Đạo Sĩ và Cọng Cỏ
:::Đức Trí Quế Anh:::
Toàn Tập
TỰA
Ý tưởng, đôi khi như ánh chớp, chợt lóe lên và cần được nắm giữ ngay trước khi chúng loãng vào vùng bất tận.
Ý tưởng, như những giấc mơ, khi thức dậy, chỉ còn nhớ được một phần.
Nguyên tác Việt ngữ của Đạo Sĩ và Cọng Cỏ được viết xong trong ba tuần, và bản Anh ngữ được hoàn tất trong bốn tuần kế đó.
Đạo sĩ và Cọng Cỏ, đến với bạn, chỉ xin như ánh chớp hay như một giấc mơ.
MỞ
Trong khu rừng yên vắng, có một đạo sĩ sống và đạt đạo. Cảnh vật xung quanh ông là bạn bè của ông. Đôi khi ông ở trong hang núi và cũng có khi ông hòa mình vào không gian. Các loài muông thú và cây cỏ, đều không biết ông từ đâu mà tới. Ngay cả hang núi cũng không biết tại sao ông giấu cuộc sống mình trong đá. Và màu thiên thanh của trời cao thì không còn nhớ ông đã hiện hữu từ khi nào.
Lún phún dưới đất là cọng cỏ vui tính. Cuộc sống của nó ngập đầy niềm hoan hỉ cùng sự hào hứng. Nó nhìn thấy những điều mới lạ mỗi ngày và tự hỏi tại sao trên đời lại có nhiều tạo vật đến thế. Khung cảnh trước mắt nó thật đẹp, nhưng cũng thật phức tạp. Khung cảnh ấy như một kiệt tác đảo lộn mà cọng cỏ chưa thể tìm ra cách thưởng thức đúng điệu. Đầu óc của nó nhẹ như tầng khí mỏng, còn thân thể nó thì tươi mát như gió núi.
ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
Sau một thời gian tu luyện, đạo sĩ rời hang núi để tìm kiếm thức ăn. Đạo sĩ có thói quen ăn chay, do đó ông thường ăn lá rừng và cây cỏ. Một hôm, ông cúi xuống định bức một nhánh cỏ để ăn thì bỗng nghe:
- Ấy, ông định làm gì thế, tính giết tôi à?
Đạo sĩ nhìn kỹ, thì ra là nhánh cỏ mà ông định ngắt, ông đáp:
- Ta đói, ta cần ăn, ta lại không ăn thịt, chỉ ăn cỏ và lá cây.
Cọng cỏ hỏi:
- Thế tôi đói, tôi ăn ông nhé, được không?
- Ngươi đói, ngươi ăn đất, tinh khí trong đất bồi bổ ngươi, sương là nguồn nước của ngươi,
- Ông nói đúng. Nhưng ông cũng được tinh khí đất trời bồi bổ ông vậy?
- Đúng. Điều khác giữa ta và ngươi là ngươi có thể quang hợp, dùng ánh sáng mặt trời để tự tạo ra thức ăn. Còn ta không quang hợp nên cần thức ăn lấy từ ngoài cơ thề, vả lại ta ăn chay, chỉ ăn thực vật.
- Tại sao? – Cọng cỏ thắc mắc.
- Ăn thực vật giúp ta hạn chế được dục tính, bớt được phiền não, tốt cho cơ thể ta.
Cọng cỏ kết luận:
- Như vậy ông là động vật ăn cỏ à?
Đạo sĩ cười lớn:
- Ngươi dí dỏm lắm, có thể ngươi đúng.
Cọng cỏ lại hỏi:
- Theo ông động vật có quyền ăn thực vật sao?
Đạo sĩ trầm ngâm rồi đáp:
- Đó là lẽ tự nhiên.
Cọng cỏ không phục:
- Như vậy là không phải rồi đó, ông không thấy bất công sao? Thực vật có đòi ăn động vật bao giờ đâu?
- Ngươi sai rồi. Một số loài thực vật cũng bẫy động vật để ăn đấy chứ. Các loài thực vật còn lại được nuôi bằng nước, không khí, ánh sáng, và đất. Động vật được nuôi bằng thực vật hay bằng chính động vật. Khi động vật chết trở về cát bụi lại nuôi dưỡng thưc vật. Vậy không phải là động vật và thực vật đều nương nhau mà sinh tồn sao?
Đạo sĩ nói xong, bỏ đi. Còn lại một mình, cọng cỏ bấu rễ xuống từng thớ thịt của đất ăn bữa điểm tâm và chiêm nghiệm sự liên hệ giữa thực vật và động vật.
DỤC TÁNH VÀ LÝ TRÍ.
Đạo sĩ lững thững trở về, cọng cỏ nhìn ông, hình như ông đã kiếm được thức ăn.
- Ông đã ăn loài gì? - Cọng cỏ hỏi nhỏ.
- Lá cây, đã nói ta chỉ ăn chay, đồng nghĩa là loài thực vật.
- Ông từng nói ăn chay hạn chế tính dục trong người ông. Thế ra ông dùng thực vật để kiềm hãm dục tính?
- Có gì là sai?
- Sai thì có lẽ không, nhưng dùng ngoại vật để nén nội tâm, vậy nội công ông chắc còn yếu?
- Ngươi khoan hãy vội kết luận như vậy. Vạn vật sanh ra đều cần ăn uống hay có sự nuôi dưỡng. Ta không phải là một ngoại lệ. Ăn cũng là tập luyện. Lý trí ta bảo ta ăn thực vật để giúp đỡ cơ thể ta lành mạnh. Từ suy nghĩ đến hành động ta đều nhất quán, không hỗn loạn. Tự lý trí ta đã đè nén ta trước khi ta ăn. Vậy sao bảo ta dùng ngoại vật để tự chủ dục tính?
- Thế dục tính có còn trong người ông không?
- Dục tính luôn ở trong ta, nhưng dục tính không hẳn là kẻ thù cần phải loại bỏ. Dục tính có thể trở thành bạn đồng hành khi lý trí và dục tính hiểu nhau.
- Ông nói lý tưởng và mơ hồ quá!
- Khi lý trí hiểu tánh tự nhiên của dục tính, lý trí sẽ hướng dục tính đến thiện tính. Vậy không phải là bạn đồng hành sao?
- Nếu là đồng hành, tại sao không phải là dục tính hướng dẫn lý trí? - Cọng cỏ thắc mắc.
- Nếu dục tính hướng dẫn lý trí, mọi sự sẽ bị đảo lộn. Có thể ta sẽ tìm giết những vật yếu đuối trong cơn đói. Có thể ngươi sẽ bành trướng khắp quả địa cầu vì ngươi muốn đi đây đi đó. Có thể đêm sẽ không tàn, lửa sẽ không tắt, sức nóng sẽ nung chảy địa cầu hay có thể băng tuyết không ngừng kết tinh. Lúc đó ta và ngươi sẽ không có cơ hội nói chuyện nữa. Lý trí đồng hành với dục tánh là cả hai cùng bổ túc cho nhau. Ta nói “hướng” ở đây là hướng về thiên tính, về sự dung hòa, chứ không phải “hướng” là thi thố quyền lực hay cai trị nhau.
Cọng cỏ im lặng. Có lẽ, cọng cỏ đang tìm hiểu về dục tính của mình. Đạo sĩ đã bỏ đi từ lúc nào.
LỬA VÀ BÓNG ĐÊM
Hoàng hôn lên, đỏ rực một vùng trời đang chuyển đông. Tiếng chân đạo sĩ tuy nhẹ nhưng đủ thức tỉnh cọng cỏ. Trên vai đạo sĩ vác bó củi khô. Cọng cỏ reo lên:
- Ông về rồi, tôi có rất nhiều câu hỏi đặt ra cho ông đây!
Đạo sĩ tỏ vẻ bình thản, sắp củi trên một lô đất được che đậy bằng vài cục đá to, nhóm lửa. Bóng đêm dày đặc, chen chúc tránh khỏi hình dáng nhấp nháy chỗ đạo sĩ ngồi. Cọng cỏ, có vẻ như không chịu nổi nữa, hét lên:
- Ông chuẩn bị chưa, tôi hỏi đây!
Đạo sĩ quăng thêm củi vào đống lửa, giọng trầm trầm:
- Ngươi cứ tự nhiên, ta cứ tự nhiên.
- Ông đốt lửa làm gì? Ông tu luyện đã lâu, da thịt ông chắc phải chịu được khí lạnh mùa đông?
Đạo sĩ mỉm cười:
- Ta đốt lửa không phải để sưởi, mà muốn cùng lửa trò chuyện.
Cọng cỏ ngạc nhiên:
- Ông trò chuyện với tôi chưa đủ sao?
Đạo sĩ chậm rãi:
- Ngươi là sinh vật đứng một chỗ, lửa thì biến dạng, thay hình và tỏa ra sức nóng. Ta muốn đối thoại với sự biến hình trong bóng đêm.
- Lửa là do ông dựng nên, ông muốn đối đáp với cái ông dựng nên?
- Tại sao không? Cho dù là ta dựng nên lửa, lửa vẫn khác ta, có tính của lửa. Lửa vừa mang lại sự sống, vừa hủy hoại sự sống. Ta muốn nghiệm quyền lực của lửa.
Cọng cỏ tỏ vẻ chưa hiểu:
- Ông nghiệm được gì?
- Lửa ngăn cản bóng đêm nhưng không xóa được bóng đêm.
Cọng cỏ lắc lư:
- Tôi không hiểu.
- Lửa giống như cơn thịnh nộ, tự ái của chúng sanh được biểu hiện qua hành động tiêu diệt mọi thứ, nhưng kết cuộc những thứ bị tiêu diệt vẫn hồi sanh.
Cọng cỏ vẫn có một cái gì lẩn quẩn trong đầu.
- Xin ông nói cụ thể hơn.
- Cho dù lửa có dữ dằn cách mấy, tiêu hủy nhiều cách mấy, thì rồi vẫn có lúc phải tàn lụi, biến thành tro than, đất bụi. Mầm sống cũng sẽ nảy sinh từ đó.
Đến đây, cọng cỏ hiểu ra. Hình dáng bập bùng thỉnh thoảng kêu lên vài tiếng lách tách của lửa đã ru cọng cỏ vào khoảng cô tịch.
TÂM THỨC
Khoảng không đổi từ màu đen hắc sang hồng rồi dần dần vàng ánh ở phía chân núi. Lão mặt trời hôm nay dậy trễ. Tia mắt lão chạm vào cọng cỏ làm nó thức giấc. Việc đầu tiên cọng cỏ nghĩ là đốm lửa và đạo sĩ. Nó nhìn qua, thì ra đạo sĩ vẫn ngồi yên như vậy, duy chỉ có đốm lửa là tắt ngấm, để lại vài khóm tro xám. Cọng cỏ định mở miệng hỏi thì đạo sĩ mắt tuy nhắm nhưng đã hỏi trước:
- Ngươi dậy rồi à?
Cọng cỏ ngạc nhiên:
- Sao ông biết? Ông đang ngủ hay đang thức? Ông ngồi đó suốt đêm à?
- Ta ngồi đây suốt đêm, ta vừa thức vừa ngủ.
- Tại sao? – Cọng cỏ lại ngạc nhiên.
- Cơ thể ta trong trạng thái ngủ, nhưng tâm ta luôn tỉnh thức.
Cọng cỏ cười một cách lí lắc:
- Ông nói giỡn, phải không?
- Nếu trong khi ngủ mà đạt được sự tỉnh ở tâm thức thì con người mới tự chủ được cảm xúc của mình.
- Đống lửa tắt rồi, ông có định đốt lại không?
Đạo sĩ cười:
- Lửa cũng phải tắt chứ, cơn nóng giận, buồn bã hay vui sướng cũng phải nguôi, không có gì hiện hữu là kéo dài mãi được.
- Thế ông cũng tàn như đống tro kia, phải không?
- Ta không phải sanh ra để trường sanh bất tử. Ta chỉ sống cho đúng với cá tánh tự nhiên của ta.
- Cá tánh tự nhiên của ông thế nào?
- Đem hơi thở mình hòa vào thiên nhiên. Khi nào hơi thở cạn thì thân thể ta sẽ cạn.
- Thế tâm thức của ông có cạn không?
- Ta chưa biết, bởi vì thân thể ta chưa cạn.
- Ông tu luyện, sao không tiên đoán được sự trường tồn của tâm thức.
- Ta chỉ nói những gì ta cảm nhận. Ta không muốn khoác lác, nâng cao tâm thức ta. Tu luyện để đạt sự thanh thản trong tâm hồn, hướng con người hòa đồng với vũ trụ.
Cọng cỏ đu đưa thân hình như đồng tình. Nắng lên cao, phả hơi ấm khiến cọng cỏ lại bắt đầu thấy buồn ngủ. Từng lời nói của đạo sĩ như tiếng vang vọng đi vào từng sợi gân trên thân cỏ.
TRUYỀN ĐẠT TÂM THỨC
Sau một giấc ngủ với lời vọng của đạo sĩ, cọng cỏ thức tỉnh, đạo sĩ vẫn ngồi yên thở đều và nhẹ. Đạo sĩ hỏi cọng cỏ:
- Tâm ngươi thức chưa?
- Tôi thức rồi, dĩ nhiên tâm phải thức chứ.
- Chưa hẳn đâu, nghe ngươi nói vậy có thể tâm ngươi vẫn còn ngủ đấy.
- Sao ông nói vậy?
- Gọi là tâm thức, nghĩa là ở trạng thái đồng cảm với suy nghĩ, hơi thở và ngay cả dục tính, hành động của mình. Tâm thức thấy được hết những gì mình đã làm và sẽ làm.
- Ông nói giống như tâm thức có phép màu vậy đó.
- Tại sao không? Chính vạn vật đã là một sự kỳ diệu.
- Làm sao tâm thức được giữ mãi?
- Tâm thức được trường tồn là do chính vạn vật nuôi dưỡng và gầy sinh nó. Tâm thức ở ngay trong vạn vật. Khi vạn vật còn thì tâm thức còn.
- Làm sao có thể giữ mãi tâm thức của vạn vật?
- Do sự truyền đạt. Hãy nhìn chính ngươi. Nếu vũ trụ không truyền cho ngươi cách sống và sinh sôi, có lẽ sẽ không có ngươi.
Cọng cỏ suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi:
- Tôi và các loài thực vật có rễ và hạt giống để sinh sôi. Các loài động vật có con cái để truyền đạt, thế núi đá kia có truyền đạt tâm thức không?
- Tất nhiên, ta ngồi trong hang đá, nghiệm ra nhiều lẽ sống, đó chẳng phải là do hang đá truyền cho ta sao? Những kẻ khác nhìn vách đá biết được nhiều điều, đó cũng là truyền đạt.
- Còn ông, ông sẽ truyền đạt bằng cách nào?
- Bằng cách san sẻ tư tưởng và tâm thức của ta cho kẻ khác.
- Ông có chọn môn đệ nào chưa?
- Tại sao phải chọn? Ta đang ở giữa vạn vật. Tâm thức của ta và của vạn vật hòa vào nhau. Ta và vạn vật đã từng truyền đạt tâm thức cho nhau. Không có thầy và trò trong việc truyền đạt tâm thức.
- Thế khi nào tôi mới có thể cùng ông truyền đạt tâm thức?
- Không phải ta và ngươi đang truyền đạt tâm thức hay sao?
Thế rồi sự yên lặng bao trùm đạo sĩ và cọng cỏ. “ Ta có nhận tâm thức của đạo sĩ không?” Cọng cỏ thầm nghĩ.
BÌNH ĐẲNG VÀ HOÀN HẢO
Âm thanh của móng vuốt, bàn chân, hơi thở của hai loài thú rượt đuổi nhau khiến cọng cỏ chú ý, nó nghiêng mình xuống sát đất để tránh khỏi bị giẫm lên. Một con báo đen đang rượt một con nai, nhưng chỉ trong vài khắc sau, con báo đã dứt điểm con nai bằng một cú phóng xa và chính xác.
Cọng cỏ rùng mình, gọi đạo sĩ:
- Này, ông có thấy gì không?
Đạo sĩ từ trong đá bước ra, thản nhiên:
- Đó là luật sinh tồn của vạn vật. Như ta từng nói, ta cũng ăn, ngươi cũng ăn, và chúng thì cũng phải ăn.
- Tôi hiểu, nhưng tôi cảm thấy trong sự sống không có sự công bằng.
- Thì ra ngươi tội nghiệp cho kẻ thù của ngươi.
- Kẻ thù của tôi?
- Không phải nai ăn cỏ sao?
- Tôi biết vậy, nhưng vẫn thấy trong thiên nhiên thiếu sự bình đẳng.
- Sự thiếu bình đẳng đã có trong vũ trụ từ xưa đến nay. Tạo hóa sản sinh ra con vật mạnh ăn con vật yếu.
- Như vậy ông may mắn hơn tôi rồi.
- Tại sao ngươi nói như vậy?
- Vì ông mạnh hơn tôi, và chắc chắn nhiều quyền lực hơn tôi.
- Đừng nên hạ thấp giá trị của ngươi. Ta và ngươi có những khả năng riêng biệt. Trong cơ thể ngươi và ta, mỗi bộ phận cũng có chức năng riêng biệt, không thứ gì hoàn toàn có quyền lực trên mọi thứ hiện hữu khác. Tất cả đều có chung một quyền được sống.
- Ông có vẻ mâu thuẫn quá! Ông nói đi, vũ trụ này hoàn hảo hay không hoàn hảo? Bình đẳnng hay không bình đẳng?
- Sự hoàn hảo có thể đồng nghĩa với sự không bình đẳng và sự bình đẳng có thể lại là sự không hoàn hảo. Vũ trụ có cái “hoàn hảo” của vũ trụ, con người có cái “hoàn hảo” của con người, cọng cỏ ngươi có cái “hoàn hảo” của riêng ngươi.
- Như vậy, chẳng lẽ tất cả những thứ hoàn hảo gộp chung lại thành ra sự không hoàn hảo?
- Có thể lắm – Đạo sĩ gật gù.
- Tại sao? – Cọng cỏ nhíu mày.
- Khi có quan niệm hoàn hảo, tâm thức bị cuốn theo một con đường duy nhất hướng thiện. Như vậy, nếu có nhiều con đường hướng thiện thì các loài và ngay chính đồng loại sẽ chỉ gặp nhau ở ngã rẽ.
- Ông càng nói tôi càng thấy bi quan.
- Ngươi không nên bi quan, và không cần bi quan. Các loài có thể chia rẽ sự “hoàn hảo” của riêng mình nhưng chớ coi trọng. Bởi vì ý nghĩa của cuộc sống là một sự “không hoàn hảo.”
- Tôi hơi rối. Ông có thể giải thích thêm?
- Nếu ta cho là ta hoàn thiện, thì ta sẽ coi thứ khác không giống ta là không hoàn thiện. Vì ta muốn sống trong một vũ trụ hoàn thiện, ta sẽ thay đổi những thứ khác để chúng trở thành hoàn thiện theo ý ta. Như vậy ta đã cố tình làm thay đổi sự sắp xếp của tạo hóa, trong khi cái hoàn thiện của ta chưa chắc là cái hoàn thiện tuyệt đối.
- Vậy theo ông thì phải làm sao?
- Hãy quý sự hoàn hảo của chính ngươi, của những vật xung quanh ngươi, và của vũ trụ. Phải hiểu rằng mọi vật được xếp ngang nhau. Những thứ không hoàn hảo trong con mắt ngươi chính là để giữ cho sự quân bình của vạn vật. Đó mới là sự hoàn hảo thực.
Làn gió nhẹ, ve vuốt thân hình xanh mướt của cọng cỏ, rắc lên đấy vài hạt bụi. Cọng cỏ nghĩ: “Ngọn gió kia, hạt bụi kia, chúng mi có hoàn hảo không?”
BÌNH MINH HAY CHÂN LÝ
Bình minh le lói cuối chân trời vuốt lên những giọt sương đêm đọng đầy trên cỏ làm chúng hoảng hốt tan biến mất. Mở mắt, như đã thành một thói quen, cọng cỏ nhìn qua đạo sĩ. Vẫn chỗ ngồi cũ, tư thế cũ, đạo sĩ luôn có vẻ ung dung, không chút lo lắng.
- Ông nghĩ sao về bình minh?
- Nguồn sống cho vạn vật. Đối với nhân loại, bình minh được ví như chân lý.
- Chân lý? Chân lý gì?
- Bình minh đem lại sự tươi sáng, nuôi dưỡng muôn loài. Bình minh rọi thẳng vào tận tâm thức, an ủi nỗi khổ đau mà muôn loài phải gánh chịu. Do đó, loài người ví bình minh là chân lý, là sự soi sáng, sự thật và rộng hơn, nguồn thiên nhiên sống đạo.
- Thế tâm thức thì sao? Không phải là chân lý sao?
- Ta đã nói tâm thức ngay trong vạn vật. Dĩ nhiên tâm thức là chân lý.
- Vậy chỉ có một chân lý à?
- Chân lý chỉ là ngôn ngữ mà loài người dùng để biểu lộ niềm tin của mình vào điểm tựa cuộc sống. Chân ý có thể chỉ có một hay có thể đếm không hết.
- Tại sao?
- Giống như tâm thức. Mỗi loài đều có chân lý khác nhau, duy tất cả vạn vật đều chia xẻ một thứ chân lý chung, vũ trụ chân lý.
- Ông có vẻ trừu tượng hóa.
- Hãy nhìn chung quanh ngươi và ta. Ta và ngươi đều không cùng loài, suy nghĩ sẽ không giống nhau, nhưng không phải chúng ta cùng chia xẻ không khí trong vũ trụ sao?
- Thế chân lý của loài người như thế nào?
- Đạt hạnh phúc, an lạc trong tư tưởng, tâm thức.
- Vậy loài người có đạt được chân lý không?
- Có và không.
- Tại sao?
- Đã có người đạt được chân lý, truyền đạt lại cho nhân loại, nhưng đến nay thế giới loài người vẫn còn chiến tranh.
- Vậy loài người tàn bạo hơn cọng cỏ tôi đó. Tôi chưa bao giờ gây sự đánh nhau với ai cả.
- Về điều này, ngươi có phần đúng. Nhưng riêng phần ngươi, chớ đừng vì một chút đất mà dành quyền sống với các loại cây cỏ khác nhé.
Cọng cỏ cong thân, gật gù. Đạo sĩ vẫn tiếp tục ngồi, cảnh vật ấm hơn, còn cọng cỏ vẫn tiếp tục suy nghĩ về chân lý của loài cỏ.
NGHỆ THUẬT CỦA MỖI LOÀI *
Vài chiếc lá thu khô rớt xuống ngay cạnh cọng cỏ. Cọng cỏ nhìn ngang, nhìn dọc, trông chiếc lá thật lạ mắt.
- Đẹp thật! – Cọng cỏ hào hứng.
Bỗng, một con giun từ đâu bò lên chiếc lá ngo ngoe hít ngửi, bò qua bò lại.
- Đúng là đồ giun dế! Không biết thưởng thức nghệ thuật! – Cọng cỏ quát lên.
Con giun ngơ ngác nhìn quanh, nhận ra cọng cỏ, con giun cười:
- Mi làm gì mà giận dữ thế?
- Chiếc lá khô đẹp như thế mà mi bò lên, in dấu ngoằn ngoèo, thật là phản nghệ thuật.
- Vậy thế à? Xem ra mi cũng thích thưởng thức nghệ thuật.
- Dĩ nhiên, nghệ thuật là cảnh đẹp xung quanh.
- Nghệ thuật nằm trong vạn vật, có phải không?
- Phải thì sao?
- Như vậy mi cũng là nghệ thuật?
- Tất nhiên.
- Thế tại sao ta thì là phản nghệ thuật?
- Mi là loài giun dế, mi biết gì về nghệ thuật.
- Mi không phải là ta, sao dám khẳng định ta không có nghệ thuật?
- Nghệ thuật của mi là gì?
- Mi nói trước đi, nghệ thuật của cọng cỏ mi là gì?
- Là cảm xúc, rung động trước một vật gì, một cảnh gì. Ta nhìn thấy chiếc lá khô, cảm xúc vì hình hài của chiếc lá, rung động vì màu sắc của chiếc lá, ta cho đó là nghệ thuật.
- Mi có cảm xúc của mi, ta có cách xúc cảm của ta. Ta nằm trên chiếc lá, thưởng thức mùi thơm của lá, cảm nhận được sự mềm mại của lá, và những đường gân li ti trên lá kia mới chính là nghệ thuật.
- Nhưng mi nằm trên chiếc lá thì còn gì là nghệ thuật của chiếc lá nữa.
- Tại sao?
- Vì mi xấu xí.
Con giun cười lớn:
- Đối với ta, vật nào có thân hình căng tròn như ta, cơ thể uốn éo như ta mới là tuyệt đẹp. Còn mi, mi xanh le xanh lét và gầy nhom thế kia, mới đúng là xấu xí. Hơn nữa ta cho rằng chiếc lá khô có ta nằm ở trên lại càng nghệ thuật hơn.
Cọng cỏ còn giận, nhưng im lặng, nó nhìn con giun tiếp tục ngo ngoe hít ngửi, còn nó thì tiếp tục nhìn ngang, nhìn dọc.
*Bài được nhiều người ưa thích nhất trong loạt truyện Đạo Sĩ và Cọng Cỏ.
NGÔN NGỮ CỦA MỖI LOÀI
Cái lành lạnh ban mai tỏa khắp. Cọng cỏ mở mắt, hít một hơi, thưởng thức mùi vị đất trời hòa trộn. Hơi lạnh từ từ tan đi, cũng là lúc cành lá sột soạt. Cọng cỏ nhìn lên, thấp thoáng đằng kia một bóng người và một bóng vật đang tiến đến gần.
- Có ai đang đến – Cọng cỏ nói khẽ.
Đạo sĩ tuy ngồi im như pho tượng, nhưng hình như ông đã thấy được tất cả chung quanh.
- Một cô con gái đang đi cùng một con chó.
- Trong khu rừng tĩnh vắng này, tôi tưởng ông là loài người duy nhất?
Đạo sĩ cười:
- Nhưng ta thì không nghĩ ngươi là cọng cỏ duy nhất.
- Cô ta định vào đây tu hay sao?
- Thế ngươi cũng ở đây, ngươi có tu chưa?
- Ông xem kìa, con chó và cô ta rất hiểu nhau, tôi chưa thấy họ bất đồng ý kiến, mặc dù họ khác loài.
- Chẳng có gì lạ cả. Tâm thức họ đang làm việc đời thường ấy.
- Nghĩa là sao?
- Họ trao đổi bằng chính tâm, thức, tịnh, động, và ngộ. Tuy không cùng loài, nhưng khi tâm “thức” thì tâm của loài người sẽ cùng trò chuyện với tâm loài khác, cũng giống như ta và ngươi, hay ngươi và con giun.
- Thế thì tâm tôi luôn “thức” đấy nhé.
- Hãy khoan kiêu ngạo. Ngươi còn phải “thức” nhiều hơn nữa.
- Này nhé, cọng cỏ tôi có cái “thức” của tôi, ông có cái “thức” của ông, cô gái và con chó cũng có cái “thức” riêng của họ, phải không? – Cọng cỏ giả cách lập luận của đạo sĩ một cách tinh nghịch.
- Ngươi tự học lấy, cần gì phải nhái ta?
Cô gái tới gần, cất tiếng hỏi rụt rè:
- Thưa ông, tôi cảm thấy bị lạc đường, xin ông chỉ cho lối ra.
- Lạc đường thì không, bởi vì chỗ nào cô cũng có thể dung thân, chỗ nào cũng là nhà của cô, nhưng nếu cô muốn ra khỏi khu rừng này thì phải mất độ vài ngày.
Cô gái mệt mỏi bỏ hành trang trên vai xuống, con chó cũng ngoan ngoãn nằm xuống, dường như nó cũng mệt. Cô gái chỉ một nơi bằng phẳng và kín gió:
- Tôi có thể dựng lều ở đây được chứ?
- Tất cả khu rừng này thuộc về cô.
Cô gái bắt đầu dựng lều, con chó chạy quanh giúp đỡ vài thao tác nhỏ. Cọng cỏ chăm chú theo dõi, nó chưa lên tiếng vội, nó còn đang phân vân, sự hiện diện của cô gái và con chó có phá đi không khí “đạo sĩ và cọng cỏ” mà chính nó không bao giờ muốn mất? Cọng cỏ mơ màng, “Không biết cô gái và con chó có thể hiểu được ngôn ngữ của loài cỏ không nhỉ?”
ĐẠO VÀ QUYỀN LỰC
Ánh nắng rực rỡ nhưng dịu ấm như muốn chào đón hai sinh vật mới trong khu tĩnh mịch này. Cô gái và con chó đã thức sau môt giấc ngủ mệt mỏi. Từng cử chỉ của cô gái và con chó được cọng cỏ chú ý và nó nhất quyết theo dõi mọi diễn tiến mà theo nó, lạ lùng và kỳ bí. Cô gái hỏi đạo sĩ:
- Ông ngồi thiền đã bao lâu rồi?
- Ta không thể nhớ, chỉ biết ta ngồi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời mọc.
- Ông nhắm mắt như thế, ông có thấy gì không?
- Cách nhắm mắt của kẻ khác có thể là cách mở mắt của ta. Ta có thể thấy nắng chào đón muôn loài, thấy mây và gió tình tự, thấy lá cây trò chuyện với nhau, thấy những con vật đi kiếm ăn, thấy trăng đàm đạo với các vì sao, và nhiều điều khác.
- Ông triết lý lắm, ông đạo gì?
- Vạn vật ở xung quanh ta là nguồn sống của ta, có thể nói ta theo đạo thiên nhiên.
- Đạo là gì đối với ông?
- Tìm hiểu tâm thức, bản tính của muôn loài.
- Vậy theo ông trong muôn loài có bao nhiêu đạo?
- Nhiều nhưng cùng ở trong một.
- Tại sao?
- Cây có đạo cây, ta có đạo ta, cô có đạo cô, không khí có đạo không khí, vân vân. Nhưng chúng đều sống trong vũ trụ.
- Vậy đạo nào có quyền năng nhất, có phải đạo vũ trụ không? Theo ông nói, tất cả các loài đều nằm trong vũ trụ.
- Các loài nằm trong vũ trụ, nhưng đạo của vũ trụ không hẳn là tối cao. Nếu không có các loài làm sao hình thành vũ trụ được.
- Theo ông, vũ trụ không tự có sao? Và có trước khi có các loài và sự sống?
- Có thể lắm, nhưng đó chỉ là cách nói tương đối.
- Cách nói tuyệt đối thì thế nào?
- Ta chưa biết, chỉ biết rằng vũ trụ sanh ra vạn vật, vạn vật cũng có thể sanh ra vũ trụ. Ở trong vạn vật có vũ trụ.
- Phải có một khởi điểm chứ?
- Tất cả các điểm đều là khởi điểm và là dứt điểm.
- Theo ông chẳng có quyền lực nào tối cao hay sao?
- Quyền lực của vũ trụ là tạo ra sự cân bằng cho các loài, các vật. Quyền lực của các loài là tạo ra nguồn cảm thông lẫn nhau cũng như giữa các loài và vũ trụ. Các quyền lực khác nhau, không thể so sánh được. Quyền lực mà loài kiến cho là tối cao chưa hẳn là tối cao của loài người. Cái tối cao trong sự hiểu biết của loài người chưa chắc là sự tối cao đích thực.
- Thế theo ông hành đạo là sao?
- Các loài sống theo chức năng của mình, dùng quyền lực của mình để hỗ trợ các loài khác. Ta nhấn mạnh, chỉ hỗ trợ mà không làm chủ. Các loài phải tự biết lúc nên đến, lúc nên đi, như bình minh và hoàng hôn. Các loài phải tự biết vị trí của mình, khi nào nên phô trương đạo của mình, khi nào thì không phải lúc, như mặt trăng và mặt trời, ánh sáng và bóng tối. Đạo của muôn loài luôn di chuyển theo vòng tròn.
Cọng cỏ liếc nhìn con chó, nó đang nằm im, đầu nghểnh cao, lim dim cặp mắt. Cô gái thì cúi đầu, nhìn chăm chăm không chớp mắt vào chính cọng cỏ.
SỐNG VÀ CHẾT
Đêm chầm chậm đến. Đạo sĩ, cô gái và con chó quây quần bên đống lửa. Sao đêm nay có vẻ nhiều hơn mọi đêm. Cọng cỏ vẫn ráng thức để theo dõi họ. Cô gái mở đầu:
- Ông có bao giờ chuẩn bị cho cái chết đến không?
- Chuẩn bị làm gì nếu như sống chết chỉ là một?
- Nhưng ông không nghĩ rằng chết là sự chấm dứt hoạt động của thân xác?
- Nhưng con người còn có linh hồn.
- Ông muốn nói linh hồn sẽ về trú ngụ ở một trong hai nơi thiên đàng hay địa ngục?
- Thiên đàng khác địa ngục ra sao?
- Thiên đàng là nơi tâm hồn thanh thản, còn địa ngục là nơi tâm hồn bị giày vò, bức rức.
- Nếu như vậy thì quả là ta đang ở thiên đàng, chưa cần đợi đến lúc thân xác trở thành vô hồn.
- Ông không coi trọng sống chết à?
- Ta đã sống chết nhiều lần rồi, có gì mà sợ.
- Ông không đùa chứ?
- Mỗi ngày, ta ngồi đây ngủ giữa vũ trụ, tâm hồn chẳng vướng bận gì, coi như ta đã chết. Lúc mở mắt thấy vật vật trong lành hồi sanh, không phải là ta sống lại sao?
- Nhưng vẫn có một cái chết cuối cùng chứ, ông đâu thể trường sanh bất tử.
- Khi nào là cái chết cuối cùng?
- Hơi thở ông ngừng, tim ông đứng yên, và bộ não ông thôi hoạt động.
- Ngừng ở xác này nhưng chưa ngừng trong không gian.
- Sau khi rời khỏi xác, linh hồn ông đi về đâu?
- Thiên đàng, địa ngục, quá khứ, hiện tại, tương lai, vô hình hay hữu hình đều là ở đây, tại sao phải đi nơi khác.
- Nói thế, ông đã ở địa ngục rồi à?
- Đúng vậy. Khi ta đói, bụng ta cồn cào khó chịu. Khi ta no, đầu óc ta mê ngủ không sáng suốt nữa. Những thứ ấy là nguồn gốc của địa ngục.
- Thiên đàng địa ngục ở trong ông à?
- Ở trong ta, ở trong ngươi, ở trong mọi loài.
- Thế bây giờ ông đang sống hay đang chết?
- Ta đã nói, sống chết chỉ là một, cho nên ngươi bảo ta sống thì là ta đang sống, mà bảo ta chết thì là như thế.
Ánh lửa nhỏ dần, chìm hẳn. Cọng cỏ ngáp dài, nó rũ người, thử chết xem sao.
PHÁT MINH HAY TÌM THẤY
Mưa rơi trong cơn gió chiều vẫn không làm đạo sĩ cử động. Cô gái và con chó ngồi trong lều, phía trên đã được cô gái cẩn thận chăng một tấm bạt lớn. Còn cọng cỏ đong đưa, nhún nhảy, cảm giác lâng lâng như đang say, nó rất thích mưa.
- Sao ông không trú mưa, ông không sợ bị cảm lạnh à?
- Mưa thì cũng là ta, tại sao ta phải trú ta?
- Thiên nhiên đạo có phải do ông sáng tạo ra không?
- Ta chưa sáng tạo gì cả, tất thảy đều đã có sẵn.
- Vậy thì các triết thuyết, phát minh khoa học không phải đã từng được sáng tạo sao?
- Tưởng là sáng tạo, thực chất chỉ là tìm thấy. Trước khi loài người tìm ra châu Mỹ, thì châu Mỹ đã ở sẵn đó rồi. Trước khi người ta tìm ra một triết lý thì triết lý đó đã tồn tại.
- Thế tại sao người đời lại tôn họ lên hàng vĩ nhân nếu họ chỉ là những người tìm thấy?
- Không phải ai, loài nào cũng có thể tìm thấy. Chỉ có những người có duyên mới có thể tìm thấy những điều mà người khác không nhìn ra. Những người này rất xứng đáng được gọi là vĩ nhân.
- Vậy ông cũng đã từng tìm thấy thiên nhiên đạo, ông có đáng được gọi là vĩ nhân không?
- Vĩ nhân hay tiểu nhân là do người đời đề xướng, cô muốn gọi ta là gì cũng được, ta chưa nghĩ tới. Vả lại, ta sống trong thiên nhiên, nơi đây những từ ngữ vĩ nhân hay phát minh chẳng mang ý nghĩa đặc biệt nào cả.
- Ông không nghĩ như vậy là ích kỷ sao? Người đời cần ông, sao ông lại trốn tránh, cô độc một mình trong khu rừng vắng không một bóng người này?
- Ta còn chưa tìm thấy hết những điều ta muốn tìm. Vả lại ở đây, ta vẫn có thể truyền đạt sự biết của ta cho những nơi cần, người đời chưa chắc đã cần ta.
- Tại sao?
- Những gì ta biết nằm trong vạn vật, trong từng loài, phải tự nghiệm lấy thôi, không cần đến ta. Còn cô, cô “tìm thấy” chốn này, thế cô có truyền cho người khác không?
- Nếu tôi thấy là cần thiết.
- Nên nhớ, khám phá là mầm mống của sự hủy diệt.
Mưa mỗi lúc một lớn, ngôn ngữ của đạo sĩ và cô gái tan loãng trong mưa, tạt vào thân cọng cỏ mát rượi. Đạo sĩ ngồi giữa vũng nước, mặt không chút biểu lộ trong khi cô gái chăm chú nhìn về hướng đạo sĩ. “Cô ta đamg tìm kiếm cái gì nhỉ? Và mình thì đã tìm thấy được gì nhỉ?” Cọng cỏ nghĩ thầm.
Ý THỨC VÀ TIỀM THỨC
Cọng cỏ hôm nay dậy sớm. Nó muốn tiếp tục theo dõi cô gái và con chó. Cô gái ngủ quên ở ngoài trời, lưng dựa vào vách núi. Khuôn mặt cô thoáng nét mệt nhọc và hoảng hốt. Con chó cắn nhẹ vào tay cô gái lúc lắc làm cô gái giật mình choàng tỉnh. Đạo sĩ vẫn ngồi ở chỗ cũ, điềm tĩnh hỏi:
- Có phải cô vừa trải qua một giấc mộng khó hiểu?
- Sao ông biết?
- Chuyện ấy vẫn thường xảy ra.
- Vậy ông có hay mơ không?
- Ta luôn luôn mơ.
- Ông thấy gì trong giấc mơ?
- Rất nhiều điều. Ta thấy và gặp những gì mà khi ý thức, ta không thể gặp được.
- Tôi vừa có một giấc mơ thật kinh khủng. Trong mơ tôi cũng ngồi ở chỗ này. Có hai người mặt mũi quái đản đi về phía tôi. Tôi cảm thấy sợ hãi nên nấp vào hang núi. Họ cũng vào hang núi. Tôi hốt hoảng vụt chạy trong bóng tối và rớt xuống một vực sâu. Đúng lúc đó thì tôi giật mình thức giấc.
Đạo sĩ gật gù:
- Sâu trong hang núi, quả có một vực thẳm.
Cô gái vô cùng ngạc nhiên:
- Tại sao tôi có thể mơ thấy những điều có thật mà chính tôi chưa biết tới?
- Đó là do tiềm thức của cô hoạt động.
- Nghĩa là…?
- Tâm thức có ý thức và tiềm thức luôn luân phiên hoạt động. Khi ý thức nghỉ ngơi là lúc tiềm thức làm việc. Ngay trong lúc ngủ, đầu óc cô vẫn liên tục “thức.”
- Khi tôi mở mắt thì tôi vẫn ngồi đây, vậy tôi có thật sự chạy vào hang núi không?
- Phần xác cô ngồi đây, phần hồn của cô thì chạy vào hang núi.
- Nói như vậy, lúc đó tôi đang chết à?
- Sống chết chỉ là ngôn ngữ mà thôi, không phải là điều quan trọng.
- Ý thức và tiềm thức khác nhau ra sao?
- Ý thức thuộc về thế giới hữu hình, tiềm thức thuộc về thế giới vô hình đối với con người.
- Tôi có thể kiểm soát được tiềm thức của tôi không?
- Muôn loài dùng ý thức đề kiểm soát hành động trong thế giới hữu hình. Tất nhiên cũng có thể dùng tiềm thức để kiểm soát hành động trong thế giới vô hình.
- Bằng cách nào?
- Những gì cô có thể làm bằng ý thức thì cũng có thể làm bằng tiềm thức. Cô có thể điều khiển các diễn tiến trong giấc mơ nếu muốn, hoặc nếu cô không thích giấc mơ ấy, cô có quyền không mơ nữa. Trong giấc mơ, cô sẽ thấy những gì không thể thấy hoặc nghe bằng ý thức, thậm chí có thể dùng tiềm thức để học hỏi.
- Ông học được gì bằng tiềm thức?
- Tiềm thức đưa ta xuống vực sâu, lên trời cao, len vào những nghách đá, lặn ngụp giữa lòng suối. Tiềm thức đưa ta gặp những hiện hữu không thuộc thế giới hữu hình của loài người.
- Theo ông, loài vật, loài cây cỏ, suối nước hang đá xung quanh ông có mơ không?
- Loài người chỉ là một loài bé nhỏ trong muôn loài vật của vũ trụ. Nếu loài người có giấc mơ các loài khác cũng sẽ mơ.
Cọng cỏ nghe đến đây, bật cười khoái chí, nó muốn hét lên: “Cô gái ơi! Ta vẫn thường mơ mộng hàng đêm đấy nhé.”
SỰ TIẾN HÓA
Đêm dần xuống, cô gái đang chuẩn bị bữa ăn tối bằng những vật liệu mang theo trong hành trang mà đối với cọng cỏ rất là “cấp tiến.” Chỉ cần bấm “tách” một cái là cô gái đã có ngay lửa ở trong tay. Chẳng thấy cô gái săn bắn hay thu lượm gì mà giờ cọng cỏ đã ngửi thấy mùi thức ăn thơm phức. Ngay cả những mùi ấy cũng kỳ lạ, có lẽ đạo sĩ chưa từng ăn bao giờ nên cọng cỏ chưa có dịp ngửi thấy.
- Ông ăn chay phải không? – Cô gái hỏi đạo sĩ.
- Đúng vậy.
- Món súp của tôi chỉ có mùi thịt chứ không có thịt, ông dùng chứ?
- Tất nhiên, đối với ta thì món súp của cô chẳng có mùi thịt gì cả vì ta đã quên mất mùi thịt ra làm sao.
- Ông có nghĩ rằng sống mãi ở đây ông sẽ đi ngược lại với sự tiến hóa?
- Sự tiến hóa nằm ở ngay trong đầu của mỗi vật, sống ở đâu cũng thế thôi. Những kỹ thuật xã hội con người đang có, chỉ cần tập trung suy nghĩ, ta có thể nghiệm ra hết cả.
- Ông muốn nói đến những kỹ thuật tân tiến, như hệ thống liên mạng?
- Hệ thống liên mạng ấy lấy căn bản từ hệ thống liên mạng trong thiên nhiên, và chỉ là một phần nhỏ của sự thông tin tư tưởng. Ngay cả ở đây cũng vẫn có hệ thống liên mạng.
- Xin ông giải thích thêm.
- Khi nhìn lên trời hay nhìn vào sinh hoạt của các loài xung quanh, ta có thể đoán biết được thời tiết hay những sự biến động. Đối với hệ thống liên mạng mà xã hội loài người đang xử dụng, để chuyển một thông tin đi nửa vòng trái đất hay xa hơn nữa, phải dùng đến những làn sóng vô hình trong không gian. Và nếu như đã có những làn sóng vô hình thì việc thông tin trực tiếp bằng ý nghĩ thay vì lời nói, hành động, hình ảnh hay chữ viết chỉ là sự khác nhau giữa các làn sóng mà thôi.
- Ông có nghĩ khi đó, con người đạt đến đỉnh tối cao của trí tuệ hay không?
Đạo sĩ lắc đầu:
- Loài người có thể cho một điểm nào đó là tối cao, nhưng đấy chỉ là sự tương đối và tạm thời vì kiến thức của con người có giới hạn.
- Theo ông thì sự thành đạt của xã hội loài người hiện nay sẽ đi tới đâu?
- Như ta đã nói, phát minh là mầm mống của sự hủy diệt. Sự tiến hóa đã đi được rất nhiều vòng thì nền văn minh hiện nay không thể nào đi lệch ra ngoài quỹ đạo ấy. Khi đã đạt đến mức quá mạnh, quá cao thì sẽ phải giảm xuống, như ngọn núi kia, có triền dốc lên thì phải có triền dốc xuống. Khi đã quá rực rỡ thì sẽ phải lu mờ, như mặt trời khi lặn khi mọc. Khi đã quá bành trướng thì phải có lúc thu hẹp lại, như mặt trăng có khuyết có đầy.
- Có nghĩa là không có sự gì tồn tại mãi mãi?
Đạo sĩ cười:
- Sở dĩ đặt vấn đề trường tồn là vì sự ham muốn thống trị. Thực chất chỉ có một sự tồn tại và sự tồn tại ấy biến chuyển hình dạng, vị trí, và có thể “chuyển ngôi.” Nên nhớ rằng trước khi con người bành trướng trên quả đất này, thì nó đã từng là hành tinh của loài khủng long, thì chẳng có gì lạ nếu như một loài khác thay thế con người, và con người lại thay thế một loài nào đó ở một nơi nào đó.
- Nói như ông thì không có gì đáng ngạc nhiên hay nghi ngờ về các nền văn minh xuất hiện trước chúng ta hàng tỷ năm?
- Tất nhiên, cô nhìn thấy trăng khuyết không có nghĩa là trăng không tròn. Cô nhìn thấy mặt trời chói sáng hơn các vì sao, không có nghĩa là các vì sao bé nhỏ và kém chiếu sáng. Chúng ta văn minh hơn mười năm hay trăm năm trước không có nghĩa là văn minh hơn triệu năm hay tỷ năm trước.
- Thế ra con người chỉ đi loanh quanh?
- Không riêng con người, mà mọi vật đều đi loanh quanh giữa tiến và hóa.
Cọng cỏ chợt rùng mình, có thể nào nó sẽ “tiến hóa” thành đạo sĩ và đạo sĩ thành cọng cỏ?
VĂN MINH CỦA CÁC PHƯƠNG
Ngoi lên từ sự tĩnh lặng phương Đông, sợi nắng ấm chia xẻ niềm khát khao của một ngày mới với khoảng không.
Cô gái và con chó tỉnh giấc, nhìn về vòm ửng hồng xóa tan cụm mây đen với một tâm trạng sảng khoái. Thấp hơn, đạo sĩ vẫn ngồi, mỉm cười với cảnh vật. Chỉ riêng cọng cỏ không một chút rời cô gái, con chó và đạo sĩ.
Cô gái sau một thoáng hạnh phúc tự tại, quay sang hỏi đạo sĩ:
- Phương Đông có phải là hào quang của văn minh con người không?
Đạo sĩ quay nhìn cô gái:
- Tại sao cô nghĩ vậy?
- Không phải mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây sao?
- Cô gọi phương mặt trời mọc là phương Đông nên kết luận văn minh nhân loại sẽ rọi sáng ở phương Đông?
- Phải.
- Vậy nếu tôi gọi phương mặt trời mọc là phương Tây, vậy thì câu trả lời về văn minh nhân loại sẽ khác đi?
Cô gái suy nghĩ một lát, nói:
- Nhưng ông hãy nhìn xem, Tây phương đang hướng về Đông phương và có nhiều giả thuyết cho rằng văn minh Đông phương đang trỗi dậy. Vả lại văn minh Tây phương không còn hưng thịnh như trước.
- Văn minh Tây phương và Đông phương đều có lúc hưng thịnh và lúc suy đồi. Cái gì lên nhanh sẽ xuống nhanh, lên chậm xuống chậm. Nhân loại đã từng có những nền văn minh cực thịnh như La Hy và Trung Ấn, nhưng cũng không tồn tại với thời gian.
- Ông có nghĩ Đông phương là một ngoại lệ?
- Ta không nghĩ vậy. Tất cả các nền văn minh đều chỉ rực rỡ trong một thời gian. Đông Tây sẽ tiếp nối và ảnh hưởng lẫn nhau. Thật ra về ý nghĩa, hai nền văn minh ấy đều giống nhau, chỉ có hình thức khác nhau, tạo nên sự riêng biệt của Đông và Tây.
- Ông có thấy là đối với thế giới Tây phương, Đông phương vẫn còn là một sự xa lạ, đặc biệt về vấn đề tâm linh và triết học.
- Không có gì xa lạ cả, có thể vì người Tây phương chưa tìm hiểu hết văn hóa Đông phương. Thật ra, ngay cả văn minh Tây phương vẫn chưa được tìm hiểu cặn kẽ và thâm sâu. Con người chỉ biết đến Đông Tây, vậy còn Nam Bắc thì sao? Ta không biết đến không có nghĩa là chúng không tồn tại.
- Có giả thuyết về sự xuất hiện của một nền văn minh mới ở phương Đông, ông nghĩ sao?
- Xuất hiện từ Đông, rồi cũng sẽ xuất hiện từ Tây, từ Nam hay là từ Bắc, không có gì lạ cả. Hơn nữa, phương Đông của nơi này lại là phương Tây của nơi kia, nên cách nói Đông Tây vẫn chỉ là tương đối.
- Sự xuất hiện của một nền văn minh mới có giúp ích gì cho con người hay không? - Cô gái trầm ngâm.
- Khi con người bế tắt trong văn minh của họ, họ sẽ đi tìm giải thoát ở một phương khác xa lạ với họ. Sự xuất hiện của một nền văn minh mới là điều nhân loại mong muốn. Nhưng ta không nghĩ con người cần một nền văn minh mới. Cái quan trọng là bớt đi hình thức của một nền văn minh đang có, điều này sẽ giúp con người nhiều hơn.
- Vậy theo ông, văn minh con người sẽ đi về đâu?
- Đối với con người hiện đại, “văn minh” được xem đồng nghĩa với những giá trị vật chất siêu việt. Những giá trị ấy không thể tồn tại lâu. Đã đến lúc con người cần trở lại sự cân bằng vũ trụ và nhân sinh. Giá trị thiên nhiên và đời sống tinh thần là quan trọng. Ta không thể định chính xác phương của văn minh con người được vì văn minh chính nó không có điểm chấm dứt.
Cô gái trầm tư, suy nghĩ. Cọng cỏ cũng chìm vào sự suy tư, “Văn minh loài cỏ có bị tàn lụy một ngày nào đó không nhỉ?”
HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG
Trời chuyển dần sang màu hồng xám, bắt đầu buổi chiều tối. Cô gái cùng với con chó chuẩn bị thu xếp hành trang để sáng mai lên đường rời khỏi khu rừng. Đạo sĩ, với sự tĩnh lặng hàng ngày, vẫn ngồi chuyện trò cùng vạn vật. Cô gái bất chợt nhìn sang đạo sĩ:
- Ông có nghĩ rằng xã hội con người chứa quá nhiều hình thức không?
- Cô cho thế nào là hình thức?
- Hình thức như các lễ nghi tôn giáo, văn hóa và ngay trong cả xã hội.
- Thế cô chống lại hình thức?
- Tôi không biết. Nhưng tôi thích con người hướng đến nội dung nhiều hơn.
- Thế cô cho thế nào là nội dung?
- Trung thực với suy nghĩ của mình.
- Vậy người coi trọng hình thức là không trung thực?
- Không hẳn, nhưng hình thức là một trong những yếu tố nhốt chặt tư tưởng con người.
- Ở một góc độ nào đó, – Đạo sĩ gật gù – ta đồng ý với cô, nhưng đôi khi cũng còn tùy vào hoàn cảnh để xét đoán hình thức và nội dung.
- Xin ông giải thích thêm cho rõ.
- Này nhé, hình thức sẽ trở nên yếu tố tích cực nếu người trọng hình thức dùng hình thức làm điều thiện. Lấy ví dụ, trong xã hội, con người dùng lễ nghĩa đối xử tốt với nhau thì đấy là điều tốt. Đi vào tâm linh, khi một tu sĩ cầu nguyện, chấp tay niệm một đấng nào đó, xin cho một người nào đó đang lâm cảnh khổ sở hiểm nguy, thì đó cũng là một điều tốt. Không nên chê trách họ. Nhưng nếu vị tu sĩ ấy chỉ biết sáng đêm cầu nguyện, quên đi nguồn gốc của việc cầu nguyện, quên đi cái tinh túy trong tư tưởng mình, thì xem như hình thức cầu nguyện sẽ rất dư thừa.
- Ông nghĩ thế nào khi con người biết được sự khác nhau của hình thức và nội dung nhưng vẫn duy trì?
- Như ta đã nói, nếu một người tâm thiện nhưng thích hình thức rườm rà thì người ấy vẫn còn là người tốt. Còn nếu ngược lại, người không hình thức nhưng có ý đồ nội dung xấu xa sẽ vẫn có khả năng hại đến người khác.
- Theo ông thì nội dung quan trọng như thế nào?
- Nội dung của một vấn đề chính là nền tảng của vấn đề ấy. Một con người được coi là sâu sắc khi biết và hiểu tường tận từng hành động mình đang làm. Xa hơn, người ấy sẽ có mục đích trong tư tưởng, và việc mà họ muốn làm sẽ ảnh hưởng đến mọi vật.
- Thế còn ông, ông ngồi thiền như vậy không phải là hình thức sao?
- Thiền sẽ là hình thức nếu người ngồi thiền không phóng thích tâm trí của mình. Còn ta, ta ngồi trong trạng thái tịnh, trí tuệ ta thanh thản sáng suốt. Tâm ta bay bổng nhàn nhã. Ta tịnh ngay cả khi ăn và ngủ. Vậy không thể gọi ấy là hình thức.
- Thế ông nghĩ người đời xưng hô lễ nghĩa dài dòng, để ý từng hành động cử chỉ lẫn nhau để định giá trị con người thì sao?
- Hễ có ngôn ngữ là có hình thức. Nếu ta không cần hình thức thì ta cũng không cần ngôn ngữ mà vẫn thông đạt tư tưởng. Xã hội con người đa dạng và phức tạp, người trọng hình thức sẽ bất đồng với người trọng nội dung và ngược lại. Tuy nhiên, giá trị con người không thể đánh giá đơn giản qua vài lời nói hay hành động được. Chỉ có thể tự mình dùng tâm và trí để suy xét hành động của mình. Giá trị mỗi con người không thể diễn tả bằng ngôn ngữ được.
- Vậy theo ông, hình thức và nội dung có cần thiết không?
- Cần và không cần.
- Tại sao?
- Hình thức và nội dung nên được dùng đúng hoàn cảnh, và tùy theo trường hợp. Không coi thường hay coi trọng cả nội dung lẫn hình thức thì con người sẽ tiến xa.
Cô gái trầm lặng suy nghĩ. Cọng cỏ cũng chìm vào những suy nghĩ lan man, “Không biết chính ta có hình thức không?”
TU VÀ ĐẠO
Hơi sương lóng lánh trên các cành lá trong buổi sáng mai, lúc cô gái và con chó chuẩn bị lên đường để trở về nơi họ muốn. Cô gái tỏ ra vương vấn với cảnh vật yên tịnh, nhưng con chó thì mừng rỡ cuống lên, có lẽ nó rất nhớ nhà. Đạo sĩ vẫn ngồi, còn cọng cỏ thì không ngủ được cả đêm qua. Nó thèm nghe cô gái và đạo sĩ đàm đạo; nó muốn tìm hiểu thêm về đời sống loài người. Nhưng mặt khác nó lại muốn là người “độc quyền” tranh luận với đạo sĩ.
- Tôi sắp sửa đi, nhưng có vài điều muốn chia xẻ cùng ông.
- Xin cô tự nhiên.
- Tôi nhận thấy ông và các tu sĩ ở chỗ tôi sống khác nhau quá xa!
- Tại sao?
- Chốn tu của họ tiện nghi và đẹp quá, ăn uống có người chăm lo, cuộc sống luôn được nhiều người tôn sùng. Còn ông, ông phải sống tự túc và làm bạn với cây cỏ.
- Thế cô cho ta là thiếu thốn?
- Tôi cho là ông mới đích thực là kẻ tu hành, sống xa rời vật chất, dục vọng để hòa mình vào thiên nhiên.
- Cô quá khen. Ta luôn nghĩ ta là người giàu có, dinh thự của ta là cả khu rừng này, thức ăn ở đây quá dư thừa. Cây cỏ cũng dịu dàng trìu mến ta.
- Nếu tất cả tu sĩ đều lãnh hội đạo như ông, tôi chắc sẽ không phải đi lạc vào khu rừng này.
- Cô chớ nên bi quan, sẽ có rất nhiều tu sĩ đạt đạo, vả lại có nhiều người đạt đạo chưa hẳn phải là tu sĩ. Và có khi, những người đạt đạo lại ít được người đời biết đến.
- Nghe ông nói vậy, tôi cảm thấy còn chút tin tưởng vào xã hội mà tôi đang sống.
- Hãy tin tưởng vào chính dòng tư tưởng đang chảy trong người cô và hãy nhìn chính tư tưởng của cô như là xã hội, là đạo. Sẽ có những lúc cô bị dằn vặt, khủng hoảng trong xã hội tư tưởng của cô, thì đây là lúc mà niềm tin của cô sẽ phải lên tiếng. Khi có niềm tin, cô sẽ tìm thấy đạo, con đường đưa cô đến hạnh phúc. Do đó, tư tưởng, đạo, và xã hội phải nhịp nhàng thì con người mới đạt được thanh bình và an lạc.
Từng lời đạo sĩ như lời chào tạm biệt cô gái và con chó. Tiếng chân nhỏ dần cùng với bóng dáng của họ. Cọng cỏ buồn bã, “Đến rồi đi, đạo sĩ có bỏ đi một ngày nào đó không?”
HỌC ĐỂ QUÊN
Cọng cỏ nín thở nhìn theo dáng cô gái và con chó từ từ mờ tan vào làn hơi nước ban mai. Nó thở phào, đạo sĩ hỏi:
- Ngươi không thích sự hiện diện của cô gái và con chó?
- Không hẳn thế, chỉ vì tôi có nhiều điều muốn hỏi ông.
- Tại sao ngươi không hỏi khi có họ ở đây?
- Ông bận nói chuyện với họ, còn tôi thì bận nghe ông và họ bàn luận.
- Bây giờ ngươi muốn hỏi gì?
- Tôi quên rồi.
- Vậy thì tốt cho ngươi.
Cọng cỏ ngạc nhiên:
- Tại sao?
- Những sự hiểu biết ngươi thu lượm được, phải quên hết đi.
- Học để quên? Ông dạy gì mà lạ thế? – Cọng cỏ bực dọc.
- Khi ngươi quên tất cả rồi thì kiến thức đó mới thực sự giúp ích cho ngươi và thuộc về ngươi.
- Tôi chưa hiểu.
- Hãy tưởng tượng kiến thức như sỏi đá dồn vào đầu ngươi. Nếu ngươi cứ nghĩ chúng là sỏi đá, đầu ngươi sẽ chỉ là cái lọ đựng nặng chình chịch và có giới hạn. Nếu ngươi quên sự hiện diện của chúng, đầu ngươi nhẹ tênh, và ngươi sẽ có thể thu thêm kiến thức.
- Thế những sỏi đá ấy đâu?
Đạo sĩ cười:
- Chúng sẽ biến thành những gì ngươi muốn và bay ra khỏi đầu ngươi.
- Làm sao tôi có thể thực hiện được điều ông nói?
Đạo sĩ đưa ngón tay đến sát cọng cỏ làm nó phải nghiêng mình xuống:
- Ông làm gì thế? – Cọng cỏ ngạc nhiên.
- Ngươi đang nhìn thấy gì?
- Ngón tay của ông chứ cái gì.
- Nhìn kỹ xem – Đạo sĩ đưa ngón tay gần hơn nữa làm cọng cỏ phải nhắm mắt lại:
- A! Tôi thấy khuôn mặt của ông đằng sau ngón tay đấy.
- Tốt, bây giờ người hiểu chưa? Nếu ngươi chỉ nhìn thấy hay nhớ cái ở trước mắt ngươi thì ngươi chẳng thấy cái gì khác cả, ngươi phải quên cái truớc mắt, quên mớ ngôn ngữ mà ngươi thu lượm được thì ngươi mới có thể sống với ý nghĩa chứa đựng trong mớ ngôn ngữ ấy.
Cọng cỏ im lặng một hồi dường như để ôn lại lời của đạo sĩ, chợt nó thốt lên:
- Này, ông có thể nhắc lại được không, ông làm đầu tôi rối lên rồi.
Đạo sĩ cười sảng khoái:
- Ngươi khá thông minh đấy, cọng cỏ ạ.
Cọng cỏ lúc lắc đầu, thử xem mớ kiến thức của nó có kêu lạo xạo trong đầu hay không.
KẾT
Mặt trời xuống, nhường phần sáng tự nhiên trong tâm thức đạo sĩ rọi vào muôn loài. Khu rừng bỗng rực lên và nhộn nhịp hơn trước. Cọng cỏ, có lẽ đã quên hết những cuộc đàm đạo cùng đạo sĩ, nó bâng quơ với thắc mắc của chính mình: “ Tại sao đạo sĩ lại tồn tại trong khu rừng hoang vắng này?” Nhưng cọng cỏ không lên tiếng hỏi đạo sĩ về sự hiện diện của ông. Nó mải ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, đẹp như một bức tranh xếp hình tinh xảo. Nó có cảm giác an nhiên thanh thản, dường như nó đã hiểu sự hiện hữu của mọi vật xung quanh và sự xếp đặt của tạo hóa. Có điều, nó không nhớ tại sao nó lại
- Nhà hàng kiểu gì thế này? Thịt bê không có, cá hồi không có, đến thịt lợn sữa cũng không nốt. Trả tôi cái áo bành tô để tôi đi sang nhà hàng khác vậy.
- Thưa ông, cái áo bành tô của ông bây giờ cũng không có nốt ạ!
- Tôi mất 40 phút để xắn miếng bít-tết này đấy, mà vẫn chưa xong.
- Không đi đâu mà vội, thưa ông. Nhà hàng chúng tôi mở cửa đến một giờ khuya.1976
Cô giáo dặn học sinh:
- Ngày mai chúng ta sẽ học bài "Bảo vệ sức khoẻ", các em mang tới lớp một đồ dùng có liên quan đến bảo vệ sức khoẻ nhé.
Hôm sau, nhất loạt các học sinh đều mang mỗi người một đồ vật.
- Tuấn, em đem gì tới?
- Thưa cô, em mang băng gạc dùng để băng vết thương ạ.
- Tốt lắm. Thế còn Tèo, em mang gì nào?
- Thưa cô, lọ ê-te dùng để rửa sạch vết thương ạ.
- Tý, em mang cái gì kia?
- Dạ, bình ôxy ạ?
- Em lấy ở đâu ra vậy?
- Dạ, của bà em.
- Thế bà có bảo gì không?
- Dạ, bà chỉ thở dài và phều phào nói: “Không được mang đi”.949
Tội lỗi tự nhiên Cho đến trước khi bị ngọn lửa táp trọn khuôn mặt, anh sực nhớ nụ cười ngây ngô của cô bé bước chân vào lớp một.
1.- Anh cũng cần phải cứng cỏi để công nhận một điều: nhiều khi chúng ta hoàn toàn không thuộc về nhau, thậm chí có những suy nghĩ tồi tệ về nhau. Như anh từng thầm gọi em là gái bao. Em cũng từng nghĩ anh là thằng dại gái mê muội.
Anh ngồi ở quán nước trước cổng trường, chờ nàng hoàn tất hai tiết lịch sử triết học Tây phương. Nàng vào lớp lúc chín giờ.
Nửa tháng nay anh không gặp nàng. Anh ngưng làm tình với nàng.
Anh không muốn nàng nhìn thấy sự khó thở toát ra từ anh, từ sau tai nạn của thằng cháu trai. Nó đã bỏ lại tuổi trẻ và hoài bão của mình tại một nơi không tên tuổi. Một thanh niên có đầy đủ tố chất để trụ lại tại trung tâm thành phố lớn, nhưng lại quyết định chọn nghề chống lại sức tàn phá của bão biển rồi bỏ mạng sau cơn bão số Năm.
- Em hoài nghi những người đồng trang lứa với mình mà sống có lý tưởng.
- Anh thừa biết em đang nghĩ gì.
2.Trong tận sâu thẳm anh, nàng hiện thân với nhiều cung bậc.
Anh hoài nghi thời gian đã trôi qua với những cuộc tình đọng lại vài cảm giác vui trong khoảnh khắc. Anh cần một điều gì đó ở những cô gái anh yêu, nhưng anh chưa thể hình dung được anh sẽ khốn khổ thế nào nếu chung sống lâu dài với họ, chung đụng hằng ngày cùng bao lo toan bề bộn.
Anh cũng chẳng thể hình dung anh phải như thế nào nếu trở thành một người cha của một đứa trẻ.
Anh định nghĩa sự chung thủy chỉ là sự gắn kết hai người khác giới trong một môi trường và không gian nhất định, còn khi buông nhau ra, hai người lại có quyền tìm sự thủy chung với người khác. Thế nhưng chính anh lại không chịu được cảm giác bị lừa tình.
Anh cần nàng? Anh yêu nàng?
Anh đặt ra hàng loạt câu hỏi, để rồi anh tự nhủ khoảng thời gian này anh cần làm điều gì đó, chỉ để nàng hiểu rằng anh làm vì nàng.
Anh có thời gian để đi băng qua cánh đồng ngút ngàn, thơm lừng mùi lúa chín. Anh sẽ phải đi trong sáu tiếng đồng hồ, không ngừng nghỉ. Nhưng rốt cuộc, anh không đi hết cánh đồng như dự định, mặc dù chỉ cần thêm mười lăm phút anh sẽ đến con đường lớn dẫn đến thị trấn Quan Du.
Anh quay trở lại nơi xuất phát.
Anh không muốn đánh mất ý nghĩ vẫn chưa khám phá hết cánh đồng Cò Lát. Năm đó anh mười lăm tuổi, nung nấu trong lòng tình yêu đối với người con gái lớn hơn anh mười ba tuổi. Anh muốn cô gái suốt ngày nghĩ về anh, kể cả trong giấc ngủ, nhưng không phải thằng thiếu niên bắt đầu lớn tập tành nhả khói thuốc qua lỗ mũi sau khi nén mình rít một hơi thật dài. Ngày người con gái về nhà chồng, anh khóc vật vã rồi nằm ngủ một giấc dài suốt hai ngày. Khi thức dậy, anh cảm thấy người nhẹ hẫng, đi đứng khoan thai, ăn nói điềm đạm, khúc chiết.
Tám năm sau, anh gặp lại người con gái năm xưa. Cô đã có hai con gái và một con trai, đứa lớn nhất bảy tuổi, đứa nhỏ nhất chưa tròn một tuổi. Cô đứng giữa phiên chợ quê hẻo lánh với những giỏ nhốt gà. Anh lao đến gặp cô mặc dù cô cố tình cụp nón xuống khuôn mặt sạm đen đã có nếp nhăn.
- Anh nghĩ em bình an.
- Ông về lúc nào?... Chuyện ngày trước thôi đừng nhắc nữa.
- Anh vẫn hy vọng em không còn nhìn anh với ánh mắt của người đàn bà dành cho thằng trẻ con thèm được yêu thương...
- Tôi không dám. Phận tôi giờ làm sao dám leo cao...
Phần vì cả phiên chợ đang dồn mắt vào hai người, phần vì cô buột miệng: "Chồng tôi không cho phép nói chuyện với người đàn ông khác", nên sau khi hỏi qua loa gia cảnh cô, anh lách người đi về phía cổngå.
Một người đàn bà
đẹp già trước tuổi cứ mua đi bán lại những con gà
để nuôi sống gia đình liệu có hợp lý không, trong khi nàng vẫn có thể có những sự lựa chọn khác, để mang lại thay đổi, ít nhất là về mặt vật chất. Nàng sẽ chết nhạt với những lo nghĩ quẩn quanh vì chén cơm manh áo cho những đứa con và cả tay chồng nông dân không thể đọc được ý nghĩ của đ
àn bà.
Có ba trạng thái thường xuất hiện khi người đàn ông yêu. Một, anh ta chẳng hiểu gì về phụ nữ. Hai, anh ta ngộ nhận tình cảm của phụ nữ. Ba, anh ta muốn chiếm đoạt cô ta. Anh ở đâu trong những mối tình của mình, khi anh mặc nhiên dan díu và chung đụng công khai với nhiều người, cùng lúc lại buông lỏng tất cả?
3.Cấp bậc cao nhất của cha anh sau ba mươi năm lăn lộn chiến trường là đại đội trưởng, hàm thiếu tá. Giải ngũ, ông thích được lính cũ thỉnh thoảng đến thăm, gọi ông là tướng.
Cha mẹ anh lần lượt sáng tạo năm tác phẩm của họ, mặc dù để những tác phẩm này tồn tại, họ phải quần quật ngoài vườn, đồng ruộng và giữa chợ. Chưa lần nào năm đứa con phải nghe bất kỳ lời qua tiếng lại nào giữa hai đồng tác giả.
Ông nội anh, một thời bị đem đấu tố trong cải cách ruộng đất, hiện thân của sự minh triết và sáng suốt trong gia đình bốn thế hệ, luôn đưa ra những nhận xét nhẹ nhàng về mối quan hệ giữa hai người khác giới. Ông không bao giờ gọi đó là tình yêu. Chữ ông dùng là "Ràng buộc nhau trong những tình cảm không có bắt đầu và kết thúc. Kẻ nào giỏi chấp nhận những xung khắc sẽ chiến thắng".
Bà cố anh, năm chín mươi bảy tuổi vẫn có thể khấn "Anh yêu" trong những ngày giỗ của người chồng quá cố. Theo bà, tình yêu chỉ đủ khi người chồng vừa biết đem cơm - cá - rau..., và những thứ linh tinh khác cho gia đình, vừa biết "gãi đúng chỗ ngứa của đàn bà".
- Con không đủ can đảm nói thời trẻ cha mẹ cũng có những phút giây quyết liệt, nhưng vẫn sống được với nhau, vì tình yêu xuất phát ngay từ bữa ăn đạm bạc trong gia đình - Ông nội nói với bà cố anh.
- Tao già rồi, chẳng hiểu mày định nói gì. Nhưng từ việc tao và cha mày chung sống với nhau được trên sáu mươi năm, mày có thể suy ra vấn đề - Bà cố nói.
- Con không quan tâm chuyện của cha và bà. Cái con cần nhất lúc này là làm thế nào để những người thân trong gia đình gắn kết nhau suốt đời mà không xảy ra những trận cãi vã - Cha anh xen vào.
- Chuyện đó không khó lắm n19
Trả tiền xong, Dũng chờ người bán hàng gói hộp quà bỏ vào trong bao, đang định bước ra khỏi tiệm, bỗng chàng thấy một bên áo nằng nặng như bị trì kéo. Dũng cúi xuống, ngạc nhiên nhìn đứa bé gái khoảng 3 tuổi đang nắm áo chàng lắc qua lắc lại như muốn gọi sự chú ý của chàng. Dũng nhìn con bé chưa gặp bao giờ rồi lại đưa mắt nhìn chung quanh, mọi người vẫn qua lại trước cửa tiệm như không chú ý đến chàng và con bé. Dũng cúi xuống hỏi chuyện, nhưng con bé không nói, chỉ đưa đôi mắt to tròn nhìn rồi lại e thẹn nép đầu vào vai chàng như quen biết.
Con bé trông kháu khỉnh, dễ thương, nhưng Dũng không dám bế lên, sợ bị hiểu lầm như những trường hợp mà chàng đã nghe hay thấy trên TV, trên báo chí. Dũng tránh né, đứng lên dợm bước chân đi, nhưng con bé lại nắm tay chàng như muốn đi theo làm Dũng thêm ngạc nhiên lẫn bối rối. Chàng đang phân vân chưa biết tính sao, bỗng một người đàn bà hớt hải vẹt đám đông qua lại, chạy đến bên đứa bé rối rít, vừa khóc, vừa run rẩy kêu lên:
- Vy, Trời ơi sao Vy bỏ đi? Vy làm mẹ sợ quá Vy biết không?
Chàng ngẩn người đứng nhìn... Ồ thì ra 2 mẹ con lạc nhau. Người mẹ định bế con lên, nhưng con bé không chịu, cứ nắm chặt tay Dũng, lui lại trốn phía sau chân chàng làm Dũng ngỡ ngàng nhìn người đàn bà xong lại nhìn con bé. Người đàn bà đứng dậy nhìn Dũng với khuôn mặt còn nhoè nhoẹt nước mắt:
- Xin lỗi, cháu bé đã làm phiền ông.
Nghe xong, Dũng thở phào nhẹ nhõm, nãy giờ chàng chỉ lo người đàn bà hiểu lầm lại la toáng lên bảo Dũng bắt cóc con bé thì khốn. Chàng gật đầu chào rồi cúi xuống ngồi bên con bé mỉm cười làm quen:
- Hi!... bé tên gì?
Con bé lại vẫn không trả lời, chỉ dụi đầu vào vai chàng. Dũng bế đứa bé lên, hỏi người đàn bà đang đưa tay lau nước mắt:
- Có phải cháu không nói được, hay là... không muốn nói? Lúc nãy tôi cũng đã hỏi nhưng cô bé chỉ im lặng?
Như đã lấy lại chút bình tĩnh, người đàn bà còn rất trẻ ngập ngừng:
- Dạ thưa ông, cháu đã nói được nhiều rồi ạ, nhưng không hiểu sao hơn 1 năm nay con bé bỗng im lìm, không nói nữa.
Vừa nói, người đàn bà vừa đưa tay định bế con từ tay Dũng, nhưng con bé quay mặt đi, úp mặt vào cổ chàng, 2 tay ôm cứng như sợ phải rời xa làm người mẹ càng lúc càng ngượng đến đỏ mặt, kêu lên:
- Ô kìa Vy, Vy hay chưa? Vy nhìn xem Vy có quen ông không? Vy đưa mẹ bế cho ông còn đi chứ.
Dũng nhìn con bé lên tiếng trấn an:
- Không sao, cứ để tôi bế cháu một lúc, đừng làm cháu sợ. Hay là mình vào kia uống nước một lát được không?
Người đàn bà bất đắc dĩ đi theo Dũng vào quán nước đối diện, Chàng chọn một cái bàn trong cùng, con bé leo lên ngồi trên đùi chàng có vẻ yên tâm, hết nhìn mẹ, xong lại ngửa cổ nhìn Dũng trong khi người mẹ nhìn con với ánh mắt tha thiết, cố dỗ dành, năn nỉ:
- Vy sang đây ngồi với mẹ, sang đây mẹ cho Vy cái này hay lắm, lẹ lên.
Nhưng con bé cứ lắc đầu quầy quậy, đong đưa cái đuôi gà xinh xinh được cột túm lại phía sau, lưa thưa những sợi tóc lờn vờn trên mặt, sau cổ. Nhìn sự bối rối khổ tâm của người ngồi trước mặt, Dũng tự giới thiệu:
- Tôi là Dũng ở tiểu bang khác về đây chơi. có thể cho tôi biết tên để tiện nói chuyện được không?
Người đàn bà thoáng chút e thẹn:
- Dạ tôi là Ánh Quyên, còn cháu tên là Ánh Vy.
Chàng vuốt tóc con bé mỉm cười:
- Tên cả hai mẹ con đều đẹp
Nhìn lại người đối diện, chàng nói tự nhiên như muốn tránh sự ngượng ngập cho người đàn bà mà chàng vừa gặp:
- Xin lỗi Quyên nhé, Tôi có thể tò mò hỏi 1 tý được không?
- Có phải ông muốn hỏi sao bé Vy lại đi theo ông chứ gì? tại sao con bé lại bám theo ông phải không? Người đàn bà ngập ngừng giây lát, cắn môi nói khẽ:
- Có lẽ tại ông mặc áo lính, giống cái áo mà ba bé Vy hay mặc ngày trước, nên khi thấy là con bé cuống quýt chạy theo...còn tại sao cứ bám theo ông... tôi không biết được.
Dũng chợt nhìn xuống chiếc áo lính 4 túi mà chàng đang mặc. Chiếc áo chàng mới mua ở chợ trời tuần trước để đi câu cá. Hôm nay chàng đã mặc nó để lái xe suốt quãng đường dài từ tiểu bang chàng ở về đây. Dũng nhìn con bé, rồi lại nhìn Quyên, thắc mắc:
- Nhưng ba bé Vy đâu mà cô bé lại rơi vào tình trạng này?
Quyên cúi đầu, mím môi, mắt đăm đăm nhìn vào ly nước cam trước mặt mà nàng đang dùng cái ống hút quậy tròn trong ly:
- Dạ nhà tôi đã mất, kể từ khi nhà tôi mất, con bé hay khóc đêm rồi bỗng trở nên trầm lặng, không nói nữa. Khi nào thích thì gật đầu, không thì lắc đầu... Tôi có đưa con bé đi Bác sĩ, nhưng BS bảo đây là vấn đề tâm lý, phải có thời gian thì cháu sẽ trở lại bình thường.
Nghe Quyên kể, Dũng lặng người xúc động. Chàng đưa tay vuốt má con bé một cách trìu mến, âu yếm như con bé là của chàng. Con bé đang dựa vào chàng ngủ gà ngủ gật. Dũng đặt con bé nằm phía trong chỗ chàng ngồi, lấy gói quà kê đầu cho con bé. Nhìn Ánh Vy ngây thơ ngủ, Dũng thấy lòng nao nao, chàng quay sang hỏi chuyện:
- Chắc Quyên với cháu ở thành phố này phải không?
- Dạ không, mẹ con tôi ở tiểu bang khác về đây, thấy năm nay Disneyland kỷ niệm 50 năm nên lấy 2 tuần nghỉ đưa bé Vy về đây chơi cho con bé vui, nào ngờ chưa gì đã bị lạc làm sợ quá, sợ đến đứng tim được.
Chợt nhớ đến gói quà mà Dũng vừa mua ở tiệm quần áo trẻ con lúc nãy đang kê đầu cho con, Quyên tiếp:
- Ông Dũng đi thế này chắc gia đình đang mong, mẹ con tôi thật có lỗi đã làm phiền ông, nhân lúc cháu đang ngủ, ông cho tôi xin cháu.
Dũng nhìn Quyên mỉm cười, chàng đẩy ly nước cam đến gần Quyên hơn, nói nhỏ như sợ đánh thức con bé dậy:
- Quyên uống nước đi, cứ để cháu ngủ, đừng ngại. Thật ra lúc nãy tôi mua quà sinh nhật cho con thằng bạn chứ đâu có gì phải gấp gáp.... Vậy ra 2 mẹ con Quyên cũng đi vacation hả? Thế Quyên đã đưa cháu đi Disneyland chưa?
- Dạ chưa, lúc nãy định mua vài thứ cần dùng trước khi cho cháu đi, nào ngờ con bé lại chạy lạc. Chắc Quyên không dám cho bé Vy đi nữa, trong đó năm nay đông người, lỡ bị lạc lần nữa không biết phải làm sao?
- Nếu thế Quyên cho phép tôi đưa 2 mẹ con Quyên đi nhé, có tôi, bảo đảm Ánh Vy sẽ không bị lạc nữa đâu. Vả lại tôi cũng chẳng biết đi đâu hôm nay, bạn bè thì giờ này tụi nó đi làm đâu đã về.
Quyên đưa ống hút lên môi để tránh trả lời, lời đề nghị của người đàn ông mà Quyên vừa gặp. Một sự gặp gỡ oái oăm, kỳ cục đến không thể tin được.
thấy Quyên cứ im lặng cúi đầu bập bập ống hút như có vẻ ái ngại. Dũng lên tiếng:
- Nếu Quyên không đồng ý thì thôi vậy.
Quyên ngước lên nhìn chàng ấp úng:
- Dạ kh252
Anh biết em từ độ
Em mới tuổi mười hai
Anh yêu em từ thuở
Em còn tóc xõa vai
Tháng ngày đi mau quá
Chốc đã sáu năm trời
Tình anh vẫn chưa hiểu
"Chưa" là "không" em ơi
Em vẫn tin anh lắm
Em vẫn mến anh nhiều
Nhưng em tin em mến
Đâu phải là em yêu
Trái tim hờ hững ấy
Đâu thổn thức vì anh
Anh cũng không hề chịu
Van xin một ái tình
Cho nên dòng lệ tủi
Thấm ướt những trang đời
Xóa nhòa hy vọng cũ
Hoen ố cả ngày mai
Lòng anh dần uống cạn
Đến giọt cuối yêu đương
Chỉ còn của dĩ vãng
Một dư vị chán chường
Hôm qua tình đã chết
Anh đã chôn nó rồi
Anh khóc vì chôn nó
Là chôn cả một đời
Nhưng anh không đào huyệt
Không vùi đất như ai
Cũng không mua vải liệm
Cũng không mua quan tài
Anh chỉ đem chôn nó
Với nỗi niềm chua cay
Từng mảnh từng mảnh một
Trong mấy vần thơ đây
Rồi một chiều xuân thắm
Say hạnh phúc lứa đôi
Vô tình em có nhớ
Đến người cũ xa xôi
Mong em thu nhặt giúp
Đôi tay dù hững hờ
Mong em vì hắn lượm
Những mảnh tình bơ vơ
Chắp lại và thương xót
Dành cho một nấm mồ
Ở nơi dù hẹp nhất
Của lòng em say sưa40
Một anh chàng bắt gặp bạn mình trên phố, đang bê chiếc tivi với vẻ mặt rất hí hửng. Anh đến nơi và hỏi:
- Sao trông anh vui quá vậy?
- Tôi gặp một cô gái và tôi rất yêu cô ta. Sau một thời gian tán tỉnh, tình yêu của tôi được cô ấy chấp nhận. Hôm nay, sau khi hai chúng tôi đi chơi về, cô ấy rủ vào nhà, khép cửa lại và nói khẽ với tôi: "Nhà em đây, bây giờ em sẽ cho anh tất cả những gì anh muốn".
2010
Đồn rằng Quỳnh xinh cùng thời với Thị Điểm. Quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. học trò biết ý, vào thưa với quan Bảng, ngày bắt vào hỏi.
Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, dòm nhà bảng Nhãn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn học. Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng thuận.
Quỳnh biết rằng cô Điểm vào tay mình rồi, thoả được ước nguyện, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị không ứa chớt nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai.
2639
Một cô gái đẹp đi lững thững trong vườn thú, cuối cùng dừng lại trước đảo khỉ. Ngạc nhiên khi thấy các con vật đi đâu hết, cô hỏi người coi thú:
Hôm nay khỉ đi đâu cả?
Chúng về hang, thưa cô, hiện giờ là mùa giao cấu.
Liệu chúng có ra không, nếu tôi quăng cho chúng vài củ lạc?
Người coi thú lắc đầu:
Tôi không biết, nhưng thưa cô... ở địa vị cô thì cô có ra không?
Sau tay lái, cô vợ bức bối hỏi ông chồng ngồi bên cạnh:
- Thằng cha này cứ chạy bộ trước mũi xe mình suốt, chắc là hắn muốn tự tử. Em phải làm gì bây giờ?
- Nếu em không muốn đuổi theo đâm hắn ta nữa, thì hãy lái xe rời khỏi vỉa hè mà xuống lòng đường thôi!
2151
Chuẩn bị khai mạc phòng tranh, họa sĩ phấn khởi nói với vợ:
- Bà xem, cái bức màu đen tuyền này sẽ gây kinh ngạc cho tất cả khách mời của chúng ta! Khi đứng trước nó, chắc chắn họ sẽ liên tưởng ngay đến... cảnh tình tự muôn đời của con người trong những đêm... không trăng sao! Còn bức màu trắng toát kia, nó giúp cho trí tưởng tượng mọi người bay bổng tới các miền địa cực băng giá. Nơi chỉ có... tuyết trắng, gió và sự tịch mịch... Bà ... hiểu tôi chớ?
- Hiểu! Bà vợ thở hắt ra vẻ mệt mỏi, tiếp - Và tôi giờ đây cũng đang... tưởng tượng đến cái cảnh vắng và tịch liêu và... tăm tối của phòng tranh mình trong những ngày sắp tới!!
1410
Quan toà hỏi:
- Và như vậy, khi bắt đầu ẩu đả, trong tay đối thủ của ông là một thanh gỗ lim cứng. Còn trong tay ông là thứ gì?
- Vợ hắn...
- Ngài là nhân chứng duy nhất của vụ cướp. Ngài đứng cách xa bọn tội phạm bao nhiêu, khi nghe tiếng súng đầu tiên?
- Khoảng 2 mét, thưa ngài chánh án!
- Còn phát súng thứ hai?
- Ồ! Khi ấy tôi đã ở xa lắm rồi.
Phải kiện ngay
Tại phòng tư vấn hôn nhận & gia đình, một người đàn ông rầu rĩ:
- Tôi mới đi công tác xa. Ngay trước hôm về, tôi đã đánh điện tín báo cho vợ tôi là tôi sẽ về sau một ngày. Vậy mà hôm sau, khi bước vào phòng, vẫn thấy tên hàng xóm đáng ghét. Anh khuyên tôi nên làm gì?
Anh chuyên viên tư vấn giận dữ:
- Thế mà ông bỏ qua được à? Phải kiện! Ông phải kiện ngay bên Bưu chính vì cái việc làm ăn quá sức cẩu thả này!
- !!!2503
Hai tóc vàng hoe cùng xem bóng đá.
-Cậu đoán xem đội nào sẽ chiến thắng?
-Một trong hai đội. Còn cậu?
-Hoàn toàn ngược lại. Mình đoán một trong hai đội sẽ thua.2012
Em nâng đàn tới ngang mày
Và em hạ xuống vừa tay, ôm đàn
Ngón tay em nhạc chứa chan
Mến tuôn trên phím, yêu tràn vào dây
Lâng lâng hồn nhạc hây hây
Đôi ta chắp cánh bạn bầy cùng mơ
Chim reo trong khoảng hoa thưa..
Suối tuôn róc rách, trăng vừa lên cao..
Tình cảm ấy, ước mơ nào
Betôven với ngọt ngào Môza
Tay em thoắt biến thành hoa
Hồn em lắng lại như là tặng anh
Những khi xa cách một mình
Nhớ em đàn; nhớ hồn thanh cây đàn....
Amanda Chong Wei - Zhen 15 tuổi. Cô bé người Singapore của Trường nữ sinh Raffles - đã nổi lên thành một hiện tượng trong làng văn chương của đảo quốc này. Cô vừa đoạt giải thưởng cao nhất trong cuộc thi viết truyện ngắn (bằng tiếng Anh) của Khối cộng đồng Anh sau khi vượt qua hơn 5.300 truyện ngắn dự thi từ 52 quốc gia trong khối.
Truyện ngắn Cô gái đi tìm hạnh phúc nói về sự mâu thuẫn thế hệ và mâu thuẫn giá trị trong một đất nước Singapore đang chuyển đổi nhanh chóng thành một quốc gia phát triển.
Xin được nhắc lại, tác giả truyện ngắn này chỉ mới... 15 tuổi)
nguồn: Báo Tuổi Trẻ (VN)
*
Bà cụ ngồi ở băng sau chiếc xe mui trần đang băng băng trên xa lộ, ghì chặt bịch nilông trên áo như sợ một cơn gió đến cuỗm mất. Bà không quen với tốc độ cao như thế.
Cánh tay run run siết lại chiếc dây an toàn, song bà vẫn lưu ý không để các ngón tay sần sùi chạm vào chiếc ghế da bóng lưỡng. Con gái bà đã dặn bà đừng làm bẩn ghế: “Má à, trên nền màu trắng dấu tay coi lộ liễu lắm đó”.
Con gái của bà, Bee Choo, vừa lái xe vừa tuôn vào chiếc điện thoại di động màu bạc mảnh mai những từ ngữ to tát mà một bà cụ già giỏi lắm cũng chỉ hiểu được lờ mờ: “tài chính”, “thanh toán”, “tài sản”, “đầu tư”.
Giọng nói của cô đanh, trầm và nghe là lạ. Bee Choo của bà ăn nói cứ như các cô gái nước ngoài trên truyền hình. Nó nói bằng giọng Mỹ cơ đấy. Bà cụ tặc lưỡi, vẻ phật ý.
“Tôi dứt khoát không lấy. Bán quách nó đi!” - con gái bà giận dữ thốt lên, chân nhấn ga tăng tốc. Những móng tay cắt tỉa hoàn hảo bồn chồn bấu chặt vào tay lái.
“Không giao dịch gì hết!” - cô quát lên, tắt máy di động rồi giận dữ quẳng nó ra băng sau. Chiếc điện thoại đập trúng trán bà cụ rồi trượt xuống vạt áo. Bà cụ lặng lẽ nhặt lên, chìa trả cho con gái.
- Con xin lỗi má - cô ta nói, bỏ hẳn giọng Mỹ, chuyển sang giọng Quan Thoại - con có một khách hàng lớn ở Mỹ. Có nhiều chuyện lộn xộn lắm.
Bà cụ gật đầu vẻ am hiểu. Con gái bà làm ăn lớn và rất quan trọng.
Bee Choo nhìn mẹ qua kính chiếu hậu, tự hỏi không biết bà cụ đang nghĩ gì. Bộ mặt nhăn nheo của mẹ cô luôn mang cái vẻ khó hiểu nào đó.
Chuông điện thoại lại reo. Một âm thanh nhân tạo vui nhộn kiểu kỹ thuật số làm vỡ tan sự im lặng nặng trĩu.
- Beatrice hả! Đúng rồi, Elaine đây.
Elaine. Bà cụ nhăn mặt. Mình đặt tên nó là Elaine hồi nào đâu? Bà sực nhớ con gái bà có nói rằng một cái tên Anh là rất quan trọng cho việc “hòa mạng”, tên Trung Quốc người ta hay quên lắm.
- Ồ, trưa nay tui gặp bồ không được đâu. Tui phải đưa bà cốt đi chùa làm mấy cái thủ tục lễ bái lẩm cẩm của bả.
Bà cốt. Bà cụ hiểu rõ lắm chứ, ấy là nói về bà. Con gái bà cứ tưởng rằng bà không nói ra thì có nghĩa là bà không hiểu gì.
- Ừ, biết rồi! Đệm xe tui sẽ lấm đầy tàn nhang chứ gì?
Bà cụ dán mắt vào cặp môi cô con gái, tay bà bấu lấy bịch nilông đầy vẻ phòng thủ. Chiếc xe êm ả rẽ vào sân chùa. Trông nó có phần lòe loẹt bên sắc thái nhợt nhạt của nóc chùa cổ kính.
Bà cụ bước ra khỏi băng sau, thả những bước không vội vã về phía chính điện. Con gái bà cũng bước ra khỏi xe trong bộ y phục doanh nhân và giày cao gót. Cô rảo bước theo mẹ, vừa quệt lại son môi.
- Má, con đợi bên ngoài nhe. Con phải gọi điện thoại, có chuyện quan trọng lắm - cô nói, chẳng buồn che giấu sự ghê tởm mùi khói nhang.
Bà cụ rón rén bước vào chùa, châm nén nhang. Bà cung kính quì xuống, lẩm nhẩm những lời cầu nguyện hằng ngày mà giờ đây bà đã thuộc làu làu.
- Tạ ơn Trời Phật phù hộ độ trì cho con gái con mấy năm qua. Con cầu xin gì nó cũng đều được toại nguyện. Trẻ như nó mà đã có đủ mọi thứ trên đời.
- Nó có một căn nhà lớn với cả bể bơi, còn có cả người giúp việc nữa vì nó hay vụng về lắm, chẳng khâu vá, cơm nước gì được cả. Chuyện tình duyên của nó cũng sáng sủa nữa. Nó đang yêu một ang moh (phương ngữ, chỉ người Kavkaz) giàu có và đẹp trai lắm.
- Công ty của nó nay là công ty tài chính hàng đầu. Ngay đến đám đàn ông cũng phải tuân lệnh nó. Nó đang sống một cuộc đời hoàn hảo. Trời Phật đã ban cho nó mọi thứ, chỉ thiếu có mỗi hạnh phúc mà thôi.
- Con cầu xin Trời Phật tha thứ cho nó dù nó có hơi mất gốc do mải mê chạy theo công danh.
- Điều Người trông thấy không đúng chút nào đâu. Nó rất có hiếu với con. Nó cho con một căn phòng trong ngôi nhà lớn của nó. Nó cũng chu cấp đầy đủ cho con. Nó hơi hỗn với con là vì con làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của nó. Phụ nữ trẻ không muốn bị mẹ già quấy rầy. Đó là do lỗi của con mà ra.
Bà cụ cầu nguyện thành khẩn đến mức nước mắt bà ứa ra.
Cuối cùng, bà cúi đầu lạy rồi cắm nén nhang cháy phân nửa vào chiếc lư chứa đầy tàn. Bà cúi lạy thêm một lần nữa.
Bà cụ đã cầu nguyện cho con gái suốt 32 năm nay rồi. Khi bụng bà tròn lẳn như trái dưa, bà đã đến chùa cầu xin một đứa con trai.
Rồi khi ngày sinh đến, đứa bé trượt ra khỏi bụng của bà. Nó khóc ré lên trông thật đáng yêu với những bắp chân bù bụ, đôi má hồng hào, nhưng... đó là một bé gái, không lầm lẫn vào đâu được nữa rồi.
Chồng bà véo bà, đấm bà vì bà đã sinh ra một đứa bé vô dụng, không thể làm việc cũng như bảo tồn dòng họ. Thế rồi người phụ nữ vẫn cứ trở lại chùa cùng với bé gái mới sinh bọc trong chiếc xà rông đeo trước ngực. Bà cầu nguyện cho con gái bà lớn lên sẽ có đủ mọi thứ mà nó muốn. Chồng bà đã bỏ bà và bà cầu nguyện cho con bà về sau sẽ chẳng bao giờ phải lệ thuộc vào đàn ông.
Mỗi ngày bà cầu nguyện cho con bà trở thành một phụ nữ tuyệt vời, một phụ nữ mà chính bà không bao giờ vươn tới được do quá nhu mì và ít học. Một phụ nữ nengkan, tức có khả năng làm tất cả những thứ gì mình dự định. Một phụ nữ áp đặt sự ngưỡng mộ vào tận trái tim của mỗi người đàn ông. Khi con bé mở miệng nói, trân châu sẽ tuôn ra theo, và đàn ông sẽ phải lắng nghe nó. Nó sẽ không giống như mình, bà cụ vừa cầu nguyện vừa đắm đuối ngắm cô con gái đang ngày một lớn lên và tách xa khỏi bà, thường nói bằng một thứ ngôn ngữ mà bà khó khăn lắm mới hiểu nổi.
Bà ngắm nghía con gái của bà chuyển từ một bé gái ngoan ngoãn thành một cô gái công khai thách thức bà, gọi bà là laotu (cổ hủ). Nó muốn mẹ nó phải “hiện đại”, một từ quá mới không có trong tiếng Hoa. Giờ thì con gái bà đã trở nên quá thông minh đối với bà và bà cụ tự hỏi cớ sao bà lại cầu xin như thế.
Trời Phật đã luôn dễ dãi trước những lời cầu xin dai dẳng của bà nhưng của cải và công danh chảy vào như nước đã chôn đi cả cội nguồn của cô gái, và giờ đây cô đang đứng đó không khuôn mặt, không bản sắc, chỉ còn dính vào mảnh đất của tổ tiên bằng một sợi chỉ mong manh.
Con gái bà đã quên mất các giá trị của người mẹ. Những điều nó muốn thật quá sức phù du... Những ước muốn của phụ nữ hiện đại. Quyền lực, của cải, các cửa hàng thời trang cao cấp... Thế mà con gái bà vẫn chưa thể tìm thấy được hạnh phúc thực thụ. Bà cụ biết rằng không cần có nhiều thứ như thế người ta vẫn tìm được hạnh phúc.
Khi con gái bà từ giã cõi đời, tất cả những thứ mà nó có sẽ chẳng còn là gì nữa. Người ta sẽ nhìn lại những thành tích của nó và nói rằng nó là một phụ nữ tầm cỡ nhưng rồi nó sẽ bị quên lãng khi cơn gió đầu tiên lùa qua... giống như tro tàn còn lại của những chiếc xe mui trần và biệt thự bằng hàng mã.
Bà cụ mong sao nó sẽ quay đầu lại. Bà mong sao có thể xóa đi tất cả những hoài vọng lớn lao của mình và những lời cầu nguyện dành cho nó. Giờ đây bà chỉ còn mỗi một ước nguyện: làm sao cho con gái bà được hạnh phúc.
Bà nhìn ra cổng chùa. Bà thấy con gái bà đang nói chuyện điện thoại, chân mày nó nhíu lại vì giận dữ và lo lắng. Trên đỉnh cao cũng chẳng phải tốt lành gì, bà cụ thầm nghĩ. Từ trên đỉnh thì chỉ có một con đường để đi: đi xuống. Bà cụ tỉ mẩn tháo bịch nilông rồi đổ ra trước bệ thờ một bịch bee hoon (mì bột gạo).
Con gái bà thường chế nhạo bà chuyện cúng bái các vị Phật bằng sứ. Sao bà có thể khấn vái thành khẩn như thế và chờ đợi những mảnh sứ ấy bay đến giúp đỡ?
Nhưng bản thân con gái của bà cũng có những vị thần của nó: những thần tượng của giàu sang, thành đạt và quyền lực mà nó lệ thuộc và thờ cúng mỗi ngày trong cuộc đời. Mỗi ngày là một sự truy tìm các thần tượng, và những thần tượng mà nó tôn thờ lại chẳng là gì cả so với vĩnh hằng. Tất cả những thứ mà con gái bà mong ước sẽ dần dần hút lấy sự sống bên trong nó, bỏ lại cho bà một chiếc vỏ sò vô hồn và rỗng tuếch trước bệ thờ.
Bà cụ lặng ngắm những que nhang. Hơi nóng bốc lên những xà cột ọp ẹp có nguy cơ sụp đổ bất cứ giây phút nào.
Phụ nữ hiện đại ngày nay, bà cụ thở dài nhẫn nhục khi cúi lạy lần cuối cùng về hướng đông để kết thúc buổi cầu nguyện. Phụ nữ hiện đại ngày nay muốn quá nhiều thứ đến mức đánh mất cả linh hồn rồi lại tự hỏi tại sao mình không tìm được nó.
Que nhang của bà tan ra thành lớp tro xám mịn. Bà gặp lại con gái ở ngoài cổng chùa. Vẻ bồn chồn, thất vọng vẫn nguyên vẹn trên khuôn mặt nó. Một biểu lộ rỗng tuếch, cứ như nó đang đào xới mảnh đất của những thèm muốn để tìm kiếm hạt mầm của hạnh phúc.
Hai mẹ con lẳng lặng leo lên chiếc xe mui trần, rồi cô gái đưa xe ra xa lộ, lần này không phóng nhanh như lúc đến.
- Má à, - Bee Choo mở lời - con không biết nói sao với má đây. Mark và con đã bàn chuyện này rồi, tụi con định bán nhà lớn. Thị trường nhà đất đang có ăn thành thử tụi con muốn kiếm người bán nhà, cỡ 7 triệu (đôla Singapore - ND) là được. Tụi con định kiếm một căn hộ khang trang nào đó. Có một căn ở phố Orchard hạp ý con lắm. Khi nào về đó, tụi con sẽ cho con bé làm nghỉ việc để có chỗ rộng rãi hơn...
Bà cụ gật gù vẻ am hiểu. Bee Choo khó nhọc nuốt nước miếng.
- Tụi con sẽ mướn người tới dọn dẹp và ăn uống ở ngoài, thế là ổn. Nhưng con bé làm nghỉ rồi thì không có ai chăm sóc má. Má ở nhà một mình chắc là buồn dữ lắm. Với lại căn hộ cũng chật chội nữa.
- Tụi con suy nghĩ chuyện này lâu lắm rồi. Tụi con nghĩ tốt nhất là má đến sống ở chỗ mới. Có một căn nhà gần Hougang, một căn nhà của Giáo hội Công giáo. Nhà này tốt lắm, má à. -Bà cụ không hề ngước mặt. - Con đã đến đó rồi. Bà quản lý nói bả sẵn sàng nhận má. Nhà này vừa đẹp vừa có vườn tược, lại có cả đống người già để làm bạn với má! Con đâu có nhiều thời gian để gần gũi má, ở đó thế nào má cũng vui hơn.
“Ở đó má vui hơn thật mà,” cô gái lặp lại như để khẳng định với chính mình.
Lần này bà cụ không còn bịch nilông đựng thực phẩm nào để mà ghì chặt trên áo nữa rồi. Bà bặm môi siết lại dây an toàn, cứ như nó bảo vệ được bà trước cô con gái đang muốn tống khứ bà đi.
Bà ngồi ngập vào trong chiếc ghế da, mặc cho đôi vai thõng xuống và các ngón tay in dấu trên lớp bọc ghế trắng muốt.
- Má? - con gái bà cất tiếng gọi, tìm kiếm bà qua chiếc kính chiếu hậu - Má ổn không vậy má?
Điều gì phải đến đã đến.
- Ổn mà - bà cụ nói chắc nịch, giọng bà lớn hơn bà dự định - nếu điều đó làm con hạnh phúc - bà hạ giọng nói thêm.
- Việc này là cho má cơ mà, má! Ở đó má sẽ hạnh phúc hơn. Mai má đến đó nhé! Con đã biểu con bé làm gói ghém đồ đạc cho má rồi - Elaine phấn khởi nói, chưa gì mà đầu óc đã hướng đến một đề mục mới trong lịch trình của cô.
- Con biết mọi chuyện sẽ ổn thôi mà.
Elaine toét miệng cười, cô cảm giác như vừa được giải thoát. Có thể việc tống khứ bà mẹ sẽ giúp cô hạnh phúc hơn. Cô đã từng nghĩ đến điều đó. Hình như bà cụ là chướng ngại duy nhất trên con đường truy tìm hạnh phúc của cô. Giờ thì cô thấy sung sướng lắm.
Cô đã có mọi thứ mà bất kỳ người phụ nữ hiện đại nào cũng thèm muốn: tiền tài, địa vị, công danh, tình yêu, quyền lực... và bây giờ là tự do, không có bà mẹ và không có những lề thói cổ hủ khiến cô bị luôn khó chịu. Phải, cô đã tự do!
Chiếc điện thoại reo lên, khẩn trương. Cô nhấc nó lên và đọc mẩu tin nhắn. “Thị trường chứng khoán tăng 10%!”. Tuyệt! Với cô, rõ ràng là mọi việc đang bắt đầu đi lên...
Và trong khi cô tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời qua ánh sáng chiếc màn ảnh điện thoại, bà cụ ngồi ở băng sau đã trở nên vô hình, và cô đã không thể trông thấy những giọt nước mắt của bà.278
Đi, về hai lối mênh mông, Gió chiều quét hết nắng ngày, Dẫu anh thề thốt chiều nay, Hay anh đã gặp mắt xanh, Mi nồng nước mắt chạy quanh !
Mà sao em cứ ơ hờ đứng đây
Nhìn tà dương ngả về tây,
Đỏ hoe khoé mắt đong đầy chờ trông ?
Mừng anh sắp lại, ửng hồng má em.
Thư tình bao lá giở xem,...
Ngẩng lên chỉ thấy cánh rèm nhẹ lay !
Vắng anh, lòng thấy mưa bay sụt sùi !
Người yêu hãy đến cười vui,
Dỗ em bằng tiếng ngọt bùi đắm say,...
Em tha cho một lần này nữa thôi !
Ngẩn ngơ nhìn đám mây trôi,
Lòng em ngao ngán, đứng ngồi chờ anh,...
Mải vui duyên mới, nên đành bỏ em ?
Tâm can lửa khói lọ lem,
Hồn em em xé, chẳng thèm thương anh !
Chán, buồn, ghen, giận, lại thành...yêu thêm !
"Anh đây ! "... Em chạy ra thềm
Hân hoan đưa cặp tay mềm đón anh...
Một bà lão bán bút chì ở góc phố với giá 1 đồng/cây. Ngày nào cũng có một anh chàng ăn mặc bảnh bao vội vã chạy đến, ném 1 đồng cho bà lão mà không lấy cây bút chì nào.
Ngày nọ, anh ta đưa tiền xong lại vội vã chạy đi, bà lão liền gọi theo: "Dừng lại chút đã, con trai ơi!".
- Cháu biết rồi! - Anh kia ngoái lại nói - Cháu biết bà lấy làm lạ là tại sao ngày nào cháu cũng trả 1 đồng, nhưng không lấy bút chì chứ gì?
- Không - bà lão trả lời - Ta chỉ muốn bảo với con là hôm nay giá bút chì đã lên 2 đồng một cây.2513
Một bác sĩ phụ khoa sau nhiều năm hành nghề cảm thấy chán ngấy công việc của mình và quyết định đến với một sự nghiệp mới. Ước mơ thuở bé của ông là trở thành kỹ sư. Vì vậy, ông ghi danh vào một trường kỹ thuật.
Sau 2 năm miệt mài, cuối cùng thì kỳ thi tốt nghiệp cũng tới. Đề thi yêu cầu thí sinh phải tháo rã hoàn toàn một cỗ máy rồi lắp lại mà nó vẫn hoạt động trơn tru như mới. Vị cựu bác sĩ hoàn thành bài thi và về nhà thấp thỏm chờ đợi kết quả.
Ngày nhận được phiếu báo điểm, ông bác sĩ nhảy ngược lên vì ngạc nhiên: bài thi của ông đạt tới 150% số điểm tối đa. Thắc mắc, ông gọi điện tới vị giám khảo để hỏi và được giải thích:
- Với việc lột trần cỗ máy một cách tỉ mỉ, anh xứng đáng được hưởng 50% số điểm tối đa. Tôi cho anh 50% số điểm nữa vì đã lắp nó lại một cách hoàn hảo. Còn 50% điểm thưởng là vì anh đã thực hiện tất cả các kỳ công đó qua cái lỗ thăm dầu.1917
Em dỗi hờn anh trọn một đời, Em giận buồn anh đến chót đời, Anh phải đền em hết cả đời, Đền em, anh nhất định cùng nhau Em muốn thêm, anh nguyện sẽ đền :
Với anh, tình ái một trò chơi,
Chưa quen, tâm bận năm mười mối,
Gặp rồi, hồn vẫn vướng hai nơi !
Vì dẫu tình ta rất tuyệt vời,
Giá thử tim anh không lãng mạn,
Mắt nhung em chẳng đẫm châu rơi !
Vết thương ngày cũ tưởng quên rồi,
Lòng em nhiều lúc sao đau quặn
Khi dấu tên tình bỗng đỏ tươi !
Bằng mưa dưới đất, lửa trên trời,
Bằng bao tư tưởng trong tim óc,
Bằng cả chân tình ngập biển khơi !
Làm văn thơ đẹp để ngày sau
Khi câu thề vẹn, tròn duyên nợ,
Em thấy tình ta vẫn một màu.
Thuyền tình anh chỉ đón em lên,
Mặc cho gió bão hay mưa sóng,
Ta mãi dìu nhau đến cõi Tiên,...
Chiếc Lá Cuối Cùng (A)
Dịch giả: chưa biết
Trong một quận nhỏ phia đông Washington, các con đường chạy ngoằn nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là “vùng”. Những “vùng” này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!
Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê ại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình.
Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của California. Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng.
Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”, móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu.
Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp. Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt, xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.
- Cơ may khởi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô bạn nhỏ
của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì không?
- Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnh Naples.
- Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không, chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?
Cô Sue khịt mũi:
- Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ, không có chuyện như thế.
Vị bác sĩ nói:
- Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà
khoa học cho phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mua đông thì tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.
Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.
Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải giường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng kinh một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.
Cô đi vội đến bên mép giường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và đang đếm, đếm ngược: “mười hai”, và ít lâu sau: “mười một”, và sau đấy “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch vụn vỡ.
Sue hỏi:
- Cái gì vậy hở bồ?
Johnsy nói, gần như thì thầm:
- Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần
cả trăm, đếm muốn nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn
lại năm.
- Năm cái gì, nói cho Sue của bồ nghe nào!
- Năm chiếc lá. Trên cây thường Xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình cũng sẽ ra đi. Minh đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết à.
Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.
- Ô hay! Minh chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá thường Xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông ấy nói cơ may chính xác là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may chúng mình có ở New York để đáp tầu điện hay đi qua một toà nhà mới. Bây giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít rượu vang poóc-tô cho cô bé đang bệnh, và thịt lợn cho chính tác giả ăn.
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:
- Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.
Sue nghiêng mình trên cô:
- Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Minh cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.
Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?
- Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy chiếc lá thường Xuân vô duyên đó.
- Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi. Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc lá mệt mỏi kia.
Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ.
- Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến khi mình trở lại.
Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ. Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ sống ở tấng trên.
Sue tìm gặp Behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốtt hai mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.
Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:
- Khốn khổ! Ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này. Không tao sẽ không ngồi làm mẫu cho một đứa ẩn cư ngu ngốc như mày. Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái con nhỏ Johnsy khốn khổ!
- Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích sự.
Ông Behrman tru tréo lên:
- Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi! Đúng là phải như thế.
Johnsy đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây thường
Xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.
Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy Johnsy đang vô hồn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:
- Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.
Sue mệt mỏi làm theo bạn.
- Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch. Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.
Johnsy nói:
- Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình
nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.
Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:
- Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian
là một linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng
tưởng dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.
Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn độc bảm vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.
Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra lệnh kéo cái rèm xuống.
Chiếc lá thường Xuôn vẫn còn đấy.
Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga trên cái bếp ga. Cô nói:
- Minh là đứa hư,
Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho thấy mình quả là độc ác.
Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang cho mình chút cháo, và ít sữa
pha chút rượu vang póc-tô, và... không, mang trước cho mình cái gương soi cầm
tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng.
Một giờ sau, cô nói:
- Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnh Naples.
Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.
- Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và giờ
tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman – tôi nghĩ
chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối, cơn bệnh lại
là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến bệnh viện để được
thoải mái hơn.
Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:
- Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và chăm sóc – chỉ có thế thôi.
Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật đậm và
xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên giường cô, đặt cánh tay quanh cô và cũng quanh mấy cái gối.
- Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn phòng tầng dưới, thất thủ với cơn đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường Xuân cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
*********************************************
The Last Leaf
by O. HENRY
In a little district west of Washington Square the streets have run crazy and broken themselves into small strips called "places." These "places" make strange angles and curves. One Street crosses itself a time or two. An artist once discovered a valuable possibility in this street. Suppose a collector with a bill for paints, paper and canvas should, in traversing this route, suddenly meet himself coming back, without a cent having been paid on account!
So, to quaint old Greenwich Village the art people soon came prowling, hunting for north windows and eighteenth-century gables and Dutch attics and low rents. Then they imported some pewter mugs and a chafing dish or two from Sixth Avenue, and became a "colony."
At the top of a squatty, three-story brick Sue and Johnsy had their studio. "Johnsy" was familiar for Joanna. One was from Maine; the other from California. They had met at the table d'hôte of an Eighth Street "Delmonico's," and found their tastes in art, chicory salad and bishop sleeves so congenial that the joint studio resulted.
That was in May. In November a cold, unseen stranger, whom the doctors called Pneumonia, stalked about the colony, touching one here and there with his icy fingers. Over on the east side this ravager strode boldly, smiting his victims by scores, but his feet trod slowly through the maze of the narrow and moss-grown "places."
Mr. Pneumonia was not what you would call a chivalric old gentleman. A mite of a little woman with blood thinned by California zephyrs was hardly fair game for the red-fisted, short-breathed old duffer. But Johnsy he smote; and she lay, scarcely moving, on her painted iron bedstead, looking through the small Dutch window-panes at the blank side of the next brick house.
One morning the busy doctor invited Sue into the hallway with a shaggy, gray eyebrow.
"She has one chance in - let us say, ten," he said, as he shook down the mercury in his clinical thermometer. " And that chance is for her to want to live. This way people have of lining-u on the side of the undertaker makes the entire pharmacopoeia look silly. Your little lady has made up her mind that she's not going to get well. Has she anything on her mind?"
"She - she wanted to paint the Bay of Naples some day." said Sue.
"Paint? - bosh! Has she anything on her mind worth thinking twice - a man for instance?"
"A man?" said Sue, with a jew's-harp twang in her voice. "Is a man worth - but, no, doctor; there is nothing of the kind."
"Well, it is the weakness, then," said the doctor. "I will do all that science, so far as it may filter through my efforts, can accomplish. But whenever my patient begins to count the carriages in her funeral procession I subtract 50 per cent from the curative power of medicines. If you will get her to ask one question about the new winter styles in cloak sleeves I will promise you a one-in-five chance for her, instead of one in ten."
After the doctor had gone Sue went into the workroom and cried a Japanese napkin to a pulp. Then she swaggered into Johnsy's room with her drawing board, whistling ragtime.
Johnsy lay, scarcely making a ripple under the bedclothes, with her face toward the window. Sue stopped whistling, thinking she was asleep.
She arranged her board and began a pen-and-ink drawing to illustrate a magazine story. Young artists must pave their way to Art by drawing pictures for magazine stories that young authors write to pave their way to Literature.
As Sue was sketching a pair of elegant horseshow riding trousers and a monocle of the figure of the hero, an Idaho cowboy, she heard a low sound, several times repeated. She went quickly to the bedside.
Johnsy's eyes were open wide. She was looking out the window and counting - counting backward.
"Twelve," she said, and little later "eleven"; and then "ten," and "nine"; and then "eight" and "seven", almost together.
Sue look solicitously out of the window. What was there to count? There was only a bare, dreary yard to be seen, and the blank side of the brick house twenty feet away. An old, old ivy vine, gnarled and decayed at the roots, climbed half way up the brick wall. The cold breath of autumn had stricken its leaves from the vine until its skeleton branches clung, almost bare, to the crumbling bricks.
"What is it, dear?" asked Sue.
"Six," said Johnsy, in almost a whisper. "They're falling faster now. Three days ago there were almost a hundred. It made my head ache to count them. But now it's easy. There goes another one. There are only five left now."
"Five what, dear? Tell your Sudie."
"Leaves. On the ivy vine. When the last one falls I must go, too. I've known that for three days. Didn't the doctor tell you?"
"Oh, I never heard of such nonsense," complained Sue, with magnificent scorn. "What have old ivy leaves to do with your getting well? And you used to love that vine so, you naughty girl. Don't be a goosey. Why, the doctor told me this morning that your chances for getting well real soon were - let's see exactly what he said - he said the chances were ten to one! Why, that's almost as good a chance as we have in New York when we ride on the street cars or walk past a new building. Try to take some broth now, and let Sudie go back to her drawing, so she can sell the editor man with it, and buy port wine for her sick child, and pork chops for her greedy self."
"You needn't get any more wine," said Johnsy, keeping her eyes fixed out the window. "There goes another. No, I don't want any broth. That leaves just four. I want to see the last one fall before it gets dark. Then I'll go, too."
"Johnsy, dear," said Sue, bending over her, "will you promise me to keep your eyes closed, and not look out the window until I am done working? I must hand those drawings in by to-morrow. I need the light, or I would draw the shade down."
"Couldn't you draw in the other room?" asked Johnsy, coldly.
"I'd rather be here by you," said Sue. "Beside, I don't want you to keep looking at those silly ivy leaves."
"Tell me as soon as you have finished," said Johnsy, closing her eyes, and lying white and still as fallen statue, "because I want to see the last one fall. I'm tired of waiting. I'm tired of thinking. I want to turn loose my hold on everything, and go sailing down, down, just like one of those poor, tired leaves."
"Try to sleep," said Sue. "I must call Behrman up to be my model for the old hermit miner. I'll not be gone a minute. Don't try to move 'til I come back."
Old Behrman was a painter who lived on the ground floor beneath them. He was past sixty and had a Michael Angelo's Moses beard curling down from the head of a satyr along with the body of an imp. Behrman was a failure in art. Forty years he had wielded the brush without getting near enough to touch the hem of his Mistress's robe. He had been always about to paint a masterpiece, but had never yet begun it. For several years he had painted nothing except now and then a daub in the line of commerce or advertising. He earned a little by serving as a model to those young artists in the colony who could not pay the price of a professional. He drank gin to excess, and still talked of his coming masterpiece. For the rest he was a fierce little old man, who scoffed terribly at softness in any one, and who regarded himself as especial mastiff-in-waiting to protect the two young artists in the studio above.
Sue found Behrman smelling strongly of juniper berries in his dimly lighted den below. In one corner was a blank canvas on an easel that had been waiting there for twenty-five years to receive the first line of the masterpiece. She told him of Johnsy's fancy, and how she feared she would, indeed, light and fragile as a leaf herself, float away, when her slight hold upon the world grew weaker.
Old Behrman, with his red eyes plainly streaming, shouted his contempt and derision for such idiotic imaginings.
"Vass!" he cried. "Is dere people in de world mit der foolishness to die because leafs dey drop off from a confounded vine? I haf not heard of such a thing. No, I will not bose as a model for your fool hermit-dunderhead. Vy do you allow dot silly pusiness to come in der brain of her? Ach, dot poor leetle Miss Yohnsy."
"She is very ill and weak," said Sue, "and the fever has left her mind morbid and full of strange fancies. Very well, Mr. Behrman, if you do not care to pose for me, you needn't. But I think you are a horrid old - old flibbertigibbet."
"You are just like a woman!" yelled Behrman. "Who said I will not bose? Go on. I come mit you. For half an hour I haf peen trying to say dot I am ready to bose. Gott! dis is not any blace in which one so goot as Miss Yohnsy shall lie sick. Some day I vill baint a masterpiece, and ve shall all go away. Gott! yes."
Johnsy was sleeping when they went upstairs. Sue pulled the shade down to the window-sill, and motioned Behrman into the other room. In there they peered out the window fearfully at the ivy vine. Then they looked at each other for a moment without speaking. A persistent, cold rain was falling, mingled with snow. Behrman, in his old blue shirt, took his seat as the hermit miner on an upturned kettle for a rock.
When Sue awoke from an hour's sleep the next morning she found Johnsy with dull, wide-open eyes staring at the drawn green shade.
"Pull it up; I want to see," she ordered, in a whisper.
Wearily Sue obeyed.
But, lo! after the beating rain and fierce gusts of wind that had endured through the livelong night, there yet stood out against the brick wall one ivy leaf. It was the last one on the vine. Still dark green near its stem, with its serrated edges tinted with the yellow of dissolution and decay, it hung bravely from the branch some twenty feet above the ground.
"It is the last one," said Johnsy. "I thought it would surely fall during the night. I heard the wind. It will fall to-day, and I shall die at the same time."
"Dear, dear!" said Sue, leaning her worn face down to the pillow, "think of me, if you won't think of yourself. What would I do?"
But Johnsy did not answer. The lonesomest thing in all the world is a soul when it is making ready to go on its mysterious, far journey. The fancy seemed to possess her more strongly as one by one the ties that bound her to friendship and to earth were loosed.
The day wore away, and even through the twilight they could see the lone ivy leaf clinging to its stem against the wall. And then, with the coming of the night the north wind was again loosed, while the rain still beat against the windows and pattered down from the low Dutch eaves.
When it was light enough Johnsy, the merciless, commanded that the shade be raised.
The ivy leaf was still there.
Johnsy lay for a long time looking at it. And then she called to Sue, who was stirring her chicken broth over the gas stove.
"I've been a bad girl, Sudie," said Johnsy. "Something has made that last leaf stay there to show me how wicked I was. It is a sin to want to die. You may bring a me a little broth now, and some milk with a little port in it, and - no; bring me a hand-mirror first, and then pack some pillows about me, and I will sit up and watch you cook."
And hour later she said:
"Sudie, some day I hope to paint the Bay of Naples."
The doctor came in the afternoon, and Sue had an excuse to go into the hallway as he left.
"Even chances," said the doctor, taking Sue's thin, shaking hand in his. "With good nursing you'll win." And now I must see another case I have downstairs. Behrman, his name is - some kind of an artist, I believe. Pneumonia, too. He is an old, weak man, and the attack is acute. There is no hope for him; but he goes to the hospital to-day to be made more comfortable."
The next day the doctor said to Sue: "She's out of danger. You won. Nutrition and care now - that's all."
And that afternoon Sue came to the bed where Johnsy lay, contentedly knitting a very blue and very useless woollen shoulder scarf, and put one arm around her, pillows and all.
"I have something to tell you, white mouse," she said. "Mr. Behrman died of pneumonia to-day in the hospital. He was ill only two days. The janitor found him the morning of the first day in his room downstairs helpless with pain. His shoes and clothing were wet through and icy cold. They couldn't imagine where he had been on such a dreadful night. And then they found a lantern, still lighted, and a ladder that had been dragged from its place, and some scattered brushes, and a palette with green and yellow colors mixed on it, and - look out the window, dear, at the last ivy leaf on the wall. Didn't you wonder why it never fluttered or moved when the wind blew? Ah, darling, it's Behrman's masterpiece - he painted it there the night that the last leaf fell."