đựng nổi ! Ngốc thật!
Có một buổi chiều chạy xe trên phố, an gặp Oanh. Áo đầm trắng, tóc xõa bay bay, mắt môi ngời ngời hạnh phúc, Oanh ngồi sau xe máy của một gã con trai mặt trắng bệch, ria mép tỉa tót cẩn thận. Giọng Oanh nghe vui lạ lùng : ''Chào anh An ! Ðây là anh Phong, bạn em. Còn đây là anh An!''. Gã con trai cười chào An bằng một vẻ lịch sự dễ ghét. An khách sáo : ''Chà, lâu quá không gặp Oanh!''. Oanh cười rất tươi : ''Tụi em đang định hôm nào ghé mời anh đi uống cà phê với tụi em cho vui''. Rồi Oanh vội vã : ''Em đi đây, hôm nào gặp lại nghe anh An!.
5. Rồi chẳng có buổi cà phê nào để Oanh giới thiệu bạn trai như Oanh hứa hết. Khi An gặp lại Oanh, Phong đã trở về Mỹ. Oanh cười nói suốt ngày, giỡn cũng mạnh mồm hơn, thỉnh thoảng lại khoe về một đám cưới đã dự tính ngày. Cũng là Oanh, nói nửa như muốn tâm sự, nửa như muốn phân trần với An : ''Tụi em quen nhau từ hồi còn đi học, sau đó anh Phong mới đi H.O. Ảnh thương em lắm, tuần nào cũng điện thoại về cho em!''. Oanh kể về Phong nhiều lần đến nỗi An có linh cảm là Oanh làm thế một phần cũng để tự huyễn hoặc mình. Có phải hạnh phúc phải mang dáng vẻ mong manh như thế mới thật sự là hạnh phúc!
Một tuần trước khi đám cưới Oanh, ba anh em mới lại có dịp ngồi uống cà phê với nhau. Không khí lần này trầm lắng hẳn, không như mấy lần vẫn ngồi với nhau. Thảo khoác một dáng vẻ buồn rầu không thèm giấu. Oanh trông có vẻ mệt mỏi, dù vẫn cười nói nhiều. An thì không thể giữ được thái độ vô tư như nhau với hai cô bạn thân. Oanh mào đầu, giọng đùa cợt : ''Oanh cho anh An một cơ hội cuối đây. Anh An có thương một trong hai đứa em thì nói đi, chỉ còn một tuần nữa thôi. Anh không nói sau này hối hận không kịp, ráng chịu đó !''. An nhìn thẳng vào mắt Oanh, cái nhìn nói lên nhiều điều nhưng Oanh lảng mắt đi. Vậy là rõ ! An buông một câu nói đùa mà nghe rất thật : ''Anh thương cả Oanh với Thảo!''. Thảo đột nhiên gắt gỏng : ''Thảo không cần đâu. Thảo nhường hết cho Oanh đó !''. Ðêm trôi thật khẽ và sâu. An có cảm giác như đây là lần cuối cùng ba anh em ngồi với nhau. Ngồi vẩn vơ một lúc, Thảo đứng dậy trước, nhìn đồng hồ : ''Thôi, khuya rồi, mình về đi !''.
Ðám cưới Oanh, An xung phong lên hát Lời của gió, mắt cố không nhìn cô dâu, chú rể tay trong tay, đi vòng quanh chào quan khách. Oanh đã chẳng hề nghe được lời gió nói, cũng như lời An muốn nói, chỉ cho mình Oanh nghe.
6. Oanh theo chồng đi Mỹ được gần hai năm, trong hai năm đó, An cũng có gặp gỡ một vài người nhưng rồi chẳng đi đến đâu. Mối tình tưởng chừng thoảng qua với Oanh không ngờ lại làm An nhớ lâu đến thế. Gặp một cách hành xử nào đó của các cô gái từng quen biết, An vẫn nghĩ giá đó là Oanh, thì Oanh sẽ xử sự thế này, Oanh làm thế kia và dĩ nhiên là Oanh hay hơn nhiều. Từ ngày Oanh đi, An cũng ít gặp Thảo, nếu có gặp thì cũng chỉ là nụ cười xã giao hờ hững của hai người quen biết cũ. Rồi thôi. An muốn biết tin tức về Oanh biết bao nhưng lại không dám gặp hỏi thăm Thảo.
Rồi Oanh đột ngột trở về. Ðẹp, sang trọng hơn ngày xưa nhưng có những nét từng trải hơn. Và buồn. Nỗi buồn không thèm giấu giếm. Gặp lại An, Oanh vẫn tỏ ra vô tư, như không hề thay đổi chút nào sau ngần ấy thời gian xa nhau. Oanh nói mình đã ly dị chồng, nói về đổ vỡ của chính mình một cách bình thản, nhẹ nhàng như chuyện của ai đó không hề liên quan đến Oanh, càng không liên quan đến An. Như là những buồn vui trong Oanh, An chưa bao giờ được phép dự phần. Như là những ngọn gió suốt mùa chỉ thổi lớt phớt bên ngoài, có hay không thì người ta cũng không biết sự hiện diện của nó. Oanh không biết, hay không muốn biết ?
Những ngày Oanh ở Việt Nam rồi cũng qua mau. Rồi Oanh cũng sẽ ra đi, kỷ niệm về một tình yêu thầm lặng với Oanh trong An rồi cũng sẽ qua đi, sẽ phai mờ dần theo ngày tháng... An sẽ phải cố mà quên Oanh đi, như một giấc mơ không có thật. Tình yêu của An không có thật. Chỉ có nỗi buồn trong An là có thật, An không thể nào quên được, cứ ngày càng đầy...242
ÕÕ Có nhà giàu nọ đãi khách trọng thể đến đâu, tiền đi chợ cũng chỉ năm hào trở xuống. Một lần, lão mắc bệnh nặng, không chịu mất tiền uống thuốc, chỉ mua mấy tờ giấy vàng bạc, rước thầy cúng về cúng, may ra uống tàn hương nước lã mà lành. ÕÕÕ Thầy cúng đến, trông lên bàn thờ thấy chẳng có gì có thể bỏ vào đãy mang về được, đã chán ngán, nhưng vẫn cứ nổi trống, mõ lên thỉnh hết thần bên Tàu, bên Xiêm. Lão nằm trong giưưòng nghe khấn như thế, liền bảo con ra nói với thầy: ÕÕÕ - Sao thầy không thỉnh thần sở tại cho gần mà lại thỉnh các vị ở xa lắm vậy? ÕÕÕ Thầy cúng trả lời: ÕÕÕ - Các vị thần ở gần đều biết tiếng nhà ông rồi, thỉnh sao được.
Mười năm nhìn lại trường xưa
Đôi hàng phượng vĩ đong đưa đón chào
Vẫn tà áo trắng xuyến xao
Bóng hình thầy cũ dáng cao lưng trời
Vầng mây xưa vẫn nghiêng trôi
Vẫn làn gió mát của thời mộng mơ
Nhìn em áo trắng bây giờ
Hỏi mùa hạ trắng còn chờ đợi nhau
Mười năm thầm lặng nỗi sầu
Rồi đây áo trắng qua cầu đổi thay
Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy
Làm sao sánh được ơn dầy tựa non
Nước xuôi sông cạn đá mòn
Cuộc đời thành đạt ấy công ơn thầy
Mười năm trường cũ giờ đây
Tóc thầy nay đã pha đầy tuyết sương.1285
2638
Quỳnh đi đò ngang thường chịu tiền, lâu quá hóa nhiều, không trả được.
Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ đợi đấy, mai ta trả.
Rồi mua tre nứa, lá gồi làm một cái nhà bè ở giữa sông, trong để một câu: Đ... mẹ thằng nào bảo thằng nào!
Và phao ầm lên rằng đó là lầu yết thơ của Trạng.
Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô nức kéo nhau đi xem. Đi đò ra đến nơi, thấy độc một câu như thế, chán quá liền đi đò về. Người khác gặp hỏi thì chỉ trả lời: "Ra mà xem!"
Thế là thiên hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. Anh lái đò chở hết chuyến nọ đến chuyến kia không kịp, trong ba bốn ngày, được không biết bao nhiêu tiền.
Được mấy hôm, Quỳnh dỡ nhà bè, bán lại cho anh lái đò. Anh lái đò trừ nợ. Quỳnh mắng:
- Anh còn nợ ta thì có, ai làm cho anh mấy hôm chở được bấy nhiêu tiền?
Anh lái đò mới nhận ra, liền cám ơn Quỳnh rồi rít và xin trả đủ tiền.
Có nhiều quyết định tưởng dễ nhưng khó vô cùng. Cắt hay không cắt tóc.
Mái tóc tôi có từ ngày còn con gái, đến mãi bây giờ. Người ta thi vị hóa mái tóc trong nhạc, trong thơ. Với tôi tóc là bạn, là một phần thân thể cha mẹ cho tôi và tôi qúy nó.
Tôi còn giữ tấm hình thẻ học sinh năm học lớp nhất. Tóc tôi dài hơn vai một chút, đường ngôi chẻ giữa. Tấm hình năm học xong trung học, đi thi tú tài, mái tóc dài hơn thắt lưng vẫn đường ngôi chẻ giữa.
Nhớ ngày còn học tiểu học, một lần tôi bị lây chấy (chí), cảm giác ngứa ngáy sau khi chơi nhảy dây, chân tóc ướt mồ hôi đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ và ghê ghê sống lưng. Lần ấy khi me tôi biết tóc tôi bị chấy, bà dùng lược dầy, bắt tôi cúi đầu xuống tờ giấy trắng, để bà chải cho tôi. Mấy con chấy đực màu đen, mập máu, bị bà dùng móng tay cái, dí xẹp giết chết, trên tờ giấy, chấy cái nhỏ hơn màu xám, có mấy con chí mén mới nở nhỏ như đầu tăm màu trắng, me tôi bảo:"nó nhỏ nhưng cắn đau phải biết"
Vừa chải đầu bằng lược dầy, vừa phải tước những cái trứng "chắc" chưa nở bám trên tóc mỗi ngày cho tôi chưa đủ, bà còn phải nướng trái bồ kết, nấu nước và gội đầu cho tôi nữa. Me tôi còn vắt vào thau nước sau cùng vài giọt chanh, bà bảo :"chanh làm cho mướt tóc". Kể từ ngày ấy, mái tóc tôi được gội bằng bồ kết. Đến năm mười hai tuổi, tôi đã tự nấu bồ kết, và gội tóc lấy một mình.
Trái bồ kết, có người gọi là chùm kết, hình dạng như trái điệp tây, dài khỏang gang tay. Khi trái khô trở thành màu đen, đem nướng vừa đủ để tươm nhưa bóng, lấy hột ra bẻ nhỏ, thả vào nước đem nấu. Sau khi sôi khỏang mươi phút, màu nước trong chuyển thành mầu nâu sóng sánh. Mùi thơm của bồ kết sau khi nướng, quyện bốc theo hơi nước thanh thanh. Lọc nước sang chậu, pha thêm nước lạnh để nước ấm lại, là gội tóc được. Có lần bận học quên gội đầu,tôi để nước bồ kết qua một đêm, bị me tôi mắng :"để nước thiu mới gội còn gì là hương bồ kết"
Tôi nhớ cái thau đồng dùng riêng để gội đầu, vành chậu có chạm hình kỷ hà. Mỗi khi cúi xuống cho mái tóc chảy dài vào chậu, tôi thấy lấp lánh chính khuôn mặt tôi.
Mua bồ kết dễ lắm, trong tiệm chạp phô nào cũng có bán.Ngày còn dùng than nấu cơm, thường thì sau khi làm cơm trưa xong, tôi đặt nồi bồ kết lên cái bếp còn than dư, cứ để đấy. Than vừa tàn là bồ kết đủ cho hết tinh túy của nó hòa vào nước. Cơm nước dọn dẹp xong, cả nhà đi nghỉ là giờ tôi gội đầu. Giờ ấy nắng rất hanh, gió rất vừa, để hong khô mái tóc dầy của tôi. Tôi không biết vì gội đầu bằng bồ kết mà tóc tôi dày hay vì tôi giống bên nội. Bà nội, bác, bố, chú, cô tôi, ai cũng có mái tóc dầy, nhất là bác gái của tôi, tóc đã dầy còn chảy dài xuống tận gót chân. Gội đầu xong bác phải đứng lên cái ghế đẩu cao để chải tóc. Bố tôi hay xin tóc rối của bác để đánh gió. Tôi nhớ có lần tôi than đau đầu, bố tôi lấy gừng giã nhỏ trong cái chén sành, vắt vào ít chanh, đổ vào tị rượu trắng, xong xuôi ông lấy nùi tóc rối vo tròn khỏang qủa chanh, nhúng vào dung dịch ấy, day vào hai bên thái dương và xoa dọc hai bên sống lưng cho tôi. Bác thích nghịch tóc của tôi lắm. Mỗi khi bác đến chơi, thế nào tôi cũng tìm dịp mon men lại gần bác, để bác vừa nói chuyện với mẹ, vừa chải đầu kết bính tóc cho tôi. Bác kết được bính năm, thay vì bính ba như tôi thường kết lấy một mình. Bác vấn tóc trần khéo khéo là, mỗi khi bác vấn tóc, tôi chống cầm ngắm bác mải mê. Bác nghiêng đầu sang phải, dùng lược chải hết tóc sang một bên vai.Bác có một đọan dây vải màu đen dùng để cột bó tóc lại, trên vành tai,sau đó bác xoắn đều tóc và vấn tròn lên đầu. Vòng thứ nhất tròn trĩnh quanh đầu, vòng thứ hai mỏng hơn nằm bên trong được gài khéo léo bằng vài cái kim gút, đọan đuôi tóc dư bác khéo léo nhấc vòng tóc lên để nó thò ra khỏi vành, như cái đuôi gà.
Bà tôi không vấn tóc trần, mà vấn bằng khăn nhung. Cùng một điệu bộ như thế, nhưng sau khi bó tóc bằng dây vải, bà dùng một miếng nhung đen ngang bằng một gang tay, dài non một thước, bọc tóc lại, dùng kim gút gài mối khăn vào tóc, sau đó khéo léo gói hết tóc vào khăn, bà cần khỏang bốn cái kim để gài cách khỏang tóc vào khăn, sau đó quấn tròn lên đầu. Bà ngọai tóc ít nên bà phải dùng thêm một cái độn tóc, may bằng vải đường kính khỏang 3 cm, dồn vải vụn vào, sau đó dùng dây vải quấn tóc chung cái độn, và sau cùng vấn khăn. Bác tôi hay bảo : "cháu nuôi tóc cho dài rồi bác bảo cho vấn tóc, tóc cháu mà vấn đẹp lắm, mày có những hai cái đuôi rùa con ạ ".
Đuôi rùa bác bảo là những ngọn tóc măng mọc ngay đằng sau ót, người ta hay nhìn tóc con nít có đuôi rùa sau ót hay không mà đóan nó có nhiều anh chị hay không. Nghe bác nói tôi có hai cái đuôi rùa, tôi hỏi
:" ở đâu cái nữa hả bác?"
Bác chỉ ngay giữa trán của tôi, nếu vuốt hết tóc ra sau sẽ thấy chân tóc vẽ thành cái góc của hình trái tim. Tôi thích lắm, vì các cô đào cải lương hay vẽ thêm thật đậm cái đuôi rùa ấy.
Nỗi ham muốn được vấn tóc khiến tôi chiều chuộng mái tóc của tôi hết mực. Ai chỉ cách gì để tóc dài nhanh như : mỗi đêm phải chải tóc nhẹ nhàng, mỗi tháng phải dùng kéo nhấp đầu ngọn tóc, tôi đều làm theo cả.
Đến mùa Hè nóng nực, nghe mẹ bảo phải cắt bớt tóc là tôi sợ lắm, luôn đi trốn.Mẹ bảo
:"Không cắt phải buộc tóc cho cao"
Hứa với mẹ,nhưng mẹ vừa xoay đi là tôi lại tháo sợi thun vứt đi, tôi thích cảm giác tóc vướng vào mặt khi chơi nhảy dây, nhảy lò cò.
Đi học lớp hè với cô giáo Trinh người Nam, dưới căn nhà mái tôn, cả thầy lẫn trò đều thấy nóng, cô bảo tôi cột tóc lên cao, tôi nghe lời cô giáo nhưng không vui. Đằng sau lưng tôi có mấy tên con trai, tụi nó hay lén bứt tóc tôi để đá dế, tụi nó rình cô giáo đang giảng bài bứt đại,tôi giật mình la lên. Cô giáo bắt tên giựt tóc tôi qùi trên vỏ mít. Nó giận tôi không cho tôi xem tóan đố nữa. Sau này khi nó xin là tôi tự bứt một sợi tóc cho nó ngay và giao hẹn nó phải cho tôi xem đáp số của những tóan đố.
Tôi ghét trò đá dế mà tôi phải cho nó tóc của tôi vì tôi nghĩ đến những bài tóan khó. Tôi tội nghiệp con dế lửa có cái cánh màu vàng, bị cột vào sợi tóc, xoay vù vù cho chóng mặt trước khi thả vào đấu trường "đá lộn".
Đấu trường là cái hộp nhỏ bằng giấy bồi, hay sang hơn là cái hộp thiếc dùng đựng bánh quy hay bánh trung thu, bỏ một lớp cát mỏng, vài nhánh cỏ. Hai con dế cụng đầu vào nhau, con nào chạy vòng vòng sát thành hộp, không cụng đầu vào con kia nữa là thua. Thằng có con dế thua, nắm râu con dế lên thổi phù phù, hay dùng tóc của tôi đụng vào râu của con dế để con dế chịu nhào vào đá lại. Chỉ có thế mà có khi mấy đ1003
Cái nhìn khắc khoải Khoa điện thoại cho tôi từ phòng lab:
- Hình xong rồi, đã lắm. Mày kiếm đâu ra ông già ngon vậy?
Tôi cười, gác máy rồi xách xe chạy lại chỗ Khoa. Những tấm ảnh đen trắng treo trên dây còn đọng nước, giọt rất tròn và trĩu. Khoa nghiêng đầu ngắm:
- Mày coi, hình như, trong mắt ông già này có nước.
- Mày cận bao nhiêu độ rồi?
Khoa mắc cở tháo cặp kính ra, đôi mắt đờ đẫn.
- Hôm trước ba rưỡi, bây giờ chắc ba tám rồi.
- Mắt mày cũng còn ngon lắm.
Khoa lại hỏi tôi cái câu ban nãy, "mày kiếm ông này ở đâu mà thần thái vậy?". Tôi không trả lời, ngước mắt nhìn về những bức ảnh của tôi. Trong mảng tối sáng trong vắt, khuôn mặt một người đàn ông hiện lên, trầm lặng mà sâu sắc.
Và tôi lại thấy mình ở trong một căn chòi chăn vịt cất dựa mé kinh Chiếc. Căn chòi đầy khói. Cái mẻ un ám khói chất đầy giỏ dừa khô. Khói ngùn ngụt khói. Ngồi trên cái sạp ghe đóng thưa bằng tre chẻ thẻ, một người đàn ông ngồi nhìn ra cửa. Cô độc. Gió vụt vụt vô chòi. Ông làm nghề nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nay ở đồng Rạch Mũi, ngày mai ở Nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa vừa mới chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cặm ở đâu cũng được, miễn có chỗ khô ráo cho ông nằm. Buổi sáng, ông lùa bầy vịt ra đồng, tay cầm cây trúc không róc đọt, bù xù. Bầy vịt ngàn hai trăm con, ngoi quẫy, vẫy vùng, rúc vào những nùi rạ mới, nhặt từng hột lúa. Con vịt xiêm tên Cộc cũng ào ra cùng bọn chúng, những lúc đó, không phải vì bụng đói, mà vì mùi rạ thơm quá, ngọt quá, ngụp mỏ vào thấy sướng người. Ông ngồi bệt trên bờ mẫu, khăn sọc cũ quấn đầu, nón vải nâu lốm đốm mủ chuối. Ông ngó lũ vịt và vấn điếu thuốc châm lửa, phà khói lên trời. Và trời rất xa xanh, trong. Ông kêu :
- Cộc, biểu!
Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông. Buổi tối buồn lắm. Đêm nào cũng như đ
êm nấy, lùa vịt vô chuồng, tắm táp qua loa, ông khom lưng thổi phù phù vô cái bếp un cho căn chòi đầy khói rồi nằm đưa võng. Gió vụt vụt vô chòi. Con Cộc lò mò ra đống rơm dập dềnh dưới mé kinh, vùi mình vào đó ngủ một giấc. Nó tưởng lâu vậy, dài vậy mà lúc ngó lên vẫn thấy chao chát ngọn đ
èn đỏ lòm. Ông kêu:
- Cộc, giận gì mà xuống đó vậy mậy?
Cộc lạch bạch đi lên. Nó ghé ngang cái lưới bao rào vịt, thò mỏ vào mổ một con vịt ta khác. Gây chuyện chơi cho vui. Nó là con vịt chúa gây chuyện. Ngoài những lúc này, nó khá cộc cằn, tư lự. Mấy người bạn lang bạt của ông chụm lại nhậu lần nào cũng nhằn: "Cha nội sống như vầy rầu thấy mẹ, mai mốt con vịt xiêm đó chết rồi, cha sống với ai". Ông cười, "còn thằng con tao". Nó ở chợ. Lâu lắm mới về thăm ông một lần, về tới, ngoài việc kêu ông bán bầy vịt ra ngoải sống với nó, còn chuyện ông cưới vợ, nó nói, nó con trai, biết cô đơn là cái gì rồi, khổ lắm, buồn lắm. Nó giục ông từ năm nó mười hai tuổi. Ông ngạc nhiên lắm. Nhưng rồi ông biết rằng, nó đã học được ông cái tánh rộng lòng đồng khơi, như trời cao. Ông vò đầu nói với nó, cũng khó khăn thiệt, nhưng ông quen rồi. Nghề nuôi vịt mà, nghèo, lang thang, đeo mang người nữa, không đành.
Tháng Tám. Ông trở về kinh Mười Hai, quê ruột của ông. Chèo gần tới nhà ông thấy một người phụ nữ ngồi dưới bực cỏ đợi tàu. Chiều rồi, tàu cuối chạy lúc ba giờ rưỡi đi qua đã lâu lắm. Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết. Ông chèo lựng khựng cho ghe đi tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị nọ đi đâu, chị khóc như mưa bấc, "Tôi cũng không biết mình đi đâu". Lãng xẹt vậy đó. Ông ngại ngần ngó những tia nắng đỏ cuối cùng đậu phía dưới đám dừa nước:
- Cô có sao không?
Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc.
- Tôi biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay ... làm ơn cho tôi theo anh đêm nay nghen. Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu trong khi tụi vịt đạp đầu chen nhau dưới sạp ghe bằng tre đóng thưa thớt rộ lên lạc cạc inh ỏi. Đôi chân đ
àn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cuối đầu không nói không rằng lùi lụi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: "Cộc! Bị đòn nghe mậy". Nó dừng lại, đủng đỉnh qua đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt kêu: "Trời, vịt gì mà khôn quá vậy?". Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, Vịt Xiêm chứ vịt gì, thiệt tình.
Qua thêm ba đám lá dày nữa là về tới nhà ông. Nhà vắng, vườn hoang, lúc chạng vạng buồn hiu hắt. Ông đi năm ba tháng về một lần, về đúng vạt đồng sau vừa chín. Hồi đi, con tắc kè ễnh bụng kêu è è, hồi về đã thấy đeo trên cột nhà mấy con tắc kè con, da chưa bông chưa hoa, mốc cời, đầu chờ vờ như cá lóc gặp nước mặn. Ông đẩy cửa bước vô trước, tay quơ mớ váng nhện lùng nhùng, đốt cái đèn, thổi lù lù mớ củi ướt. Chị ôm cặp đồ ngồi gá nhẹ mép ván, ngó quanh. Ông lượng xượng, "Nhà bỏ lâu, bê bối quá chừng". Rồi khói bay lên, ấm áp.
Ở căn nhà lá cũ mèm này, ông có nhiều kỷ niệm. Mỗi khi trở về nó lại chảy thành dòng dịu ngọt trong ông, nó chảy khẽ giửa những mạch máu. Những ngày thơ ông có ba má, những ngày trẻ ông có người chăn gối cùng. Có cây lụa bên hè làm chứng, mỗi lần nhà đổ bánh xèo, vợ ông ra hái đọt lụa, đứng tần ngần, "phải ảnh có nhà
để ăn". Chiến tranh, ông đi biền biệt. Ngày về, chỉ còn đứa con trai. Nó khóc, kể, "Bửa đó cúng đình, có cải lương, má rũ con đi. Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn đó ba. Hát chưa xong khúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa Châu Tuấn nghe, thì pháo đằng đồn Ch%
E123
Nghe tin vợ sinh con, chồng vội vã đến bệnh viện. Cô y tá mang tới một đứa bé da đen thui, ngại ngùng nói:
- Xin hãy bình tĩnh, da cháu bé... không được trắng như của ông. Ông chồng trấn an ngay:
- Đây là chuyện bình thường, vợ tôi có thói quen để mọi thứ bị cháy khét.
1790
Một cô chủ nọ có con vẹt biết nói tiếng người giỏi, lại khôn, nên cô ta rất quý và chăm sóc nó từng ly từng tí một. Một hôm, trong lúc tắm cho vẹt, vì vẹt đùa nghịch làm ướt hết quần áo nên cô nhân thể tắm luôn.
Thấy vậy, con vẹt đậu trên giá quần áo liền kêu lên: "Thấy hết rồi nhé, thấy hết rồi nhé..." Tức quá, cô ta liền nhổ trụi lông đầu con vẹt để nó chừa tính nói bậy.
Bẵng đi một thời gian, một hôm ông giám đốc của cô gái nọ đến thăm. Ông này đã luống tuổi nên đầu bị hói. Trong lúc cô chủ lúi húi trong bếp pha đồ uống mời khách, con vẹt lấm lét nhìn quanh và hỏi vị giám đốc: "Chắc ông cũng thấy hết rồi chứ gì?".
1368
Khi anh bước vào cửa sau của khu ngoại chẩn, Karen, cô y tá vội vã kéo anh vào phòng giải lao:
- Tuấn. Anh ngủ quên phải không?
Bẽn lẽn, liếc nhìn đồng hồ. 1giờ 45. Trể mười lăm phút. Vì nhà ở gần phòng mạch, buổi trưa anh hay vù về nhà ăn trưa. Hôm nay, trời oi bức, ăn xong, kéo một giấc ngắn. Giấc ngủ trưa nặng nề. Đầu vẫn còn choáng váng. Anh là y sĩ, làm thuê cho bệnh viện Kaiser đã hơn hai năm. Một thứ hợp tác xã y tế. Đồng lương cố định. Ngoại trừ một số ngày trực gác ấn định, anh ngày 10 tiếng sáng cắp ô đi, chiều vác ô về trên chiếc xe cũ mèm. Cuộc sống khá thoải mái. Lũ bạn thường đùa, mày làm bác sĩ mà cứ phây phây như làm ngân hàng. Không sướng sao được, khi về đến nhà, anh có thể tắt máy gọi beeper, không ai kêu, chẳng ai gọi. Ngày còn là sinh viên y khoa anh hãnh diện được mang beeper, mặc áo mổ, vì chúng làm cho anh trở nên một nhân vật quan trọng. Bây giờ là y sĩ, chúng là gông cùm chứng tích cho một tên nô lệ của thời gian, một thứ tù giam lỏng. Năm ấy, có một người bạn kể chuyện về một Việt Kiều về thăm quê hương, mang theo hai cái beeper, anh bão: "Sao không nói cho tôi sớm, tôi gửi cái beeper của tôi cho anh ấy mang hộ về Việt Nam luôn tiện."
-Không sao. Có hai vợ chồng Asuka đến khám thai. Tôi bão ho là anh bận mổ ở bệnh viện.
Tinh ý, Karen tiếp lời. Anh thầm phục cô y tá khôn khéo. Coi cô ta như bạn, anh vẫn không màng khi cô ta xưng hô với anh bằng tên, ít khi gọi anh là bác sĩ, ngoại trừ trước mặt bệnh nhân.
Steve Asuka nhổm người khỏi ghế, có vẻ nóng ruột. Con bé Alison, lên ba, đang ngồi trong lòng bố, tuột vội xuống đất:
- Chào bác sĩ. Chắc bác sĩ gặp ca mổ khó?
- Xin lỗi Steve và Maggie. Tôi phiền hai người chờ. Anh nặn một nụ cười khoả lấp.
- Không sao. Chỉ có thằng bé nầy nóng ruột, cựa quậy lung tung.
Maggie, ngồi trên bàn khám, chân buông thõng, đong đưa, bàn tay trái xoa nhẹ lên bụng. Cái thai đã khá lớn, làm cô thêm vẻ nặng nề khó nhọc. Cô phải ngồi hơi ưỡn người về phía sau, tay phải chống thẳng trên bàn khám. Anh đỡ cho Maggie nằm xuống bàn khám. Đặt máy đo nhịp tim lên bụng của cô, anh nhìn ánh mắt sáng rỡ của cha đưa bé:
- Tim cháu mạnh quá. Giống bố.
- Giống tốt mà. Steve huênh hoang.
- Cái gì tốt là của anh thôi. Maggie trách yêu chồng.
Ra hiệu cho con bé Alison đến gần, anh áp cái mấy nghe tim vào tai nó. Qua máy phóng đại âm thanh, tiếng tim đập lụp đụp, đều đặn như một cái bơm nước nhỏ. Thỉnh thoảng cái thai cựa mình. Alison thích thú nhìn cái đầu gối bé tí chổi lên cuống rún căng mỏng của Maggie.:
- My baby brother, my baby brother!!!
-
Chọn nghề sản khoa, vui hơn, vì anh không chịu nổi cảnh chết chóc của những người bệnh nan y, chỉ thấy mình bó tay tuyệt vọng mà thôi.
Có tiếng gõ cửa. Karen thò đầu vào phòng qua cánh cửa mở hé:
- Bác sĩ. Có điện thoại của ông.
- Cô ghi giùm số điện thoại, tôi gọi lại.
- Không. Bệnh viện cần nói chuyện với ông khẩn cấp.
Anh vội vã theo Karen ra khỏi phòng. Cô y tá kéo anh vào góc hành lang, nói nhỏ:
- Không phải bệnh viện. Tôi nói thế cho bệnh nhân khỏi phiền.
- Ai? Anh hỏi hơi bực dọc.
- Bà ấy nằng nặc đòi gặp anh. Đường dây đang chớp đèn đó.
Karen hất nhẹ đầu, tay trỏ về phía phòng làm việc. Anh nhất điện thoại.
Steve lại nhấp nhổm, khi nhìn thấy nét mặt thất thần của người bác sĩ lúc trở lại phòng khám:
- Không liên hệ đến cháu bé đấy chứ.
Lắc đầu nhè nhẹ, anh thông cảm với nổi băn khoăn của kẻ sắp làm cha một lần nữa. Steve là người Nhật thế hệ thứ ba. Steve nói tiếng Mỹ, đặc thổ âm New York. Chuyện Steve lấy Maggie một cô gái da trắng đã làm bố mẹ của anh phiền lòng không ít.
Nâng nhẹ cái bào thai, phỏng định sức nặng. Cái thai cựa quậy như con cá đang vùng vẫy:
- Bảy pound là ít.
- Giống bố nó.
Maggie nhoẻn miệng cười hãnh diện. Vành môi cô tròn trịa duyên dáng. Nhìn vào đôi mắt nâu đen, lông mi cong vút của cô, anh thầm nghĩ đến cú điện thoại ban nãy.
Con bé Alison cũng nhìn anh cười chúm chím má đống tiền.
- I want to be a doctor like you.
Con lai. Xinh và kháu khỉnh thật.
Buổi làm việc bận rộn, dồn dập sau khi vợ chồng Asuka ra về. Trung bình anh khám khoảng mười lăm người bệnh mỗi buổi. Còn phải dành thì giờ để trả lời điện thoại cho bệnh nhân. Mệt mỏi, anh ngồi vào bàn. Người bệnh cuối trong ngày là một đôi vợ chồng hiếm muộn tới khám anh lần đầu tiên. Karen biết ý anh, xếp những người bệnh hiếm muộn, đòi hỏi nhiều thì giờ, vào cuối ngày làm việc, nhất là trong trường hợp người bệnh mới được thêm vào cùng ngày. Làm thuê cho tổ hợp y tế Kaiser, mình không có quyền từ chối bệnh nhân. Bất cứ lúc nào.
Xem qua hồ sơ bệnh lý, hồ sơ khám bệnh từ một bác sĩ khác gửi đến, anh bão Karen mời họ vào. Đó là một đôi vợ chồng tuổi trung niên. Người chồng vào khoảng 50. Tóc đã điểm bạc. Ông bắt tay anh, lịch sự kéo ghế cho vợ ngồi. Ông ngồi xoa cằm nhè nhẹ, đưa mắt nhìn anh, dò đoán tuổi tác, đo lường khả năng của người bác sĩ trẻ mà người ta đã giới thiệu với ông là một chuyên gia về bệnh hiếm muộn. Anh áy náy, nhưng vững tin hơn khi cả hai vợ chồng đảo mắt tham quan những văn bằng của anh treo đầy mảng tường bên trái. Người đàn bà ngồi đối diện tầm mắt của anh. Nét đài các, một người có học. Tóc bới cao, cánh mũi hẹp, với sóng mũi thẳng. Nét mỏi mệt tô đậm lên đôi mắt sâu, kéo dài thành những nếp nhăn về phía đuôi mắt. Người đàn bà có lối đánh phấn của thập niên 80, với lớp phấn hồng nổi trên đôi gò má cao. Chỉ thoa một lớp son mỏng, nhưng đôi môi tươi tắn, hơi mím, e ngại, nghiêm trang. Son phấn ấy quá mỏng không đủ che lấp dấu thời gian. Anh lướt sơ qua những dòng đầu của hồ sơ bệnh lý một lần nữa.
- Thưa bác sĩ...
- Tôi hiểu. Ông bà thử mấy năm rồi?
- Hai năm.
- Bà đã từng có thai chưa?
- Ba lần.... một lần phá thai... hai lần sẩy.... Nếu ngày xưa tôi biết...thì tôi đã không...
Giọng bà ngập ngừng, hối tiếc. Ánh mắt nàng chùng xuống, e ngại sự phán xét của người y sĩ về con đường tình ái của mình, để ở gần cuối đoạn đường ấy, quay đầu nhìn lại đầy xót xa, nuối tiếc. Thèm một lần thai nghén cho cơ thể hoàn tất sự trưởng thành sinh lý, thèm được nghe tiếng khóc trẻ thơ, xé tung màng nước ối bước vào vũ trụ trong sự đớn đau thoả mãn của thể xác, và thèm một chiếc môi son tí hon rục vào lòng tìm sửa mẹ. Một sự tương phản quá rõ rệt giữa một người bệnh cuối ngày, ngậm ngùi và một Maggie đầu ngày, tràn đầy nhựa sống. Giữa một loài cây đơm hoa nhưng không kết trái và một cây khác trĩu nặng trái chín trên cành.
Trên tường, trong vườn cam nặng trĩu trái vàng tươi, một đứa bé trai nắm đôi bàn tay một đứa bé gái, kề môi hôn nhẹ lên má con bé. Con bé nhìn anh cười thẹn thùng. Cố tránh ánh mắt ấy, anh phóng tầm mắt ra
ngoài khung cửa. Hàng cây ngoài kia hà tiện bóng mát., thu mình lại thành những cái bóng râm hẹp hòi, cụt ngủn trên mặt đường. Đã gần 5 giờ chiều nhưng nắng vẫn vàng rực, oi bức, hừng hực nung nấu sân đậu xe như muốn làm bốc hơi lớp nhựa đường. Ánh nắng chói loà, phản chiếu từ kiếng chắn gió của dãy xe đậu bên ngoài, rồi hắt qua khung cửa. Anh nhăn mặt, lắc đầu cố chống lại cơn buồn ngủ đè nặng lên mí mắt...
....
Anh vẫn ngồi trên băng đá, giữa sân nắng. Cuốn sách mở làm đôi, một bên úp mặt xuống ghế đá, nửa kia đong đưa như muốn tách rời phần sách còn lại, để buông mình xuống sân cỏ mềm mại. Anh lơ đãng nhìn những đôi trai gái trong những chiếc quần jeans và áo thun nhiều màu, cặp kè, qua lại trên lối đi ngoằn ngoèo dưới những tàn cây xanh um to lớn. Một vài sinh viên đổi lớp vội vàng băng qua sân cỏ cho kịp giờ. Xa xa trên bực thềm thư viện, một đám con trai quây quần quanh một cô sinh viên, có lẽ xinh đẹp lắm. Trưa nay anh không có lớp. Buổi chiều anh phải vào Math Lab để làm việc. Công việc dạy kèm cho các sinh viên kém Toán, để kiếm thêm tiền qua chương trình work study. Bây giờ là mùa hè. Cái nóng ở Florida thật ẩm làm anh nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Nẵng, nhớ Huế mùa hè. Nhớ “sân trường đại học", một lon cơm muối mè trong lon nhôm sữa Guigoz. Một tàng cây, hai đứa cùng chấm muối vừng. Nhớ “con đường Duy Tân”, nhớ “cây dài bóng mát", ly mía ép ngọt lịm vị tình yêu.
Vừa đến Mỹ hơn một năm, anh vẫn chưa quen với đời sống mới. Vẫn chưa hội nhập được với khuôn viên trường đại học mới.
Nhớ da diết.
- Tony. Anh làm gì ở đây.
Không nhớ rõ cái tên Tuấn đã biến thành Tony từ lúc nào từ khi anh xin vào học ở trường đại học cộng đồng này. Tuy nhiên giọng người con gái gọi tên từ sau lưng thì , đã quen lắm. Adele dáng khá cao, khuôn mặt hẹp của người da trắng, nghiêng đầu, hơi trẻ con. Tuy nhiên, dáng đi của cô thì không bao giờ trẻ con cả. Nhẹ nhàng, chững chạc, cho dù phải ôm những chồng sách vở nặng trong tay. Nhiều lần anh đã hãnh diện khi sóng bước bên cô trên những lối đi trải sỏi trong những cái nhìn ghen tức của lũ bạn.
- Adele. Em tới hồi nào. Em không có lớp hay sao ?
- Em đến đã lâu, mà anh vẫn không hay. Có phải anh nhớ đến Yumiko Katsumi phải không?
- Cô ấy về Nhật hôm qua rồi.
- Anh yêu cô ta?
-...
Che mắt ngước nhìn Adele. Cô cũng đưa tay che nắng, nghiêng nghiêng, mắt nheo nheo. Đôi gò má của cô ửng đỏ không biết vì nắng, hay lớp phần hồng trang điểm. Bỗng dưng, ước chi Adele có thể hiểu được ý nghĩa của bài hát Hạ Trắng, để hát cho cô nghe. Anh thoáng cưới nhè nhẹ. Adele ngồi xuống băng đá, cố tránh xa anh một khoảng trống. Còn giận hờn vụ Yumiko.
- Anh sẽ đưa em đi chơi biển và dư khiêu vũ cuối tuần này? Cô hỏi.
Nhăn nhó, khổ sở. Không bao giờ anh thích nhảy với múa, nhất là những điệu nhạc và kiểu nhảy loạn cuồng của đám sinh viên ngày nay. Vô duyên tệ. Đã nhiều lần như một người cha lớn tuổi, anh đưa cô đến những party, để mặc cho cô khiêu vũ với chúng bạn, ra ngoài châm thuốc hút một mình. Chưa muốn nói là anh sẽ đưa Adele đi lần nầy. Đợi đến chiều cũng chả sao. Quen, nước đến chân mới nhảy. Mà thật ra, nói sớm sợ người ta từ chối thì quê chết.
- Có hai người bạn trai khác đã mời em.
-...
- Yumiko nói với em là cô ta thích anh.
-...
- Anh nhớ Yumiko có phải không?
- Em ghen? Cố ấy là bạn. Thế thôi.
- ....
- Vena aqui, senta te y ecoucha me!
Lại đây, ngồi xuống với anh và hãy nghe anh nói. Vẫy tay ra hiệu. Adele tiến gần hơn, nhưng lại ngồi xuống bãi cỏ dưới chân anh. Mái tóc nâu hơi quăn, dợn sóng trên băng đá. Anh vẫn nói. Tiếng Tây Ban Nha. Như con vẹt:
- Mi corazon, yo quiero décir te una cosa.
Trái tim của anh ơi, anh muốn nói với em một điều.
- Qué cosa?
Điều gì?
- Tu éres muy linda...y tu save que te amo mucho
Em xinh đẹp lắm...và em có biết rằng anh yêu em rất nhiều không.
- Solamenté?
Chỉ một mình em thôi?
- Si..
Vâng
- Un vesito.
Cho em một nụ hôn đi.
- Nah nah.
Ngửa mặt . Nắng hắt. Mắt nhắm. Miệng tròn. Vành môi dưới có múi, hé mở đợi chờ. Mắt anh nhìn quanh như sợ có người rình rập. Anh ngập ngừng. Anh chưa bao giờ hôn một người con gái. Anh chậm hiểu. Anh ngu ngơ về đàn bà con gái. Chuyện Adele thích mình, vẫn không để ý cho mải tới cách đây một tháng. Hôm đó xuống thư viện, vẫn thích học một mình, hích mùi sách cũ mới trong thư viện. Sự yên tĩnh là của riêng anh. Một thói quen từ những năm tháng ở trường cũ, bên nhà. Hôm ấy sự yên tĩnh đó đã vở tung khi lũ bạn gái ập đến bàn anh. Marina, một cô khá xinh, lớn tiếng nhất trong bọn, giọng diễu cợt:
- Tony. Anh có biết là Adele muốn có một em bé người Việt Nam hay không?
- Tại sao? Anh ngơ ngác.
- Dân Việt Nam các anh thông minh.
Không nghĩ và tự cho là thông minh. Đối với một sinh viên đại học Toán ở Việt Nam, những bài toán tích phân đối với anh không phải là khó. Nhưng dưới con mắt những sinh viên Mỹ, chuyện anh giải toán tích phân mà không phải viết ra giấy là cả một sự diệu kỳ.
- Cám ơn. Tôi sẽ chỉ cô ấy làm đơn bảo trợ các em bé mồ côi Việt Nam qua các hội thiện nguyện..
- Như thế thì chúng tôi tin là anh kém thông minh thật Anh đần độn lắm Tony ạ..
Cả bọn phá lên cười, bỏ mặc anh thờ thẫn trong thư viện suốt ngày về một khám phá mới: Adele yêu anh. Ngọt ngào như những viên kẹo chocolate, nồng ấm như những ly cà phê nóng hổi, và tươi mát như những đoá hồng của ai đó để dành trên bàn học của anh mỗi sáng.
- Em đã phát các thơ mời cho buổi họp ngày mai về việc thành lập hội sinh viên dự bị y khoa.
- Cám ơn em. An nghỉ đó là chuyện đáng làm
- Tụi em sẽ bầu anh làm chủ tịch hội kỳ nầy.
- Gracias. Pero no necesito. Nada
Cám ơn em. Nhưng anh không cần. Không có gì hết
- Un vesito!Un porquito. Por favor.
Hôn em đi! Làm ơn. Một chút đi.
- No. Adios muchacha.
Không. Tạm biệt em, con gái nhỏ.
Dứt khoát. Đứng dậy, siết mạnh đôi bàn tay của Adele.
- Te veo o rita chico.
Gặp lại anh sau, thằng con trai.
Cô quay người nhún nhảy lướt đi trên cỏ, nhịp nhàng trong nắng về khu lớp học. Thẩn thờ, nhìn theo, không màng đáp chào những người quen qua lại. Được mươi bước, cô quay lại chu môi hôn gió. Anh cười một mình, thu dọn sách vở, đi làm.
Daytona beach.
Buổi tối đầu Xuân. Đây là thời gian mà các sinh viên từ khắp nước Mỹ đổ về để nghỉ đầu Xuân. Từng nhóm tụ tập trên bãi biển, mở nhạc ầm ĩ, uống bia, bơi lội, khiêu vũ, rồi lại uống bia, nghe nhạc mạnh. Bây giờ đã quá nửa đêm. Anh rảo bước trên bãi biển. Cát ở đây đen và dơ dáy chứ không như biển Mỹ Khê, Đà Nẵng. Chỉ khác là mặt cát không lún. Lũ sinh viên có thể đua xe trên cát dễ dàng. Thỉnh thoảng một vài ngọn đèn pha trờ tới, chói đèn loà mắt. Anh dừng lại, nhìn ra khơi tối đen. Sóng biển ầm ì. Anh châm lửa, mồi thuốc. Gió lồng lộng. Ngọn lửa tắt ngủm.
- Hư lắm, ông con trai ạ. Bày đặt hút thuốc nữa.
Người con gái ôm lấy cánh tay của anh, giật nhẹ. Cánh tay chạm vào vùng da thịt mềm mại, căng tròn dưới dưới chiếc áo T-shirt bó sát. Tuy trách nhưng cô lại đứng sát vào người anh hơn, xoay lưng che gió cho anh mồi thuốc.
- Có phải khi anh hút thuốc là anh có chuyện buồn?
- Sao em biết?
Người con gái cười giòn dã:
- Tại hôm qua em khiêu vũ với John, anh bỏ ra ngoài hút thuốc.
-...
- Anh ghen?
- Ừ. Anh ghen.
- Thôi mình đi vào trong kia đi anh. Em lạnh lắm rồi.
Người con gái vẫn ôm cánh tay anh, rời bãi biển. Họ đi băng qua những quán ăn ven đường. Anh thây đói bụng nhưng không đề nghị ghé vào. Cuối cùng, cũng tìm được một quán rượu gần sát bờ biển. Quán xây ra trên mực nước thuỷ triều, ngồi trong quán người ta có thể nhìn thấy sóng vỗ dưới sàn. Loại quán làm anh nhớ những quán cà phê dã chiến ở Pulau Bidong. Ánh đèn néon tím lập loè. Người ca sĩ gào thét, tranh đua với người "lead guitar" và dàn trống.Với mái tóc dài và hàm râu rối rắm, hắn trông như một con dã nhân trúng đạn, điên cuồng. Có điều không thấy máu, chỉ có mồ hôi tươm ra ướt đẫm cái áo thun đỏ. Người đánh trống giận dữ tay nện xuống chập chả, chân không ngừng đá thốc vào thùng trống. Họ đang chơi nhạc nhạc reggae, "red neck". Sàn nhảy nhỏ. Đèn kéo quân quay tròn. Những chiếc mũ cao bồi với những chiếc quần jeans Jodache bó sát quay cuồng theo tiếng nhạc. Ngồi xuống bên chiếc bàn con, gần cửa sổ quay ra phía biển, anh mồi thêm một điếu thuốc nữa. Cô phục vụ, chiếc mũ cao bồi ten-gallon trắng, tóc vàng lăng quăng trên cặp vú nhỏ, tròn trịa, căng cứng dưới chiếc áo sơ mi cụt, bó sát, chào đón khách:
- Các bạn muốn uống gì?
- Em uống gì, Adele?
- Một virgin pina colada.
- Cho tôi một gin and tonic. Anh quay qua cô hàng rượu.
- Anh cho tôi xem giấy tờ căn cước được không? Anh hiểu là không bán rượu cho người dưới 21tuổi.
Anh đỏ mặt. Chưa uống đã say. Mẹ kiếp.
- Anh phải coi đó là lời khen mới phải. Cho cô ấy coi anh đẹp trai cỡ nào đi Tony.
Anh không có bằng lái xe. Chưa dành đủ tiền để mua xe. Anh vẫn đi xe buýt, hoặc lội bộ, đã quen. Cô hàng liếc qua thẻ sinh viên của anh. Trong ánh sáng chập chờn của quán rượu, anh không rõ cô ta có đọc nổi ngày sanh tháng đẻ, hay xem anh đẹp trai cỡ nào không, hay chỉ xem cho có lệ. Khỉ đột, hình căn cước, mug shot, mặt thằng nào không lơ láo như phường trộm cướp. Cô trao trả giấy tờ:
- Tôi đồng ý với chị là anh ấy bảnh trai. Like a baby. Good catch. You drop, I’ll pick him up anytime.
Nheo mắt, cười duyên. Đôi mông tròn lẳng, đong đưa dưới chiếc quần jeans Sasson cắt cụt, khoe cặp giò dài, đôi giày cao bồi trắng cao đến nửa bắp chân, biến mất vào đám đông, rồi trở lại với hai ly rượu sau hơn năm phút.
Chuyện trường học. Thêm rượu. Một rusty nail. Lại chuyện Yumiko về nước. Japan. Việt Nam. Chuyện gia đình. Ba má anh? Còn ở Việt Nam. Chỉ dành dụm đủ tiền cho anh đi. Ba má em? Bố em là mục sư một làng quê nhỏ ở Michigan. Bố đi truyền đạo ở Nam Mỹ gặp mẹ. Em vẫn thích nói tiếng Tây Ban Nha với mẹ. Em yêu tiếng mẹ đẻ, vì thế em thích nói và dạy cho anh thứ ngôn ngữ nầy. Anh đã yêu ai chưa? Tại sao? Em muốn biết. Anh không muốn biết là em đã yêu ai chưa? Chưa? Anh không cần em? Cần chứ! Uống thêm rượu nhé. Straight, whisky on the rock. Không anh uống quá nhiều rồi. Hay là một Long Island iced tea cho tỉnh rượu nhé. Thôi mình về. Em đưa anh về.
Cô phục vụ đi ngang, quẳng cho anh một cái nhìn thật lẳng:
- Về sớm thế?
- Tôi phải về trước khi cái quán rượu nầy sập, và sóng kéo trôi ra biển vì thiên hạ ùa vào chiêm ngưỡng cái sắc đẹp của cô đấy.
-Trời đãt, bây giờ lại chọc gái nữa hả ông tướng!
Cảm giác cái nhéo vào hông mình thật đau, nhưng vẫn còn gân cổ vói theo:
- Cô coi đó là một lời khen. Adele, em nghĩ là anh chọc cô ta hay sao?
Họ đứng dậy rời bàn. Cô phục vụ cúi nhặt tiền típ. Trong mắt cô, có một thằng da vàng, cà tàng say rượu lảo đảo bên cạnh một con da trắng chắc cũng khùng không kém mới dám la cà với thằng điên ấy.
Xa lộ 95, hơn một giờ sáng vẫn còn đông đảo xe của sinh viên tứ xứ kéo về. Thỉnh thoảng một vài chiếc cảnh sát chớp đèn chận bắt người say rượu. Adele im lặng lái xe, ôm ghì tay lái. Cô có chiếc xe không mui Ford Mustang cũ kỹ. Cũ đến độ sườn xe rung rên bần bật như muốn vỡ tan ra ngàn mảnh trên xa lộ mỗi khi cô sang lane. Hơi gió mặn lồng vào trong xe, mùi hoa bưởi hoa cam và mùi biển mặn. Bãt giác, anh nghỉ đến hình ảnh Adele trên lưng một con lừa già, hì hục vỗ vào mông nó, thúc đẩy nhau trên con đường làng đất đỏ qua những vườn cam quýt trĩu trái vàng tươi. Anh cười một mình, soài người trên nệm ghế, lắng nghe tiếng mạch máu co giật trên thái dương, bên mang tai. Tiếng trống, tiếng đàn, tiếng người ca sĩ gào thét. Xe đảo một vòng tròn. Adele đạp thắng. Con lừa già húng hắng ho sù sụ trước khi ngừng hẳn. Anh mở mắt. Không phải khu chung cư quen thuộc của nhà anh.
- Anh say rồi.
- Em cho anh về nhà anh.
- Em không thể để anh say một mình ở nhà, ai lo cho anh?
- Anh đã quen.
- Đi vào đây em pha cho một ly đá chanh.
Căn phòng khách nhỏ, trống vắng, tiêu biểu cho một sinh viên đại học. Không một bộ đồ gỗ nào đáng giá ngoại trừ chiếc đàn dương cầm ở một góc phòng. Cạnh đó, một dàn nhạc nhỏ, loại rẻ tiền, kê trên chiếc thùng giấy đã chứa nó. Những dĩa nhạc vương vãi trên sàn.
- Anh ngồi đây đi. Em đi lấy nước.
Adele biến mất vào phòng ngủ. Anh ngồi xuống cạnh chiếc bàn học nhỏ kê sát cửa sổ. Loại bàn dùng cho sinh viên hội hoạ được biến thành bàn học. Trên sàn, vài bức tranh hoạ bằng than chì, chưa kịp đóng khung dựa sát bức tường bên trái. Hình hoạ những người đàn bà khoả thân, một vài khuôn mặt đàn ông da trắng, bảnh trai. Anh rời ghế, tiến lại chiếc đàn dương cầm. Bản nhạc Sonata đang chơi dở. Bâng quơ, anh ngồi xuống, mổ cò trên phím đàn.
- Anh cũng thích chơi nhạc?
- Không.
Anh lắc đầu thành thực. Anh chỉ biết đàn tàm tạm. Hồi còn nhỏ anh học chơi đàn guitar, nhạc cổ điển, chỉ gò có một vài bài. Bài số 14 trong cuốn dạy nhạc hoà tấu guitar Carrulli, và bài Romance. Ngày giải phóng vào, anh phăng bài Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn có người đã soạn ra nhạc hoà tấu. Nhưng, dưới chế độ mới chơi nhạc classic là tiểu tư sản. Anh xoay qua đánh nhạc fox trot. Anh Vẫn Hành Quân ở trường học, Cờ Bay Cờ Bay ở nhà. Nhịp một hai, dễ dàng hơn.
Anh quay lại, ngạc nhiên không vì chiếc ly chanh đường trong tay Adele, mà cái áo ngủ mỏng, loại sa-tanh hồng kiểu Victoria. Đôi vú tròn, dầu núm vú hồng cong vểnh lên. Áo ngũ lụa hồng ôm nhẹ lấy thân thon. Những mạch máu trong anh bắt đầu rạn nứt. Máu ào ạt từ tim, tràn lan vào cơ thịt bắp. Sự chuyển mình thành một người khổng lồ, gào thét. Năm lên mười, một ngày mưa lớn, anh chạy ra đương tắm mưa với cô bé hàng xóm. Hứng chí, hai đứa cởi phăng cả quần áo, chạy rông quanh nhà. Trên thân thể của con bé, anh đã biết có sự khác lạ. Lạ quá, cho tao rờ được không. Được, nhè nhẹ thôi. Nhột lắm. Sự biến đổi lạ kỳ không đến với anh mãi tới năm 15. Người khổng lồ đến với anh một buổi trưa qua nhà bạn, cửa trước khép hờ. Anh đứng lặng câm nhìn từng gáo nước lạnh tưới xuống vùng đồi núi hồng, góp lại lành sông, thành suối, trên những vùng đất trắng nõn lạ kỳ, những cánh đồng Xuân của người con gái 17. Từng gáo nước đã dội vào trong anh, làm nở tung những mạch máu tiềm ẩn tự bao năm. Anh đứng yên, nghe thân thể dao động. Cựa mình. Như đêm nay.
- Em vẫn thường chơi đàn organ cho nhà thờ của bố.
Adele tiến lại gần anh. Đôi mông tròn lẳng, chắc nịch. Trao cho anh ly đá chanh, cô ngồi xuống. Chiếc ghế nhỏ chỉ đủ cho một người nhạc sĩ. Làn da mát lạnh của đôi cánh tay trần chạm nhau. Mùi tóc. Mùi nước hoa quen thuộc. Mùi da thịt. Gần lắm, anh có thể nhìn thấy những sợi lông măng vàng tơ trên gò má.
- Anh có biết là em đang vẽ chân dung của anh không?
- Thật à?
Cô đứng dậy, tiến về góc phòng, cúi xuống lục lọi đống tranh vẽ. Lưng eo nhỏ. Hai lúm đồng tiền chỗ xương sống nối liền với xương chậu, toả ra đôi mông tròn. Anh nhìn bức tranh. Khuôn mặt phác hoạ bằng chì, không mắt, không mũi, chỉ có vành môi, vành môi của anh. Một khuôn mặt trống trải, không linh hồn như chính người trong tranh.
- Vẻ bằng trí nhớ khó quá. Bửa nào anh phải ngồi mẩu cho em vẻ.
- Ừ bủa nào.
- Đã hơn hai giờ sáng rồi...em đã mệt.
- Để anh ngủ ngoài này.
- Cũng được.
Adele vào phòng rồi trở ra với hai cái gối và hai cái mền mỏng. Cô lặng lẽ trải tấm chăn xuống sàn, nằm xuống.
- Anh không buồn ngủ sao?
Anh lúng túng. Cơn say hình như đã tan biến tự hồi nào.
-Chúc anh ngủ ngon.
Anh nằm xuống, khoanh tay, thẳng người, mắt lơ láo nhìn những vùng tối sáng trên trần cố đoán ra những hình thù quái dị. Tiếng thở đều đều của Adele bên cạnh như hoà nhịp với tiếng máy điều hoà không khí tắt mở nhịp nhàng. Anh đã đếm không nhẩm không biết mấy chu kỳ rồi. Trằn trọc. Quên đi. Quên đi những giấc mộng mị, liêu trai, những người con gái vô hình trong mộng. Quên đi, những lần thức giấc nửa đêm, ngỡ ngàng nhìn chăn gối ướt đẫm. Quên đi, mùi thơm của chăn nệm. Mùi da thịt của người khác phái. Cơn say hình như đã tan biến, bốc hơi qua những mạch máu nở tung của anh ban nãy. Phải chi có thêm rượu, chắc anh sẽ ngủ ngon hơn. Xoay mặt vào tường, cố ru giấc ngủ, anh co mình lên, chuyển thành một dấu hỏi to tướng trên sàn. Tự hỏi mình đang làm gì? Nằm ngủ bên cạnh một người con gái. Điều mà trước đây một năm, hay mới hôm qua anh không thể tưởng tượng là sẽ xảy ra. Câu hỏi, về người bạn gái hàng xóm, một lần anh đã hỏi người anh lớn. Nếu, thì phải làm sao? - Cần, thì vác áo mưa xuống phố, sòng phẳng. Con gái người ta đàng hoàng, mày không được lộn xộn, và, tuyệt đối không có chuyện lỡ! Lời dặn dò ấy như câu kinh Lạy Cha, A Di Đà Phật, anh đã thuộc nằm lòng. Ngày giải phóng vào, anh có xuống phố, nhưng để quét dọn súng đạn của lính Cộng Hoà. Trong sự hỗn độn của đất nước, anh quên mất chuyện cái áo mưa. Cho đến một buổi tối đi xem phim kế hoạch hoá gia đình với người bạn gái, do chi đoàn thanh niên tổ chức, lúc ra về trời mưa lớn, hai đứa đục mưa trong một miếu hoang ven đường. Anh nhắc chuyện cái áo mưa. Phải chi có cái áo mưa. Vừa run vì lạnh, hai đứng cười khan... Xoay người, anh lặng lẽ ngắm cánh mũi nhỏ, phập phồng theo từng hơi thở. Khoảng cách chỉ một tầm tay là anh sẽ rơi vào vực thẳm. Anh đang ở bên bờ vực thẳm. Không, Adele yêu anh mà. Ngược lại anh tưởng tượng đời mình chắc buồn tẻ, trống vắng nếu không có nàng. Lời dặn năm nào của ông anh. Câu kinh A Di Đà Phật. Lạy chúa, xin cha tha cho con là kẻ có tôi. Nhưng, Chúa Phật ơi, yêu đương đâu phải là tội? Anh nhắm mắt, giang hai tay như một cây thánh giá, bước tới. Đi thẳng. Vào vực thẳm. Như một đứa bé tìm hơi mẹ, anh nhớm vai. Cây thánh giá bẻ gập làm đôi. Anh rúc đầu vào ngực bạn, lắng nghe tiếng tim bạn tăng dần tốc độ. Tiếng thở đứt quãng. Hơi thở tiếp nối hơi thở. Hơi thở của cả hai đang gom gió thổi đưa nhau ào ạt ra biển khơi. Bát ngát. Bồng bềnh. Từ vực thẳm lộng gió mùi hoa bưởi, con lừa già lột xác thành một con ngựa trời chấp cánh vụt bay lên mang theo Adele, như một thần vệ nữ, oai vệ trên lưng. Lên. Bay bổng lên cao. Con ngựa trời ngã quỵ dưới chân đức Chúa cha. Nơi ấy, cũng có Phật, ngồi cười trên chín bệ...
Anh cựa mình trở giấc.
Giấc ngủ ngắn ngủi, nhưng anh đã mê đi trong một giấc mơ khá dài. Có lẽ thế. Vì giờ đây anh rất tỉnh táo, sảng khoái với niềm hạnh phúc có hình hài, gom lại và toả ra như những đợt sóng nhỏ lăn tăn chạy dài trên xác thịt . Tiếng máy lạnh vẫn đều hoà tắt mở, nhưng căn phòng đã khác. Qua màn cửa sổ hé mở lung lay nhè nhẹ, một vệt sáng mờ từ ngọn đèn đường ngoài kia hắt vào bên trong, soi lấp lánh những giọt sương mai đọng trên khung cửa kiếng. Tia sáng hẹp, dài đổ lên chiếc bàn ngủ, cắt lẻm một phần mặt của chú gấu nhồi bông, ngồi dưới cây đèn ngũ hình như đang cười anh loã lồ trong bóng tối. Bên cạnh chiếc đồng hồ báo thức điểm 5 giờ sáng. Ngày mai liên hệ của anh và Adele sẽ chuyển qua một lối rẽ mới. Anh vẫn nằm yên đó, trong bóng tối, mơ mộng lẩn thẩn. Quay nhìn Adele. Suối tóc nâu chảy tràn lan trên nệm gối. Những sợi tơ trời đã vin anh xuống. Yo quiero decir te una cosa. Đôi ngực tròn phập phồng theo nhịp thở dưới tấm chăn mỏng. Anh đã vùi đầu vào như đứa con tìm hơi mẹ. Que cosa? Vòng tay đang ôm gối kia dẫn dắt anh qua những những núi đồi hoang dã. No entiendo por qué? Tu savé solamente que te quiero, mi novio...Entiendé?.... Một hồi lâu, anh nhẹ nhàng ngồi dậy. Sợ thức giấc bạn, anh không buồn tìm quần áo chôn vùi đâu đó trong chăn nệm, nhón gót bước ra ngoài phòng khách. Anh ngồi xuống, bên chiếc đàn dương cầm, lơ đãng lật trang nhạc Sonata qua một bên. Bên dưới là bài Hạ Trắng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà anh đã sư tập để tặng nàng. Trong bóng tối anh cố nhìn vào bài nhạc. Băn khoăn. Âm nhạc có phải là ngôn ngữ chung của loài người để ca tụng tình yêu, ngôn ngữ của những người đang yêu?
Trên những dòng kẻ khung, những nốt nhạc dường như đang nhảy múa...
- Bác sĩ...
- Xin lỗi nhé, hôm nay là ngày làm việc dài của tôi.
Nói láo. Anh nói láo. Bào chữa. Anh giảng cho đôi vợ chồng những điều cần làm. Trước hết phải thử xem người vợ có khả năng rụng trứng đều hoà hay không. Nếu cần phải dùng thuốc kích thích sự rụng trứng. Còn phải thử xem người chồng có đủ số tinh trùng tối thiểu hay không nữa.
- Nếu quá thấp thì sao? Người chồng nóng ruột.
- Có thể bơm thẳng tinh trùng của ông vào trong trứng, cho thụ thai ngoài đĩa rồi chuyển thai vào tử cung của bà. Tuy nhiên, hữu hiệu và ít tốn kém nhất nhất vẫn là xin tinh trùng của người khác, hoặc từ ngân hàng tinh trùng. Với sự đồng ý của đôi bên và một vài văn kiện luật pháp cần thiết, tinh trùng của người cho sẽ được bơm thẳng vào tử cung của bà vào khoảng thời gian rụng trứng.
Anh lại nhớ đến Robert, người bạn y khoa cùng lớp đã rủ anh đến ngân hàng tinh trùng để cho tinh. Người ta vẫn thích sinh viên y khoa cho tinh vì một phần được coi là thành phần ưu tú, phần khác vì đám sinh viên thường hiểu những gì phải làm, khỏi giải thích lôi thôi. Vì tò mò anh đi thử một lần cho biết. Thật là phiền toái khi anh phải kê khai mọi chi tiết về tình trạng sức khoẻ và lý lịch của mình. Mặc dù tất cả những chi tiết được bảo mật, trong trường hợp đặc biệt, liên hệ đến bệnh di truyền chẳng hạn, đứa bé có quyền liên lạc với "cha ruột " của nó. Với anh một lần tởn tới già. Tuy nhiên với Robert đó là cái thú giúp người của hắn. Có một lần Robert kể chuyện:
- Mày biết Mary học y khoa năm thứ tư không?
- Cô ta là bạn thân của mày?
- Đúng. Bạn thân chứ không phải là bạn gái đâu nhé.
- Mà sao?
- Nó muốn nhờ tao cho nó một đứa con. Không có sự ràng buộc.
- Trời đất! Mày trả lời làm sao?
- Chỉ cần một đêm lạnh lẽo và một ly rượu. Sáng hôm sau, chúng tao vẫn là bạn. Như thường.
Robert cười nhẹ. Rất đẹp trai. Không như con heo nọc hí hửng, nhấp nhô trên chiếc xe lam của người hàng xóm năm nào ở vùng Tân Định, mỗi lần được đi làm công tác...
Anh tiếp tục giải đáp những thắc mắc cho đôi vợ chồng. Xong, anh tiễn họ ra gặp Karen để sắp xếp các thử nghiệm. Rời phòng mạch, anh hối hả về nhà. Cầm tay lái, anh nhớ đến Robert, nhớ đến cú điện thoại lúc trưa. Anh đã nhất ống nói:
- Tony?
- Xin lỗi ai đó?
- Como se sien te?
- Adele! Que tal?
Adele đã lập gia đình hơn hai năm nhưng không có con. Một bác sĩ bão chồng nàng có số tinh trùng thấp.
- Tụi em có thể gặp anh tại phòng mạch của anh chiều nay được không? Bác sĩ bão tụi em phải xin tinh trùng của người khác. Em nghĩ đến anh.... Em nghĩ anh có thể giúp em. Em vẫn muốn có một đứa con, của anh...vì em vẫn còn mãi mãi yêu anh. Nếu ngày xưa em biết, thì em đã không...