Trời bắt đầu vào mùa Thu, ngoài đường lá đổi màu; dọc theo những con đường trong khu phố nhỏ, cây cối mang màu lá mới. Những cây lá: đỏ, vàng, xanh nổi rõ hơn trên nền trời xám màu chì; và lá cũng bắt đầu rụng nhiều.

Trong khu vườn sau nhà bà Năm chỉ còn mấy cây thông tháp bút là còn được màu xanh, căn nhà đâu lưng với khu vườn sau nhà bà có cây phong cành lá um tùm, nhánh de ngang qua hàng rào phủ xuống một góc vườn bà Năm. Những cành cây vào hè máy đứa cháu bà Năm có bóng mát vui chơi chạy nhảy, nhưng kẹt một nỗi vào Thu bà Năm hơi mệt vì phải gom lá hàng tuần. Căn nhà sau lưng là của vợ chồng người Mỹ hồi hưu, quanh năm im lìm dóng kín, thảng hoặc những ngày lễ lớn, Xuân Thu nhị kỳ như lễ Giáng sinh, lễ Phục Sinh mới thấy có ánh lửa reo vui hoặc tiếng ồn ào của đám con cháu về thăm. Bà Năm về ở khu nhà nầy hơn mấy năm rồi, nhưng chưa lần nào bà thấy mặt cặp vợ chồng người hàng xóm. Điều đó cũng dễ hiểu, vì căn nhà đâu lưng lại với nhau, hai mặt nhà quay ra hai con đường chia nhau một block đường.

Bà Năm đúng lặng nhìn khu vườn, được ông Năm chia ra thành nhiều ô nhỏ hình chữ nhựt, đóng bệ bằng cây, mua đất trộn phân đổ lên để cho bà trồng vài ba luống rau. Bà Năm chịu khó theo con ra chợ mua về nào ngò om, rau giấp cá, rau quế, rau thơm, húng cây, húng lủi, bạc hà, tía tô, hành lá... Bà Năm ngày ngày ra săm soi bắt sâu, xới gốc, tưới nước vô phân... Không bao lâu từ ngày bà về nhà nầy mảnh vườn nhỏ có sinh khí. Bà thường nói với sắp nhỏ cháu bà

-Tao ở đây như cây chùm gởi, sống nay thác mai, già rồi hổng có lo gì, chỉ tội nghiệp cho tụi bay thôi hà. Tao còn sống thì tụi bay còn chuyện để mà nghe, nữa khi tao theo ông bà ... chà, lúc đó chăc tụi bay thành Mỹ ráo trọi.

Lũ nhóc vây quanh bà đòi kể chuyện. Bà nhai trầu bỏm bẻm, một chưn co lên ... bà hắng giọng:

-Ừa, để tao kể cho tuị bây nghe. Lại chuyện năm non, bảy núi; chuyện ông bà..

Bà Năm kể chuyện, câu chuyện bà kể cho đám cháu bà nghe, nhưng mắt bà nhìn vào một khoảng không gian nào đó.

Khi vui thì muốn sống dai, Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi. Cuộc đời nó sao lắm nổi truân chuyên, buồn vui khó nói. Mới được đó, rồi mất đó; vừa mới cười xong thì bổng chốc nước mắt nó lưng tròng. Cuộc đời vốn nó là vô thường mà. Ai ai không muốn vui nhiều buồn ít, có phải vậy không? -Bà năm tự hỏi trống không. Vì đời không thường còn mãi mãi nên khi vui thì mình muốn sống dai, sống hoài để hưởng, nhưng lúc buồn thì muốn chết quách đi cho rồi. Vật đổi sao dời, ruộng lúa biến thành nương dâu mấy hồi! Làm sao đem cái chuyện "được thua còn mất" để mà định giá trị con người? Người Việt lúc nào cũng một lòng nhớ tưởng quê-hương, dù cho quê hương có rách nát tơi bời, dù cho đất mẹ có ba chìm bảy nổi, chín linh đinh. Chắc chắn một ngày nào đó sẽ "hết cơn bỉ cực, đến hồi thới lai"

Bà Năm kể không đầu không đuôi, bà nghĩ đôi lúc cũng buồn cho cái vận nước của mình. Càng nghĩ càng cố gắng làm sao để giữ cho cái nền, cái nếp của ông bà không bị mất trong đời sống ôi sao mà nó xô bồ hổn độn ở cái xứ tiền nhiều mà tình nghĩa hổng có bao nhiêu. Thằng con trai bà thường nói tếu với bầu bạn rằng "Tình là chín(h) nhưng tiền là mười còn vàng nó tới 24 lận, mà kim cương thì vô giá." Bà Năm nghĩ thằng con bà nói ra như vậy có vẻ như bi quan, chán đời nhưng nó là chuyện có thật.

Bà Năm cà kê cho lũ nhỏ đang đợi ba má đã ngủ gục dưới sàn nhà. Bà Năm ấm ớ nói như trong cơn mê... Gia đình bà Tư kia được sang đây bằng giấy bảo lảnh của con, những ngày đầu vui vẻ sao nó qua mau quá. Đời sống mới nó hoàn toàn hổng có giống bên nhà tí nào ráo trọi. Chuyện ăn chuyện ở nó khác huơ, khác hoắc. Nó ba mớ làm sao, người quê mùa thì chỉ còn có nước cười đau khóc hận, ai có qua cầu mới hay, ai có hiểu thì cảm thông cho cảnh bà Tư lắm. Mấy người hổng đồng ý kiến thì chê bai; họ nói ai biểu già rồi qua làm gì, sao hổng dzìa bển cho rồi. Nào là đứng núi nầy trông núi nọ. Họ còn biểu là được voi đòi tiên.... Thôi hơi sức đâu mà cãi. Ông bà mình dạy chín người mười ý mà. Thiệt đúng lắm. Nhưng họ có "Ởû trong chăn đâu mà biết chăn có rận". Bà Tư buồn lắm, ông Tư thì còn có chút thú vui cà-phê, cà-pháo, lâu lâu cũng phì phèo đôi điếu thuốc lá "Mâm-bô-rô" len lén vì sợ con nó ngầy ngà, con dâu nó ra vào nhìn ngó. Trời lạnh như vầy nếu có thèm chắc phải lủi vào nhà xe để phì phèo. Thôi thì bỏ tiệt đi cho nó xong. Riết rồi hút thuốc lá như một cái tội. Còn bà Tư đâu biết làm gì cho qua ngày dài đăng đẳng? Đi đâu cũng phải nhờ con cái nó chở đi. Nó vui thì được, hôm nào nó lỡ thua cá độ "phút-bôn", trong mình khó ở thì coi như bữa đó "huề tiền" là may lắm đó. Mà bà Tư bả đâu có muốn gì cho lắm. Chỉ muốn đi chùa, đi lể ngày chủ nhật, nấu nướng cái gì đó để cúng ông bà ngày giỗ, ngày quải vậy mà con cái nó cứ chê. Nó chê mê tín dị đoan, mùi nhang khói hôi nhà, vàng vách... Con cái nó đâu có biết người mình thờ cúng tổ tiên là việc "uống nước nhớ nguồn" Sách Trung Dung có nói "Tấu cách vô ngôn thị mỵ hữu tranh" (Tận tâm cúng vái mà không nói là không có tranh luận) nhưng nó có bằng lòng đâu mà cúng với vái. Cái gì cũng mang tới Chùa hết thảy. Mà cúng Chùa thì lại hổng có tiền. Đàng nào cũng kẹt. Ôi làm cái thân chùm gửi sao mà nó thấm thía làm vậy?

Bà Năm nhổ nước cốt trầu, bà nhìn đám cháu nằm lăn trên mặt thảm mượt như tơ, bà lẫm bẩm: "Đâu phải ai cũng bị như cảnh của bà Tư!? Có lẽ bà Tư là trường hợp đặc biệt đó thôi! Thôi thì ráng cầu nguyện." Bà Tư cũng là người có đọc sách thánh hiền đó chớ; Bả biểu rằng tại mình vô phước vô phần, chớ thiệt ra thì kinh Lể đà dạy rồi: "Duy thánh nhân vi năng hưởng Đế. Hiếu tử vi năng hưởng Thân. Hưởng dã, hưởng dã. Hướng chi nhi nhiên hậu năng hưởng yên" Việc cúng bái, việc thờ lạy tổ tiên là việc từ Vua chí Dân đều phải làm hết. Chỉ có bậc Thánh nhân mới biết tế lễ cho xứng đáng, chỉ có những đứa con hiếu thảo mới tế cho song thân. Chỉ có sự thành tâm mới có sự hiệu quả của việc cúng tế. Nước mình là nước thuộc phạm vi văn hóa Phương Đông mà. Có kiêng thì có lành. Cổ nhân có dạy: "Hữu thành tắc hữu kỳ thần,vô thành tắc vô kỳ thần." Có tin kính thành tâm thì có thần có thánh, ngược lại hổng tin là hổng có Thần linh gì ráo. Đời sống là sự tiếp nối của một chuỗi dài từ vô thỉ đến nay,và sẽ chảy mãi đến vô cùng. Mỗi con người thoạt sinh ra phải nhờ cha mẹ chăm sóc nuôi ăn, dạy bảo. Lúc còn đỏ hỏn, mọi việc đã có mẹ có cha, có tía có má. Do đó nếu có sự dưỡng nuôi, và nếu có "âm đức" thì mọi việc trơn tru; bằng ngược lại... Bà Tư cũng có cái lý của bả, có lẻ bà Tư không dung hợp được cái mới chớ gì?

Nhưng bên mấy người trẻ họ đâu có hiểu. "Thiên hạ chi lễ dã chí phản thủy dã. Chí phản thủy dã dĩ hậu kỳ bổn dã" (Kinh Lể Chương XXIb). Thiệt ra cái lễ nghĩa đi đến cùng cực là trở về với cái cội cái nguồn. Trở lại với cội nguồn đó chính là làm cho cái gốc của mình không bị mất,và mình không vong bản. Bà Năm chỉ là người hủ lậu, khi nghe chuyện chỉ biết thở dài, chớ làm gì hơn được. Bà Tư suy đi nghĩ lại, một ngày kia bả quyết định để dành tiền mua sẳn giấy máy bay về Việt Nam. Bả chuẩn bị một cuộc vượt biên ngược về nhà. Bà Tư đi thiệt, đám con khi biết chuyện hông hiểu họ nghĩ thế nào. Nhưng chỉ tội nghiệp ông chồng già ngày đêm lủi thủi ra vô, nhớ thương bà vợ.

Mấy đứa cháu ngáy pho pho. Bà Năm đứng lên bước vô nhà bếp bật đèn. Mâm cơm bà đã dọn sẵn mấy đứa cháu không chịu ăn. Hai vợ chồng đứa con chưa về. Bà Năm bước lại bàn thờ ông Năm thắp một cây nhang. Bà thở dài.

Mặt trời chưa ra khỏi đám mây. Trời vào Thu nên mặt trời dậy trễ. Bà Năm đã bước ra sau vườn. Bà chăm chút từng cọng rau, bà vuốt tay trên ấy lá bạc hà óng mượt đầy bụi phấn. Bà thở dài:

- Nhà không có cây rau sao ngó nó giống nhà hoang.

Mấy đứa con bà, nhứt là thằng Ba, người con bảo lãnh cho bà sang Mỹ, cứ cằn nhằn:

- Sao má không nghỉ cho khoẻ, mấy cây rau của má trồng không lại tiền nước má tưới cho nó. Má muốn ăn thì con ra ngoài chợ thiếu giống gì ngoài đó. Trồng vừa mệt mà không thấy có lợi gì hết ráo má ơi.

Bà Năm chỉ cười, những đứa con bà đâu có biết. Phải, mà làm sao nó biết được niềm vui của bà khi đứng nhìn những bông cà chua vàng rực rõ như ánh mặt trời khi cây mới đâm bông, nó cũng không thể nào hiểu được bà vui sướng như thế nào khi nhìn thấy cây rau quế nhảy mầm non nhú ra lộc mới, con bà lại càng không thể hiểu được cái mùi của đất. Bà Năm không thể nào diễn tả cho con cháu bà hiểu đươc cái vị hăng hăng nồng ấm của đất mới, mùi cỏ, mùi cây, những thứ mùi bà hít hoài không thấy chán.

Màu đất ở đây đen đen trộn phân ngái ngái, nhưng bà đã thêm đất mới thêm lá cây phong nên dịu bớt; nơi đó cây cuốc nhỏ của bà xới lên có những con trùn đen láng ngo ngoe làm bà nhớ. Bà Năm không biết, không hiểu tại sao nếu mỗi ngày bà không dẵm chưn trên đất là bà phát bịnh.

Bà Năm đi đi lại lại quanh vườn, sau trận mưa đầu mùa đất có mùi nồng nồng xông vô lỗ mũi, mấy cây rau quế rau thơm bà phải lấy bao ny long trùm kín, đang lùng bùng những hơi ấm bên trong. Bà Năm cười một mình. Bà lẩm bẩm:

- Ngộ thiệt, cây mà phải bận áo che.

Mấy đưa con đã dậy ồn ào. Một ngày cuối tuần như mọi ngày đã qua. Bà Năm bươc vô nhà, mùi của đất đi theo Bà Năm vô tận giường ngủ. Và sáng hôm sau mấy đứa con gõ cửa phòng mới hay bà đã ra đi.

2443






Chiều hôm ấy chung đôi con đường vắng
Lá thu vàng làm rực rỡ hoàng hôn
Có chiếc lá có lẽ quá bồn chồn ...
Rời không trung đậu tóc em khe khẽ ...

Anh tinh nghịch nhặt chiếc lá nhỏ bé,
Rồi vu vơ ép chiếc lá lên môi ...
In lên lá những dấu tích bồi hồi,
Đặt môi em, "Anh hôn em yêu đó !"

Em gạt đi, không thèm thương lá cỏ
"Em đây nèn, tất cả, là của anh
Yêu anh và muốn anh yêu chân thành
Sao anh phải hôn em qua sợi lá ?"

Mùa thu xưa sao nỡ qua vội vã,
Chiều nay em đi lạc giữa lá vàng,
Tìm trong ngàn chiếc lá gió vỡ tan,
Một chiếc lá in hình mùa Thu cũ ...
1516





Cách một mặt hồ hẹp từ chỗ nhà tôi ở ngay trung tâm Hà Nội là một khách sạn xấu xí tên Saigon Pull. Xây dựng cách đây bốn năm, khách sạn này là một sàn disco nổi, một con tàu đáy phẳng đèn chớp lòe loẹt phát ra những tiếng nhạc chói tai đến tận 3 giờ sáng mỗi ngày. Mặc dù tôi đã thử nhét những nút giấy báo vào tai, tiếng nện đều đặn thùm thùm thùm vẫn cứ lọt vào. Một lần tôi thậm chí đã thử quấn băng kín khắp đầu.

Nhưng khách sạn này không chỉ tòan sự bực mình, thật ra nó cũng là một món bở. Cô con gái duy nhất của tôi làm tiếp viên ở đó. Nó mang về nhà trung bình cũng đến 15 dollars mỗi đêm, bằng cả nửa tháng lương thầy giáo.

Với khoảng thu nhập này, tôi không phải bước ra khỏi nhà nữa. Lúc trước, khi Lài chưa đi làm, tôi nuôi gia đình bằng nghề bán quẹt Zippo cộng với một khoảng lương hưu còm cõi.

Tôi có một vài câu tủ để khắc lên mấy cái quẹt Zippo. Câu mà tôi ưa thích nhất là câu này: "When I die burry me upside down so the world can kiss my ass."

Câu đó có thể dịch ra như thế này: "Khi tôi chết, hãy chôn tôi chỏng ngược đầu để thế giới có thể hôn lỗ đít tôi."

Tôi thường ngồi trên lề đường đối diện khách sạn Metropole, với sáu cái quẹt Zippo bày lên một chiếc khăn tắm trải dưới đất. (Có thêm khoảng một tá khác ở trong cặp). Tốt hơn hết là không nên bày tất cả ra. Như vậy trông hàng hóa mới có vẻ khan hiếm. Tôi bán khoảng năm, có khi sáu dollars một chiếc.

Có lần một gã khách lạ với vẻ xúc động cực độ, nước mắt lưng tròng, đã đưa tôi đến hai mươi dollars mặc dù tôi ra giá chỉ có mười dollars.

Tôi biết chạm khắc lên đủ loại vật dụng, với một giá thỏa thuận, khi thì một bức tranh nhiệt đới, khi thì một họ tên, hoặc một hai câu đơn giản bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Chẳng hạn trên cái bút nhựa rẻ tiền: cảnh một cây dừa trĩu quả, một mặt trời đang lặn xuống biển và ở phía bên trên là câu này: "Good night, My Love!"

Bây giờ thì tôi ở nhà cả ngày coi sóc Tuấn, thằng cháu ngoại ba tuổi. Chỉ có ba người trong gia đình: tôi, Lài, và Tuấn.

Tuấn là một thằng nhóc to xương và khôn trước tuổi. Nó đã có thể đọc làu làu bảng chữ cái, cả ngược và xuôi, rồi đếm đến một trăm. Tôi dạy Tuấn một vài từ độc đáo. Có lần lão Trương hàng xóm sang chỗ tôi uống bia, tôi bảo: "Tuấn, nói cho ông Trương nghe, cái gì ở trong cơ thể người?"

Tuấn nhìn tôi vẻ ngơ ngác. Tôi động viên: "Nói đi, cái gì rất nhỏ mà không ai thấy được đấy."

Nó vẫn chưa hiểu ý. Tôi gợi ý: "VVVVV!VVVVVVVVVV!"

"Vi trùng."

"Đấy, ông thấy không," tôi nhìn lão Trương, "nó đã biết từ "vi trùng" rồi đấy!"

Lão Trương cười ngặt nghẽo. Con mắt độc nhất còn lại của lão hí lại, kéo dài trên sóng mũi. Miệng lão gần như cắt đứt khuôn mặt lão ra: "Thằng bé này nói tiếng Việt xuất sắc."

Được thể, tôi chỉ vào bức ảnh trên tường: "Ai đấy?"

"Bác Hồ"

"Bác Hồ thế nào?"

"Bác Hồ yêu các cháu thiếu nhi!"

Lúc lão Trương về, tôi ngẫm thấy vui vì lão Trương có vẻ thích thằng cháu Tuấn của tôi lắm, lão lại chẳng bao giờ có nhận xét dở hơi về màu da của Tuấn trước mặt tôi.

Chỉ có một lần, thấy Tuấn đá một quả bóng nhựa trên sàn, lão đưa tay lên trời hét: "Pele!"

Sự thật thì lão Trương thích nói những câu so sánh xa vời. Lão nói rằng Hà Nội ngày càng trở nên giống New York. (Lão chưa bao giờ gần New York, đúng ra thì lão chưa bao giờ rời khỏi Việt Nam). Lão gọi Lài là "diễn viên nổi tiếng" và tôi là "ông tướng." Lão bảo: "Ông trông cứ như Võ Nguyên Giáp." Thật là một so sánh ngớ ngẩn. Như có thể thấy trong tất cả các bức hình, và thậm chí tôi đã từng gặp vị tướng vĩ đại một lần, có hình trong bóp tôi làm chứng hẳn hòi, tướng Giáp có một khuôn mặt tròn, kiểu mặt cóc, trong khi mặt tôi gầy quắt, chẳng có tí thịt nào và mắt hơi lồi ra. Tôi có râu mép rậm trong khi tướng Giáp không râu. Mặc dù mũi tướng Giáp trông như bị đập giập và phẳng lì, dù sao nó cũng vẫn là một thứ phụ tùng trên mặt, trong khi tôi, rất đáng tiếc, đã bị bay mất mũi. Thêm nữa, ai cũng biết tướng Giáp chỉ cao có 1 mét 4, một trong những người lùn nhất hoàn vũ, trong khi tôi, nói có trời đất, là một gã rất cao. Có lẽ lão Trương có ý bảo tôi giống tướng Giáp vì cái khổ người bé tẻo còn lại hiện tại của tôi.

Tôi đã quyết định không gởi Tuấn đến trường. Tại sao bắt nó trở thành đối tượng cho sự tàn nhẫn của những đứa trẻ khác. Tôi bàn với Lài về chuyện này. Đến khi Lài thôi làm nghề tiếp viên thì cũng đã 25 tuổi và có thể mở một tiệm làm tóc. Chúng tôi sẽ đặt tên tiệm là "Paris By Night." Nhổ lông mày, nhuộm sấy, làm móng tay. Tuấn có thể giúp việc vặt trong tiệm khi nó khá lớn, rồi thì là một chuyên viên thẩm mỹ.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, tôi xoa lòng trứng lên tóc Tuấn để kéo tóc nó thẳng ra. Tôi chả rõ làm như vậy có hiệu nghiệm không, nhưng cứ thử vậy. Tôi cũng thường bảo nó xoa bóp mũi để kéo mũi cao lên.

"Làm hai mươi lần như thế."

"Nhưng để làm gì vậy ông?"

"Tốt cho mũi cháu!"

Mỗi lần tập mũi xong như vậy, tôi cho Tuấn một nắm kẹo M & M. Hàng nhập, cực đắt.

Bà Bưởi bán hàng rong ở phố bảo tôi ca sĩ Mỹ, Michael Jackson, tắm mỗi ngày trong bồn tắm sữa tươi để làm trắng da. Sữa hộp đặc không công hiệu, bà nói thêm.

Một mụ nhà quê dốt nát, bà Bưởi thường nài nỉ khách mua bánh rồi ban phát những lời khuyên bảo tân kỳ nhất về khoa học thẩm mỹ. Nhưng một bình sữa tươi đắt đến hơn một dollar. Tôi không thể tiêu tất cả số tiền Lài kiếm được vào việc mua sữa tươi. Tôi đã nghĩ đến việc chỉ mua một bình sữa nhỏ rồi xoa lên da Tuấn những chỗ quan trọng, có lẽ chỉ hai bàn tay và phía trước mặt nó, bằng một cái khăn lau mặt. Nhưng nếu áp dụng không đồng đều như vậy, nó có thể sẽ lớn lên loang lổ như một con nhái hay một nạn nhân bom Napalm. Không đáng liều như thế.

Nhưng tôi là cái quái gì để có thể gọi bà Bưởi là một mụ nhà quê dốt nát? Rõ đạo đức giả. Tôi nên gãi những cái sẹo trên mặt tôi cho đến khi rướm máu để tạ lỗi vì đã gọi bà Bưởi như vậy. Hãy chỉ cho tôi một người Việt Nam, thậm chí những kẻ au courant nhất, kể cả c’est moi, có ai mà không cách đây một thế hệ, cùng lắm là hai, cũng chỉ là dân quê mùa dốt nát?

Đấy, chính các vị cũng có thể chỉ là những tên nhà quê dốt nát như thế. Có lẽ sáng nay còn đứng chỏng đít lên trời cấy lúa, bùn ngập đầu gối. Chẳng có gì phải xấu hổ cả. Có chết thằng quái nào nếu các vị chưa bao giờ ăn kẹo M & M hay chưa bao giờ mua một cuộn giấy đi cầu.

Hãy tự hào vì bạn là một con người tự nhiên, au naturel, thứ lỗi cho tiếng Pháp của tôi. Như một con diệc hay một con trâu nước. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một gia tài của những bài ca dao không ai còn nhớ. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một kho tàng của những kiến thức kỳ bí mà một tên thị thành như tôi chẳng có chút ý niệm gì cả. (Nói như lão Trương, Hà Nội ngày càng trở nên giống như New York và ngày càng trở nên ít giống phần còn lại của Việt Nam). Nếu tôi coi bạn không ra gì, bạn có thể thư tôi với một cái bụng đầy ốc sên hay đặt cả một con vịt sống vào đó. Bởi vì bạn giang nắng cả ngày, chổng đít lên trời cấy lúa, bạn tráng kiện, hơi khùng khùng một chút, và da rám đen. Bạn cũng biết màu da không phải là một cái gì tuyệt đối, không thay đổi được. Màu da là cái quái gì nếu không chỉ là những con vi khuẩn có thể tẩy sạch bằng hóa chất thích hợp?

Khi tôi đề ra ý kiến mở tiệm uốn tóc, Lài có vẻ bối rối, thậm chí có phần hoảng sợ. Khi bực mình điều gì, môi Lài hơi trề ra như thể nó đang sắp phải hôn một người mà nó không muốn hôn. Đầu nó hơi ngửa ra, mắt chớp nhanh. Một con jolie laid, con Lài của tôi. Tôi trấn an Lài: "Đừng lo, đừng lo, bố hứa là bố sẽ chẳng bao giờ chường mặt ra tiệm đâu."

"Bố nói gì thế?" Nó phản đối, đầu ngửa ra, mắt chớp nhanh.

"Ấy, thì đó là một chỗ đẹp đẽ. Ai lại muốn trông thấy một con quái vật xấu xí ở đấy?"

Sự thật là thế hệ trẻ có rất ít khoan dung đối với sự xấu xí, đối với tất cả những gì tồi tàn, thương tật hay không ăn ảnh. Tất cả những nhắc nhở về cuộc chiến tranh làm chúng bối rối. Cuộc chiến tranh chính nó là một sự xấu hổ. Một sai lầm khổng lồ. (Và chúng nó đúng, dĩ nhiên, nhưng chúng oán trách những người như tôi vì đã tham dự vào cuộc chiến đó như thể chúng tôi đã có thể chọn lựa). Bây giờ chúng thấy những người Mỹ thân thiện rủng rỉnh tiền bạc trên đường phố mà không thể hình dung ra rằng chúng tôi đã từng chiến đấu chống Mỹ.

Mỗi đêm mất ngủ nằm trong mùng cạnh thằng cháu, tôi thường nhớ lại quãng đời bình thường nhưng chông gai. Cho đến lúc này, ở tuổi 53, tôi mới biết thế nào là sự buồn chán, một thứ yên bình, nếu không muốn nói là hạnh phúc. Tôi thường nghĩ về vợ tôi, về bốn đêm ăn nằm của chúng tôi. Có những người đàn ông được số phận sinh ra để tận hưởng vô số đêm yêu đương. Số phận của tôi là bốn đêm yêu đương. Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời, người ta nói như vậy. Mỗi đêm mỗi khác nhau. Trong những cách nào đó, có thể là một sự may mắn vì Thế Uyển, người vợ mà tôi chẳng biết bao nhiêu, đã qua đời được hai năm ngày tôi trở về từ cuộc chiến tranh. Tôi đã trở thành một của nợ, vô dụng, tàn phế.

Có lúc tôi nhớ về những ngày ngắn ngủi ở Huế, thành phố duy nhất ngoài Hà Nội mà tôi biết; hay về vụ tôi lừa quả thối một nhà báo Quân Đội Nhân Dân, bịa chuyện tôi đã ép một xe tăng của quân Cộng Hòa đâm vào chính lô cốt của chúng như thế nào - "Ôi, giá mà cô nghe được tiếng chúng nó kêu thét lên"; hay nhớ về vụ chúng tôi phát hiện một xe nhà binh Mỹ lật bên vệ đường với tên tài xế đã chết, và nỗi vui sướng của chúng tôi khi tìm thấy cả một thùng xe đầy thịt hộp và trái cây; hay nhớ về lần tôi dẫm lên một tên lính Mỹ nhưng đã không bắn hắn, và chuyện đó đã làm tôi mất ăn mất ngủ như thế nào cả mấy tuần liền; hay chuyện một két whisky mà tiểu đoàn tôi tìm được trong một căn cứ bị chiếm của quân Cộng Hòa.

Lúc mới ra trận, có lần tôi đã tưởng một dải thòng lòng vắt vẻo trên ngọn cây là ruột người. Màu xám hồng và ri rỉ máu. Tôi hoảng sợ đến nôn thốc nôn tháo. Khi tôi kể chuyện này với những người lính khác, tất cả bọn họ đều cười: "Đấy là một con rắn, thằng đần!"

Thường thì Lài không về nhà cho đến tám giờ sáng hôm sau. Những người nước ngoài và Việt kiều thích đi ngủ trễ, nó bảo. Và thường thì họ thích trò chuyện chút đỉnh khi thức dậy, dù có phải trả thêm chút tiền, nó nói thêm.

Thực ra tôi chẳng bao giờ vặn hỏi Lài về công việc của nó, nhưng đôi khi có những chuyện mà nó kể cho tôi. Chúng tôi đã thỏa thuận là Lài không bao giờ tiếp khách ở nhà. (Có mặt Tuấn, đó sẽ là một điều vô đạo đức).

Tuy vậy có lần một gã Việt kiều đến nhà vào một đêm Lài nghỉ làm và van nài khẩn khoản xin được vào. Mặc dù rất say, gã trai trẻ không hề tỏ vẻ vô lễ. Sau một lúc bàn bạc, chúng tôi quyết định, thôi thì nhằm quái gì, cứ để thằng con hoang khốn khổ vào nhà.

"Cám ơn bác, cám ơn bác lắm," gã Việt kiều nói bằng giọng Quảng Ngãi đặc sệt, cúi rạp xuống như một con rối, hai bàn tay múp míp chắp lại trước ngực.

"Chưa phải Tết, miễn lạy!"

"Cám ơn bác!"

"Cứ coi chúng tôi như người nhà!"

Thế, bốn mạng người chúng tôi ngủ trên hai cái giường trong căn nhà một phòng. Gã Việt kiều, quần áo nguyên trên người, nằm ôm lấy Lài như thể Lài là cái phao cuối cùng còn nổi bập bềnh trên biển Hải Nam, lũ cá mập trắng đang bơi lội dưới gầm giường. Hắn lầm rầm kể lể chuyện đời hắn, một chuyên gia đổ rác ở Miami, rồi bỏ đi trước lúc mặt trời mọc.

Sau khi gã Việt kiều ra về, thằng ranh con Tuấn hỏi: "Ông ấy là bố con phải không ạ?"


Mặc dù Saigon Pull cách nhà chúng tôi đúng một sải ném đá, thường thì Lài phải mất mười lăm phút để lái quanh hồ trên chiếc Dream của nó. Tôi luôn nhận ra mỗi khi nó về bằng vào tiếng sủa cuống cuồng của con chó cái Pekinese nhà lão Trương. Lài thường mang một vài món gì đó mua từ chợ, khi thì xôi lạp xưởng, bánh mì paté, khi thì bún thịt nướng. Thỉnh thoảng nó mang về mấy tờ báo hay tạp chí ngoại quốc.

Mặc dù tôi thưởng thức tất cả những bức hình trong các tạp chí, thậm chí cả những bức quái dị: như cảnh bài trí một căn phòng tắm trong một bức ảnh quảng cáo xà phòng, hay cảnh một cái đầu hươu lông lá treo bên trên lò sưởi, những bức hình hấp dẫn tôi nhất là những bức hình chụp tai nạn và thiên tai: hình một chiếc xe đua bốc cháy, một cuộc nổi loạn, một người bị còng tay... Đấy là chỉ để biết chắc rằng những người ngoại quốc cũng đau khổ, ở ngay trên đất nước họ, vì những người ngoại quốc ddến đây, năm 1995, không biết đau khổ là gì.

Trên hình bìa của tờ Bưu Điện Băngkok tuần trước là tấm ảnh chụp một người đàn ông đội beret đỏ, quần khaki, áo thun trắng, đang chỉa khẩu SA-93 của Bulgary vào một người đàn ông khác nằm trên mặt đất, trần truồng, ngoại trừ một đôi tất xanh ở chân. Tôi đã thấy chiến tranh, nhưng tôi chưa bao giờ thấy chiến tranh một cách trắng trợn như vậy. Tôi chẳng rõ đấy là ở nước nào. Nhưng cả hai người đàn ông đều da đen nên có lẽ là ở Phi châu. Người đàn ông trần truồng che hạ bộ bằng một tay trong khi cố gắng ngăn cái chết không tránh được bằng tay còn lại. Một chiếc tất tuột lủng lẳng nơi chân. Cạnh đó, năm thiếu niên núp sau một bức tường đang chứng kiến màn trình diễn công cộng này với những đôi mắt dè chừng.

Tôi chỉ thấy người da đen một lần duy nhất ở khoảng cách gần. Đó là trong một cánh rừng gần Pleiku. Chúng tôi vừa phục kích một toán tuần tra Mỹ và đang ra sức thu lượm vũ khí từ những xác chết trước khi trực thăng đến. Tôi dẫm lên một khúc cây đổ lên cái gì đó mềm mềm. Một cái gì đó rên rỉ dưới chân tôi. Đó là một người lính da đen bị thương khá nặng, máu chảy đầm đìa nhưng hãy còn tỉnh táo, cánh tay phải của anh ta đã văng mất. Cho đến bây giờ tôi hãy còn nhớ khuôn mặt của người lính: anh ta có những mụn nhỏ kỳ quặc phía dưới má và một chỏm râu dê lưa thưa. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt cũng đang nhìn trừng trừng vào tôi. Không có ai ở gần kề. Tôi tiếp tục bước đi.

Khi Tuấn sinh ra, tôi lập tức nghĩ đến người lính da đen tôi đã không giết. Một trò đùa của thuyết luân hồi: tôi đã thích người da đen trước kia quá, thì đây, bây giờ tôi có thêm một đứa da đen nữa. Tôi cười như điên đến nỗi trong bệnh viện, người ta tưởng tôi điên.

Chuyện đó đã làm phiền tôi suốt mấy tuần, sự kiện tôi đã không thể bắn người lính đó. Tôi là một người lính như thế nào nếu tôi đã không kết liễu kẻ thù?

Nhưng khuôn mặt đó cứ trở đi trở lại, một khuôn mặt không biểu lộ sợ hãi hay thách thức, với những mụn nhỏ dưới má và một chỏm râu dê lởm chởm. Nếu có một biểu hiệu nào, thì đó là sự bối rối. Như thể anh ta chỉ vừa thức giấc và ngạc nhiên nhìn thấy tôi đứng bên cạnh. Một phản ứng khá nữ tính, tôi kết luận, để cảm thấy bối rối sau khi đã bị xâm phạm. Đấy là bởi vì anh ta đã bị bắt gặp trong một tình thế thỏa hiệp, một cách rõ ràng nhất, cũng như tôi vậy. Cứ như thể tôi đã bước vào nhà vệ sinh mà không gõ cửa và bắt gặp anh ta đang ngồi chồm hổm trên cái lỗ xi măng. "Xin thứ lỗi, thưa ngài." Nhưng tại sao hai chúng tôi đã phải ở trong cánh rừng tan hoang đầy muỗi đó trong một buổi chiều mùa hè nóng không thể tin được? Anh ta với một cánh tay đã biến mất và người vùi trong bùn? Còn tôi với hai chân sắp sửa bị thổi bay đi mãi mãi?

2181





Một mùi lạ tạt qua mũi, anh tỉnh cơn gà gật. Mùi thơm son phấn. Nói đúng hơn, một thứ mùi son phấn ngầy ngậy, nồng nàn, tựa hồ trộn lẫn chút mùi mồ hôi mỡ màng beo béo hay sao ấy? Đầu vẫn gục trên cổ, anh nhướng mi, đỏ nhìn qua phía trái chỗ mình ngồi. Một cặp đùi đồ sộ căng bóng dưới lần xoa ngoại màu cánh trả, hầu như đen thẫm, xếp bên nhau song song như hai quả dưa hấu đập vào luồng mắt còn lơ mơ ngái ngủ. Anh khẽ cựa mình vì thấy một bên vai bị lấn ép. Vai anh liền được giải toả khi người ngồi cạnh vừa hơi xoay mình, duỗi cánh tay, rồi một bàn tay nung núc với những ngón chũn móng tô nhũ bạc óng ánh hơi xoè ra úp chụp lên một bên đùi, chiếc đùi béo nục với chiếc cầu gối cũng u lên tròn vo, càng nom càng giống hệt quả dưa hấu cỡ bự. Hai chiếc nhẫn vàng, mặt ngọc xanh ngọc đỏ cũng to bự, tôn thêm ở bà ta vẻ giàu sang phú quý.

Đầu vẫn cúi, gà gật, anh cưỡng lại ý muốn liếc ngang sang, chỉ cố đoán già đoán non bà mệnh phụ mà sự tình cờ đã đặt ngồi kề cạnh mình, tuổi phải ngót nghét năm mươi. Mu bàn tay đã sần sùi lên thế kia, phấn đóng thành vẩy trắng, nhìn kỹ mà xem. Bà ta lên xe từ lúc nào ấy nhỉ, chà chà, mình vừa chợp một giấc say quá thế.
Trong anh gợn lên một chút hổ thẹn với chính mình. "Phổi bò!". Hoá ra cái náo nức ban đầu của mình cũng chỉ là phổi bò, một cái gì vẫn như hời hợt giả tạo. Chiếc xe ca sơn xanh da trời với những vạch vàng vạch đỏ chạy dài, hầu như mới, trông đỏm dáng, khá sang trọng, khác hẳn cái dáng cũ kỹ bệ rạc của những chiếc xe miền Bắc từng trải qua bom đạn, sau chặng nghỉ ăn tối ở Đà Nẵng, đã khẩn trương lên đường lại, lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Bon bon lướt trên con đường nhựa huyết mạch của chiến tranh được bảo dưỡng khá tốt, nó tiến nhanh với tốc độ đều đều về phía Nam. Dường như nó cũng muốn đáp ứng cái hào hứng của anh, người cán bộ " Bắc việt". muốn được sớm tận mặt thấy một nửa miền đất nước mà chỉ dăm ba tháng trước đây, đối với anh cũng như đồng bào miền Bắc, còn là nơi đất cấm không thể nào mơ ước đặt chân lên. Lúc bình minh vừa rạng, nhìn ra trước, chênh chếch về phía trái, một dải lụa mờ trắng lô xô tiến ập về phía chiếc xe. Chao ôi! Biển! biển! Những làn sóng bạc đầu kéo dài như dải lụa ấy, cung với cảnh hứng đông, càng lúc càng sáng trắng lên lấp lánh, sôi trào đồng thời, mầu nước biển ngoài kia chuyển nhanh từ tím thẫm sang mầu tím ngát rồi làm tím. Lần đầu tiên anh thấy con đường quốc lộ 1 đi sát gần biển Đông đến thế. Chao ôi, giá lúc này có nhảy ra khỏi xe, thở căng lồng ngực mà lao ra chạy như một lực sĩ điền kinh giữa khoảng trời thênh thang phóng khoáng! Hít thở cái bầu trời Nam vừa thoắt trở lại thanh bình! Nuốt tràn tim tràn phổi cái màu biển tím làm ngan ngát! Nhìn cho no mắt những rặng dừa, vườn dừa rừng dừa ken sít, những dòng sông xanh leo lẻo miền Nam Trung Bộ, những dáng thá Chàm ẩn hiện như trong mơ! Thế rồi, mệt nhoài vì bao cảm giác, ấn tượng dồn dập anh gục đầu thiếp đi lúc nào không biết.

Xe đã dừng đổ khách ở chỗ nào ấy nhỉ, anh tự hỏi. Ngồi cạnh anh lúc sáng sớm ở phía trái là một ông già cơ, ừ đúng, một ông già âu phục màu ghi là thẳng tặp diêm dúa, cùng đi với vợ, bà ngồi cạnh cửa sổ xe. Lúc này ngồi thay vào chỗ của ông là bà mệnh phụ to béo đồ sộ này. Phía bên trái bà ta, cạnh cửa sổ, cũng là một người khác mới, một phụ nữ, chắc hẳn trẻ hơn, anh đoán thế, căn cứ vào chiếc tà áo dài bằng crếp mịn màu thiên thanh. Trên tà áo dài ấy, anh thấy một chiếc làn đan bằng thứ sợi gì trắng ngà mềm óng (Sau này mới biết người ta gọi là lá buông). Nắm nhẹ nhàng lên quai làn là hao bàn tay nhỏ nhắn, các đầu ngón hồng hồng đan chớm lên nhau. Anh chú ý thấy móng tay để tự nhiên, không tô nhuộm. Chủ nhân hai bàn tay này - anh trở lại với cái thói quen hay xét đoán - phải là người trên dưới ba mươi tuổi, cầu cho cô ta không quá ba một ba hai! Cổ tay không tròn mọng nữa, nhưng da dẻ vẫn còn mịn màng. Và cái tư thế hai bàn tay khẽ ấp lên trước làn vẫn còn đượm một dáng vẻ yêu kiều gần như quý phái.

Anh khẽ cựa mình lần nữa bả vai của bà mệnh phụ lại lăm le lấn chiếm. Bà kia né vai, hơi quay mặt nhìn anh có cảm giác trong ánh mắt liếc nhìn ấy có một cái nguýt ngang. Xin lỗi, xin lỗi. anh trả lời thầm, tôi không hề có ý ganh tị hoặc bực bội với sự phì nộn, trời cho của bà. Lỗi tại chiếc ghế quá chật. Nhưng tại sao từ đầu bà không giành lấy chỗ ngồi cạnh cửa sổ, vắt cánh tay lên thành xe, có phải thoải mái hơn không . Bà là thế nào với cô ta, mà lại phải chen vào giữa, cách li cô ta với tôi. Một bảo vệ hoàn toàn không cần thiết, cam đoan với bà thế.

Lúc này xe lại đi qua một quãng đường giáp biển. Trời, cái màu biển quê hương dưới một bầu trời Nam nhiệt đới sao mà biếc xanh da diết. Anh chợt nẩy ao ước, giá như xe lúc này tạm dừng, hoặc chết máy cũng được, cho mình xuống ngắm nhìn chốc lát. Hoặc giả như mình đổi chỗ cho người phụ nữ trẻ kia, ló cổ ra ngoài thành xe, hít thở khí lành. Cái mùi thơm nồng nàn mặn mà toả từ bà mệnh phụ ngồi cạnh quả là ngột ngạt. Đã thế, anh không dám quay đầu, cựa mình lần thứ ba, sợ gây phản ứng. Cổ anh cứng ngắc.

Một lúc nào đó, đến lượt hai quả dưa hấu cụ cựa cụ cựa dưới lần xoa căng bóng bọc ngoài. Rồi chủ nhân của nó nặng nề, cẩn trọng cúi hẳn người quờ sửa cái gì đó nơi sàn xe, có lẽ bà ta nới bớt quai dép để giải phóng bàn chân ngồi lâu sưng thúng. Cơ hội ngàn năm có một! Anh ưỡn ngực, vươn người, quay lắc vai bên này bên kia. Cũng thừa dịp may hiệm có này, anh ném cái liếc nhìn về phía người phụ nữ trẻ mặc áo dài màu thiên thanh và có dáng điệu thanh cao quý phái. Thốt nhiên trán anh thoáng một luống lạnh toát. "HIền!"
Có đúng là lúc bấy giờ miệng anh đã cất lên tiếng gọi hâu như thảng thốt? Giờ đây, mười mấy năm sau, anh vẫn còn băn khoăn vật vã với câu hỏi ấy. Giây phút ấy sống lại trong anh như một cơn mơ. Trong mơ, ta nói chuyện với người khác, có lúc to tiếng tranh cãi nữa, mà vẫn cảm giác như không hể mở miệng. Cả người đối thoại với mình nữa, ta nghe họ tranh cái với những lời nói rành rọt, những giọng điệu bổng trầm biểu hiện tình cảm hết sức rõ ràng mà thật ra không hề thấy người kia máy môi lấy một chút.

Còn người phụ nữ trẻ kia, có đúng là Hiền. Trang Hiền của anh chăng? Có đúng là cô ta đã lặng lẽ đáp lại tiếng kêu thảng thốt của anh bằng một tiếng "chào anh" bình thản, thản nhiên không nhỉ?

Giấy phút ấy thoáng qua rất nhanh. Một ánh chớp. Một cơn mơ. Trầm lặng và khắc nghiệt. Và mệnh phụ đã trở về với từ thế cũ, ngồi ngay ngắn, đồ sộ, tạo một bức thành cách ngăn vững chắc giữa quá khứ và hi
ện tại.

Hiền, Trang Hiền, anh kêu thầm trong đầu óc nóng bừng dưới làn da trán lạnh băng, có phải chính em là Nguyễn Thị Trang Hiền đó chăng. Em ngồi bên tôi, cách nhau trong gang tấc mà biệt xa vời vợi, nhự bị phân cách bởi cả một đại dương. Có phải chính Trang Hiền, người từng biết cho tôi những dòng tha thiết: "Em yêu anh mãi mãi, không bao giờ thay đổi", những dòng thư mà tôi đã thả trôi trên một dòng sông xanh, với bao ý nghĩ buồn vui nào đấy không rõ rệt?

"Chào anh". Phải chăng Hiền đã đáp lời anh như vậy. Đó là tiếng chào gặp mặt hay tiếng chào giã biệt.

Thản nhiên, không âm sắc, không vui không buồn. Thà như Hiền lạnh lùng, hoặc giận dỗi, uất hận, hoặc thậm chí căm ghét tôi đi. Mà có phải chính Hiền ngồi đó không đã. Hay tôi trông nhầm, một ảo ảnh. Hay tôi nghe nhầm một khuyết tật của thính quan, chung quy cũng chỉ là ảo giác.

Hai bên giã biệt nhau từ lúc nào ấy nhỉ. Và giã biệt cách thế nào, nhiều năm tháng rồi, anh hầu như không còn nhớ. Dường như tình yêu cứ phai nhạt dần, thời gian như một chất nước không màu sắc không mùi vị, pha cho những tình cảm mê say nhất cũng loãng dần, loãng dần. những cuộc gặp gỡ, thừ từ qua lại ngày càng thưa thớt, rồi một lúc nào đó ngừng hẳn, lua nào, anh cũng chẳng để ý. Mà chắc phía Hiền cũng vậy. Một thứ thoả thuận ngầm, một quy ước không thành văn.

Cựa quậy. Lần này thì chính bà mệnh phụ cựa quậy vai trước, cứ như bị người đàn ông gầy gò ngồi cạnh là anh xâm lấn. Anh ngồi thẳng lên, hơi cứng người lại, coi như mình có lỗi. Mặc dù vậy, vẫn không ngăn được cái quay đầu khẽ. Để tránh gây ấn tượng mình quay nhìn, để tỏ ý khó chịu và như thế là không lịch sự, anh đưa luồng mắt ra phía cửa sổ xe, làm như đang ngắm cảnh. Anh thấy một cánh tay thon thả trong ống màu thiên thanh chuồi ra vắt ngang lên thành sổ xe. ý chừng Hiền cũng đang bị chèn ép như mình. Bà ta là gì với Hiền ấy nhỉ. Mẹ đẻ hoặc chị, chắc không phải rồi. Chẳng cần nhìn thẳng mặt, anh hình dung bà béo ị có một khuôn bán diện rất thô, mũi cà chua, cằm bạnh nục nặc. Vậy thì mẹ chồng chăng? Hay chỉ là bạn đường ngẫu nhiên, cùng lên một chuyến xe?

Mu bàn tay Hiền đã thoáng nổi gân xanh, anh nhận xét. Có thể nào khác được. Mười mấy năm rồi. Thời gian và cả những thăng trầm cuộc sống. Có mỏng đi chút ít, nhưng cổ tay hiền vẫn trắng trẻo mượt mà, móng không tô nhuộm gợi một vẻ đẹp tinh khiết. Giá mình được nắm lại bàn tay ấy, dù là một lần cuối, đặt nhẹ môi lên những ngón tay thân thuộc yêu thương chứa đầy kỷ niệm.

Hồi bấy giờ hiền còn là một nữ sinh học trường miền Nam, mười bảy tuổi. Hay nói hay cười. Có vẻ thích bàn cãi để làm ra vẻ người lớn. Chuyện xẩy ra tại căn phòng nhỏ gia đình dành cho tôi, trước là phòng học, nay là phòng làm việc tại nhà (tôi viết bài cho một chuyên san). Hiền đến chơi, trả sách, lao vào một cuộc tranh luận. Về nội dung cuốn truyện tính cách nhân vật, hay, to tát hơn, về ý nghĩa và triết lý cuộc đời? Không còn nhớ nữa. Tôi ngồi yên lặng nghe, thỉnh thoảng chêm câu bình luận thoáng ý châm biếm hoặc phản bác, với tư thế một người anh lớn tuổi - mình hơn Hiền mười tuổi chứ ít à, ấy là chưa kể đã từng trải nghiệm tình yêu, từng biết một người phụ nữ - chỉ cốt kích thích thêm cuộc bàn cãi. Tôi thích nghe giọng nói của Trang Hiền, trẻ trung trầm bổng, đượm màu xanh biếc của biển Nha Trang quê Hiền như trong trí tôi tưởng tượng.

Cái chân lý được tuổi mười bảy hết lòng bảo vệ, chẳng hiểu nó chính xác vững vàng được đến mức nào, chỉ biết là đầy tự tin, hào hứng. Càng nói, Hiền càng có vẻ tin chắc ở lý lẽ của mình, gò má càng ửng lên, mặt lóng lánh, có lúc Hiền khua cả hai tay làm điệu bộ để thêm sức mạnh cho lời nói. Một lúc nào đó, thấy hiền vừa đặt tay lên bàn, tôi liền ép bàn tay cô gái. Cô muốn hiểu thế nào thì hiểu! Phải, có lẽ tôi chỉ muốn làm dịu cái hăng tranh cãi của cô thôi. Cô nói nhiều rồi, hãy cho phép tôi có ý kiến lại chứ. Đang đà nói, Hiền không dừng lại. Tôi ép mạnh tay hơn. Và kìa, chẳng biết tại sao, giọng nói cô gái tự dưng bổ xiêu. Cứ như thế, những lý lẽ của cô, đang vững vàng là thế, bỗng nhiên bị hẫng mất chân đứng, đổ nghiêng dần. Giọng Hiền yếu ớt hẳn đi, rồi im bặt. Tôi lặng lẽ nhìn thẳng vào mặt Hiền. Dưới làn mi cong cô gái, tôi nhận thấy một ánh phân vân lưỡng lự. Tôi cầm nâng tay Hiền lên, dùng cả bàn tay kia của mình ép chặt. Khoé miệng Hiền chợt nhếch khẽ rung rung như cười, mắt mở tròn ngó thẳng vào mặt tôi. ý nói: Anh làm cái gì kỳ vậy. Cho anh thiệt là táo tợn.

Những đường phố Hà nội rợp bóng cây hoặc ủ bóng đêm trở thành những con đường thân thuộc đi về của tình yêu. Tình yêu với mọi miền hạnh phúc và mọi nỗi băn khoăn dần vật của nó, thổ lộ ra hay phong kín...

Đường Lý Thường Kiệt. Giêng hai năm ấy, tôi còn nhớ, rét nhiều. Mùa xuân còn chần chừ, chỉ mới đăng ký trên tờ lịch. Tiếng động thành phố trầm hẳn, như bịt bùng trong chăn. Lá cành run rẩy. Tôi và Hiền lặng lẽ sóng bước. Hiền cất tiếng:

"Anh coi, cây hai bên đường cũng chụm vào nhau để đỡ rét".
"ồ nhỉ".

Hiền đứng dừng, ngắm một chút, rồi bằng cái giọng Nha Trang nhẹ nhàng trầm bổng:
"Nó lại nghiêng mình nữa, anh thử nhìn coi".

Náo nức như vừa phát kiến điều gì mới, Hiền kéo tôi ra mép vỉa hè. Quả thật, hai dẫy cây hai bên đầu ngả chênh ra phía đường chút ít, vươn cành lá mịt mùng giao trộm vào nhau. Tôi ngạc nhiên: mình qua đường phố hàng trăm lần, chưa bao giờ để ý hiện tượng đó.

"Dễ thường người ta dụng ý trồng nghiêng ra một tý. Để lấy bóng mát cho mặt đường".
"Nếu vậy, phải cho nghiêng vào trong này mới phải chớ. Người đi đường cần bóng mát hơn xe cộ".

"Hiền nói đúng". Tôi bật cười. Giọng tôi ẩn ý trêu cợt: "Hiền bảo anh mắc cái thói tật trí tuệ, hay suy nghĩ lật ngược vấn đề. Chính em cũng hay "lật ngược". Nhưng lần này em hoàn toàn có lý".

Hiền quay sang, hai má đỏ hửng. Mắt Hiền nhìn tôi tha thiết:
"Em muốn thấy anh cười như vậy. Em, muốn giữ hình ảnh anh vui, khi anh ở xa em... anh có thấy gốc sầu to bự đằng kia không? Tán lá xùm xoè gục xuống, như cái đầu nặng trĩu, mấy cành to tự như cánh tay nâng đầu, mệt nhọc dữ!".

Mắt ánh tìa ranh mãnh, Hiền tiếp luôn:

"Nghĩ ngợi là hại người lắm đấy! Em nói vậy có đúng không? Em thấy anh hay buồn. Anh đang nghĩ gì vậy? Chắc anh lại sắp nói ra câu hỏi: Vì sao em yêu anh? Chán chết đi được ấy!".
"Hứa với em, từ rày anh sẽ không bao giờ lật lại câu hỏi "chán chết" ấy nữa. Tôi ôm một bên vai Hiền, kéo vào mình, khẽ thì thào. Miệng tôi ghé sát tai Hiền, tôi nghe hơi ấm của làn má hây hây đỏ, cảm thấy lớp lông tơ mượt mà trên bầu má ấy mơn man da mặt mình.

Bao nhiêu mùa xuân đã qua đi. Còn chăng lớp lông tơ óng mượt trên đôi má. Hồi nãy, trong con mơ thoáng gặp, anh có ấn tượng nước da Hiền, nếu đúng đó là Hiền, chưa hề có dấu hiệu gì khô ráp. Giá mình đặt lại được một cái hôn nhẹ, dù chỉ bằng tưởng tượng, trên bầu má vẫn còn vẻ mịn màng tươi tắn ấy. Anh rướn người ra trước thêm tí chút, làm như muốn nhìn rõ hơn phong cảnh bên ngoài. Bà béo bên cạnh bất thần cựa quậy, cũng rướn người ra, cái đầu tóc to sù uốn quăn của bà che lấp hẳn khuôn mặt thiếu phụ trẻ. Cái bà này, bà là ai mà kỳ cục. Con đáng mặt mệnh phụ không, hay chỉ là loại dân phê buôn bán tầm thường. Sao bà vô lý vậy. Mẹ chồng hay chị chồng mà nỡ bảo vệ cô ta kỹ càng đến thế.

Thốt nhiên, toàn bộ cái khối thịt của bà ta hung tợn xô ngang vào anh, mạnh không thể tưởng tượng được. bị đẩy bật, anh suýt ngã ngồi ra sàn xe, chỗ lối đi. Đến lượt anh ta lại xô mạnh vào khối thịt bà ta. Trong xe, mọi người nhốn nháo. Lát sau mới hoàn hồn. Chiếc xe khách muốn tránh vật cản gì đó, hình như một chiếc xe ngựa đột nhiên dở chứng, đã lái ngoạch qua ngoạch lại như điên. Suýt nữa xẩy ra tai nạn. Bình tĩnh lại, một ông hành khách nào đó, giọng Quảng Ngãi nặng chịch, oang oang kể chuyện có chuyến xe khách muốn tránh một con trâu vọt ngang đường đã đâm thẳng vào một cặp vợ chồng trẻ đèo nhau bằng xe máy. Cả xe bàn tán lao xao.

Một đêm tôi đi cùng Hiền trên đường phố vắng. Lúc tạt qua một ngã ba, bất thình lình có chiếc xe con lao tới. Tôi chỉ kịp lôi Hiền trở lại. Hú vía! vành chắn bùn phía sau gạt ngang qua hai người, cái gì đó móc rách toạc túi áo Hiền. Hiền chỉ cho tôi xem, vẻ như thú vị, ghé tai tôi thì thầm: "Có chết thì chúng mình cùng chết cả hai".

Lúc bây giờ, tôi còn nhớ như in, đầu tôi choáng vàng. Một kỷ niệm xót xa, chưa cũ gì lắm, vút xuyên qua cái dùi nung cháy bỏng. Từng có lần nào đó, một người con gái khác, trong một tình huống tương tự, đã nói với tôi y hệt như những lời nói ấy. "Có chết thì cũng chết cả hai". Chỉ khác, giọng cô ta réo rắt hơn, như còn run rẩy vì xúc động và sợ hãi. Đó là mối tình đầu của tôi. Tôi nghĩ rằng với cô ta cũng vậy. Bất ngờ, một thời gian sau, tôi nhận được bức thư chia tay của cô ta. Lời lẽ hết sức điềm tĩnh, tỉnh táo. "Em đã suy nghĩ kỹ. Xét thấy rằng chúng ta không hợp nhau. Thôi vĩnh biệt". Một tháng sau, cô ta lấy chồng. Hiểu rồi, hiểu rồi, cô em bé nhỏ của tôi ạ, đối với cô, tôi chỉ là vật đối chứng trong một trò thí nghiệm tình cảm lạnh lùng.

Cuộc trò chuyện lao xao trên xe vẫn chưa dứt. Có lẽ mọi người đã bị cái lắc xe đột ngột làm tỉnh táo hẳn lên. Bà mệnh phụ sửa lại chỗ ngồi, có cảm tưởng bà cố dán chặt người thêm vào lưng ghế và đệm ghế. Phía bên kia, Trang Hiền của anh cũng đã ép chiếc làn trắng ngà vào bụng mình, hai bàn tay ôm lấy nó. "Có chết chúng mình cũng chết cả hai". Trong đầu anh chợt nẩy một giả thiết vui vui. ừ, giá như lúc nãy đã xẩy ra tai nạn thực, xe đổ nhào xuống ruộng hoặc đâm sầm vào gốc cây, câu nói của Hiền mười mấy năm về trước, một ước vọng, một lời nguyền, bỗng dưng thành sự thực, thì sao nhỉ. Mình sẽ vui hay buồn. Hiền sẽ buồn hay vui. Ôi, ngớ ngẩn. Chết cả hai rồi, còn gì nữa mà nói chuyện vui buồn!
Giây phút này Hiền đang nghĩ gì. Hiền có sực nhớ đến cái lời nguyền đó không, nếu người ngồi đó đích thực là Trang Hiền của anh. Lúc nãy Hiền có hồi hộp sợ hãi lắm không ấy nhỉ. Dù sao cơn nguy hiểm cũng đã qua rồi. Hai bàn tay Hiền lúc này đan nhau bình thản, đoan trang, mấy ngón còn tròn mọng trắng hồng bên cạnh màu ngà chiếc làn và màu thiên thanh tà áo.

Cái đêm đầu thu không thể nào quên ấy, tôi ngồi cạnh Hiền bên hồ nước, ánh sáng rọi xuống khiến làn nước đêm xanh thẫm càng lung linh. Thốt nhiên tôi cảm thấy Hiền khẽ rùng mình.

"Em lạnh hay sao?" Tôi ân cần hỏi.

"Không ". Hiền đáp. "Nhưng từ nhỏ em đã có tật vậy. Mỗi khi chợt thấy một vệt sao băng, em đâm bồi hộp. Cứ nghĩ cái chấm sáng nhỏ nhoi ấy rớt vào giữa mung lung bầu trời, em hơi sở sợ, cảm thấy cô đơn, như là ớn lạnh nữa ấy".

"Cả giờ nữa, lúc có anh bên cạnh?" Tôi hỏi, hơi có tí trêu chọc.

"Em chẳng hiểu làm sao nữa. Biết đâu chẳng càng ớn lạnh hơn ấy chứ". Hiền đáp, đùa trêu lại. "Vì có ai thăm dò được hết cái mung lung tình cảm con người".

Tôi lặng im. Hiền liền có một cử chỉ làm lành.

"Anh coi, trống ngực em còn đập đây nè".

Hiền cầm tay tôi đặt lên phía tim mình. Dưới làn áo lụa, ngực cô gái căng vồng. Tim tôi hồi hộp. Từ lúc nào không biết, Hiền để nhẹ nhàng cởi cúc áo của mình, hơi thót người lại, tôi cảm thấy tay mình tiếp xúc với làn da mát rợi trên mỏm đồi xuân mơn mởn. Nghe rõ cả tim mình đập mạnh, thình thịch, trong trái tim cô gái. Hồ nước bỗng chao nghiêng, nghiêng ngả.

Bà mệnh phụ. Lại bà mệnh phụ. Nhưng lúc này tôi thông cảm. Bà chẳng hề có ý định phá ngang dòng mơ tưởng loăng quoăng rối rắm của tôi, chắc thế. Chẳng qua phần ghế quá chật đối với cái khối lượng quá cỡ của bà. Tôi đã tự nguyện dịch gần một nửa người của tôi ra khỏi chiếc ghế của tôi rồi đấy. Mong bà đừng quá lấn ép người ngồi cạnh, phía bên kia, tội nghiệp.

Tôi và Hiền ngồi trên vệ cỏ lẳng lặng ngắm mặt hồ như vậy có lẽ rất lâu. Mắt Hiền đen huyền, dường như cũng có ánh sao lung linh trong ấy. Dưới bàn tay ấp ôm mơn trớn, tấm ngực trẻ thanh tân càng nhô cao, căng nhọn, tựa hai hòn núi đá thuở hoang sơ. Trống ngực tôi phập phồng. Tôi nẩy ý liều lĩnh táo tợn, lần tìm đến những miền hoàng dã thâm u khuất vắng hơn.

"Đừng, đừng anh, em sợ".

Nghe Hiền thì thào, giọng đứt quãng. Vai Hiền khẽ rung lên như hồi nãy. Bỗng khắp người cô gái nổi cơn run rẩy dữ dội, khi tôi cố đẩy tới cuộc phiêu liêu mạo hiểm, Tôi đâm hốt hoảng, có cảm giác như Hiền có thể sắp choáng ngất vì sợ hãi. Vội đưa cả hai cánh tay giữ ghì lấy thân hình cô gái. Cơn run rẩy dịu dần. Trán tôi từ lúc nào cũng toát mồ hôi lạnh.

"Ta về thôi, em nhé. Sương xuống nhiều rồi". Tôi nghe mình nói, giọng lúng búng chen xấu hổ và hối hận.

Hiền vịn vào vai tôi yếu ớt đứng dậy.

Trưa hôm sau, ở cơ quan về, tôi tìm thấy mẩu giấy nhỏ luồn qua khe cửa. Tôi hồi hộp mở xem. Nét chữ của Hiền. Vẫn thoáng, đẹp, nhưng dường như có in vết run rẩy, tôi hình dung thế. Hiền nói Hiền viết cho tôi mấy chữ này lúc bốn giờ rưỡi sáng, sau một đêm không hề chớp mặt. Hiền muốn tôi thông cảm và tha thứ (Ôi, chính tôi phải ngàn lần xin Hiền tha thứ cho tôi mới phải). "Đêm nay anh hãy đến với em, anh nhé".

Đêm hôm ấy tôi không đến. Vì lý do gì, cũng chẳng còn nhớ thật rõ. Sau này hai ba lần Hiền vặn hỏi, hai ba lần tôi đáp là mình tự dưng nổi một cơn đau đầu dữ dội. Điều đó nếu không hẳn là sự thực, ít ra cũng là sự thực do tôi mường tượng sau nhiều lần nhắc đi nhắc lại.

Tôi không còn giữ một bức thư nào của Hiền. Tất cả đều đã được thả trôi theo dòng nước. Vì sao vậy, chính tôi cũng không hiểu nổi. Hiền viết cho tôi khá nhiều thư, khi chỉ mấy dòng ngắn, khi ba bốn trang liền. Hiền khoe học tốt, trái với điều tôi lo lắng là Hiền có thể sao nhãng việc học tập. "Em cảm thấy như dạo này trí óc mình ngày càng minh mẫn láng hơn. Toán giải khá nhanh. Cô giáo văn còn khen em làm bài hết sức tình cảm". Hiền kể một vài kỷ niệm chạy giặc hồi thơ ấu ở quê hương, chuyến đi tàu biển ra Bắc tập kết cùng ông chú. "Em muốn anh thuộc lòng từng chi tiết cuộc đời em. Anh đừng cười là nó còn quá ngắn, chẳng có gì đáng kể. Em vui thích mà nghĩ rằng tâm hồn anh". Hiền đòi tôi cũng phải "trả nợ", kể cho Hiền nghe quá khứ của mình, những buồn vui, những cuộc tình duyên cũ "nếu có", mà chắc là phải có. Hứa với anh, em không ghen đâu, chỉ muốn anh kể để vơi bớt nỗi buồn mà em đoán nguồn gốc sâu xa là ở đó". Tiếp đến những bức thư nồng nàn táo bạo hơn "Em từng nói em muốn anh thuộc rõ cả cuộc đời em. Em muốn anh cũng thuộc toàn bộ thân thế em, vì tất cả em là của anh, của riêng anh tất cả". "Ôi, cái ngày sinh nhật kỳ diệu! Em đã bước sang tuổi mười tám với một kỷ niệm không bao giờ quên. Đêm qua chúng mình đã có được cả một đêm cho nhau trọn vẹn. Suốt ngày hôm nay em lười biếng nằm dài, ngửa mặt lên trần suy nghĩ, nhớ lại và ước mơ. Lúc này ước gì có một đứa con của anh nằm gọn trong bụng mình. Một đứa con trai giống hệt anh. Nó sẽ là cái cầu nối, một lời thề nguyện gắn cả cuộc đời và linh hồn hai chúng ta mãi mãi, một trăm năm, một nghìn năm, một triệu năm ánh sáng".

Những lá thư dài ngắn ấy, tôi đọc đi đọc lại hầu như thuộc, với niềm xúc động khi êm ái, khi bừng bừng mãnh liệt. Tôi áp mảnh thư vào ngực, nhắm mắt thầm nhớ lại những giây phút êm đềm. Nhưng khi xúc cảm trào lên quá mạnh, khiến hai thái dương đập phập phồng, tôi cảm thấy bất chợt xen vào một nỗi lo âu buồn bã, thậm chỉ bàng hoàng, một phản ứng tâm lý mà tôi không thể giải thích nổi, lại càng không thể nào nén nổi. Một buổi sáng xuân đẹp trời, nhân đi công tác bằng ca nô trên sông Bạch Đằng, tôi đã thả tập thư của Hiền từng tờ từng tờ một cho bay theo gió rồi rơi xuống nước. Dòng nước mùa xuân này xanh trong leo lẻo, đẹp quá chừng, hy vọng nó sẽ đưa những lời thư ấy ra biển rồi ra tận đại dương. Tôi dõi nhìn những vuông giấy trắng trao nghiêng như cánh chim bập bềnh trôi nhanh ra phía sau lái với một tâm trạng hầu như thanh thoát, tuy vương chút bùi ngùi. Cái gì diễn ra trong tôi vậy. Dường như tôi đã e sợ và muốn ngăn ngừa trước một sự ràng buộc hoặc trách nhiệm nào đó, hoặc một sự dang dở; chia lìa, thậm chí cơn vỡ mộng mà cái tạng, cái khí chất của tôi sẽ không thể nào chịu đựng nổi. Yêu tôi nồng nhiệt, biết đâu Hiền chẳng có thể cắt đứt phũ phàng. Nói gì một triệu năm hoặc một trăm năm. Mọi sự ở đời cái gì chẳng qua đi như ngày đêm dưới cầu nước chảy, mọi điều tất phải biến đổi, nhàm chán, nhạt phai. Hiền yêu tôi thật sự hay chỉ là yêu tình yêu, yêu chính mình qua một mối tình. Tôi đã có gì đặc biệt, có gì xứng đáng. Những lời lẽ bồng bột say sưa ấy Hiền viết cho tôi hay viết để say sưa với chính mình. Tôi chẳng qua chỉ là cái cớ.

Lại bà mệnh phụ. Lần này thì cái bà béo ị ấy không còn làm sao chịu đựng được nữa nồi. Bà xoay người, thúc cả cùi tay vào hông anh, đột ngột đứng dậy. Bà nhoài người nhìn ra phía cửa sổ, bỗng quay lại hét toáng về phía người lái xe: "xuống! xuống! Cho tôi xuống đây! Dừng lại! Cho tôi xuống!" Giằng cái hông đồ sộ lên đùi anh, bà cúi quơ cái túi giả da to kềnh màu hồng khá đẹp dưới chân ghế, rồi chẳng cần xin lỗi, lăm le định len ra. Anh vội nhổm dậy, đứng tránh ở lối đi. Bà ta vừa lách khỏi, thốt nhiên anh thấy mình đứng đối mặt với thiếu phụ áo thiên thanh. Hiền! Trời ơi, Hiền cũng xuống đây sao? Cái thị trấn này là đâu vậy? Quê chồng hay chính quê Hiền?

Thoáng giây hồi hộp, Hình như hơi thở của anh, nóng hổi, phả cả vào cổ và gáy người thiếu phụ, mấy sợi tóc dài khẽ phơ phất trên làn da trắng mịn. "Có phải đúng Trang Hiền của anh đấy không ?". Tiếng kêu ấy vang vang trong đầu óc anh, tuy anh không hề mở miệng. Hiền cũng đã nghe thấy chăng? Người thiếu phụ khẽ quay đầu, nhìn thẳng vào anh. Đôi mặt mở to, vẻ bỡ ngỡ, y như mắt Hiền ngày nào khi anh làm cái việc táo bạo ép bàn tay mình lên bàn tay cô gái. Nhưng lúc này ánh mắt ấy dường như thoáng buồn, thoáng nghiêm lạnh. Đôi môi, vẫn còn hồng mọng, nhưng mím mím, lặng yên, hoàn toàn xa lạ. "Nếu đúng là Hiền, sao Hiền không nói ví tôi một lời nhỉ. Hiền hãy trách cứ tôi đi, nói thẳng sự thật vào mặt tôi đi. Tôi đã quá tính toán chăng, đã hèn yếu đến mức độ trở nên hèn nhát vị kỷ chăng. Sao Hiền vẫn cứ câm lặng lạnh lùng như vậy?"

Đầu anh choáng váng. Tiếng đập thình thình vào thành xe của người lái phụ ngồi phía sau giục đi, anh tưởng như tiếng đập của trống ngực mình dội lên tận óc. Chiếc xe ca lại khởi động, anh lặng người, vội bám hai tay vào thành ghế hai bên lối đi. Tuy nhiên vẫn cố ngoái nhìn ra phía sau, qua khung kính ở lưng xe, cố tìm lại hình bóng chiếc áo màu thiên thanh. Lúc đầu không thấy gì. Sau đó hiện ra trong khung kính dáng thanh mảnh nhỏ nhắn của người thiếu phụ, toàn một mầu tím sẫm, nó nhỏ đi nhanh rồi mất hút.

Cho đến bây giờ, thêm mười mấy năm nữa, anh vẫn chưa nhớ được cái màu tím sẫm lạ lùng ấy là do ánh mắt mình đã mờ đi, thẫm lại hay đó là do màu tấm kính.276




Còi hụ trong trại chữa lửa, ông đại úy chỉ huy bảo một người lính đem lại đôi giày da vừa đánh bóng. Người này chạy đi lấy ngay. Ông đại úy vừa mặc quần áo vừa quát:

Tại sao mày lấy chiếc ống cao, chiếc ống thấp?

Người lính đáp:

Dạ thưa đại úy, hai chiếc kia cũng giống y như vậy, tôi biết lấy đôi nào bây giờ?

2865




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Thổi Sáo


Tuyên Vương nước Tề thích nghe thổi sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong ba trăm người ấy có Đông Quách tiên sinh không biết thổi, nhưng cũng tạm dự để kiếm cơm.

Đến khi Tuyên Vương mất, Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe thổi sáo, nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người, Đông Quách thấy thế, tìm đường trốn trước.

Lời bàn:

Thời nào, và ở đâu chẳng có hạng người như tiên sinh Đông Quách nầy. Có điều Đông Quách tiên sinh của Hàn Phi Tử có ít nhiều liêm sỉ: Biết thân mà chuồn trước. Nhưng đó cũng là nhờ có người như mẫn vương biết nghe nhạc.
557




Nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20-11, ông chủ tịch xã đến thăm một trường cấp hai. Trong buổi gặp mặt các thầy cô giáo và các em học sinh, ông hỏi một học sinh lớp 9:

- Cháu có biết câu: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” ý nói gì không?

- Thưa bác, nhất là một, tự là chùa, sư là thầy. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” có nghĩa là “Một nhà chùa có một ông thầy, bán cái chùa thì còn lại ông thầy”.

Ông chủ tịch nghiêm nghị:

- Hỏng! Hỏng cả rồi! Học sinh, học trò vô lễ thật… các cháu có nghe nói: “Tiên học lễ, hậu học văn” lần nào chưa? Đấy, đấy!... Bà tiên trên trời còn học lễ nghĩa, bà hoàng hậu là vợ vua, uy quyền là thế mà còn phải học văn nữa là… là các cháu.

- ?!
1428




Cuộc thi "Hãy chọn nghề đúng" của phường tôi, đến phần trả lời của vị thí sinh nọ thì ban tổ chức hết sức bối rối. Cụ thể như sau:

*Hỏi: Người nào miệng luôn gào thét, tay chỉ trỏ bắt người ta làm việc này việc kia? Trả lời: Sếp công ty tôi! (Đáp án của ban giám khảo là: Trọng tài bóng đá).

*Hỏi: Nghề gì mà công việc chính là đào bới khắp nơi? Trả lời: Giao thông công chính! (Đáp án: Nghề khảo cổ).

*Hỏi: Nghề gì mà mỗi năm lại in sách có nội dung luôn được sửa chữa so với những năm trước? Trả lời: Ngành Giáo dục và SGK! (Đáp án: Bưu điện và cuốn danh bạ điện thoại).

*Hỏi: Nghề gì mà lừa hàng ngàn, hàng triệu người vẫn được họ vỗ tay? Trả lời: Cầu thủ bán độ! (Đáp án: Nhà ảo thuật).

*Và câu hỏi cuối cùng là: Nghề gì luôn luôn ở ngoài đường, nhìn ngang nhìn dọc, thỉnh thoảng lại có người dúi tiền vào tay, vào mũ...? Mọi người hi vọng thí sinh sẽ đoán đúng là nghề hành khất, nhưng ông ta lại trả lời tỉnh queo: Cảnh sát giao thông! Bậy bạ thật!
1395




Một anh mới lập gia đình nói với bạn:

- Ðời mình chỉ có một ngày vui nhất. Ðó là ngày cưới cô ấy.

Anh bạn trả lời:

- Còn mình thì có tới hai ngày vui lận.

- Ngày nào thế? - Người bạn hỏi.

- Ngày mình cưới vợ và ngày mình ly dị vợ.


o0o



Chàng trai nói với người yêu:

- Sắp tới là sinh nhật bạn thân nhất của anh, anh chẳng biết tặng quà sinh nhật gì nữa?

- Sao thế anh?

- Bởi nó quá đầy đủ rồi, giám đốc một công ty lớn đang ăn nên làm ra, đẹp trai, có du thuyền và cả chiếc xe thể thao xịn...

Người yêu thỏ thẻ:

- Hay anh tặng... số điện thoại của em cho anh ấy đi.

1033




Một anh đi ở cho một lão nhà giàu, lão ta hẹn sau mười năm sẽ trả tiền công cho về mà làm ăn. Ðến kì hạn, lão nhà giàu muốn quịt, bèn đưa ra một cái chăn vừa ngắn vừa hẹp, bảo:

- Anh phải làm sao đắp cái chăn này cho vừa người tôi thì tôi trả tiền công cho, bằng không thì một là anh về, hai là ở thêm mười năm nữa, sau đó tôi trả công cả hai mươi năm cho anh luôn thể.

Nói xong, lão nhà giàu nằm thẳng chẳng ra giữa giường. Người lão rất dài, mà cái chăn thì rất ngắn, nên anh kia cố đắp mãi không xong, đắp được đằng đầu lại hụt mất đằng chân. Chợt nghĩ ra một mẹo, anh ta cầm chăn đắp từ trên đầu lão đắp xuống quá đầu gối, rồi lấy gậy vụt tới tấp vào hai ống chân lão. Lão đau quá co rụt ngay chân lại. Thế là cái chăn đắp lên người lão vừa khéo.
1193




Một lão nhà giàu có anh đầy tớ tính bộp chộp, thấy gì nói nấy, gặp đâu nói đó, không suy nghĩ chín chắn. Lão gọi anh ta, bảo:


- Mày tính bộp chộp lắm, ăn nói chẳng có đầu có đuôi gì cả, người ta cười cả tao lẫn mày. Từ rày, nói cái gì phải cho rõ ràng, có ngành có ngọn, nghe không?


Anh đầy tớ vâng dạ. Mộ hôm, lão mặc bộ đồ tơ mới may, sắp sửa đi chơi, đang ngồi hút thuốc, thì thấy anh dầy tớ đứng chấp tay, trịnh trọng nói:


- Bẩm ông, con tằm nó ăn dâu, nhả ra tơ, người ta mang tơ bán cho thợ dệt, thợ dệt dệt thành từng tấm lụa, ông đi mua về may thành áo. Hôm nay, ông mạc vào, ông hút thuốc, tàn thuốc áo rời vào áo ông, và áo ông đang cháy.


Lão giật mình, nhìn xuống, thì áo đã cháy một miếng to bằng bàn tay rồi.

2540




 Từ khi “xa nghìn trùng” với Xuân, tôi như kẻ mất hồn. Tôi buông xuôi mọi thứ, người tôi rã rượi, người tôi bần thần như một cảm giác say rượu. Tôi đi đứng thất thểu, quần áo xốc xếch. Tôi nhớ Xuân quay quắt, tôi nhớ Xuân liên miên, mặc dù lúc nào tôi cũng cố tự an ủi mình, tự vỗ về, mơn trớn cái tự ái của mình “Ôi tiếc chi một kẻ vô tình. Tiếc chi một người con gái đang tâm quay lưng , bỏ quên bao nhiêu kỷ niệm êm đềm. Tiếc chi một kẻ bạc tình, phụ tình. Này Hoà ơi, con gái thiếu gì , nhơn nhởn trước mắt. Mày đâu đến nỗi tệ lắm đâu, chả lẽ không đủ sức để kiếm nổi một người …”. Lúc nào cũng thì thầm với chính mình như thế, nhưng cái “mình tôi” nó chẳng chịu nghe tôi, nên dạo đó tôi buồn, tôi buồn kinh khủng. Tôi với nàng ai buồn hơn ai ?

Nàng về mạn ngược, tôi về mạn xuôi. Tôi dạy ở trường tiểu học Vạn Ninh được một niên khoá. Ở đây cuộc sống thầm lặng quá, cái thầm lặng như những hạt muối chà xát trên vết thương tôi làm nhức nhối ngày đêm. Tôi lơ là trong công việc, tôi bê bối trong những sinh hoạt thường ngày. Ban giám hiệu trường đôi lần khiển trách, cảnh cáo. Tôi bất cần, sa thải thì đã sao nào, vào lính là cùng , chết là cùng thôi …Cuối cùng tôi bị đẩy về vùng cao nguyên và tôi chợt thấy yêu bài hát “Phố núi cao, phố núi đầy sương …Anh khách lạ đi lên đi xuống. May mà có em, đời còn dễ thương …” Đúng như thế , may mà có em …Ở nơi đây tôi đã gặp nửa mình của tôi : nhà tôi bây giờ.

Nhà tôi là một …”bà đầm”. Tôi gọi nàng là “đầm” vì nàng là dân Tây, nàng có Quốc tịch Pháp. Thế không gọi là “đầm” thì gọi là gì phải không các bạn .Có một điều là nàng không có …”tóc vàng sợi nhỏ”, nàng không có mắt xanh mũi lõ, mà mắt nàng màu nâu đậm, tóc nàng đen, da nàng ngâm ngâm , nhưng nhìn chung coi cũng bắt mắt lắm. Bạn bè tôi hồi đó thường nói với tôi “ Con nhỏ bồ mày là đầm xứ Sénégal. Tôi chả hiểu cái xứ xa lạ đó ra sao. Bạn tôi bảo vì nước da của nàng không giống đầm Paris. Tôi bực dọc về cái nhận xét của bạn mình nên tôi cáu :” Xứ nào cũng được, miễn là …”đầm” là ngon rồi …Với lại bồ tao người xứ ngoài , cái tên ngoại quốc rõ ràng , xứ Pleiku , mày không thấy điều đó sao”. Bạn tôi cười cười gật gù cái đầu trông giống như con chim bồ câu đang “gù” mái. Mà thôi để tôi kể cho bạn nghe tôi đã gặp bà đầm của tôi như thế nào nhé.

Tôi tới xứ sương mù vào một tối mù sương. Đúng như bài hát diễn tả, phố núi quả là cao, trời thấp ghê lắm , đưa tay lên quờ một cái , tôi có thể nắm được những sợi mây lơ lửng trên đầu. Đường phố đèn mờ, dạo phố là những người lính với đủ màu sắc quân phục, những anh chàng không quân bay bướm, những anh lính dù, lính biệt động hào hoa…nhiều lắm nên thành phố còn được mệnh danh là phố lính .Tôi mừng thầm, thành phố dễ thương quá, may ra ta quên được nàng để bắt đầu cho một cuộc sống mới chăng. Tôi ghé về khách sạn Mimosa và thiếp vào giấc ngủ ngay vì cuộc hành trình có phần mệt nhọc. Trong giấc ngủ đêm ấy tôi mơ mình lạc động thiên thai quen được một nàng tiên, nàng tiên ấy thương yêu tôi ngày đêm, chiều chuộng tôi suốt cuộc đời, tôi cứ tưởng như mình sẽ hạnh phúc mãi bên nàng, hạnh phúc cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt , nhưng hình ảnh nàng tiên cuối cùng lại là Xuân làm tôi giật mình ngơ ngác và thức giấc. Tôi buông thả thân mình trên nệm và thở dài …Sáng hôm đó tôi tới trình diện nhiệm sở mới với tâm trạng ngầy ngật của những cuộc giao hoan với tiên vừa cảm giác ngai ngái khi phát hiện ra nàng tiên không ai xa lạ. Một cảm giác nao nao khó diễn tả, một cảm giác nửa vời như khi người ta chưa đạt được cái thoả mãn cùng đích , nên trông tôi có vẻ bơ phờ. Thày hiệu trưởng sau vài câu chào hỏi xã giao cho tôi nghỉ vài ngày để lo sắp xếp chỗ ăn chỗ ở. Tôi cám ơn ông và bước ra phố. Tôi thì có gì đâu mà cần sắp xếp cơ chứ. Tôi đi kiếm một nhà trọ với giá phải chăng và nhờ chủ nhà nấu cơm tháng dùm luôn thế là xong. Tôi đi dạo phố …mùa đông. Ở đây cái gì thấy cũng lạ, quán cà phê nhiều như nấm , người ta ra đường với chiếc áo ấm mỏng như một kiểu thời trang. Những cô gái Pleiku đúng là má đỏ môi hồng , da cô nào cũng đẹp, cũng mơn mởn như những trái táo chín , trông chỉ muốn cắn. Những tà áo trắng nữ sinh trên con phố cao coi thơ mộng và lãng mạn hơn nhiều so với miền xuôi .Tôi đi lang thang mãi tới gần rạp hát Diệp Kính nhìn trên bờ tường có dán những tờ giấy quảng cáo. Tôi dừng lại đọc một tờ “Cần người kèm trẻ “. Tôi thấy vui vui khi nghĩ rằng để giết những thì giờ rảnh, nhàn cư vi bất thiện , rảnh lại hay nghĩ về nàng, mình nên kiếm cái việc làm thêm này. Thế là tôi tìm đến địa chỉ đó. Tôi đứng trước một toà biệt thự khá lớn toạ lạc trên một con đường yên tĩnh có hai hàng me cao vút rợp mát. Tôi ngần ngừ mãi mới đưa tay bấm chuông. Một lúc sau có một bà xồn xồn ra mở cổng :

- Có chuyện chi không cậu ?

- Tôi muốn xin kèm trẻ.

Người đàn bà “à” một tiếng rồi nhìn tôi từ đầu tới chân làm tôi cảm thấy nhột nhạt quá , sau đó bà mời tôi vào nhà. Tôi ngồi chờ trong phòng khách rộng mênh mông , trang trí bằng những bức tranh tuyệt đẹp và những chậu hoa thơm ngát. Tôi khớp với phong cách giàu sang của chủ nhà nên ngồi khép nép , hồi hộp. Rèm cửa phòng khách rung động, một cô gái trạc tuổi bẻ gẫy sừng trâu hiện ra, cô ta dịu dàng cười nụ gật đầu chào tôi. Tôi đứng lên cúi đầu chào lại. Cô ta mời tôi ngồi rồi bước lại ngồi xuống đối diện tôi tự giới thiệu cô tên là Pako nhưng người ta hay gọi cô là Giang. Tôi ngơ ngẩn một chút nhưng cũng bập bẹ vào đề ngay :

- Tôi tên Hoà , giáo viên từ miền xuôi mới đổi về đây , muốn xin kèm trẻ tư gia …

- Vâng ba mẹ tôi muốn kiếm một người kèm cho cậu em tôi. Năm nay nó sẽ thi vào lớp sáu mà nó yếu về toán và về văn quá. Ba mẹ tôi hôm nay không có nhà , nhưng tôi cũng có thể quyết định được.

Cái giọng của cô ta lơ lớ , ngọng ngọng, ấy thế mà sao tôi nghe lại rất hay. Tôi khẩn khoản :

- Vậy thưa cô tôi có hy vọng …được cô để mắt xanh tới không ạ ?

Cô bé phá lên cười , tiếng cười trong như pha lê thắp sáng trong tôi một niềm vui :

- Thế anh nghĩ sao ? Anh có nghĩ là tôi sẽ thay Ba Mẹ tôi để nhờ anh kèm cho em tôi không ?

- Tôi nghĩ là chắc chắn …

- Anh tự tin thật …và tin thì sẽ được.

Gia đình này chắc là theo đạo Tin lành, tôi nghĩ như vậy .Tôi bước ra về lòng thơ thới hân hoan nghĩ về Giang , không tôi thích gọi cô ta là Pako nghe có vẻ hay hay hơn. Cô ta cũng lém lỉnh ghê đi chứ , lém lỉnh hơn cả những cô miền xuôi , chắc là sống ở thành phố lính nên người ta có phần lanh lợi hơn chăng ? Thế là từ đó sau những giờ dạy ở trường tôi xách đít tới nhà Pako để dạy kèm. Chủ nhà chỉ cần tôi tới ba ngày một tuần thôi , nhưng tôi tới cà sáu ngày , có khi tới cả ngày chủ nhật nữa mà không đòi hỏi thêm lương lậu gì cả. Sau giờ kèm cho cậu em tôi kèm luôn cho cô chị .Lúc này tôi biết cô chi đang học lớp mười một. Kèm cô chị chỉ là một cái cớ để tôi nán lại nhà nàng thôi. Sách vở cũng để ngay ngắn trên bàn trước mặt nhưng tôi kèm cho nàng về cổ văn, về truyện Kiều của Nuyễn Du rồi Truyện Kiều của tôi nhiều hơn. Nàng có vẻ thích thú nghe tôi nói Kiều lắm. Nàng bảo tôi khi nào đưa nàng về Nam chơi , nàng thích lối sống của các cô gái Nam lắm. Tôi hứa với nàng điều đó..Sau một năm được tôi kèm thì cậu con trai của ông bà chủ đã thi đậu vào lớp sáu , học lực tăng tiến thấy rõ, cô chị thì học lực không biết có tiến triển hay không nhưng thấy vui hơn và yêu đời hơn rất nhiều. Khi người ta yêu đời thì trông lại có phần đẹp ra thêm , duyên dáng thêm thế nên tôi bắt đầu có uy đối với gia đình. Ông bà chủ quí mến tôi nhiều hơn , khen tôi rối rít nào là thày có tài , thày bảnh trai , thày có gia đình chưa , nếu chưa tôi làm mai cho nếu thích gái đất sương mù ….Tôi dạ dạ và mừng như trở cờ trong bụng , tôi liếc liếc qua phía Pako để thấy trong mắt nàng như nói lên những điều hứa hẹn. Khi có uy tín rồi thì tôi xin phép Ông bà chủ đưa Pako và cậu em đi pát phố , đi chơi, đi ngắm phong cảnh dễ dàng hơn , nhất là bà Mẹ của nàng hầu như giành nhiều sự dễ dãi cho tôi. Tôi suốt đời thầm cám ơn bà. Lúc đầu đi chơi còn có cậu em đi theo về sau thì tôi tìm mọi cách để gạt cậu em ra rìa, hai đứa tôi đi chơi riêng vui hơn, hì hì …

Ngày tháng dần trôi, tình yêu đã và đang triển nở giữa hai đứa chúng tôi mặc dù có đôi lúc tôi vẫn nhớ về Xuân , nhưng rồi hình bóng xưa lại mờ nhạt rất nhanh khi có Pako xuất hiện. Tôi nắm tay Pako và tôi đã biết những ngọt bùi của bờ môi người bạn gái, có lẽ nhờ bài học vỡ lòng năm xưa mà tôi không muốn mình lỡ thêm một cơ hôi chăng .Chúng tôi yêu nhau cũng vẫn vụng trộm thôi mặc dù tôi linh cảm là Mẹ của Pako đã biết. Và chuyện đời diễn tiến không ngờ : Vào một ngày đầu xuân, gia đình Pako mời tôi về làng ăn lễ hội. Tôi nhớ mãi những ngày ấy , những ngày thần tiên ấy. Chuprong ngôi làng hẻo lánh thơ mộng nằm thoai thoải trên một triền đồi, phía dưới kia con suối chảy róc rách tao nên một cảnh đẹp như cõi tiên. Dân làng đang rộn rịp chuẩn bị cho những cuộc vui lễ. Chiếc xe chở gia đình Pako và tôi về tới làng, tôi sững sờ trước những cô gái ngực trần, trên người chỉ quấn chiếc “sà rông” màu sặc sỡ nhí nhảnh chào đón chúng tôi , họ rất thản nhiên vô tư không ngại ngùng không e thẹn trước khách lạ. Những cặp vú căng tròn của các cô tuổi dậy thì xen kẽ những đôi vú quả mướp của các mẹ gìa. Mọi người hoà đồng như một không phân biệt trai gái. Ơ kìa …điều làm tôi ngạc nhiên nhất …Pako của tôi kìa …đã thay bộ quần áo hợp thời trang của thành phố để mặc “quốc phục” của nàng. Tôi như nằm mơ khi Pako bước lại gần tôi , kéo tay tôi : Thấy em thế nào ? Có đẹp lắm không ? Tôi như mất hồn , đâu ngờ mình được ngắm bộ ngực của nàng rõ ràng và dễ dàng như thế. Bộ ngực tròn trịa có núm trắng hồng hồng, ngộ hơn so với những cô gái khác ở đây. Này anh , sao thế ? Có nghe em nói không ? Tôi đưa tay dụi mắt. Em đẹp lắm làm anh ngẩn ngơ , không ngờ em lại đẹp như thế. Nàng cười và kéo tôi chạy băng xuống suối . Tới bờ suối vắng tôi ôm hôn nàng, nụ hôn này ngàn đời tôi không quên.

Ông mặt trời khuất sau dãy núi xa xa. Màn đêm đang về trên làng , tôi hỏi Pako đêm nay tôi ngủ chỗ nào. Nàng mỉm cười bí mật. Lo chi điều đó anh. Thế rồi nàng đưa cho tôi bộ “quốc phục” nam, chắc là của em trai nàng và bảo tôi anh thay đồ ra đi. Tôi thật sự sững sờ. Nàng dục tôi : nhanh đi mà. Tôi ôm bộ đồ đó vô trong nhà , tôi lúng túng chả biết mặc như thế nào , cuối cùng thì cũng xong , tôi ngượng nghịu bước ra ngoài. Nàng nheo mắt nhìn tôi : Cởi cái áo ra chứ anh, ai lại mặc áo bao giờ …Rồi nàng sửa lại cái “khố” cho tôi, vừa sửa vừa khen : trông anh vạm vỡ, đẹp hơn con trai làng nhiều ….Xong nàng kéo tôi đi. Tôi hỏi nàng đi đâu giờ này, tối rồi em. Thì mình đi ngủ chứ đi đâu. Đi ngủ ? Ừa , ở làng có lệ con trai con gái tới tuổi cặp kê là không được ngủ ở nhà phải ra “nhà làng” để ngủ , mình ra đó ngủ , vui lắm. Tới nhà làng , một căn nhà dài ngoằng, tôi thấy nhiều trai, nhiều gái ở tuổi chúng tôi đã tụm năm túm ba ở đó nô đùa vui vẻ. Đêm hôm đó đúng là đêm tôi lạc vào động thiên thai. Tôi nằm ôm Pako mình trần ngủ say mê. Chả nói thì các bạn cũng hiểu , ngủ say mê là không ngủ được , nhưng đừng có nghĩ bậy bạ nhá , nếu ai phạm vào cái khoản kia là sẽ bị phạt nộp trâu bò cho làng và bị đuổi ra khỏi làng. Coi như là một tội rất nặng. Đêm ngủ ấy cứ ám ảnh tôi hoài. Khi về lại thành phố tôi vẫn thường rủ Pako : mình về làng ngủ đi em , nhưng Pako luôn nói : Anh đừng ham.

Khi Pako học hết lớp 12 , tôi lo lắng quá vì gia đình nàng muốn lo cho nàng đi du học Pháp. Nếu thế thì một lần nữa “tiễn em đi là biết xa nghìn trùng “. Tôi liều mạng tỏ ý với Mẹ của Pako là xin cưới Pako. Bà thì vui vẻ chấp thuận, nhưng bà nói Ba của Pako sẽ không chịu đâu, vì ông muốn nàng đi du học. Tôi bàn với Pako “mình ăn cơm trước kẻng” tạo ra chuyện đã rồi …Lúc đầu nàng cự tuyệt ghê lắm nhưng sau có lẽ vì quá thương tôi nên nàng nhắm mắt gật đầu …Và thế là Pako đã cưới tôi. Vâng đúng thế , chúng tôi làm đám cưới linh đình theo tục lệ bên nhà vợ. Gia đình vợ tôi rất khá giả , co hai đồn điền cà phê và vốn liếng khá nhiều ở vài công ty xuất nhập khẩu ở Saigon. Chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau cho đến ngày nay. Gia đình tôi toàn là người nước ngoài, nói tiếng Việt lơ lớ, các con tôi thì là người Mỹ, chỉ riêng mình tôi là người Việt chính cống. Đôi lúc nhớ cội, nhớ nguồn cũng muốn có một bà vợ người Việt rặt tông , nhưng chả biết làm sao .Bà đầm tôi cũng ba bà bốn chuyện như các bà Mít chả khác gì. Thỉnh thoảng cũng tra gạn hỏi tôi về Xuân , tôi cũng nói thật , và nàng cũng nói mong có lần được gặp chị Xuân xem chị thế nào mà cho anh leo cây …có bôi mỡ…

Lần họp mặt bạn bè trường cũ vừa qua tôi giới thiệu hai người với nhau, bà đầm của tôi nói với Xuân là “Anh Hoà thiệt quá dại đã để đánh rơi mất chị. Đó là một bất hạnh lớn nhất trong đời anh ta”. Bà đầm của anh ơi , nhưng anh lại có một diễm phúc lớn lao hơn là có bà đầm mãi mãi ở bên cạnh anh. Một bà đầm tuyệt vời. Tôi ôm bà đầm của tôi và nói :” Cám ơn em , bà đầm của anh “. Vợ tôi đẩy tôi ra :” Đừng làm em mắc cỡ. Chị Xuân đang cười mình kìa.

2901









Mẹ tôi trong những ngày giỗ chạp
Thường ngồi chắp tay cầu khẩn giờ lâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu
Tôi chỉ thấy mẹ dùng khi lễ bái


Đời của tôi nhiều khổ đau oan trái
Mẹ bao giờ cũng cầu nguyện cho tôi
Đứa con trai tù tội mấy phen rồi
Hàng nước mắt chảy giòng trên má mẹ


Ngồi bên mẹ, tôi thấy mình nhỏ bé
Tình thương yêu của mẹ lớn bao nhiêu
Mẹ ơi, con lòng chỉ nguyện một điều:
Được gần sống, đừng lìa xa khỏi mẹ!


Giờ hẳn mẹ mỗi khi ngồi cầu lễ
Cho đứa con tù bệnh chốn rừng sâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu
Phải đầm ướt biết bao hàng nước lệ!
 

2719




Một huấn luyện viên bóng đá lâm bệnh nặng không thể qua khỏi. Người đồng nghiệp khá nổi tiếng của ông ta dặn dò:
- Ông ạ, tuổi tôi cũng đã cao rồi. Hãy tìm cách báo cho tôi biết tình hình thế giới bên kia nhé! Nửa năm sau, chuông điện thoại reo. Ở đầu dây bên kia là ông bầu đã quá cố thông báo:
- Tôi có một tin tốt và một tin xấu cho ông.
- Nói tin tốt trước đi.
- Ông sắp có cơ hội giành chiếc cúp C1 đầu tiên trong đời!
- Tuyệt! Thế còn tin xấu?
- Vâng, đội Địa ngục đã lọt vào trận chung kết C1, gặp đội Thiên đường. Tuần sau, ông sẽ được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng cho đội Địa ngục.
1734




Tôi tìm em, em tìm ai
Để đôi khi tiếng thở dài hòa chung
Gần nhau mà chẳng yêu cùng
Đơn phương tôi cứ thuỷ chung một mình
Trái tim tôi vẫn để dành
Cho em - người vốn vô tình với tôi

Còn em lại đến với người
Tôi không ghen, chỉ buồn thôi, thật buồn.
Cái bông hoa nở giữa vườn
Hương thơm nhiều lúc lại thường bay xa
Thôi thì em đó tôi đây
Không yêu nhau được dẫu đầy thương yêu

Mong em yêu và được yêu
Đừng như tôi chỉ một chiều tương tư
1493




Gia đình một nhà tạo giống nọ thích ăn món đùi gà tây trong bữa tối nhưng không bao giờ có đủ cho mỗi người một chiếc. Bực mình vì cảnh lũ con tranh ăn, ông lao vào nghiên cứu để lai tạo ra một giống gà đặc biệt.

Sau nhiều nỗ lực bất thành, một hôm, ông công bố phát minh vĩ đại của mình trước toàn giới khoa học rằng ông đã tạo ra được giống gà tây có 6 chân.

- Thế mùi vị của loại thịt gà ấy như thế nào? - Cử tọa hỏi.

- Tôi không biết! – Nhà khoa học đáp – Tôi chả bao giờ đuổi kịp nó cả.
1955





Gia đình kia có cô con gái xinh đẹp, muốn kén chàng rể có tính tiết kiệm. Nhiều chàng trai trong vùng đến nhưng không ai được ông bố vợ hài lòng. Gặp ai ông cũng lắc đầu. Một hôm có một chàng trai hớt hơ hớt hải đến, chẳng thèm chào ai, quăng ịch chiếc xe ở sân rồi chạy vội ra vườn quay lưng vào mọi người và vén quần lên...

Ông bố vợ cau mặt bảo:

Anh đến xin làm rể mà thô lỗ như thế, làm sao chấp nhận được!

Chàng trai chắp tay:

Thưa bác, tôi biết là không nên làm thế, nhưng tức bụng quá, không chịu được.

Thế sao trên đường đi, không dừng lại ít phút để giải quyết?

Thưa bác, thế thì phí quá!

Anh sợ mất thời gian à?

Dạ không. Tôi sợ phí cái khác cơ. Chả là bác có vườn rau, mà nước tưới vẫn phải mua, nên ta tiết kiệm được tý nào đỡ tý ấy ạ.

Ông bố vợ "Aø!" lên một tiếng, mặt rạng rỡ hẳn lên, vì ông vừa phát hiện ra được một người xứng đáng là rể nhà mình.

Đến ngày hôn lễ, nhà gái yêu cầu nhà trai tiết kiệm, chỉ cần ra Uỷ ban đăng ký và cô dâu chú rể chụp một kiểu ảnh kỷ niệm là xong. Khi anh thợ ảnh tới, chú rể gọi iù ới tất cả mọi người, từ gia đình nhà trai đến gia đình nhà gái, từ già trẻ lớn bé, thậm chí anh ta còn gọi cả người đi đường vào đứng chụp. Anh thợ ảnh thấy vậy nhăn mặt:

Tôi muốn chụp riêng cho anh chị một kiểu như thế mới có ý nghĩa, sao anh lại gọi tùm lum thế?

Chú rể bảo:

Khuôn khổ một bức ảnh có thể chứa được nhiều người mà lại chỉ ghi hình của hai người thôi lãng phí quá!

Nghe thấy vậy ông bố vợ càng tin mình sáng suốt lựa chọn được chàng rể xứng đáng.

2883





Thuở mới kiến tạo, lộ Lâm Quang Ky giống như một con đê chạy dài theo bờ biển ấp Vĩnh Lạc, Rạch Giá. Ngày ấy, trên bãi sình lầy hoang vắng chỉ có rừng mắm chằng chịt. Nhưng biển cứ cần cù mang phù sa tô bồi mãi, nên chẳng bao lâu, những căn nhà xinh xắn đã xuất hiện trên mặt tiền đường, rồi từ từ lấn sâu thêm mãi. Khi tình hình an ninh ở miền quê trở nên tồi tệ, dân chúng đổ xô ra tỉnh nhà ở thật khan hiếm. Nhu cầu cấp bách không thể chờ đợi đất bồi " cà rịch cà tang" nên có người nghĩ đến giải pháp cất nhà sàn. Thế rồi, với chiếc cầu ván hẹp té xử dụng như đường đi độc đạo vào đất liền, những chiếc nhà sàn thô sơ san sát quây quần bên nhau. Cầu được chấp nối mãi nên dài nhằn, nhưng càng lúc càng teo dần. Khoảng bắt ngang những căn cuối cùng, cầu ốm nhom với miếng ván long đinh, vùng vằn theo từng bước chân đi. Cầu riêng vào nhà bé Vân – căn nhà cuối cùng -, thực ra, chỉ là một khúc tre, gát lơ mơ trên hai cặp cừ đóng chéo. Những lần đầu, bước lên cầu tre lắc lư, Vân níu cứng tay mẹ, nhít từng bước, mà run như thằn lằn đứt đuôi. Bây giờ, thì Vân quen thuộc rồi, em đi thoăn thoắt như đi trên đất liền.



" Ví dầu! Cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gặp ghình khó đi"

Gặp ghình khó đi như thế nào, bé Vân vẫn thương lối về, thương con cầu gầy guộc, xóm giềng đìu hiu, và nhất là thương căn nhà tiều tụy, tổ ấm đã chứa chan bao tình yêu thương mật ngọt của mẹ cha.

Chị Năm, mẹ của bé Vân, cũng bằng lòng không kém. Chị thường sung sướng bảo: " Đây mới chính là căn nhà của mình" . Bao năm rồi, chị Năm ôm con theo chồng vất vả di chuyển ngược xuôi với đơn vị. Chị cũng có nhà trong trại gia binh, nhưng đó đâu phải là nhà " của mình" . Huống chi, thời gian đó, chị lúc nào cũng phập phòng lo sợ cho tánh mạng của chồng, nên đâu có phút nào vui. Anh hạ sĩ Năm bị thương rồi bị giải ngũ. Tiền lính thì đã tính liền. Vợ chồng không còn xu ten dính túi, lủi thủi về Rạch Giá tạm nương náu với gia đình bà cô. Thời may, nhờ bè bạn giới thiệu, anh Năm thuê được chiếc xích lô đạp để kiếm sống qua ngày. Nhà bà cô chật chội, anh Năm theo bạn bè đến chùa Phổ Minh, toạ lạc tại góc đường Cô Giang và Lâm Quang Ky, ngủ nhờ. Do đó, anh vô tình khám phá ra được xóm nhà sàn trên bãi biển, mà " xí" phần để cắm dùi.

Anh Năm, tuy thỉnh thoảng cũng mơ về thời quân ngũ hào hùng, nhưng thường thì anh an phận với kiếp sống lam lũ của mình. Dù gân cốt rã rời, mồ hôi nhuể nhại mà mang được tiền về cho vợ quí, con cưng là mãn nguyện lắm rồi. Vả chăng, bé Vân cũng đáng để mà cưng. Em ngoan ngoãn và biết thương yêu cha mẹ, tuy hơi nhỏng nhẻo một chút. Đã 9 tuổi đầu, Vân vẫn thường chui rúc vào lòng mẹ, ỏng a ỏng ẹo, nói đớt nói đát, đòi mẹ ru cho ngủ. Một tay mẹ xoa đầu, tay khác vỗ mông nhè nhẹ, rồi cất tiếng ru à ơ…, ví dầu…, để cho Vân lim dim " măn vú" mẹ mà đi lạc vào giấc ngủ thần tiên. Sáng nào thức dậy, vừa trở mình " ư" một tiếng, thì đã có mẹ bên cạnh, tíu tít nâng niu. Mẹ đỡ dậy, chãi đầu, đánh răng, lau mặt. Đôi khi Vân còn trận thượng, nằm thẳng cẳng để mẹ thay quần áo thì cơn nhỏng nhẻo mới đả nư. Vân mà đau một tí thì phải biết, Vân mặc sức làm tình làm tội mẹ. Vân rên nhè nhẹ để mẹ cuống quít lo âu. Vân vùng vằng không uống thuốc, không ăn cháo… để mẹ ỉ ôi năn nỉ. Có lần mẹ mắng: " Con gái hư quá!" , nhưng Vân biết mẹ mắng yêu thôi. Mẹ chẳng bao giờ nghĩ là con mình hư, mà còn khuyến khích ngầm cho Vân nhỏng nhẻo nữa kia. Thật ra, Vân biết nhỏng nhẻo cũng hư chút chút, nhưng nhỏng nhẻo thích thú lắm, Vân làm sao mà chừa được?

Với cha, dù biết được yêu thương đậm đà, Vân cũng không dám nhỏng nhẻo quá mức. Ba trầm lặng quá, không nựng nịu, ôm hôn Vân chùn chụt như mẹ. Thương lắm, ba vuốt tóc Vân nhè nhẹ, rồi dúi cho con một đồng, để Vân chạy ù ra quán " chệc" Lủ mua bánh lỗ tai heo, bánh men, hay miếng Xoài, trái cóc. Đòi quà, đòi đồ chơi mà òn ỉ với ba thì chắc ăn. Ba không bao giờ từ chối. Mẹ có cằn nhằn ba, thì ba cười dễ dãi: " Tội nó mà mình! Thôi cũng cho con mình nó có với người ta" .

Ba thừơng cho rằng ba là Phật tử lâu năm, - ba đến chùa gởi xe lấy xe hàng ngày cả năm rồi -, nên ba cũng khuyến khích vợ con đi chùa cho có phước. Ba sắm cho mẹ một áo dài, Vân cũng có quần áo mới, để ăn mặc lành lặn khi lễ Phật. Phần ba, ba chỉ độc có quần " xà lỏn" với chiếc áo nhà binh bạc màu, nhưng ba nói ba không cần đồ mới: " Tui vào chùa bằng cửa sau để bửa củi làm công quả, khi gởi xe và lấy xe thì trời đã tâm tối, thì cần gì quần áo lành lặn. Còn đạp xích lô mà bận quần áo tốt, thì thiên hạ chửi cho đó" .

Chính vì thế mà ba không có quần dài để dự lễ quy y. Nhờ thầy chu đáo cho mượn bồ đồ lam ba mới đở lúng túng. Lễ quy y đó ảnh hưởng rất nhiều đến nếp sống của ba. Ba thường nhắc nhở lời thầy dạy về giới cấm uống rượu. Rượu làm cho con người mất tự chủ. Say sưa đâu còn biết đến chánh niệm, rồi thì giới nào cũng phạm đựơc. Những thứ độc chất khác như xì ke, ma tuý, cần xa…, tuy thời Phật tại thế chưa xảy ra để đặt giới luật ngăn cấm, nhưng những thứ này, cũng làm con người mất tự chủ, lạc lỏng chánh niệm, thì cũng phải chừa bỏ như là rượu. Thuốc lá thật ra không nguy hiểm, miễn là đừng để quá ghiền mà lảng quên chánh niệm thời thôi. Ba nói ba không hiểu chánh niệm là cái gì? Nhưng ba là Phật tử thuần thành, ba nghe lời thầy bỏ rượu, bỏ thuốc hút. Vả chăng, ba nói: " Thầy dạy thời giờ uống rượu, hút thuốc… là thời giờ lảng quên hiện tại, mà tui thì tui đâu muốn lảng quân con gái cưng của tui" .

Tiền để dành được, do việc cai rượu và thuốc, ba " cất ca cất củm" mấy tháng trời, rồi đưa hết cho Vân và bảo: " Con đi cúng dường cho có phước" . Biết ba " ăn gian" , muốn dành hết phước cho con, chớ không giữ gì cho ba, Vân bỏ tiền vào thùng phước sương, rồi lâm râm khấn vái: " Phật ơi! Tiền này là của ba con. Xin Phật ban phước cho ba. Kiếp sau ba có nghề nào khá khá một chút, chớ còn đạp xích lô hoài, khổ cực lắm…" .



***



Ngày chúa nhựt, Vân thường lân la đến chùa, len lén nhìn sinh hoạt Gia Đình Phật Tử. Những em bé trạc tuổi Vân, quần áo xinh xắn, ca hát, nhảy múa, nô đùa thật là vui. Vân thèm thuồng quá!

Một chị huynh trưởng, có lẽ thấy Vân mê mang, đờ đẩn, nên ngoắt lại, rồi mời mọc:

Em cưng! Em thích sinh hoạt không? Vào đây chơi vơi chị. Em nhé!
Vân vừa e thẹn, vừa mừng rỡ, rụt rè đến bên chị. Sau buổi sinh hoạt sơ khởi, Vân tung tăng về nhà, reo vang:

Ba ơi! Nghe con hát nè:

" Xin ba má con chừa!
Con không dám vui đùa
Với những kẻ hư thân
Mà ba má hổng có ưa…"

Hay lắm! Hay lắm! – Ba vổ tay – Ai dạy con đó?
Thưa ba chị Diệu Lý, đoàn trưởng Oanh Vũ dạy tụi con đó. Ba cho con gia nhập Oanh Vũ nghe ba?
Tốt lắm!
Chị Diệu Lý nói con phải có đồng phục Oanh Vũ thì mới sinh hoạt được.
Má lên tiếng – bồ đồ đầm đó mắc lắm! Thôi tham gia Phật tử Phật tôn làm gì?
Chị Diệu Lý nói đồng phục rẻ rề hà! – Vân năn nỉ –
Rẻ với người ta kìa. Còn mình nghèo thì sắm sao cho nỗi?
Thôi mà mình! – Ba ôn tồn – Tội nghiệp cho con! Nghèo thì cũng rán cho con có đồng phục như con người ta!"

Thời gian Oanh Vũ quả là thời gian thần tiên. Vân được các anh chị huynh trưởng thương yêu, chăm sóc, vừa được dạy dỗ giáo lý, vừa được hướng dẫn vui chơi. Anh chị lại hy sinh chăm sóc cả việc học hành, thi cử của các em. Nhờ thế, vừa học xong tiểu học năm 12 tuổi, Vân đã đỗ ngay vào trung học Nguyễn Trung Trực dễ dàng. Nỗi mừng của ba thật bất tận. Ba khen, ba thưởng Vân đủ thứ. Tuy còn lâu mới tụ trường, ba đã mua sắm đầy đủ cho con: quần áo nữ sinh đồng phục, giầy dép, tập vở, bút mực…

Vân lại được huynh trưởng cho chuyển lên ngành thiếu. Dĩ nhiên, ngành thiếu hấp dẫn vô cùng, Oanh Vũ nào mà lại không ước mơ.

Ba ơi! Ba ơi! Con được chuyển lên ngành thiếu rồi! – Tiếng của Vân mừng rơn làm ba vui lây. Ba phụ họa:
Con ba giỏi quá!
Thật ra, đủ tuổi thì chuyển ngành chớ con ba có giỏi gì đâu, nhưng Vân không đính chánh. Em sẽ gần ba ỏng ẹo:

Mờ! Con cần có áo dài đồng phục của ngành thiếu. Ba à!
Chuyện ấy dễ mà!

Bỗng nhiên Vân nhìn ba. Mấy thuở mà Vân có dịp nhìn ba thật kỷ đâu. Vân thấy ba độ rày đen và gầy gò quá. Thỉnh thoảng ba lại ho nũa. Vân thương quá, không muốn " vòi vỉnh" ba điều gì hết.

Mà thôi ba à! Chầm chậm lúc nào cũng được. Con mặc đồng phục Oanh Vũ đỡ vậy!
Tầm bậy! Con lớn rồi. Phải có áo dài chớ con!

Tuần sau, khi Vân hí hửng đến nhà chị thợ may trong xóm lấy áo lam về, thì thấy mẹ vừa tiễn anh Minh Tâm, Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử ra khỏi nhà. Mắt mẹ buồn hiu làm Vân cụt hứng không khoe được áo dài mới. Vân lại thắc mắc không biết đã có lầm lỗi điều gì, để anh Minh Tâm đến gặp mẹ trách móc không? Vân lăn xăn hỏi mẹ nhưng mẹ chỉ lắc đầu. Vân không hiểu biến cố nào đã khiến mẹ như kẻ mất hồn, mắt đăm đăm nhìn về biển khơi xa xôi mà nước mắt rưng rưng.

Tối đến, ba về nhà – Ba về trễ, thường thì Vân đã ngủ say, nhưng hôm đó băn khoăn về ưu tư của mẹ nên còn trằn trọc -, có lẽ ba khám phá ngay sự khác lạ của mẹ:

Má nó có gì buồn vậy?

Im lặng.

Tui có làm điều gì bậy đâu? Sao má nó lại khóc? – Ba lo lắng bồn chồn-
Mấy tuần nay Ông mang về mấy lần 500 đồng. Tiền ở đâu mà có như vậy?
Tưởng chuyện gì! Tui nhận mối tháng rồi người ta trả trước vậy thôi! Tui có trộm cắp của ai mà má nó quính quáng vậy?
Tui hổng tin
Tui thề đó!
Đừng có thề ẩu! Tiền đó là tiền bán máu. Hồi chiều Bác sĩ Minh Tâm – anh Minh Tâm thật ra là cán sự y tế – ghé ch tui biết sự thật hết trơn rồi.
Máu dư thì cho bớt chớ có nhằm nhò gì!
Nhằm lắm chớ. Bác sĩ nói lâu lâu cho máu một lần thì được, chớ bán máu hà rầm như Ông thì chết sớm. Mà! Tui không biết tại sao Ông làm như vậy chớ?
Thì tui cũng muốn má con bà, cũng có cái này, cái kia như vợ con người ta.
Tui hổng chịu! Tui hổng cho ông bán máu. Thiếu tiền thì rán tiện tặn, chớ tui nói thiệt. Nếu ông bán máu một lần nữa, thì tui cho con Vân nghỉ học, để hai má con tui đi ở đợ cho người ta…
Nói tầm bậy.
Ba chồm dậy la lớn. Rồi im lặng hồi lâu, mà vẫn nghe tiếng mẹ khóc thút thít, ba nhỏ giọng gượng gạo:

Mà tui không bán máu nữa. Tiền tui đạp xích lô cũng dư sức nuôi hai mẹ con bà mà…
Vân nằm yên, xoay mặt vào vách, nước mắt ràn rụa, mà vẫn gắng dằn để khỏi bật thành tiếng nức nở, vì Vân nghĩ, nếu ba biết Vân nghe rõ mọi chuyện, ba sẽ khổ hơn nhiều.

Nhưng hàng năm, chùa Phổ Minh tổ chức lễ Vu Lan thật long trọng. Với chủ đề " Một bông hồng cho mẹ" , bài thuyết pháp của thầy thật hay, thật cảm động, làmcho nhiều người rơi nước mắt. Vân sung sướng đón cánh hoa hồng màu đỏ sẽ gắn lên ngực em. Em hãnh diện còn mẹ và được sống trong tình thương của mẹ. Bất ngờ, chị Diệu Lý vụng về đâm cây ghim vào ngón tay Vân. Vân đau nhói, khẻ kêu " ui da" . Một giọt máu điểm trên chiếc áo dài lam làm Vân rùng mình, rởn óc. Vân chợt nhớ đến ba. Em tự hỏi ba đã đổ bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu mồ hôi cho chiếc áo lam này, cho cuộc đời của em. Nước mắt Vân long tròng, làm cho chị Diệu Lý luống cuống, xuýt xoa xin lỗi.

Chị! Em không đau đâu! Em khóc vì nhớ ba thôi!
Vân ấp úng rồi lẩn tránh ra cổng. Tình cờ, Vân thấy ba đứng bên cạnh chiếc xích lô gần đó. Ba chực hờ rước khách, vừa ngóng nghe thời pháp.

Ba ơi! Con đã có bông hồng cho má. Con muốn có một bông gì tượng trưng cho ba nữa!
Bông tượng trưng cho ba thì… ơ, ơ, bông bậy bạ gì chả được. Để ba tìm cho con.
Ba đến bồn bông trước cổng chùa, vừa định hái đóa bông " Tí Ngọ" thì dừng lại, - có lẽ ba thấy bông tí ngọ tức bông mười giờ, chưa tối đã khép ngủ, sáng bét mới chịu nở ra, thật là nhàn nhã không hợp với ba – ba ngắt một cánh bông dừa màu đỏ, bông bình dị, dãi dầu mưa nắng như cuộc đời của ba. Vân sung sướng đón bông dừa, trang trọng cài lên áo. Nhìn ba rồi nhìn cánh bông dừa mong manh, tự nhiên Vân cảm thấy sợ hãi bang quơ. Ba vô tình không biết, lên tiếng:

Thầy thuyết pháp về tình mẹ hay quá! Nghe lời thầy, con hãy về nhìn má con, rồi nói là con thương má thật nhiều….
Dạ! Con sẽ nói với má như vậy.
Rồi, Vân lặng yên nhìn ba thật kỷ, cảm thấy thương yêu dâng tràn. Em nhỏ nhẹ:

Ba ơi! Con muốn nói với ba điều này!
Gì đó con!
Ba có biết rằng con hãnh diện la con của ba, và con rất thương ba không?
Rồi Vân ôm chằm ba và khóc như mưa. Ba cũng ôm Vân và ba cũng khóc. Những giọt nước mắt thương yêu của ba đã nhỏ ấm trên bờ vai của em.

Lần lần, Vân hiểu Vu Lan là mùa báo hiếu cho cha và mẹ. Sau này, dù vị trí của người cha có bị ban tổ chức đại lễ lãng quên hay làm lu mờ, thì Vân vẫn nhớ đến cha. Em âm thâm cài cho em một bông dừa đỏ, bên cạnh bông hồng. Em hãnh diện về tình yêu thương của cha lẫn mẹ đã dành cho em.



***



Biến cố thương đau năm 1975 làm đảo lộn nếp sống bình thường. Thầy Phổ Minh bị kiểm soát gắt gao, rồi bỗng nhiên mất tích. Anh Liên Đoàn Trưởng Minh Tâm đi học tập, rồi Gia Đình Phật tử tự đình chỉ sinh hoạ. Nhiều gia đình bè bạn đã tan nát thương đau. Giới xích lô nhất thời sinh sống được, nhưng cũng kiệt quệ dần. Qua năm sau, thì ba thất nghiệp, vì chủ xe xin lấy xích lô lại để tự nuôi thân. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, thì anh Minh Tâm đi học tập về. Anh ra vốn cho ba đứng tên mua một chiếc tàu một bloc máy để đánh cá ven biển. Hoa lợi sẽ chia đều cho hai gia đình chung sống. Đó là loại tàu nhỏ không vượt biên được nên ít bị công an doom ngó, nhờ vậy, rất tiện để xử dụng như một thứ taxi, nhận người ở đất liền để chuyển giao ra tàu lớn giả dạng đánh cá ngoài khơi. Một tổ chức vược biên móc nối thuê ba với điều kiện tiền bạc hậu hỷ, nhưng ba chọn giải pháp hợp tác miễm phí để đưa vợ con và gia đình anh Minh tâm cùng vượt biên.

Mọi việc đều diễm biến tốt đẹp. Chỉ với bốn ngày hành trình, chiếc tàu 72 người Việt tị nạn đã cặp bean Trengganu, Mã Lai. Sau hai ngày chờ đợi, cả nhóm được di chuyển đến trại tị nạn chánh thức Pulau Besar. Hòn đảo Pulau Besar cách đất liền bằng một con rạch nhỏ, được Phủ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thường xuyên thăm viếng, nên việc quản trị rất thoải mái. Người dư tiền, có thể sang ngay một chỗ cư trú, qua sông đi chợ hàng ngày, hay thuê taxi đến tỉnh;n chơi phung phí thỏa lòng. Kẻ nghèo thì phải chấp nhận vất vả. Khẩu phần ăn tuy được trợ cấp tạm đủ, nhưng chổ ở, nhu cầu cần thiết khác thì phải tự lo liệu lấy. Do đó, để tránh cảnh tạm trú trong hội trường trống trải, anh Minh Tâm và ba, đã tức tốc vào rừng đốn cây, đốn lá để đựng hai cái lều nhỏ, rồi đến giừơng chỏng, bàn ghế thô sơ. Sau đó, ba lại đi làm công dựng nhà cho những kẻ khác, để có tiền sắm sửa vài bộ quần áo thay đổi cùng vài chi tiêu lặt vặt cần thiết khác. Ba làm việc quá cần cù mẹ ngăn cản khuyên lơn ba nghỉ ngơi, thì ba than thở: " Không đạp xích lô, thì tui phải kiếm việc gì làm. Chớ ở không hoài, thì tui buồn không chịu nỗi!"

Có lẽ ba buồn thật, ba thường lang thang một mình, thẩn thờ như kẻ mất hồn, rồi thỉnh thoảng lại chép miệng thở dài: " Không biết đến xứ người, làm sao tui nuôi nổi vợ con đây?" . Chẳng biết có phải vì khí hậu, vì điều kiện vệ sinh hay vì buồn lo hành hạ, mà sức khoẻ của ba ngày càng sa sút. Qua đảo mới 6 tháng, mà ba hom hem già đi hàng mười tuổi. Ba lại ho nữa. Ba ho từng cơn rũ rượi làm đau xoáy cả ruột gan Vân. Năn nỉ ba đi khám bệnh thì ba phản đối. Ba quả quyết ba vẫn khoẻ mạnh. Cho đến một hôm, sau cơn ho dữ dội, ba ộc từng ngụm máu tươi, rồi ngất xỉu. Ba được đưa đến bệnh viện Trengganu điều trị. Bệnh viện cho biết ba bị lao phổi đến thời kỳ thứ ba, nhưng họ chỉ có thể cho nằm bệnh viện 2 tuần, rồi cung cấp thuốc để về đảo tự tịnh dưỡng. Bệnh nặng, mà điều kiện sinh sống ở trại lại khắc nghiệt, cực khổ thì sức khoẻ thật khó lòng khôi phục.

Trại tị nạn ngày càng đông dân số, vì người đi định cư thì ít, mà số vượt biên lại quá nhiều. Khi nhân số của trại tăng lên đến năm ngàn người, thì trại không nhận người mới vì sẽ đóng cửa. Để giải quyết tình trạng đó, chánh quyền Mã Lai khuyến khích các phái đoàn quốc gia đệ tam đến trại phòng vấn và nhận cho định cư hàng loạt. Những gia đình khác vượt biên chung tàu, đều đã được tuyên thệ, nhưng không biết nguyên nhân gì, mà gia đình Vân, một gia đình thương binh thuộc thành phần ưu tiên, thì không phái đoàn nào hỏi han đến. Mới đây, phái đoàn Hoa Kỳ, tuyên bố chấp nhận tất cả những dân tị nạn vượt biên đến trước ngày 31-12-78, nhưng gia đình Vân lại cũng bị bỏ rơi. Vân khiếu nại và chứng minh mình đã đến trước thời điểm đó hằng 6 tháng, thì họ trả lời có lẽ hồ sơ bị thất lạc, nên sẽ cứu xét sau.

Từ lâu, dân trại xầm xì rằng bệnh tình của ba là nguyên nhân để các nước tránh né. Ai mà lại mang con bịnh về để lay cho dân họ. Luận điệu đó ngày càng có người phụ họa, để bàn tán xôn xao. Vân lo ngại điều đó sẽ lọt vài tai ba, khiến ba thêm khổ sở. Nhưng tránh né thế nào cũng có lúc ba nghe. Ba buồn rầu héo hắt. Ba than vắn thở dài " Tui mà chết, chắc vợ con tui mới hết khổ" . Vân bụm miệng ba khóc lóc năn nỉ" : Ba phải sống với con! Ba ơi!" .

Rồi đến lượt gia đình anh Minh Tâm đi định cư. Đưa tiễn anh rời trại, Vân cảm thấy bối rối nôn nao. Em vừa buồn xa một người anh cả bao che, chăm sóc, vừa phân vân cho tương lai vô vọng của mình. Anh Minh Tâm kéo Vân đứng riêng một góc để dặn dò:

Vân à! Em có biết rằng ba em đã thường bán máu để lo cho gia đình không?
Dạ biết! Nhờ anh thông báo nên má em mới ngăn chặn ổng được.
Em lầm rồi! Ba em vẫn tiếp tục không kể đến thân mạng của ông. Nhưng ổng năn nỉ anh dấu diếm dùm, vì nếu không lo được cho vợ con thì ông cũng sẽ tự tử cho rồi!"
Anh Minh Tâm đi rồi mà Vân vẫn còn ngồi khóc một mình. Thương ba vô vàn, mà không có phương cách nào giúp cho ba vơi khổ, giúp cho ba hết bịnh. Gần đây, ba thường dặn dò Vân thương mẹ và lo lắng cho mẹ. Thì ra, ba đã nghĩ đến giải pháp biệt ly. Vân thầm nhủ: " Ba ơi! Con sẽ ở cạnh ba hoài. Không đi định cư một mình đâu?"

Vân có ý định bày tỏ cho ba hiểu rõ lòng mình, nhưng suy nghĩ hoài Vân vẫn thấy khó mở lời. Vân ngần ngại không dám nhắc đến những chữ: bệnh hoạn, định cư, phái đoàn…, mà phản ứng gợi cho ba niềm khổ sầu bất tận. Vì vậy, mà Vân trằn trọc, giất ngủ đến thật chậm và thật nặng nề.

Khi Vân thức giấc thì trời đã sáng. Cảnh trầm lặng của trại, bỗng bị phá tan bởi những tiếng ồn ào, tiếng người chạy rầm rộ. Có tiếng ai la lớn: " Trời ơi! Có người treo cổ trong rừng! Ghê quá!" . Bỗng nhiên Vân linh cảm nạn nhân là ba: em phóng chạy theo những kẻ hiếu kỳ, chạy như điên không kể gì đến gai gốc gạch nát mặt mày, tay chân em. Rõ ràng là ba. Ba treo tòn ten trên nhánh cây, chết thật là thê thảm. Trên ngực ba, ba ghim lá đơn thỉnh nguyện cho vợ con một chỗ dung thân. Tờ giấy phảng phất như một bản án tử hình dành cho kẻ phạm trọng tội: " Tôi thương vợ con" .



***



Không bao lâu thì Vân và mẹ được định cư ở Hoa Kỳ. Phải mất vài năm để ổn định cuộc sống, bây giờ, thì Vân đã trưởng thành, có nghề nghiệp vững chắc, tự tin và yêu đời. Giống như những con chim lẻ bạn, rồi cũng tìm về quây quần bên nhau. Vân bắt đầu thăm dò những tổ chức Gia Đình Phật Tử để về sinh hoạt. Nghiệp trưởng cũng đeo đuổi anh Minh Tâm. Anh đã hao tốn bao tâm huyết để khởi xướng và xây dựng được một Gia Đình Phật Tử hùng mạnh tại một ngôi chùa Việt Nam ở Los Angeles. Nghe tin, Vân vội vã đưa mẹ đến tìm anh. Tình cờ, Vân đã đến chùa đúng vào đại lễ VU LAN. Lễ Vu Lan tổ chúc thật long trọng và thật cảm động, với những biểu ngữ, những bài pháp, những hình ảnh, tô đậm tình mẹ. Vân sung sướng đón nhận bông hồng màu đỏ, sung sướng còn mẹ và được sống trong tình thương bao la của mẹ. Bất chợt Vân nhớ đến người cha bất hạnh, nàng ngậm ngùi ước ao có một đoá bông dừa màu trắng cho người. Vân lặng lẽ đến các bồn hoa trong khuôn viên chùa lục tìm. Nàng chỉ thấy nơi này toàn là những loài hoa quyền quí, cao sang, chớ đâu có các loài hoa bình dị, quê mùa, mộc mạc, nôm na… như bông dừa, như mống tay, sao nhái, mồng gà của xứ mình.

Trong làn nước mắt nhạt nhòa, Vân bỗng thấy bón cha lờ mờ trong bộ y phục phu xích lô cũ kỹ. Nàng thổn thứ lập lại lời đối thoại 7 năm về trước: " Ba ơi! Con muốn có một bông gì tượng trưng cho ba đó" . Ba nàng cúi xuống, ngắt một cánh bông dừa màu trắng trao cho nàng. Đoá bông mảnh khảnh mong manh quá, nàng chưa kịp cài lên áo, thì đã vỡ tan theo ảo ảnh cha nàng

2129




ở một làng nọ, có một đôi trai gái thầm yêu trộm nhớ nhau, nhưng chưa dám ngỏ lời. Anh con trai vốn tính nhút nhát và rất ít nối. Cả một thời gian dài cô gái cứ chờ mãi bạn trai của mình vẫn chưa tỏ tình, mặc dù qua ánh mắt của anh, cô dã hiểu cả.
Cho đến một đêm rằm, trăng sáng vằng vặc, cô gái chủ động rủ người bạn trai ra bờ đê ven sông ngồi tâm sự. Phong cảnh hữu tình, gợi cảm mà người yêu vẫn chẳng nói gì. "Nói đi anh!" cô gái thầm nghĩ. Vẫn im. Cô gái đành gợi ý:
- Trăng hôm nay sáng quá, anh nhỉ?
Lúc này chàng trai mới cất tiếng:
- Rằm mà lị!
Rồi lại ngồi in như thóc!

402




Sử cũ chép: Trần Thì Kiến tính người cương trực. Trước làm môn khách cho Hưng Đạo Vương, sau được Vương tiến cử lên làm An phủ sứ Thiên Trường. Một hôm, có người hương nhân đem biếu mâm cỗ, Kiến hỏi muốn nhờ vả gì thì người ấy nói chỉ vì kính trọng mà biếu. Nhưng mấy ngày sau người hương nhân kia quả nhiên có việc nhờ vả, An phủ sứ bèn móc họng nôn ra nguyên mâm cỗ.

Chuyện nay: Có ông nọ tên Trần Trụi Lủi, trước làm thư ký uỷ ban, sau vì có đi học tại chức ban đêm lấy được cái bằng Đại học nên dần dần leo lên chức chủ tịch xã. Một hôm, có người mang đến chai rượu ngoại cùng mấy món đồ nhắm hảo hạng. Trụi lủi hỏi biếu vì cớ gì thì người kia đáp: “Không có ý gì, chỉ là mừng anh được thăng chức công bộc cao hơn”. Trụi Lủi cả mừng bảo vợ bày mấy món ấy ra rồi khui rượu để cả hai “trăm trăm”. Đang ăn, quả nhiên người kia có việc nhờ vả, khi ông khách đang nhỏ nhẹ trình bày thì chủ nhà móc họng, mửa ra toàn bộ những gì vừa nuốt vào, sau đó chửi mắng thậm tệ và đuổi khách thẳng cổ. Khách đi rồi, chủ tịch xã phu nhân mới hỏi chồng:

- Không giúp người ta thì thôi, việc gì phải làm vậy?

- Phải cương... quyết... - Lủi chém tay vào không khí.

- Bất quá tôi mua mấy thứ đó trả lại người ta là được chứ gì?

Trần Trụi Lủi bực mình quát tướng lên:

- Bà thì biết cái quái gì! Thằng ngu ấy mua nhầm rượu rởm, đồ nhắm hết “đát”, tôi từng nhiều lần tiếp khách ở nhà hàng nên nuốt qua là biết liền. Không cương quyết móc họng thì chết không kịp ngáp à?
1337




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Nước Thu


Nước thu dưng, trăm rạch đổ vào sông to. Lòng sông rộng cho đến đứng bờ nọ ngóng bờ kia không sao phân biệt được bò với ngựa.

Thấy vậy, Hà Bá đắc ý cho cái đẹp trong thiên hạ chưa còn ai hơn mình. Thuận dòng theo hướng Đông đi tới biển Bắc ngoảnh lại hướng Đông, không thấy mé.

Hà Bá mới than với Hải Thần:

"Tục ngữ có câu: Kẻ biết ít cho không ai bằng mình. Lời nói ấy, để nói tôi là phải. Tôi thường nghe chê chỗ thiếu học của Trọng Ni, nghe khinh cái lòng Nghĩa của Bá Di mà tôi không tin. Nay thấy chỗ vô cùng của Ngài, nếu tôi không đến cửa Ngài mà thị giáo, các nhà đại phương ắt sẽ chê cười tôi"

Thần Hắc Hải nói:

"Cùng ếch giếng không thể nói biển đặng: Nó chỉ biết có cái hang nó mà thôi. Cùng côn trùng mùa hạ, không thể nói băng tuyết đặng: Nó chỉ biết có cái mùa của nó mà thôi! Cùng bọn khúc sĩ không thể nói Đạo đặng họ bị trói buộc trong giáo lý của họ. Nay ông ra khỏi lòng sông, thấy biển cả mà biết xấu hổ. Vậy thì, nói đạo lý với ông được.

Dưới trời, nước không đâu nhiều hơn biển. Đó là nơi muôn sông chảy về, không biết bao giờ thôi, mà không hề đầy, rồi nước biển lại chảy vào các sông không biết bao giờ ngưng mà không hề vơi. Xuân, Thu chẳng biến đổi nó, mà thủy hạn nó cũng chẳng cần biết đến làm gì. Hơn rạch sông không biết lượng số nào mà kể, mà ta chưa từng cậy đó là nhiều, là vì tự sánh với Trời Đất, Âm Dương, thì ta có khác nào một viên đá nhỏ, một gốc cây gầy trong dãy núi to. Đã rằng là ít, sao thấy mình nhiều? Bốn biển ở trong Trời Đất phải chăng cũng chỉ là những hang nhỏ ở trong đầm lớn hay sao? Trung Quốc nằm trong bốn biển cũng chẳng giống hạt lúa ở trong kho lớn hay sao? Vạn vật, lấy số muôn mà nói, thì người chỉ được một số mà thôi! Lấy chín châu, nơi lúa thóc sinh sản toàn xe thông hành, thì người cũng không qua số một. Vậy, người đối với vạn vật, khác nào một sợi lông trên mình ngựa. Chỗ liên hiệp của Ngũ Đế, chỗ tranh giành của Tam Hoàng, chỗ lo lắng của người nhân, chỗ nhọc nhằn của kẻ sĩ, rốt lại có gì! Bá Di từ ngôi, lấy đó là danh, Trọng Ni nói ra, gọi đó là rộng. Những cái mà họ cho rằng nhiều đó, thì có khác nào người trước khi thấy biển, cho rằng nước của mình là nhiều vậy"

Hà Bá nói:

"Vậy, tôi cho Trời Đất là cực đại, mảy lông là cực tiểu, được không?"

Thần Bắc Hải nói:

"Không được! Kìa như muôn vật biến hóa không cùng, thời gian đi mãi không dừng, số phận dời đổi không thường, trước sau liên tiếp không thôi. Ấy nên bậc đại trí xét việc xa gần, thấy nhỏ không cho là ít, thấy lớn không cho là nhiều, đó là biết được chỗ biến vô cùng. Luận qua kim cổ, thì việc đã qua không ưu tư, việc đương thời không bận lòng: Đó là biết được chỗ không dừng của thời giờ. Xét việc lưng vơi, thì được không vui, mất không buồn: Đó là biết được chỗ thông thường của số phận. Thầy đặng như vậy thì sống không mừng, chết không lo: Đó là biết được chỗ trước sau liên tiếp không ngừng vậy. Chỗ biết của người, không bằng chỗ họ không biết. Thuở sinh ra không bằng thuở chưa sinh. Muốn lấy chỗ cực tiểu của mình mà cần hiểu tận chỗ cực đại, là mê loạn, là ngu xuẩn. Như thế, làm sao biết được cái lông đủ để làm mẫu của cái cực tiểu, làm sao biết Trời Đất đủ để làm cái mẫu của cái cực đại?"

Hà Bá hỏi:

"Luận giả trong đời đều nói: Một vật rất tinh, thì vô hình, một vật thật lớn, thì không thể bao gồm được. Có phải thực vậy không?"

Thần Bắc Hải nói:

"Tự nhỏ mà xem lớn, làm sao thấy hết đưỡc! Tự lớn mà nhìn nhỏ, làm sao thấy rõ rệt được! Tinh, là cái nhỏ thật nhỏ, thật lớn là cái lớn rất lớn vậy. Cho nên, phương tiện dùng phải khác nhau. Tinh và thô là để nói về những vật hữu hình: Còn vật vô hình thì con số không phân chia được nữa. Không thể bao gồm được, là vật vô cùng mà con số không hạn định được. Cái mà còn luận được, nói được, là cái thô của vật. Cái mà ý xét được, là cái tinh của vật. Nhưng còn cái mà lời không thể luận, ý không thể xét, là bởi nó không phải tinh mà cũng không phải thô.

Thế nên, bậc đại nhân hành động không gây hại cho ai mà cũng không ân huệ cho ai. Động không vì lợi, không coi kẻ canh cửa là hèn. Không vì tiền của mà tranh, cũng không lấy sự tự nhượng làm quý. Công việc thì không nhờ vả vào ai, cũng không khinh kẻ tham lam. Hạnh thì khác người thế tục, nhưng chẳng chuộng sự khác lạ, và làm theo đám đông, không khinh người siểm nịnh. Tước lộc của đời không đủ khuyến, hình phạt không đủ nhục, bởi họ biết phải trái không chỗ phân, lớn nhỏ không chỗ định. Nghe nói rằng: Người có đạo thì lặng lẽ, bậc chi đức thì không mong đặng gì cả, còn người đại nhân thì không có mình: Họ đã hợp tất cả làm một"

Hà Bá lại hỏi:

"Nhờ đâu mà phân biệt được chỗ trong ngoài, chỗ quý tiện, chỗ lớn nhỏ của vật?"

Thần Bắc Hải nói:

"Lấy con mắt Đạo mà xem, thì vật không có quý, tiện. Lấy vật mà xem, thì vật có quý có tiện, vì bởi vật nào cũng tự xem là quý, nên khi sánh lại với vật khác thường cho đó là tiện. Lấy con mắt của thế tục mà xem thì sự phân quý tiện lại không phải ở nơi mình. Lấy con mắt sai biệt mà xem, thì nhân cái lớn của nó mà cho là lớn thì vạn vật không có cái gì là vạn vật không có cái gì là không nhỏ. Biết Trời Đất như hột thóc, biết mảy lông như hòn núi là biết rõ chỗ sai biệt rồi vậy. Lấy theo chỗ công ích mà xem, nhân cái có của nó mà cho là có thì vạn vật không gì là không có, nhân cái không của nó mà cho là không, thì vạn vật không gì là không. Biết Đông Tây là nghịch nhau mà không có nhau không được, thì là biết phân định sự công dụng rồi, lấy chỗ ưa thích mà xem, nhân cái phải vậy của vật này mà cho nó là phải, thì vạn vật không vật gì là không phải, nhân cái không phải vậy của vậy này mà cho nó là không phải, thì vạn vật không vật nào là không phải... Biết Nghiêu và Kiệt đều tự cho rằng mình là phải mà cho nhau là quấy, đó là rõ được cái cốt của sự ưa thích rồi! Xưa kia Nghiêu Thuấn nhường ngôi nhau mà làm vua, còn Chi và Khoái cũng nhường nhau mà phải mất. Thang Vũ tranh nhau mà được nước, Bạch công tranh nhau mà phải chết. Do đó mà xem, trong lễ tranh nhượng, trong hành động của Nghiêu Kiệt, quý tiện tùy th
ời, chưa lấy đâu làm mực th% C6?ờng được. Cái lương lê dùng phá thành, không dùng mà lấp hang được: Khí cụ khác nhau. Kỳ, Ký, Hoa, Lưu một ngày chạy nghìn dặm mà không bắt chuột như mèo: Tài năng khác nhau. Chim cú đêm mắt tỏ đến bắt rận được, mà ban ngày gò núi sờ sờ không thấy: Tính khác nhau. Nên chi, muốn có phải mà không có quấy, muốn có trị mà không có loạn là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, cái Tình của Vạn Vật. Ấy là mơ Trời mà không có Đất, mơ Âm mà không có Dương đó.

Vậy mà cứ bàn mãi mà không thôi, thì rõ nếu không phải là ngu, thì là vu khống vậy! Đế Vương tranh nhượng, hễ sái thời nghịch tục thì gọi là soán, còn nhằm thời thuận tục, thì gọi là nghĩa. Hà Thần này! Hãy lẳng lặng mà xét lại, sẽ thấy rõ đâu là cái gốc của Quý Tiện, của Lớn Nhỏ

Hà Bá hỏi:

"Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ, phải đừng làm gì bây giờ? Tôi phải từ, phải thận, phải ưa, phải bỏ cái gì, tôi phải làm sao đây?"

Thần Bắc Hải nói:

"Lấy con mắt Đạo mà xem thì có gì là quý, là tiện, đó chỉ là chuyện phản phúc biến thiên đáp qua đáp đổi lại, đừng bận lòng câu chấp đến. Lấy Đạo Lớn mà xem thì có gì là ít, là nhiều, đó chì là chuyện cho ra lấy vào, cũng đừng phải bận lòng. Cùng với đạo sai biệt, thì nghiêm trị như một quốc quân không tư đức, tự nhiên như tế thần xã mà đừng cầu phúc riêng tư. Lòng mênh mông như cái vô cùng của bốn phương, không phân bờ cõi. Ôm chầm tất cả vạn vật, không thiên về phương nào! Muôn vật đều là nhất tề, cho nên có gì đâu là dài ngắn. Đạo thì không sau, không trước, vật thì có chết có sống, đừng trông cậy nó ở lúc thành tựu. Một vơi một đầy: Không hình thức nào đứng vững mãi. Không ai thêm được tuổi, không ai chận được thời. Khi tăng khi giảm, khi đầy khi vơi nối tiếp nhau luôn: Có sau ắt có trước. Đó là lấy cái phương của đại nghĩa mà nói, lấy cái lý của vạn vật mà luận. Mạng sống của vạn vật như ngựa chạy mau lẹ: Không có cái động nào mà không có biến, không phút nào mà không dời đổi. Phải làm đi gì? Phải không làm đi gì? Hãy để cho vạn vật tự nhiên mà tự hóa!"

Hà Bá hỏi:

"Sao gọi là Trời? Sao gọi là Người?"

Thần Bắc Hải nói:

"Ngựa bò bốn cẳng, đó là Trời, ràng đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là Người. Bởi vậy mới nói: Đừng lấy Người giết Trời, đừng lấy nhân tạo mà giết mạng, đừng lấy sự được mất mà chết theo danh. Cẩn thận mà giữ gìn đừng làm mất, đó gọi là "Trở về cái Chân của mình".

Lời bàn:

Đây có thể gọi là một bài văn u mặc tối thượng thừa kiểu mẫu của Trung Hoa trong đó gồm được tất cả những yếu tố độc đáo của văn u mặc mà có nhiều người cho là "khinh thế ngạo vật". Một lối cười độc đáo mà trang nghiêm, lên án mà không lên án ai cả. Dù là người hùng biện đến đâu cũng không sao dùng sự hùng biện của mình mà tự bào chữa cho nổi.

Hay nhất là Trang đã biết dùng đến những hình ảnh vô cùng khêu gợi để ám chỉ những con người có cái nhìn phiến diện lại tự tôn tự đại với cái hiểu biết vụn vặt chi ly của mình. Vì người đắc Đạo như Hải Thần, còn người có cái nhãn kiến nhị nguyên với lối nhìn phiến diện một chiều một mặt như Hà Thần thật là tuyệt diệu! Những danh từ như "khúc sĩ", "ếch nằm đáy giếng" lại càng khêu gợi hơn nữa.

Trong một đoạn văn khác, Trang đã lên án bọn "khúc sĩ" này là nguồn gốc của ly loạn. Bàn về cái loạn của thời Chiến quốc, Trang viết: "... Trong thời thiên hạ đại loạn, bậc hiền thánh sống trong bóng tối, không còn gì nhất trí trong đạo đức học thuật nữa. Phần đông sống trong những ý kiến cá nhân, riêng tư độc đoán hết sức rời rạc. Cũng như tai, mắt, mũi, miệng... mỗi cơ năng chỉ nhận thức được trong khu vực hạn chế của quang năng mình thôi, thiếu sự thống nhất nhận thức với nhau. Bách gia chư tử với những kỹ thuật của riêng mỗi nhà cũng thế. Mỗi nhà đều hay đều giỏi trong đường lối chuyên môn của mình, tất cả tuy đều hữu dụng trong một lúc nào đó thôi, nhưng họ thiếu sự gồm nắm, thiếu luồng mắt thống quan, nên họ chỉ là bọn khúc sĩ mà thôi. Họ là bọn người cắt vụn vũ trụ ra từng khúc, đẽo sự lý của vạn vật ra từng mảnh. Ít kẻ biết nới rộng nhãn quang của mình để nhìn thấy cái đẹp chung hầu xứng với cái chân tướng của Thần mình. Bởi vậy cái đạo (nội thánh ngoại vương) trở nên tối mà không sáng, uất mà không nẩy. Thảy đều làm theo điều mình muốn, lấy mình làm phương thức chung cho tất cả mọi người... Ôi! Đạo thuật đã bị thiên hạ xé nát!"

Đoạn chót, khi Trang giảng về cái đạo hữu vi (nhân vi) và cái đạo vô vi (thiên vi) bằng một hình ảnh hết sức bất ngờ táo bạo: Ngựa bò bốn cẳng, đó là Trời, ràng đầu ngựa, xỏ mũi bò đó là Người!", không rõ ta có nên cười hay nên khóc? Quả là "đề tiếu giai phi"!
548


Powered by Blogger.