Cô ấy vẫn thường vuốt tóc
Nghiêng đầu nhìn vụt sang tôi
Hai đứa học chung một lớp
Mà sao chẳng nói nên lời

Em ơi đừng nhìn như thế
Khung trời xanh thật là xanh
Ngại gì mà em e lệ
Mắt anh em cứ thẳng nhìn

Và tôi cũng thường vuốt tóc
Nghiêng đầu nhìn vụt sang em
Bốn mắt gặp nhau bối rối
Sân trường bóng lá chao nghiêng.

1535




Một thanh niên cùng cô bạn gái đang đi dạo trên một con đường quê; phía bên kia hàng rào là một cánh đồng đầy hoa dại sặc sỡ. Chàng thanh niên leo qua hàng rào để hái cho cô bạn một chùm hoa. Đột nhiên anh ta trông thấy một con bò mộng đang lừ lừ nhìn mình ở cách đó khoảng chừng sáu, bảy mét. Hơi hoảng một chút, chàng ta gọi một bác nông dân đang đứng ở thửa ruộng bên cạnh:

Này con bò này có còn an toàn không ông?

Ồ!

Bác nông dân bảo

Tôi dám chắc là nó an toàn hơn cậu gấp bội vào lúc này đây.

2737




Trong một nghiên cứu, sinh viên nọ cảnh báo mọi người về một chất hóa học mình vừa tìm ra và đã được đăng ký bản quyền phát minh có tên “dihydrogen monoxide”. Nó gây ra hàng loạt tác hại.

- Gây vã mồ hôi nhiều.

- Là thành phần chính của mưa axit.

- Duy trì sự cháy khi chuyển sang thể khí.

- Chẳng may hít phải có thể gây ngạt chết.

- Một trong những tác nhân của sự xói mòn.

- Làm giảm hiệu quả của phanh ôtô.

Tìm thấy trong khối u của các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối...

Anh ta gửi những kết luận này lên Tổ chức Sức khỏe thế giới và yêu cầu ủng hộ việc cấm sử dụng chất này. Có 43 người tán đồng ý kiến, sáu người chần chừ lưỡng lự, chỉ duy nhất một người biết tên của chất đó: nước.

1111









Bây giờ thì đã hết mộng mơ
Nhưng vẫn nhớ thời mơ mộng đó
Bên gốc phượng già em đứng đợi
Tiếc thầm chưa một lần hôn em

Anh vẫn biết  mình còn run sợ
Vì tình yêu chỉ  chớm ban sơ
Như sợi nắng rơi trên vũng tuyết
Mùa Xuân về một thoáng bâng quơ
 
Anh là cát chờ thuỷ triều đưa sóng
Xoá tan đi vết tích bước chân hoang
Em chợt lớn thì trái sầu vừa chín 
Tự hỏi lòng sao tình quá xa xôi
***
Tuổi xuân qua lặng lẽ từ bao giờ
2721




Đã nhủ lòng mình phải bắt đầu quên


Cứ coi người như người dưng qua ngõ


Cứ thanh thản như chưa từng gặp gỡ


Mà sao dạ vẫn không yên?


 


Mình sẽ quên, ừ, thì mình sẽ quên


Mảnh trăng mỏng chao nghiêng trời cuối hạ


Kỉ niệm xưa hóa thành cơn gió lạ


Mình sẽ thả bay đi...


 


Đã quên thì còn lưu luyến làm chi


Chiều qua, cả chiều nay người chẳng tới


Người có lẽ không ngờ mình đã đợi


Cũng như mình không tin mình đã buồn


 


Sẽ chẳng bận lòng nếu mình có thể quên


Sẽ chẳng băn khoăn cũng chẳng thèm giận dỗi


Sẽ chẳng nhớ mong cũng chẳng thèm chờ đợi


Đã nhủ rồi mình sẽ bắt đầu quên./.

1219




Sau khi vị bác sĩ đã khám xong cho bệnh nhân, ông ấy yêu cầu bà ta ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn giấy và lè lưỡi ra; sau đó ông tiến hành kê hai toa thuốc. Khi xong công việc ấy, ông bảo:

A, ổn rồi đấy; bà có thể ngậm miệng lại được rồi.

Nói xong ông cảm ơn bà ta đã đến, bảo bà ta rằng bà ta sẽ ổn thôi rồi tiễn bà ta ra cửa.

Khi ông ta đóng cửa, cô điều dưỡng hỏi ông ta:

Vì sao bác sĩ bảo bà ta ngồi đó lè lưỡi ra đến những năm phút cơ ạ? Thậm chí ông cũng chẳng buồn nhìn vào lưỡi bà ta nữa cơ.

Vị bác sĩ bảo:

Làm như thế chỉ cốt giữ để bà ta yên lặng để mà tôi có thể tập trung đầu óc trong lúc kê toa thuốc cho bà ta.

2790




Vỏn vẹn một dòng, "Sao cũng được"
Thế là đau buốt tận đáy tim
Thì đi ... trời gió, dòng nước ngược
Từ nay không có kẻ đi tìm ...


Chưa gặp, mà lòng sao trắc ẩn (+)
Mới hay số mệnh tự thiên thu
Ngàn lần hãy nói tôi lầm lẫn
Rằng tình yêu ấy chỉ sương mù


Tôi thấy chiều nay gió thổi bay
Một vần thơ rụng lúc ban mai
Ngập ngừng tôi nhặt vần thơ ấy
Về ép trong tim những u hoài


Gấp nhẹ đôi tờ, quên tiếng hát
Để lòng thôi dứt những đường tơ
Ơ hay, sao biển về trong mắt
Mà không, gió bụi lúc giao mùa !


Thì chỉ một dòng, "Sao cũng được"
Mà sao đau buốt tận đáy tim ...

1522




Thầy giáo hỏi:
- Ai ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương ?
Cả lớp im lặng. Thầy giáo chỉ 1 học sinh:
- Em biết ai ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương không ?
Học sinh sợ sệt :
- Dạ không phải em.
Vừa lúc đó ông hiệu trưởng đi ngang.
Thầy giáo phân bua :
- Anh xem, học trò bây giờ tệ quá. Tui hỏi ai ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương mà không ai biết.
Thầy hiệu trưởng gật gù :
- Thôi anh nói anh Vương làm bản báo cáo rồi tui nói ban giám hiệu xuất quĩ đền cho. Đừng làm rùm beng mang tiếng chết
1320




Hai người hay khoác lác gặp nhau. Một người nói:

- Làng của tôi có người khổng lồ, đầu đội trời xanh, chân đạp đất.

Người kia:

- Còn kém xa người khổng lồ ở làng tôi. Người đó môi trên đụng trời, môi dưới đụng đất!

Anh chàng đầu tiên:

- Thế thì người anh ta nằm đâu?

Anh chàng thứ hai:

- Chà, cái mồm của ông ấy che hết tôi đâu còn trông thấy gì nữa!910




Một người dắt theo con chó hùng hổ chạy đến tiệm bán thú phàn nàn với ông chủ:

- Ông bán cho tôi con chó này và ông khen nó không ngớt lời. Thế mà tối qua kẻ trộm vào nhà tôi khoắng hết 300 đồng, nó chẳng sủa lấy một tiếng.

- Thưa ông... - Ông chủ từ tốn - Người chủ trước của con chó này vốn là một tỷ phú nên với số tiền ít ỏi như thế nó rất xem thường.

896




- Cậu biết không ? Quyển sách dày ơi là dày ! Cậu cho mượn thật có ích.

- Thì mình đã nói rồi mà, quyển sách đó nhiều bài hay lắm ! Cậu khoái nhất mục nào ?

- À ! Nó đã giúp tớ ... tiêu diệt kẻ địch lợi hại.

- Cái gì ?

- Tớ đang đọc, bỗng một con chuột cống chạy qua, tớ cầm quyển sách "chơi" liền, và ...

- Trời đất ơi !!!1913




Một bà già to béo đi ra khỏi siêu thị, khi đến bên chiếc xe của mình, bà phát hiện mấy gã trai đang ngồi bên trong. Lập tức, bà ta mở phắt túi xách, lôi ra một khẩu rulô to tướng, lên đạn "roạt" một cái, chĩa thẳng vào chúng và quát to:
- Mấy cái bị rách! Cút ngay không tao nổ bể sọ hết cả đám! Bọn trộm chạy bán sống bán chết. Bà béo ngồi vào xe, không tra nổi chìa khoá vào ổ điện, mãi sau bà mới phát hiện ra là chiếc xe của mình ở cách đó không xa. Khi lái xe ra đến đầu phố, nhìn thấy xe cảnh sát chở mấy tên trộm, hú còi chạy ngược lại, bà ta lẩm bẩm:
- Cảnh sát bây giờ tài thật, mình chưa kịp đi báo, thì họ đã tóm cổ được bọn chúng rồi!
2092




Một người ăn mày hom hem, rách rưới, đến cửa nhà giàu xin ăn. Người nhà giàu không cho, lại còn mắng:


- Bước ngay! Rõ trông như người ở dưới địa ngục mới lên!


Người ăn mày nghe nói, vội trả lời:


- Phải, tôi ở dưới địa ngục mới lên đây.


Người nhà giàu nói:


- Ðã xuống, sao không ở hẳn dưới đấy, còn lên đây làm gì cho bẩn mắt?


- Thế không ở được nên phải lên. Ở dưới ấy, các nhà giàu chiếm hết chỗ rồi!

2533




Albert Einstein nói về thuyết tương đối của mình, có một anh chàng hay nghi ngờ hỏi:

- Trí thông minh của người mạnh khỏe như tôi không thể chấp nhận những cái mà nó không nhìn thấy.

Einstein đứng yên lặng một lúc rồi trả lời:

- Được, điều đó có vẻ có lý lắm. Giờ ông đặt trí thông minh của ông lên bàn đây, và tôi có thể tin rằng ông có một bộ óc thông minh.2452




Một lần đại văn hào Pháp Victor Hugo (1802- 1885) đi thăm nước Phổ. Khi đến biên giới Pháp-Phổ. Một nhân viên hải quan nước Phổ hỏi:

- Xin ông cho biết ông làm nghề gì?

- Tôi viết.

- Tôi muốn hỏi ông sinh sống bằng nghề gì?

Lần này Hugo đáp gọn:

- Bằng ngòi bút.

Nhân viên hải quan nọ gật đầu ra vẻ thông hiểu. Sao đó anh ta ghi vào tờ thị thực nhập cảnh: "Hugo, nhà kinh doanh ngòi bút".2451





Bà Ba đi chợ. Bà mua cho chồng năm trăm tiền rượu đế về trợ hứng cho ông. Đêm ấy thật hiệu quả. Ông "làm việc" khỏe hơn ngày thường khiến bà rất thoải mái.

Hôm sau, bà Ba đi chợ. Lần này bà quyết định mua cho ông chồng hẳn một nghìn đồng tiền rượu. Nhưng về nhà, ông chồng uống say rồi lăn quay ra ... kéo gỗ.

Thấy chồng ngủ say, bà Ba thở dài, chép miệng:

- Rõ khổ! Một nghìn không bằng năm trăm!
1444






Trong buổi thi tốt nghiệp trường hàng hải, giáo sư hỏi thi một thí sinh:
- Nếu cơn bão đến từ phía bên phải con tàu thì anh sẽ làm gì?
- Tôi sẽ thả neo.
- Từ phía mũi tàu?
- Tôi thả neo thứ hai.
- Từ phía đuôi tàu?
- Tôi thả cái neo nữa.
- Anh lấy ở đâu ra nhiều neo thế?
- Thế thầy lấy ở đâu ra mà nhiều bão như vậy?
2291







Vào hè. Những cơn mưa rào lướt nhanh để lại trong mỗi người nỗi khát khao tiết thu mát mẻ, tiếc nhớ cả những ngày đông rét đến xe lòng. Hà Nội rực đỏ hoa học trò, tím ngắt hoa chung thuỷ. Với tôi hoa bằng lăng luôn như một người con gái mỏi mòn đợi chờ người yêu để rồi tàn úa trong nỗi thất vọng khôn cùng. Nhưng giờ đây màu tím sẫm buồn ấy lại gợi cho tôi nhớ tới một loại hoa khác, hoa Tử Đinh Hương.

Vun vút qua bao làng mạc trù phú với những căn nhà gỗ đơn sơ, những rừng bạch dương ngút ngàn, những cánh đồng hoa dại rực rỡ, con tàu đưa chúng tôi từ Matxcơva ồn ào náo nhiệt tới Minxcơ nhỏ bé, êm đềm, nơi sẽ có những kỷ niệm không thể quên trong quãng đời sinh viên. Ngỡ ngàng xuống sân ga, tôi chợt bàng hoàng khi thấy người phụ nữ đón chúng tôi hôm ấy. Khoảng 32, 33 tuổi, cô có khuôn mặt đẹp với những đường nét kiêu kỳ, hấp dẫn, huyền bí của nàng Xêhêrat trong " nghìn lẻ một đêm" tôi say mê từ tuổi thơ. Cô có đôi mắt to xanh thẳm như biển cả, gợi nét u buồn của buổi hoàng hôn. Cô mỉm cười rồi dẫn chúng tôi về ốp qua những con đường nhỏ sum xuê mận, táo, lê, con đường thần tiên như sau này chúng tôi vẫn gọi. Vị ngọt lịm của những quả chín bên đường tan trên đầu lưỡi cũng không thể làm tôi quên nét u buồn của buổi hoàng hôn trong đôi mắt thoáng gặp ấy. Rồi tôi biết cô tên An la Phêđrốpna - giáo viên văn học Nga. Bên cạnh nỗi háo hức chờ mong năm học mới mẻ, bổ ích với mỗi sinh viên thực tập chúng tôi là nỗi háo hức mong chờ tiết văn đầu tiên. Cô vào lớp trong bộ váy xám kỳ lạ. Phải chăng đó là màu tro hoa hồng mà Côlin Macalâu đã tô điểm cho bộ váy Mecghi mặc trong đêm dạ hội, khi lần đầu tiên cha Ranphơ nhận ra Mecghi bé bỏng buồn thương của cha đã trở thành một thiếu nữ diễm kiều? Tiết văn đầu tiên trôi qua lúc nào tôi cũng không hay. Chỉ còn lại trong tôi những vần thơ dữ dội của một mối tình đơn phương, vô vọng.

Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai
Nhưng không muốn em phải bận lòng thêm nữa
Và hồn em lại gợn nét u hoài.

Tôi ngỡ ngàng trước mắt tôi là một phụ nữ khác, một phụ nữ yêu đời, yêu người mãnh liệt. Biển buồn u uất nét hoàng hôn bỗng trở nên biển êm đềm của một buổi sáng trong lành. Tiết học kết thúc hoàng hôn lại trở về bên biển. Đôi lúc tôi tự hỏi khi nào cô sống thật với mình, trên bục giảng với những tình cảm cao thượng của những con người cao thượng hay trong đời thường với những lo toan vặt vãnh, bởi hàng ngày cô rất ít tiếp xúc với bạn bè và học trò xung quanh, dù chúng tôi rất yêu và ngưỡng mộ cô.

Cho đến một hôm, trên ti vi hôm trước có truyền hình trực tiếp có truyền hình trực tiếp trận chung kết bóng đá Châu Âu giữa đội Tây Ban Nha và đội Pháp, đội bóng tôi yêu thích nhất. Nỗi ham mê bóng đã lấn át tất cả, bất chấp bài vở ngày mai. Mê li những cú sút tung trời của Palatini, vui sướng tột cùng vì đội tuyển mình hằng ngưỡng mộ chiến thắng, tôi êm đềm đi vào giấc mơ với hình ảnh siêu cầu thủ đội Pháp với chiếc cúp rực sáng trên tay được tung lên trời trong tiếng reo hò vang dội. Sáng hôm sau, (thật bất hạnh cho tôi) tiết văn, tôi bị xách cổ lên bảng. Ngoài trời tuyết rơi mà tôi toát hết mồ hôi.

- Em hãy kể tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Lecmantốp.

Lạy chúa tôi. Bắt tôi phân tích một tác phẩm, một bài thơ, một nhân vật còn được, đằng này về cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ thì tôi biết nói sao (đúng hơn là không thể nói gì).

- Thưa cô, Lecmantốp là một nhà thơ Nga nổi tiếng. ông viết nhiều bài thơ rất hay, đặc biệt là bài " cánh buồm trắng cô đơn" mà chúng em rất thích. Em đọc cô nghe chứ ạ?

- Không cần. Tôi muốn em kể về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ.

- Biết kể gì nữa nhỉ? Thế là tóm tắt quá rồi còn gì. Cô muốn kéo dài làm gì nữa nhỉ?

- Thưa cô...

- Sao, em không học bài?

- Thưa cô...

- Thưa gì thưa mãi thế! Tôi hỏi em về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ mà em cứ luyên thuyên ở đâu. Thế là sao?

Tôi chờ đợi những lời nói giận dữ hơn nữa bởi tôi hiểu mình có lỗi. Nhưng tôi lặng người. Cô đang giận giữ xé quyển vở văn tôi hằng gìn giữ.

- Về chỗ.

Tê tái tôi lê bước về chỗ, tôi lặng lẽ khóc. Giá như cô cho tôi điểm kém thì tôi sẽ vui lòng nhận vì đó là sự trả giá xứng đáng cho trận đấu hôm qua. Nhưng cô lại xé vở của tôi, xé quyển vở tôi cặm cụi ghi chép hàng ngày những giờ giảng lúc ngọt ngào, dịu ngọt, lúc chua xót, day dứt, xé đi chính niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc cô từng chia xẻ với chúng tôi, lại là chuyện hoàn toàn khác. Chưa tiết văn nào thê thảm thế, chưa lúc nào cay đắng thế.

Thu xao xuyến mang sắc vàng lặng lẽ ra đi. Tuyết rơi trắng trời. Tuyết tan. Xuân ngắn ngủi thoáng qua báo hè sắp tới. Hè về lộng lẫy trong sắc đỏ hoa tuy líp thắm trời, trong sắc vàng hoa bồ công anh khắp nơi. Chớp mắt, thế là năm học trôi qua. Dù muốn lang thang cho bõ những ngày đông lạnh cóng ru rú ở nhà, cho khắp cùng thành phố để còn chia xa, chúng tôi cũng phải lao đầu vào học thi cho tốt để giữ mãi ấn tượng tốt đẹp cho thầy cô và cho bản thân về những ngày ở thành phố xinh đẹp này. Riêng tôi chuẩn bị môn văn rất kỹ. Tôi muốn chứng minh với cô, tôi có thể đạt được điểm 5 văn dễ dàng thế nào. Ngày thi văn tới, tôi rủ lũ bạn đi thật sớm. Chúng tôi vào thi đầu tiên. Tôi thật may bắt được câu về tiểu thuyết " đất vỡ hoang" tôi chuẩn bị rất kỹ. Với cái nhìn kiêu hãnh, tôi trả lời trôi chảy, lưu loát.

- Em cho biết tác phẩm " đất vỡ hoang" ra mắt bạn đọc năm nào và tập hai năm nào?

- Thưa cô, tập 1 năm 1932 còn tập 2 năm 1959 vì nhà của Sôlôkhốp cùng những tài liệu ghi chép đã bị bom Đức bắn cháy.

- Vậy chúng cách nhau bao năm?

Giọng nói lạnh lùng, chua xót, ánh mắt u buồn làm tôi luống cuống. Bao năm nhỉ? Tôi nói đại:

- 35 năm, thưa cô.

- Bao nhiêu?

- 34 năm ạ.

Tôi càng luống cuống hơn. Biển trong mắt cô dữ dội. Giận dữ, cô nói:

- Chưa chuẩn bị kỹ bài, 3 điểm.

Cô vừa nói gì thế? Tôi lặng người. Tôi đã trả lời tất cả, chỉ nhầm lẫn một chút vì đã quá luống cuống trước đôi mắt buồn bã, trước giọng nói lạnh lùng ấy. Sao cô khắc nghiệt thế. Đây là thi văn, đâu phải thi toán? Uất ức, tôi lao ra khỏi phòng thi, trốn chạy khỏi bao câu hỏi thăm ân cần của bạn bè. Lang thang cả ngày trên đường phố rực nắng, giữa những con người nhân hậu nhưng sao tôi thấy mình cô đơn, bất hạnh đến thế! Lần đầu tiên tôi ăn chiếc kem đắng ngắt vị chua xót, buồn bã.

Ngày chia tay Minxcơ thân yêu, chúng tôi rất buồn. Biết bao giờ trở lại nơi đây, nơi chúng tôi đã cùng nhau chia xẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, cùng nhau ngóng chờ từng lá thư nhà, cùng nhau khóc rưng rức vì nhớ quê hương, nhớ cha mẹ, người yêu trong những đêm tuyết trắng trời. Chia tay với những người bạn Nga cùng phòng, tôi lặng lẽ lên tàu, không chia tay Anla như bao bạn khác. Tôi muốn quên đi người phụ nữ có đôi mắt u buồn của buổi hoàng hôn, có giọng nói ngọt ngào du dương như nàng tiên cá ấy.

Trở về quê hương, chúng tôi lại náo nức bước vào năm học mới.

- Ly ơi, có thư.

Tôi ngạc nhiên. Ai không gửi về nhà mà lại gửi tới trường cho mình thế? Cầm thư trên tay, tôi bỗng run lên. Cái tên Anla gợi nhớ bao kỷ niệm buồn. Cắm cúi đọc thư. Tôi quên cả tiết học đã bắt đầu.

Minxcơ 28/8

Ly thân yêu của cô!

Chắc em sẽ ngạc nhiên khi nhận được thư này? ở đây mùa thu đã về. Thu vàng gợi cho Puskin những câu thơ tình tha thiết, gợi cho mỗi người nhớ đến những kỷ niệm đẹp trong đời. Thu năm nay gợi cô nhớ tới em, bởi cô biết em giận cô nhiều. Cô viết thư này cho em, không phải để thanh minh mà để em hiểu cô thật sự như giữa những người phụ nữ với nhau và tha thứ cho cô nếu em có thể. Cô sinh ra, lớn lên ở Minxcơ. Cha người Nga, mẹ người ý. Từ bé cô đã nổi tiếng xinh đẹp khác thường. Lớn lên, kiêu hãnh về sắc đẹp của mình, cô tự vẽ ra một người yêu, một người bạn đời lý tưởng cho suốt cuộc đời mình.

Bao chàng trai tìm đến, cô đều từ chối. So với chàng trai của cô, họ thật một trời một vực. Một lần lớp cô tổ chức đi xem vở kịch " Rômeô và Juyliet" . Và em biết không, chàng xuất hiện bất ngờ, đột ngột như tia chớp giữa sông, xé tan sự kiêu hãnh luôn bao phủ quanh cô. Chàng xuất hiện rực rỡ trong chiếc áo choàng đỏ thắm của những quý tộc thời xưa với những đường kiếm bao người nể phục. Chàng có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, có trái tim trong sáng, mãnh liệt, giọng nói ngọt ngào với bao lời thủ thỉ, yêu thương làm rung động trái tim thiếu nữ ngây thơ trong trắng. Chàng vừa lên tiếng: Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi! Đêm nay trên đầu ta, nàng toả ánh hào quang như sứ giả mặt trời có cánh đang cưỡi những áng mây lững lờ nhẹ lướt trên không trung, khiến kẻ trần tục phải ngước đôi mắt thịt mà chiêm ngưỡng! Những lời yêu thương nồng cháy ấy, cô cứ ngỡ chàng dành cho cô. Đêm ấy cô mơ tới chàng. Từ đó, hình bóng chàng không thể phai nhạt trong cô. Những lời thầm thì yêu đương của chàng cứ văng vẳng bên tai cô mãi. Trong buổi sinh nhật một cô bạn cùng lớp, cô đã gặp chàng, ánh mắt gặp nhau. Và cô nghĩ không gì có thể làm chàng và cô xa nhau được nữa, và đây là tình yêu của Rômêô và Juyliet ở Minxcơ ngày nay chứ không phải ở Vơnizơ cổ kính thời ấy. Cô và anh nhanh chóng yêu nhau say đắm, mấy tháng sau thì cưới. Những tưởng hạnh phúc bền lâu. Ai biết đâu, ba năm sau đã chia tay nhau. Chồng cô yêu nghệ thuật, yêu sân khấu, yêu những cô gái mơ mơ thực thực trong vở diễn nhiều hơn. Anh ấy nói tình yêu trên sân khấu đẹp hơn nhiều, mơ mộng hơn nhiều tình yêu đời thường với bao lo toan vặt vãnh của cuộc sống gia đình. Anh ấy bỏ lên Matxcơva để tiếp tục sự nghiệp của mình, sự nghiệp anh ấy yêu hơn cả, khi cô có thai ba tháng. Đau khổ, tuyệt vọng, bao đêm cô đã phải uống thuốc ngủ quá liều cho nhanh chóng đi vào mộng mị, quên đi tình yêu đầu đớn đau, quên đi cảm giác vắng bóng chàng trong ngôi nhà có bao kỷ niệm êm đềm mỗi khi đêm về. Hậu quả là bé trai cô sinh ra bị thần kinh vì cô uống thuốc quá nhiều. Đau khổ, day dứt, cô tưởng mình sẽ chết vì tuyệt vọng. Nhưng cô đã lấy hết nghị lực để sống với hy vọng mong manh là em sẽ khỏi bệnh. Bao đêm dài không ngủ, cô đau đớn với ý nghĩ mình đã làm khổ một con người, mà con người ấy chính là con mình, đứa con duy nhất của tình yêu duy nhất. Hôm cô xé vở em chính là hôm ở nhà đêm trước em bị lên cơn nặng và cô phải đưa em vào viện. Cô đã cư xử không phải với em. Nhưng em là một phụ nữ, và em sẽ là một người mẹ, chắc em sẽ hiểu, sẽ thông cảm cho cô. Hôm thi văn nữa, bữa trước là chủ nhật, cô tới bệnh viện đón em về chơi một ngày cho đỡ nhớ con. Nhìn nó đỡ, hy vọng trở lại. Nhưng ngay chiều ấy em lại lên cơn, đạp vỡ tivi, xé tan ảnh cưới và đã tát cô khi cô giữ tay em lại. Cái tát của đứa con mình đứt ruột đẻ ra, đứa con không bình thường, bị thần kinh, lỗi tại chính mình, người sinh ra nó hằn lên mặt cô mấy hôm liền.

Em biết không, khi hè tới một người Nga thường hái cho mình một nhành hoa. Nếu họ tìm thấy một bông Tử Đinh Hương năm cánh thì năm đó họ sẽ hạnh phúc. Mỗi mùa Tử Đinh Hương nở, cô lại ra cây trước nhà hái một nhành tìm bông hoa hạnh phúc cho mình, nhưng đều không thấy. Thật buồn, phải không em?

Cô rất mong thư em. Em viết thư trả lời cô chứ?

Chào em.

Anla Phêđrốpna.

Những dòng chữ nhoè dần trước mắt tôi. Tôi không biết mình khóc từ bao giờ.

Có khi nào trên đường đời tấp nập ta vô tình đi lướt qua nhau...

Phải, trên đường đời tấp nập ấy, tôi đã vô tình đi lướt qua một người phụ nữ đau khổ dường ấy, bất hạnh dường ấy mà không hiểu gì, không giúp đỡ gì, không chia xẻ gì dù chỉ là sự cảm thông. Mùa Tử Đinh Hương lại đến. Lạy Chúa! Nếu như trên đời này có Chúa thật thì con xin Người ban cho người phụ nữ xinh đẹp và bất hạnh ấy chút hạnh phúc trong sắc tím của bông Tử Đinh Hương hạnh phúc.

2065




Ông bố vừa đi làm về đã nghe cậu con trai nũng nịu:

- Bố ơi, hôm nay có bác Cao bạn của bố đến chơi. Con ghét bác ấy lắm!

- Sao con lại ghét bác ấy?

- Vì con bĩnh ra quần, bác ấy không thay cho con mà mẹ không bĩnh ra quần thì bác ấy lại thay quần cho mẹ.

- ????

1346





Một thiếu nữ lần đầu tiên về vùng nông thôn chơi, thấy cái gì cũng lạ lùng, thích thú và luôn miệng hỏi một chàng trai làng là bạn mới của cô. Thấy một con vật đang ăn cỏ, cô ngạc nhiên hỏi:

Sao con bò này lại không có sừng vậy ạ?

Vì nó là con ngựa!

Chàng trai trả lời.

2862




Một bà mẹ có một số quan niệm cổ hủ về hôn nhân và bà truyền dạy cho con gái:

Đừng bao giờ để chồng con nhìn thấy con hoàn toàn khỏa thân.

Bà khuyên.

Bao giờ con cũng phải mang một thứ gì đó trên người.

Vâng thưa mẹ.

Cô gái vâng lời đáp.

Sau khi cưới hai tuần, cô gái cùng chồng sắp sửa lên giường thì anh chồng hỏi:

Em thân yêu, trong gia đình em có ai mắc bệnh tâm thần không đấy?

Theo em biết thì không.

Cô gái trả lời:

Tại sao anh lại hỏi thế?

Có đấy!

Anh chồng nói.

Chúng mình cưới đã được hai tuần lễ vậy mà đêm nào em cũng đội cái mũ tồi tệ ấy lúc nằm trên giường.

2803





Một sĩ quan giảng bài hỏi một tân binh trong giờ lên lớp:

- Giả như anh đang ở trên xe buýt mà gặp một sĩ quan vừa lên xe thì anh làm gì?

- Tôi sẽ lập tức nhảy xuống khỏi xe ạ!



o O o


Trung úy ra lệnh:

- Toàn trung đội, đằng sau... Binh nhì Smith, tại sao không đợi tôi...?

- Thưa trung úy, chỉ cần chỉ huy nói nửa lời, tôi đã hiểu ngay rồi!



o O o


Sĩ quan:

- Ai đi bới khoai tây thì lên xe.

Chỉ có hai hạ sĩ trèo lên. Sĩ quan nói tiếp:

- Còn tất cả sẽ đi bộ.1988




Quan tuần rậm râu, ngồi ăn cơm với quan án không râu. Có hạt cơm dính vào râu quan tuần, anh lính hầu quan tuần vội bẩm:


- Bẩm cụ lớn, trong bộ râu cụ lớn có hòn ngọc minh châu. Quan tuần thủng thẳng vuổt râu để cho hạt cơm rơi xuống.


Quan án về nhà, bảo anh lính hầu mình:


- Ðấy mày xem! Lính bên quan tuần khôn ngoan thế đây! Giá mày học được như nó thì có phải tao cũng được mát mặt không?


Cách mấy hôm sau, quan tuần sang quan án ăn cơm. Có sợi bún dính ở mép quan án, anh lính hầu quan ăn trông thấy vội bẩm:


- Bẩm cụ lớn, trên mép cụ lớn có con giun đất đấy ạ!

850




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Mù Rờ Voi


Xưa kia có một ông vua ngồi buồn, cho bắt tất cả người mù trong thành đem về hợp lại một chỗ.

Vua cho đem ra một con voi, bảo các anh mù rờ vào, và tả lại cho nghe họ đã hình dung con voi ra sao?

Sau khi mọi người đã rờ xong, vua kêu hỏi từng người. Họ thưa:

- Voi giống như cái nồi lớn! (Đó là những người rờ trúng cái đầu)

- Voi giống như cây cột tròn! (Đó là những người rờ trúng cái chân)

- Voi giống cái chổi! (Đó là những người rờ trúng cái đuôi)

...Mỗi người đều tưởng rằng mình đã hình dung rõ con voi với những bộ phận mà họ đã rờ trúng. Rồi thì không một ai chịu nhận của ai cả, đều cho cái thị kiến của mình là đúng. Ban đầu còn cãi nhau, sau chửi nhau om sòm, và rốt cùng xăn tay đánh nhau tơi bời...

Nhà vua thấy vậy ôm bụng cười vang.

Lời bàn:

Quả đây là một bức trang hí họa tài tình, vì nó thu hẹp được một cách đầy đủ cả một tấn bi hài kịch của nhân loại từ xưa đến nay
549




Bốn sinh viên nọ đi Vũng Tàu chơi và dự định trở về vào chiều chủ nhật để học bài cho buổi thi sáng hôm sau. Do ham vui, trưa thứ hai họ mới về đến nơi và đành phải nói dối giáo sư rằng, xe bị nổ lốp trên đường nên họ đã bị trễ buổi thi, xin thầy cho thi lại. Giáo sư ngẫm nghĩ một chút rồi đồng ý. Bốn anh chàng nhẹ nhõm ra về và tối hôm đó ra sức học thật khuya. Hôm sau, đến giờ thi giáo sư cho họ ngồi riêng mỗi người một phòng. Đề thi chỉ có 2 câu hỏi:

Câu 1: Đi chơi đâu? (5 điểm).


Câu 2: Bể lốp xe nào? (95 điểm).

1233






Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp.

Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý.

Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.

Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tì tay lan can nhìn xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:

- Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!

Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:

- Ai muối mua!

Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố.

Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền.

Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”.

Xe đi khỏi thì người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô.

Luôn một tuần lư như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn phòng riêng của họ.

Họ có nhà riêng hay không, và nếu có thì nhà riêng họ ở đâu, tôi không rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin.

Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:

- Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?

Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”.

Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đã xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ.

- Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Ðường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?

- Con mẹ Phúc Hòa Ðường ở phố Ninh Lãng có phải không bà?

- Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?

- Thế nó có cho bà đồng nào không?

- Nó cho mà nó nhiếc thì đã cam.

- Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ.

- Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù lòa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?

- Phải, bền thế nào được.

- Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở ra người giàu, có phải không ông?

- Phải, mình để của làm gì? Ðể của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách.

- Thế à ông?

Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.

- Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Ðoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?

Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:

- Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?

Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa.

Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:

- Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây.

Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện.

Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó.

Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù.


--------------------------------------------------------------------------------

Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày.

Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:

- Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?

Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:

- Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?

Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi gò má răn reo.

Tôi hiểu ngay rằng ông lão già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi thống khổ lớn lao.

Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt...

- Ông buồn lắm phải không?

-Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi...

Tôi kinh ngạc:

- Bà ấy bỏ ông?

- Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!

Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:

- Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình.

Lúc từ biệt, tôi đãi ông lão khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:

- Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi ở nơi suối vàng.

Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi

2059




Cảm ơn cơn gió vô tình
Mang bài thơ đến kề bên chân nàng
Lạy trờị.. khoang !... chớ vội vàng...
Tôi đi xạ. hãy khẽ khàng nhặt lên
Xin em hãy đọc thật êm
Lời thơ tôi mỏng như viền áo ai
Xin em đừng nhếch môi cười
Thơ tôi đổ mặt ngượng hoài hôm saụ..

Xin em đừng quẳng đi mau
Thơ tôi chắc sẽ đau sầu lặng thinh
Cảm ơn cơn gió vô tình
Giúp tôi khỏi đứng một mình... trước em !

1531




Một chủ trại có mười người làm công trong nông trại, bởi vì không có người nào năng nổ được như ông ta tưởng, ông bèn nảy ra một kế mà ông tin là sẽ trị cho họ bỏ tật lười biếng. Một hôm, ông bảo:

- Các anh này, tôi có việc dễ dàng, thoải mái cho người nào lười biếng nhất nông trại này. Một người nào lười nhất bước ra phía trước?

Ngay tức khắc chín người trong bọn cùng bước lên.

- Tại sao anh không bước ra phía trước cùng những người khác? - Ông chủ trại hỏi người còn lại.

Người này đáp:

- Mất công quá!

905




- Hồi xưa bác cũng đi bắt cá kèo nữa hả, bác Ba?

Bác Ba đang cùng với mấy đứa cháu lối xóm ngồi chuyện trò từ trưa đến giờ dưới gốc bụi tre tàu trước nhà. Gió chướng thổi xạc xào cành lá. Ngồi thấy bác Ba có vẻ mỏi mệt, không muốn kể chuyện thêm nữa, thằng Truyền cắc cớ, kiếm chuyện hỏi thêm.

- Ừ! Cá kèo tao bắt dữ lắm. Có hôm lấy ghe mà chở - Bác Ba trả lời.

- Thiệt vậy hả bác? Ủa mà hồi đó bác bắt cá kèo ở đâu vậy?

Thằng Truyền lại hỏi, vẻ mặt coi bộ nghi ngờ, khó hiểu. Mấy đứa trẻ khác thì mở trừng mắt nhìn theo mấy ngón tay đang múa may như phù phép của bác.

- Nè, coi tao bắt đây! Bác Ba đứng dậy trỏ một ngón tay xuống đất. Tụi con nên nhớ vùng biển Đá Bạc của mình hồi đó vô cho tới tận con kinh Lung Tràm này. Cá kèo lội đặc như bánh canh trong nồi. Nhưng ngày xưa mà, đâu có phương tiện gì nhiều để bắt cá kèo như bây giờ. Chủ yếu là bắt bằng tay thôi. Cũng không phải ai cũng bắt bắng tay giỏi như tao. Tụi con coi đây.

Bác Ba xòe hai bàn tay giơ lên.

- Đơn giản như vầy chứ mỗi lần tao thò tay xuống sông rồi giở tay lên là bắt được mười con, mỗi kẽ tay một con, nằm im không vẫy gì được. Cá kèo coi nó trơn lùi vậy chớ không con nào chạy tuột ra khỏi được tay tao đâu.

Mấy đứa nhỏ ngồi nghe chợt thấm ý, bật cười, cái đầu tụi nó gục gặc. Chỉ riêng thằng Truyền không nói, cũng không cười. Nó ngồi yên, chỉ đưa hai bàn tay ra trước mặt, cái miệng nó lép nhép nói gì như đếm thầm. Vụt một cái nó đứng dậy bước tới, nắm tay áo bác Ba Phi lại, hỏi:

- Bác mới vừa nói mỗi kẽ tay bác bắt một con. Hai bàn tay có tám kẽ tất cả, vậy làm sao bác bắt được mười con một lần?

Thằng nhỏ bất ngờ hỏi "trẹo cẳng ngỗng", bác Ba đớ người một lúc rồi đưa tay vỗ vỗ xuống đầu nó như thể nựng nịu. Bác xuống giọng:

- Đúng thế. Thằng Truyền hỏi đúng. Thông thường làm gì bắt được một lúc mười con cá kèo như vậy. Nhưng vì tay tao bắt cá "dính" quá, nên có số cá kèo nịnh lội tới lội lui, chực sẵn bên ngoài, chờ tao thò bàn tay xuống mỗi lần như vậy, là chúng nó nhào vô hai con một lượt để "dính ké". Nhờ vậy mà mỗi lần tao giơ tay lên thì được đến mười con!2652




Bởi Yêu Thương


     Bao giờ qua cửa Sáu Tâm cũng cằn nhằn. Bao giờ qua cửa anh cũng thấy Điệp đang lúi húi dọn dẹp, nấu nướng gì đó, “mấy chuyện lặt vặt, để tôi làm, sao không chịu nằm nghỉ”.

      Bữa nay thì tới lượt chị nhằn, Sáu Tâm về nhà với một đôi đầu gối bê bết máu.

      - Tâm lại té à. Đi đường phải cẩn thận chớ.

      - Không, hôm nay dạy San nó đi gối.

      - Tuồng gì?

      - Phàn Lê Huê.

      Chị bắt anh ngồi xuống giường, khẽ khàng vén ống quần lên, tháo cái chân giả ra, băng bó lại đầu gối cụt chỏng cho vẫn còn tươm máu. Sáu Tâm nghe một giọt nước mặn nhỏ xuống làm rát bỏng chỗ vết thương, anh càm ràm (như tía chị): “Khóc cái gì. Chút xíu vậy cũng khóc”.

      Hồi trưa này, San cũng ôm gối anh mà khóc.

      San là học trò của anh, nó làm tiếp viên ở quán Mây Lang Thang. Trưa nào, anh kéo cái bội khăn đi ngang cũng thấy nó ngồi băng đá đằng trước sân ngó cuộc đời. Son tô, phấn trát đậm như mấy người lên đồng. Có bữa anh dừng lại ở góc bàng, đứng rao: “Mười lăm ngàn cái khăn. Khăn Mỹ… Tho có ho như thầy Minh cũng không rách. Mua khăn cô nhỏ. Khăn mới lau tủ cũ, cũ lau xe…”, anh thấy nó cười. Một bữa nó hỏi, có phải ngày xưa Sáu Tâm từng làm kép hát không?

      Sáu Tâm tự trào, tôi mặt rỗ như “ga-mo-qua-xa-ky” (gà-mổ-quá-xá-kỹ), đầu tóc bù xù, xi cà que, mình mẩy lúc nào cũng hôi mồ hôi mà là kép chánh sao? Nói chơi hoài.

      Nhưng San tin. Hồi đó, đoàn Mây Mùa Thu về hát ở đình Tân Thuận. Hôm ấy, đoàn hát vở “Đời Cô Lựu” thiệt khuya. Ông bán khăn này còn trẻ lắm, ông đóng vai Luân, mặc bộ đồ bà ba vá chằng vá đụp, quần thì xăn ống thấp ống cao. Lúc xả giàn là tới đoạn Luân quỳ xuống ngang gối, ôm cô Lựu ngẩng mặt lên, kêu mẹ. Trời ơi, San bưng rổ khoai ế đứng nhìn mà rưng rưng nước mắt, sao mà cô Lựu ôm Luân lại gọn gàng trìu mến đến như vậy, sao Luân hạnh phúc và sung sướng đến như vậy.

      Đó là lúc San ước mơ sau này lớn lên sẽ trở thành đào hát. Ừ, trở thành đào hát, không cần phải đóng vai chính, nổi tiếng làm gì, hát phụ cũng được, đóng vai ác, vai hầu gái, cung nữ, bà già cũng được… Nhưng San mê vai có má nhất. Dù người mẹ nghèo bị hắt hủi cỡ nào, người mẹ giàu có tàn nhẫn đến cỡ nào để chia cắt duyên con (như mấy tuồng cải lương bây giờ hay hát), nhưng có làm gì thì hết thảy đều vì quá thương con mình.

      San hai mươi bốn tuổi, hai mươi bốn năm má mất. Bà chết vì sinh khó. Cha San thường say rượu, lúc say phà cái mùi hèm khăm khẳm vô mặt San “Tại cái con vô dụng này nên tao mới khổ sở như vầy, vợ cũng chết, tiền cũng hết”.

      San cố sống để khỏi phải là đứa vô dụng. Áo cha rách, San khâu. Cha kêu buồn ói, San chạy lấy thau lại hứng, dấp khăn nóng cho người. Sáu tuổi nó đã è ạch nách cái rổ khoai luộc, xách cái thùng mía lạnh rảo chân khắp làng trên xóm dưới. Mười hai tuổi nó xin chạy bàn, rửa chén ở quán “Mây Lang Thang”, mười tám tuổi nó lấy chồng. Phải lấy chồng mới có tiền lễ để cha nó đổi chiếc xích lô lấy cái honda mà, đời kỳ thiệt, San lấy ngay cái thằng hồi nhỏ nó ghét cay ghét đắng. Nó nhớ như in những lần na cái thùng mía lạnh ngang qua nhà, thằng chồng nó lúc đó chừng mười, mười hai tuổi chuyên chặn nó lại, giật mía mà ăn. Có bữa San cự, thằng nọ vạch quần ra đái tỏn tỏn vô thùng mía, vừa đái vừa cười ha hả. Hôm đó, San về nhà mà trong tay không có tiền. Dì nắm tóc nó mà đánh, San có nói gì thì dì cũng không tin. Bây giờ lại lấy nhau, mỗi lần thấy chồng tụt quần, lòng San dậy lên một nỗi căm thù. Được hai tuần, San thôi, lại bỏ về quán Mây Lang Thang, nhưng không còn rửa chén mà ngồi trong mấy cái buồng vuông vuông nhỏ nhỏ để tiếp khách.

      Ước mơ xưa chưa bao giờ trở thành hiện thực. Những khi quán vắng, San cố ngủ cho nhiều, ngủ là khỏi thấy lòng buồn, má hy sanh cho cái phận bèo bọt này chi không biết. Ngủ để coi có mơ thấy mình trở thành đào hát không. Ngủ vì không thích tụm lại với chị em để đánh bài, bàn số đề, giũa móng tay, nặn mụn hay đi sắm áo dây, váy ngắn.

      Mất gần một tháng Sáu Tâm mới nghe hết câu chuyện đời của nó. Mỗi bữa ngồi đụt nắng dưới gốc cây còng trước quán, San kể anh nghe một đoạn. Nhưng anh kép cũ không nhắc gì đến vầng hào quang cũ, chỉ San ngồi nhắc hoài, nó kêu anh dạy nghề. Sáu Tâm bảo, “Nghề hát bạc lắm”. San bảo, nghề của em còn bạc hơn, bạc tại chỗ, những thằng mằn nắn mình, kêu mình bà xã ơi, cưng ơi, toàn là tụi coi khinh mình như rác. Dứt khoát, em phải trở thành đào hát như đào Điệp ở đoàn chú vậy.

      San nhớ, cô đào thiệt hiền, dân dã, tan buổi diễn để nguyên bộ áo dài nâu, cái đầu tóc bới ngồi ăn cháo vịt. Thấy San cứ tần ngần nhìn, cô hỏi San đói không. San gật đầu, không đói nhưng vẫn gật đầu. Cô gọi thêm một tô cháo, biểu San ăn đi, ngồi kế cô mà ăn. San ngồi trước tô cháo nhưng cứ nhìn cô, chỉ mong được nép vô lòng kêu tiếng má. Đào Điệp hỏi, con bán khoai hả, sao tan hát rồi mà không về? Khoai còn hết? Cô mua cho. Ăn xong, con mau về đi, tan hát rồi, đường tối lắm.

      San nhớ hoài cái khuôn mặt dịu dàng đó, bao giờ nó cũng nghĩ, má mình còn sống dứt khoát giống như cô ấy. Nó kết luận, chỉ gặp một lần thôi mà em thương cổ suốt đời.

      Câu chuyện làm cho Sáu Tâm xúc động, gương mặt đen đúa trầm lặng như tượng gỗ bỗng mềm lại. Anh bảo anh sẽ dạy. Ở đâu ư? Tại cái sân xi măng dưới gốc cây bàng này. Sân chật đầy lá rụng có bữa bỗng dưng biến thành sân triều. Sáu Tâm gọi “Cung nữ!”, San dạ, te te đi ra tay dâng chén rượu ngang mày. Người đời qua lại, có cười. Đám khách nhậu trong quán biết Sáu Tâm là anh kép hết thời, cứ đòi nghe cho được. Mấy lần bà chủ quán ra biểu anh “hát vài câu đi rồi có tiền” (như bà mẹ biểu đứa con nít ăn cơm đi rồi cho kẹo), lần nào Sáu Tâm cũng lắc đầu. Bà ta phật lòng, nghèo còn sĩ diện, nghèo mà không biết nghe lời người có tiền. San hỏi, anh bảo:

      - Có làm gì, đi đâu, chưa bao giờ tôi quên mình là nghệ sĩ, nghệ sĩ là người của công chúng, người ta yêu mình bởi họ thấy mình cao quý hơn họ, tôi không thể vì tiền mà sống hèn được. Cô nhỏ, có trở thành đào hát, cô nhớ lời tôi nghe.

      Mỗi ngày, Sáu Tâm ghé chỗ San chừng mười, mười lăm phút. Thời gian còn lại, anh kéo cái bội đan bằng nan tre có gắn mấy cái bánh xe đi bán khăn, áo dạo. Anh cần tiền, nhiều tiền. Nhưng anh cũng muốn về nhà. Nên lúc nào trong lòng cũng như lửa đốt.

      Nhà Sáu Tâm ở xóm Gò Mả. Xóm nhỏ tụm lại trên nền nghĩa địa cũ. Những ngôi nhà cửa trước luôn mở về phía nội ô như bị người ta lấn tới nên giật lùi đến đây. Nhà anh cất kề chòm mã lạng, anh không sợ, ma cũng như người, mình tử tế với họ thì họ cũng tử tế với mình. Chỉ ngại, những lúc anh không ở nhà, chị thế nào cũng mở cửa ra, nhìn những chòm cỏ xa xanh kia, và nghĩ về cái chết.

      Điệp càng ngày càng yếu. Chị ốm, mỏng như hột cốm dẹp. Tóc đã rụng đến nỗi ở xa chừng mười bước có thể đếm được từng sợi, từng sợi còn sót lại. Chị thôi xót xa rồi. Thôi từ cái bữa Sáu Tâm đã làm vỡ gương, chị nhắc hoài anh chưa mua lại. Thôi từ cái bữa mơ màng thấy anh nhặt tóc chị rụng trên giường đem đi dấu ở cái thùng đạn hồi trước đựng đồ nghề vá xe. Chị níu lấy anh, vùi nước mắt vô ngực anh mà ướt:

      - Tâm ơi! Tâm khổ vì tôi chi vậy?

      Đâu mà biết nà. Tại duyên nợ. Điệp lớn hơn Sáu Tâm tròn con giáp. Lúc anh mới vô đoàn hát, anh gọi Điệp bằng chị, xưng em. Điệp toàn hát vai má anh, ráng lắm thì cũng vai em trai, loại em chuyên đi đưa thơ cho người yêu chị gái mình. Vậy mà yêu, yêu tréo cẳng ngỗng, cũng không biết để lòng thương lúc nào, ghê lắm cái lối thương thầm, thấy đầm đầm vậy chứ rứt không ra. Lúc đầu thì Điệp thấy buồn cười lắm, chị cứ theo chọc anh hoài, thí dụ tụi mình làm vợ chồng, phải gọi làm sao, Tâm ha?

      Cho tới cái bữa về hát Vàm Lẽo, nửa đêm trải chiếu nằm ngủ dưới khán đài, sàn diễn đổ sập xuống, Sáu Tâm đẩy Điệp ra, chỉ anh là còn kẹt lại trong đám đổ nát. Xương ống quyển bị dập. Đau lắm, nằm một chỗ, không xoay mình được. Ông bầu cũng nghèo, tiếc tiền, cứ bảo trật chân chút đỉnh rồi sai người đi hái thuốc về bó, đắp thuốc tới khúc chân bị hoại, lầy lụa, người ta mới đưa anh đến bệnh viện. Tháo khớp. Nỗi đau không nói được bằng lời, lìa khúc chân là mãi mãi đứt lìa sân khấu.

      Đó là những năm sân khấu cải lương lâm vào cảnh khó khăn. Đoàn hát phải biểu diễn khắp cùng quê xó, phải trưng dụng những dụng cụ phụ diễn đã bị nắng mưa làm mục nát. “Mưa Mùa Thu” rã gánh, ông bầu bảo, còn ai hát hò gì nữa, tới Hồng Điệp cũng bỏ nghề rồi, trông mong gì.

      Điệp cùng Sáu Tâm dìu dắt nhau đến cái xóm Gò Mả này. Chị không hối tiếc, cuộc đời người ta ngoài ăn với ngủ, thời gian còn lại là đi tìm một nửa của chính mình. Chị thì có anh. Hai người, hai đôi tay hồi nào chỉ quen múa gươm, lẫy roi sảy ngựa với ba cái chân để kiếm sống. Cực khổ nhọc nhằn nhưng không nguôi thương nhớ nghề xưa. Điệp xin từ ông bầu rất nhiều món đồ diễn, đem về cất kỹ, thỉnh thoảng chị mặc áo đính kim sa hát Mạnh Lệ Quân với anh. Lúc đó Điệp vẫn chưa phát bệnh.

      Bây giờ chị không còn sống bao lâu nữa. Khối u ở cổ đã đi vào não. Gương mặt xinh đẹp của chị biến đổi, nhiều bữa ngủ thức dậy, đôi mắt sưng húp, mũi chảy máu ròng ròng. Tai bắt đầu ù ù nghe không rõ. Nếu không phải trang trải tiền thuốc cho chị, Sáu Tâm đã không lang thang ngoài đường. Anh muốn được ở nhà, ở bên chị, nắm nuối từng giây, từng phút, để lúc chị đau anh giúp cho ly nước, vốc thuốc, cái khăn ướt lau mặt, để ôm ghì chị vào lòng mỗi khi lên cơn vật vã. Nhiều bữa mưa dầm đụt ở mái hiên nhà nào đó, Sáu Tâm thèm được khóc. Anh nhìn mãi đôi tay mình. Đôi tay từng làm mướn, đi bốc mả, vá xe, đôi tay từng bưng bê ở nhà hàng này, quán nhậu nọ sao lại bất lực không thể níu giữ được người mình thương.

      Nhưng bao giờ anh cũng về nhà với khuôn mặt tươi cười. Cười không phải vì vui. Anh nghĩ, may mình là nghệ sĩ, nếu không, sao có thể cười ròn khi đang tan nát lòng đau. Nhiều khi, về tới đầu xóm, Sáu Tâm phải dừng lại, đốt điếu thuốc để lắng cảm xúc mình lại.

      Anh sợ cả lúc bước vô nhà thấy chị đang nằm ngủ, Điệp biết hết. Nên mệt mỏi thế nào chị cũng làm một cái gì đó để đợi anh về. Chị thương anh quá.

      May mà có San. Câu chuyện của nó làm cho cả hai người nhận ra họ đã sống một đời nghệ sĩ đầy ý nghĩa. Như San, họ chưa thay đổi được cuộc đời bất hạnh của nó, nhưng đã an ủi nó nhiều. Điệp bảo:

      - Em không tiếc gì đâu. Tâm đừng buồn cho em nữa, nghen.

      Chị dặn, đừng nói cho San biết chị sống với anh, lại bịnh hoạn như vầy, “Nó đã giữ trong lòng một hình ảnh đẹp để ước mơ, mình đừng phá hư đi”. Nhưng rồi một đêm chị không ngủ mà nằm nghe trái tim anh đập từng nhịp gấp rãi, anh đang sống, chị nói với lòng, cái cơ thể này đang sống, mình nỡ nào để anh tạnh nguội theo mình. Vô tình, chị nghĩ tới San.

      Bất ngờ, một buổi trưa, San tới. Hôm đó, Sáu Tâm không đi bán mà ở nhà lợp lại cái mái che đằng trước, lúc này trời trở gió, mưa cứ tạt vô hoài. Anh còn kịp chạy lại lấy cái khăn vắt lên đầu giường đội lên đầu cho chị như vẫn thường làm khi khách đến nhà. San hơi khựng lại, nhưng nó nhận ra cô đào Điệp năm nào. Vẫn còn đó một đôi mắt hiền, hơi ướt, dịu dàng:

      - San phải không?

      Và còn đó một giọng nói mềm như lá lụa non. Đó là một ngày trời oi nắng, mây đứng trân trên trời. Đó là ngày San nhận ra, trước người đàn bà đau ốm này đây, mình vô tình gây nên tội, tội đẹp. Và tim nó thắt lại một cái đau nhói, vậy ra, người đàn ông bán khăn áo dạo không ở một mình. Không biết làm gì, San lại mở cửa sổ ra, nhìn ra những chòm cỏ xa xanh, nó kêu lên, “Trời ơi, ở đây bảnh thiệt, em thích một căn nhà như vầy lắm”, lòng vừa đau vừa thẹn thùa cười cái cọc đi kiếm con trâu.

      Sau này, mỗi khi rảnh, dù Sáu Tâm còn kéo cái bội áo khăn đi lang thang trên đường phố, San cũng lại nhà. Căn nhà mà hồi mới thấy xa xa, nó tưởng là nhà của mình. Bây giờ, lại đó, San quét nhà, nấu cơm, đợi Điệp ngủ San kéo mền tới cằm cho chị rồi lượm những sợi tóc buồn xơ xác như những chiếc lá lìa cành đem dấu đi. Bữa trưa đầy gió, chị biểu San đem lược lại chị chải tóc cho. Nó có mái tóc hệt chị ngày còn trẻ. “Tụi mình có nhiều cái giống nhau nghen. Chị cũng không có má, lớn lên trong trại mồ côi. Chị đến với sân khấu để vay mượn những thâm tình mà mình chưa hề có. Hồi nhỏ chị cũng cực lắm, nhưng không đến nỗi sa chân như San. Chị em mình còn một chuyện giống nhau nữa, đố San biết, tụi mình cùng thương anh Sáu, thương lắm, phải không?”

      San ngơ ngác hết mấy giây rồi lắc đầu. Chị bảo đừng giấu chị. “Ừ nếu không chê Tâm tàn tật thì bao giờ chị đi cho chị gởi lại. Em làm lại cuộc đời đi, Tâm rộng lòng lắm, không chấp nhứt chuyện này nọ đâu. Tâm dễ tánh. Mặc gì cũng được, ăn gì cũng xong. Con người đàng hoàng, nghệ sĩ mà đàng hoàng, không phù phiếm, buông thả. Kiếm người tin được không phải dễ đâu, San”.

      San không trả lời, không thể nói dối rằng “Thôi!” nhưng cũng không thể gật đầu cái rụp. Có phải là trao trái chanh trái bưởi cho nhau đâu mà một người đàn bà trao người mình yêu thương nhứt cho một người đàn bà.

      Sáu Tâm không biết chuyện này. Tối lại nằm gối đầu lên tay anh, chị bảo, “San nó thương anh lắm”. Anh cười, “Tôi bây giờ đã thành ông già, còn cô nhỏ đó…” chị cũng cười, “Có sao, như Tâm với em”. Sáu Tâm biểu, “ngủ à nghe”. Nhưng chị biết anh vẫn thức bởi những ý nghĩ mới mẻ trong lòng. Chị thì ngủ, giấc cuối cùng, sâu thiệt là sâu. Đắp cỏ muôn đời.

      … San bỏ quán Mây Lang Thang, chiều chiều ngồi bán chuối, khoai lang nướng mỡ hành bán ngoài cổng nhà văn hóa. Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát, nó cười đã bỏ lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, thí dụ thôi nghe, người ta biết lúc trước tôi từng làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sĩ, làm người ta mất cảm tình với cải lương, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nước nhà.

      Cũng giống như phim tình cảm, đôi khi người ta vì yêu mà rứt ruột lìa xa người mình yêu. Biết làm sao, hoàn cảnh vậy mà.



Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư

85




Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn những đồ mỹ vị.
Quỳnh vào chầu, trong thấy, bắt trộm về, cất xích vàng đi mà buộc xích sắt, nhốt một chỗ, đến bữa thì để hai bát cơm, một bát thịt cá, một bát rau nấu đầu tôm.

Mèo ta quen ăn miếng ngon chạy đến bát cơm thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn bát rau nấu đầu tôm. Như thế, được hơn nửa tháng, dạy đã vào khuôn, mới thả ra.
Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con giống hệt, bắt Quỳnh đem mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi:
- Sao nó giống mèo của trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem về, nói cho thật!
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết.
- Thử thế nào? Nói cho trẫm nghe .
- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo ăn cơm với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch.
Quỳnh nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú quý thì ăn cao lương mỹ vị, bần tiền thì cơm hầm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
Rồi lạy tạ đem mèo về.
2646




Một thực khách vào quán cơm được ông chủ dọn một bữa ăn thịnh soạn, món nào cũng ngon và nhiều, giá lại không lấy gì cao. Hôm sau, khách lại đến. Lần này khác hẳn, thức ăn xoàng, không đủ dùng mà vẫn giá cũ. Khách làm lạ hỏi tên hầu bàn thì được lời giải đáp như sau:

Thưa ông, bởi vì hôm qua ông ngồi gần kiếng, thiên hạ đi ngoài đường nhìn vào dễ dàng; hôm nay ông lại ngồi trong góc, có ai thấy đâu!

2756




Nghe tiếng cười khúc khích của ai đó ở cổng thiên đường, Thánh tông đồ hỏi:

- Ai cười thế?

- Tôi!

- Người cười cái gì?

- Tôi cười các bác sĩ. Tôi lên đây đã cả tiếng đồng hồ mà ở dưới đó họ vẫn đang loay hoay mổ cho tôi.



o O o


Thời gian

Một người đàn ông cảm thấy không được khoẻ, ông ta đến bác sĩ để khám.

Sau khi khám xong, bác sĩ nói:

- Tôi rất buồn phải thông báo với ông rằng sức khoẻ của ông đã suy kiệt rồi. Ông không còn nhiều thời gian đâu.

- Trời ơi? Vậy chính xác là tôi còn bao nhiêu thời gian hả bác sĩ?

- Mười

- Mười? Mười gì cơ chứ? Mười tháng? Mười tuần??? Hay là gì???

- Chín...
2493




Một tổ chức từ thiện đến gặp ông luật sư giàu nhất thành phố và thuyết phục ông ta đóng góp cho quỹ của họ.
- Thu nhập của ông thuộc vào loại cao nhất thành phố. Vậy ông có thể quyên góp chút ít cho cộng đồng không ạ? Tay thầy cãi hít một hơi dài và bắt đầu tấn công trả lại:
- Thứ nhất, tôi có người mẹ đang bệnh nặng, tiền thuốc thang tốn gấp nhiều lần thu nhập hằng năm của bà...
- Dạ... chúng tôi không biết.
- Thứ hai, tôi có người anh trai là một cựu chiến binh, bị mù và phải ngồi xe lăn.
- Xin lỗi...
- Chồng của em gái tôi đã qua đời trong một tai nạn giao thông, chẳng để lại cho nó và ba đứa con nhỏ dại đồng xu nào.
- Vâng, như vậy là ngài quá vất vả...
- Chứ sao! Đến họ mà cũng chẳng xơ múi được gì ở tôi nữa là các anh.
2073




Hai vợ chồng nhà nọ (đã có ba người con) đọc báo và tìm thấy một thông tin hấp dẫn như sau: "Nếu cặp vợ chồng nào có từ bốn mặt con trở lên sẽ được cấp một căn hộ".


Bà vợ hồ hởi nói với chồng: "Ngày trước, hồi đi bộ đội, nghe nói anh cũng đã có một "thằng" với cô X người địa phương, bây giờ anh đi đón nó về đây, nhà mình sẽ đủ tiêu chuẩn để nhận căn hộ đấy". Anh chồng nghe lời,vội vàng chuẩn bị đồ đạc, lên đường về nơi đóng quân năm xưa...


...Một tuần sau, ông chồng trở về. Mở cửa vào nhà, thấy bà vợ, ông ta nói ngay "Em ơi, anh đã về, thế các con chơi đâu rồi, gọi nó ra bố cho quà nào?".
Bà vợ rầu rĩ trả lời: "Bố chúng nó đến đón đi hết rồi, họ cũng đọc báo như mình".

453


Powered by Blogger.