Khi tiếng chuông nhà thờ ngừng đổ, mọi thứ tiếng động giữa lòng đường bỗng chốc dâng cao. Tạp nhạp, trôi chảy, không gián đoạn. Hai cây kim đồng hồ trên nóc giáo đường chuyển dịch, một kiếm ngắn một kiếm dài tách rời hẳn và mặt trời giữa ngọ như theo đó mà đứng bóng, ngập lụt sắc lửa vàng cháy. Những chuyến xe buýt không ngừng thả khách xuống và đàn bồ câu thì hầu như lúc nào cũng tụ tập đông đảo trước khoảng sân rộng dẫn vào chốn tôn nghiêm.
Mười hai giờ năm, mười hai giờ bảy, mười hai giờ mười phút. Gió làm bay những mái tóc vàng đứng đợi đèn đường chuyển màu. Làm không khí đậm mùi nước đái những cổ xe ngựa lọc cọc chở du khách đi về phía cuối thành cổ, ở đó khẩu đại bác của mấy thế kỷ trước vẫn không hề hoen rỉ, xanh bóng màu đồng nhô ra khỏi pháo tháp như muốn thách đố một điều gì trong câm lặng. Sông St-Laurent chạy một đường viền sáng ngời, cắt rõ biên giới giữa bụi bặm nhiệt náo với từng không lặng lờ một màu xanh chẳng gợn bóng mây.
"Làm phiền anh chụp cho bọn tôi một tấm ảnh." Người thanh niên trao cái máy nhỏ và nắm tay cô bạn gái đi thụt lùi. "Có thấy bức tượng ở đàng sau không? Cái nút đỏ ấy, chỉ việc bấm nhẹ là xong." Hai mái đầu tựa vào nhau, người con gái vuốt lại tóc và trong ống kính bức tượng người cầm gươm mình mẩy đen đúa hoen ố cả cứt chim. "Cám ơn." Họ đồng loạt nói. Người con gái đưa bàn tay che ngang trán như kiểu chào của lính, đôi mắt nheo: "Họ bảo nhà thờ ấy linh thiêng lắm phải không?" Cô đeo ba-lô sau lưng và tuồng như cô đến từ một nơi chốn khác, trước mặt còn dài những ngày nghỉ hè. "Tôi cũng không rõ. Có thể là như vậy." Họ gửi lại hai nụ cười khác nhau rồi tay trong tay níu kéo đi xăm xăm, đội nắng tới lãnh địa của Chúa.
Thoảng trong gió có mùi hương quen, gần gũi:
"Xin lỗi, tôi đến trễ. Khiếp! Hôm nay là ngày gì vậy cà?"
"Thứ sáu, nhưng không phải mười ba."
"Có lễ lạc gì không? Người đâu mà đông thế!"
Anne nhìn dớn dác, cuối cùng cô chỉ tay về một bãi cỏ xanh nằm trên đồi thấp. "Lại đó đi." Anne mặc chiếc váy rộng và gió như có cớ để đùa nghịch: khi thổi phồng nó lên, khi dán chặt vào đôi chân vướng víu. Thuốc ngừa đổ mồ hôi nách thơm thứ mùi hương nồng đậm, ngửi thấy ngầy ngật như bị say nắng.
"Tôi có mua bánh mì thịt nguội và luôn cả nước ngọt. Nhưng đó không phải là lý do khiến tôi đến trễ."
"Tôi đợi không mấy lâu, tuy vậy tôi ngỡ là mình đã nghe lầm điểm hẹn. Nhà thờ. Hình như gần đây còn có một cái giáo đường khác?"
"Ừ, nhưng nó không cổ xưa và tiếng tăm như cái này."
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ thì vẫn hơn."
"Cũng tùy. Đông đúc thì dễ hòa lẫn vào. Sao, mọi chuyện có gì thay đổi không?"
Anne hỏi trong khi kề sát đầu vào để hôn. Hơi thở nóng, như người đang nhuốm bệnh; và thứ kẹo cao-su mà cô đang nhai mùi vị hệt như thuốc xi-rô trị cảm cúm ho hen.
"Hiện tại thì chẳng có gì đổi thay."
"Con Kathy hôm nay nhác chơi. Từ nhà trẻ đi ra, nhìn lui vẫn thấy nó ngoái trông. Mặt buồn bã, tội nghiệp."
"Nó mấy tuổi rồi nhỉ?"
"Bốn."
"Sách vở y khoa bảo là con nít phải tới mười tuổi mới ý thức được cái chết. Sự sợ hãi cũng như nỗi buồn khổ khi thiếu thốn."
"Nói vậy nghĩa là sao?"
"Là bốn tuổi thì nó có hề băn khoăn vì không thấy mặt cha?"
"Tôi không biết. Hình ảnh những thằng đàn ông đến đón con ở nhà trẻ chắc có gieo vô trí óc nó một dấu hỏi... Tôi cũng vậy, tôi cần có một người đàn ông sống ở trong nhà. Bóng đèn bị cháy, bồn rửa chén bị nghẹt, đêm hôm trái gió trở trời... mấy cái lẻ tẻ đó cũng làm phiền mình lắm."
Khá đông người đang chiếm cứ nằm ngồi trên bãi cỏ. Mình trần hoặc xiêm áo chỉnh tề. Ăn uống, hút thuốc, hôn nhau, chuyện trò hoặc nằm ngủ dang cả tay chân. Tuy vậy, đó là những nơi ngập nắng. Anne kiếm không mấy khó một bóng mát và thật kỳ lạ, bóng mát nào cũng ế ẩm chuyện "lấn đất dành dân." Cô lấy từ túi ny-lông ra tờ nhật báo, khom mình trải rộng nó trên cỏ. Áo khoét rộng cổ cho hợp với thời tiết và thấp thoáng ở đằng sau những hạt nốt ruồi vẫn còn nằm nguyên vị trí cũ. Ngực Anne không lớn và có thể con Kathy không hề được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ. Ngực Anne nhỏ và điều đó như làm cô mang ngầm một nét quyến rũ riêng tây. Săn chắc như một thiếu nữ chập chững đi tới cánh cửa dậy thì.
"Công việc như thế nào?" Anne hỏi khi cô bày thức ăn trên mặt báo. Tờ Journal de Montréal bao giờ cũng trình bày lem nhem những co chữ lộn xộn và nó có khối người đọc bởi chuyên đăng tải những chuyện bậy bạ. Cha ngủ với con gái. Mẹ ngủ với con trai. Đại loại thế. Tuy vậy, hiểu cho tường tận những chuyện lắc léo kia thì vốn liếng Pháp văn cũng không đến nổi tồi. Chỗ nào còn ẩn khuất chưa thấu đáo thì cứ hoa tay múa chân cũng có ngày sáng mắt trước mọi thứ. Luân thường đạo lý, luật pháp và luật sống. Những cái đó tựa như động từ bất quy tắc mà mỗi người có một cách chia khác nhau, tùy nghi loay hoay sử dụng.
"Công việc? Vẫn vậy. Mệt mề như một cổ máy thiếu xăng dầu."
"Can đảm lên. Mình không có sự lựa chọn nào khác. Đúng không? Ăn cái này đi, tôi mua ở cửa hiệu chuyên nhập thực phẩm từ bên Pháp qua."
Khúc bánh mì dai, mùi mù-tạt nồng cay và những con ruồi từ đâu sớm làm kẻ thăm viếng. Có con lì lợm xua không bay. Có con từ tốn bò chậm rãi từ cổ chân lên tuốt đầu gối để trần của Anne. Những sợi lông măng vàng óng như nhụy phấn hoa, và ở thế ngồi bất cẩn kia gió có thể bất chợt thổi bay những gì vướng viú đang lay động trước mắt.
"Chiếc váy này mua tháng trước mà giờ này coi bộ mặc muốn chật rồi."
"Anne mệt không?"
"Đâu phải lần đầu. Lâu lâu hơi nhón người một tí thôi. Và hồi hộp."
Anne uống một ngụm nước ngọt. Trán cô ta lấm tấm mồ hôi, như lon nước cam ứa từng giọt nước ngoài vỏ nhôm mát lạnh.
"Hôm qua lại đụng mặt bố con Kathy, thật là phiền nhiễu!"
"Chuyện gì đã xẩy ra?"
"Chẳng có gì. Tuy nhiên tôi nghĩ là nên dọn đi một nơi khác. Cho khuất mắt!"
Mắt Anne nhìn xuống con đường đổ xuôi bên hông nhà thờ. Đường lát gạch nhấp nhô, phía trên căng tấm biểu ngữ quảng cáo vở kịch "L’enfer, c’est les autres." Tấm vải màu vàng cũng nhấp nhô căng gió, hắt xuống đất vằn vện từng vệt đen di động.
"Đôi lúc nằm ôm con Kathy giữa đêm khuya, tôi thấy căn phòng rộng thoáng như một cánh đồng. Tôi yếu đuối và tôi nhớ tới bạn rất nhiều. Nhà thờ kia rất linh, người ta bảo thế, có lẽ một lúc nào đó chúng ta nên bước vào cầu xin một điều gì chăng?"
"Trước đó hãy lựa sáu con số mà mua cái vé số. Cầu xin? Những đứa giàu có thường là những tên chẳng thèm tin chuyện dị đoan, huyền bí."
"Nói cũng đúng. Nhưng mà trước khi đời lên hương, bọn đó hẳn phải sống qua những ngày hoang tưởng như chúng ta. Này, hè tới bọn mình chính thức ở chung với nhau nhé?"
Anne lật tìm từng trang báo, sau cùng thì cô rút lên một tờ. Có nhiều vòng tròn làm dấu bằng viết đỏ, Anne cúi đầu đọc sau khi cô nghĩ ô quảng cáo ấy coi bộ bắt mắt nhất: "Ba phòng rưỡi, nhà mới sửa, có bếp điện và tủ lạnh, gần trường học, gần bệnh viện, gần métro Place des Arts. Giá bốn trăm chín lăm đồng một tháng. Xin điện thoại sau sáu giờ, số bla, bla, bla... Ngó được quá đi chứ?"
Anne đổi thế ngồi, mặt thoáng nhăn nhó. Một tay xoa nhẹ lên bụng và tay còn lại ném những vụn bánh mì ra xa cho chim ăn:
"Sao không nói gì cả vậy?"
"Tôi đã chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn không tránh khỏi nhiều lo ngại."
"Về điều gì? Trong số báo này tôi đọc thấy một câu khá hay đăng ở mục trả lời những rối rắm của đọc giả: ‘Người ta sẽ đi suông sẻ trên đường nếu trong tâm họ sắt son một lòng thương yêu’."
Anne vuốt lại đầu tóc, cởi vòng cao su tròng ở cổ tay để cúi mặt cột túm sau ót thành một cái đuôi ngựa.
"Mai tôi đi nhuộm nó thành màu đen nhé?"
"Để làm gì? Hớt ngắn cho mát mẻ thì có lý hơn."
"Ừ thì hớt ngắn và sau đó nhuộm đen mun cho hai đứa mình giống nhau. Màu đen e là màu mạnh nhất trong các màu. Chị tôi dạo đó ở với thằng John, sinh đứa nhỏ ra da dẻ đen bóng. Tôi nói với bả, sao kỳ vậy cà, chị chế sữa vô ly cà phê thì cái chất nước đen kia phải đổi màu chứ? Một đứa bé có làn da màu cà-phê sữa thì chắc là ngó đặng hơn. Đưa tay cho tôi. Có thấy gì không?"
Bụng Anne tròn, cứng. Như một kẻ háu ăn đang ngồi thở dốc vì bội thực. Cách một lớp vải mỏng nhưng có thể biết được đâu là vị trí vết sẹo nằm vắt ngang. Con Kathy chào đời bằng lối đó. Bốn năm rồi, những đường kim mũi chỉ đã chìm dấu và tương lai, trên khoảng da bụng căng láng kia người ta sẽ không nương tay cầm dao rạch thêm một lỗ hổng mới. Chẳng còn hạ sách nào khác. Anne cho biết là lần này cô sẽ yêu cầu bác sĩ cắt bỏ buồng trứng luôn. Cho tiện việc sổ sách.
"Mai tôi đi bệnh viện L’enfant de Jesus. Có bận việc gì không? Sau đó chạy ra chợ trời Namur mua sẵn ít đồ cho đứa nhỏ. Chị tôi nói, nôi giường ở đó bán rẻ như bèo. Thượng vàng hạ cám, thứ gì cũng ê hề mà giá cả không có thiên lôi như chỗ khác."
"Tôi không đi được. Cuối tuần, việc vàng lúc nào cũng ngập đầu."
"Cái gì đây?"
"Anne cất đi, cho có mà sắm sửa."
Phong bì màu trắng, Anne đón nhận và ngắm nghía. Ở trên góc in cái logo của nhà hàng, đỏ loét như một vết thương mới đổ máu. Chỉ một vòng tròn nhỏ, người vẽ đã nhét chật vào trong đó những long, những phụng, những vân, những nhật, những nguyệt, nhửng sơn, những thủy. Cái phong bì khá lớn, nhưng ngược lại, nó đựng lỏng lẻo vài tờ giấy bạc. Chỉ vài tờ, xộc xệch, vậy mà nó đã cướp đi khá nhiều sinh lực, sinh thú. Lao động tại sao lại gọi là vinh quang?
"Cám ơn."
"Tôi trở về lại với công việc nhé?"
"Chia tay rồi sao?"
Đồng hồ trên nóc giáo đường chỉ tới số một. Thời giờ thì bao giờ cũng có ở đó sự khó hiểu. Đôi khi nó dậm chân tại chỗ, một vài lúc nó tròng đôi hia bảy dặm vào, thoáng sáng, thoáng trưa và màn đêm đổ ập tới trong ngờ vực.
"Xong việc khoảng mấy giờ? Để tôi biết mà gửi con Kathy sang nhà bà chị. Nhớ không, đã một tuần rồi mình chưa hề làm tình với nhau."
"Tôi không rõ. Có gì tôi gọi điện thoại cho hay."
Anne đứng lên sau khi thu dọn các thứ trên cỏ.
"Dạo này ốm quá, da xanh. Tôi vẫn ngỡ là làm trong nhà hàng Tàu thì tha hồ mà ăn những thứ hợp khẩu vị."
Triền cỏ đổ xuôi xuống lề xi-măng. Thưa thớt dần người ngồi. Chim rỉa lông dưới nắng và dãy thùng rác đầy kè những con ruồi lên xuống.
"Để hồi nào lại tôi hớt tóc cho, trông xác xơ quá!"
Hai đứa đứng ôm nhau hồi lâu. Như dưới chân có hành lý và ngoài sân ga tàu đang hú còi đòi băng mình khỏi bến đậu.
"Nè, tôi có một yêu cầu, cho tôi được quyền đặt tên đứa nhỏ nhé?"
"Tại sao không? Anne đã từng cười đùa về cái tên tôi mang. Những Van, những Truc, những Son..."
Bên kia đường, dưới thềm bóng mát của một cơ sở bán bảo hiểm nhân mạng có người quấn vải trắng toàn thân, tóc tai mặt mày bôi trắng xóa màu vôi, tay mang găng trắng, chân đi giày trắng và chiếc nón đen đặt giữa lối đi đựng đầy những đồng tiền. Người giả thiên thần kia đứng yên như bức thạch cao, mắt nhắm nghiền, hai tay vòng ra ôm hư không, đày đọa, đau khổ, như thể thiên đường đã mất dấu. Anne xuýt xoa và sự xúc động lộ ra trên mặt, y như đám đông hiếu kỳ đang vây quanh cái xác ướp màu trắng. Ở gần đó có người đàn ông rậm râu thổi kèn đồng ai oán khúc nhạc "Je t’aime, moi non plus." Trước mặt ông ta cũng có chiếc nón nhưng nó hứng chẳng nhiều nhặng gì ơn mưa móc của bá tánh. Mặt đỏ ké, ông không ngớt phồng má trợn mắt. Cho hay ở đời có khi năng nổ lao động cho lắm cũng không bằng kẻ đứng yên chây lười chẳng buồn cử động.
"Một ngày đẹp trời nào đó tụi mình dắt nhau đi tới tòa thị chính nhé?"
"Tòa thị chính?"
"Để ký với nhau một tờ giấy cho có vẻ danh chính ngôn thuận. Chị tôi luôn sẵn lòng để đóng vai một nhân chứng."
"Ừ. Một ngày đẹp trời nào đó."
"Nhớ nhé. Nãy giờ Chúa đã nghe hết những bàn tính của đôi ta."
"Thôi, tạm biệt."
"Bai. Hãy điện thoại cho tôi."
Đâu lưng nhau, mỗi đứa có một lối đi khác nhau. Điều ấy liệu Chúa có thấy không? Anne hẹn gặp trước nhà thờ, cô nói trong điện thoại: Bởi vì chỗ ấy không xa nhà hàng Orient. Không xa, nhưng phải mười phút để lội bộ, để lòn lách ở những lối đi gọi là đường chim bay. Một giờ mười lăm, con chim về đậu đúng tổ.
"Nị đi đâu nãy giờ không thấy?"
Thằng A Hính hỏi với cây tăm tre nhúc nhích nơi cửa miệng.
"Có biết là hôm nay một trăm hai chục mạng người sẽ ngồi đầy ở đây để ăn mừng đám cưới không?"
"Biết. Tôi sẽ chạy bàn mệt xỉu. Tôi sẽ là con gà mắc đẻ cho tới khuya."
"Biết vậy là tốt. Bà già có điện thoại lại đó. Hỏi thăm bả một tiếng rồi nhào lui sau bếp phụ ngộ một tay."
A Hính có dáng vẻ như một thằng tài tử Hồng-kông. Một đứa đóng vai công tử ở Thượng-hải chứ không phải là tên sát thủ xã hội đen gói dao trong tờ nhật trình bạ ai cũng rút ra chém. Bởi thế nói chuyện với hắn ‘được’ hơn là tám thằng đàn ông mặt mày bặm trợn ở trong quán. Được thêm điều nữa, hắn giỏi tiếng Việt nhất bọn và đôi khi nghe hắn nói nhiều câu lấn cấn thiệt đã ngứa cái lỗ tai.
Điện thoại nằm sau quầy rượu. Màu nhựa đen bóng mỡ màng, nhấc lên để nói chuyện có lúc thơm lừng mùi tương tầu xì.
"Má hả? Con đây."
"Hồi nãy má gọi mà con đi đâu thằng Hính cũng không biết?"
"Con đi đánh vé số. Nhờ trời, đánh cầu may. Má gọi để nói chuyện chi?"
"Ừ, bà Tâm mới chết hôm qua. Má tính nói con đưa cho má ít nhiều đặng có mà đi phúng điếu người ta. Thiệt tội, mới đó mà đã ra người thiên cổ! Bà Tâm chỉ bằng tuổi má chứ đã già nua chi cho cam!"
"Bao nhiêu thì đủ hả má?"
"Má cũng không rành. Con cứ cho má xin một trăm đi. Chao, tháng tới lại còn phải tốn tiền đám cưới cho con gái bà Sáu nữa mới khổ chớ!"
"Tối nay ở đây người ta có đặt tiệc cưới. Tôm cua cá mực ê hề, má ưa ăn thứ gì để con gói một ít ‘tả páo’ về cho má ăn."
"Í, thôi khỏi. Tuần nay má ăn chay. Má đi chùa làm công quả. Má niệm Phật cho hương hồn bà Tâm sớm thong dong miền cực lạc."
"Má này..."
"Hả?"
"A Hính nó gặp chuyện phiền não không biết con có giúp nó được không?"
"Giúp được thì nên lắm, trong khả năng của mình. Hắn chẳng từng nói với con là anh em như thủ túc bạn bè như y phục đó sao?"
"Hắn có đứa bạn gái lỡ mang bầu, con hỏi có chắc là con của nị không? Và con xúi hắn biểu đem đi phá cho yên thân."
"Mô Phật. Tổ cha mi. Ai đời lại tâm xà đi làm quân sư kiểu đó. Mà cái thằng Hính nữa, ngó nó hiền lành vậy mà. Thiệt là quá tay quá chân!"
"Vậy chứ theo má thì làm sao đây? Quất ngựa truy phong thì chắc không xong rồi. Con nhỏ kia là đầm đó má. Mắt xanh mũi lõ da trắng tóc vàng, má có ưa có đứa con dâu như vậy không?"
"Chao, thiệt là nghiệt. Biểu thằng Hính cho nó ít tiền để tự mình chu toàn việc sanh nở thì có đặng không?"
"Biết đưa bao nhiêu tiền mới gọi là thanh thoả? Chưa kể con nhỏ kia đòi ra tòa làm giấy hôn thú nữa."
"Thôi, má mệt lắm. Nghe chuyện thanh niên trai tráng bọn bây tao thiệt không hiểu. Nói thằng Hính liệu ăn chay niệm Phật là vừa."
Điện thoại buông xuống vị trí cũ. Chiếc quạt trần quay rã rời xua không nổi mùi nhựa đường xông vào. Ở sau bếp tiếng động dao thớt chẳng ngừng ta thán nhịp điệu cách khoảng. Ông Pạt phụ bếp vẫn còn yêu đời chu mỏ huýt gió bài "Máu nhuộm bãi Thượng hải."
"Hính à, bà già ngộ có chuyện cần. Nị cho ngộ mượn đỡ một trăm."
"Cái gì? Mượn tiền nữa à? Vậy tám chục hồi sáng tiêu vào việc gì rồi?"
"Tiêu việc gì à? Ngộ mua thuốc mọc tóc a tài lũ. Có thấy tóc ngộ đang sói không?"
"Cạo trọc đi, rồi làm Thiếu-lâm trường hận."
Ông Pạt thôi huýt gió, ông với ly nước gần đó để ‘dậm xà’. Trà thấm giọng, ông đùn cả dao cả thớt cả xương cả thịt qua:
"Chặt đi. Trảm hết đống này đi. Chặt mạnh tay, chặt cho hết nó thì tự khắc trong tâm sẽ vơi nhẹ đi những rắc rối của cuộc đời. Nị đã nghe câu giận cá chém thớt chưa?"
Ông Pạt chùi tay vô tạp dề. Ông gỡ tờ giấy cắm ở cây đinh đóng nơi cánh cửa. Ông đọc to cái thực đơn của tiệc cưới tối nay. Gồm tám món cả thảy. Mỗi món có một cái tên mĩ miều rất Tàu và khi chấm dứt, ông gục gặt đầu như một nhà thơ tự tán thưởng bài cổ thi ấy là hay.
"Có một điều lạ tôi cần nói cho anh em biết, là chẳng hiểu sao những tiệc cưới được tổ chức ở nhà hàng này, tất cả những đôi vợ chồng bước ra khỏi nơi đây đều hạnh phúc đầy mình; họ ăn ở với nhau thuận thảo và đã có nhiều trường hợp người vợ mang bầu xong liền sinh đôi, sinh ba."
Hính cười:
"Đã gọi là hạnh phúc đầy mình sao lại có cảnh sinh đôi sinh ba? Cái đứa làm cha thấy vậy thì chỉ có nước từ chết tới bị thương!"
Hắn moi bóp giấy tờ sau túi quần:
"Đó, một trăm. Xem như kỳ lương tới ông chỉ có nước húp cháo thôi. Và chớ đừng nói với tôi húp cháo cũng là một hạnh phúc. Bà già ông hỏi tôi, sao dạo này nó lầm lì và bí mật như mèo dấu cứt vậy? Ông gặp tiếng sét ái tình rồi sao? Dắt bồ tới ông Pạt cho ăn cái thực đơn kia xem có đẻ được hai ba đứa nhỏ cùng lúc không? Cứ thử đi. Nếu đúng thế thì A Hính này xem như cúng dường tất cả tiền nong cho nị đó. Thiện tai! Thiện tai!"
Nhát dao chặt mạnh xuống thớt. Rầm. Thịt văng lìa ra xa, xương còn ở lại với dao rướm máu.
"Bọn bây có theo dõi tin tức không? Có con mẹ mài cây dao sắc đợi chồng về giữa khuya bèn nhẹ nhàng đem thiến cái vật cà chớn kia."
Tiếng chuông nhà thờ từ xa dồn dập đổ về nuốt trôi giọng nói ông Pạt. Trên chảo dầu nóng khúc lạp xưởng co quắp cháy đen.
1681
Ngoài cửa sổ có cành cây thưa lá đong đưa, tựa tay dong vẫy chàọ Dường như gió luôn lùa qua và mặt trời thì vẫn dấu mặt từ hai hôm naỵ Những tảng xi măng xám chận bít tầm nhìn, dãy nhà bên kia đường buồn câm như thứ sắc màu của một trần mây thấp, nặng trĩu nước? Khuất lấp từ đâu đó, có tiếng rì rầm cùa từng chuyến tàu điện băng ngang; tiếng kêu nghe bất thường cùa đàn quạ đen luôn khuấy động vào trí óc những điều không mấy vuị Hơi thảng thốt.
" Dậy sớm thế? Bên chỗ ông ở giờ này mới có hai giờ sáng."
Gia chủ mặc pyjama xộc xệch, vừa đi ngang và chấm dứt câu nói bằng cách đóng lại cánh cửa phòng vệ sinh. Những con quạ vẫn còn khản tiếng, như bài kinh cầu đọc chưa xong, trượt xuống từ những mái ngói đầy rêu xanh. Hai giờ sáng? Ở bên ấy hắn không nghe quạ kêụ Métro thì hoàn toàn di chuyển êm thắm dưới lòng đất chứ không trồi đầu lộ thiên như ở đây và người ta sẽ chẳng thể đứng dòm trời ngó đất giữa canh khuya được. Nằm trên giường, vùi mặt vào chăn gối, đợi bình minh gọi bằng thứ ánh sáng gắt gao của một ngày hè. Và ngày hè thì rỗi việc đến độ bần thần. Hắn muốn đánh đổi, muốn làm khác đi nên đã tom góp được ít tiền và chiếc vé máy bay British Airways khứ hồi làm hắn chóng mặt. Đang cao điểm, muà du lịch. Bạn chẳng thể mua ở đâu với giá rẻ hơn. Người ta nói thế. Hỏi có " ô kê" ?không? Hắn " đắc co" và giờ này hắn đứng đây nghe quạ kêu giữa bầu trời xám đặc màu chì, nơi mà thời gian chạy trước chốn vừa rời đi những năm giờ sai biệt. " Mặt trời không bao giờ tắt trên đất nước Anh!" . Câu nói thật quyền hành, thật cha chú. Sương mù sẽ chẳng tan trong đầu óc của những tên địa chủ.
" Muốn đi thăm thú mọi nơi ông phải ở đây khoảng một tuần."
Gia chủ đi ra, tiếng nước trong bồn cầu còn chảy xuống, rầm rộ đuổi theo sau lưng. Đầu bù tóc rối, những chữ ấy không chỉ nhắm vào thành phần năng nổ lao động. Bạn hắn vừa thức giấc sau giấc ngủ và dẫu có mộng lành, người nằm trên giường thường không ngồi dậy với một đầu tóc ngó thẳng thớm. Có thể hắn góp phần làm nguyên nhân tạo cho mái tóc ấy rối thành một ổ quạ? Hắn đã từ xa tới dừng chân xin trú ngụ, làm xáo trộn sự bình thường mà người ta cất công tạo ổn định từ nhiều năm.
" Ông sang đây bao lâu rồỉ" Hắn hỏị
" Hơn mười năm. Cho là vậy đi, tôi ngờ vực trí nhớ mình lắm. Tôi ngại sự hồi tưởng."
" Tôi cũng thế. Tuy vậy tôi còn nhớ một điều: Chúng ta xa nhau đã hai mươi năm!"
" Dữ vậy à? Đời sống là cái quái quỉ gì vậỷ Hai mươi năm, nếu nghịch sớm, giờ này đã có cháu nội cháu ngoại đầy đàn rồi!"
Gia chủ tóc đã điểm sợi bạc. Bụng đã lớn và có điều gì đó cướp mất sự linh hoạt nơi điệu bộ. Người Tàu họ thật hồ đồ trong những ví von, định nghĩạ Tri thiên mệnh là cái khỉ mốc gì? What the Hell...
" Ngọc ra saỏ" Bạn hắn lên tiếng khi xây lưng pha chế cà phê.
" Tôi không biết rõ, bởi vậy tôi sẽ đi thăm cô ấỵ"
" Thì ít ra ông cũng nắm bắt được một vài điều chứ? Về gia cảnh cô ta chẳng hạn."
" Ngọc đã ly dị, đang ở với một đứa con."
Cà phê giọt ngắn giọt dài chảy xuống từ phin lọc. Muỗng, đường, sữa... mọi thứ đều nằm sẵn ở bàn. Chiếc bàn rộng, còn bày ở đấy hai ba lon trà Đài" loan, quà hắn mang sang. Những cuốn sách, đa phần đã cũ, nằm xa tầm tay vớị " Luân đôn" không hề có một hiệu sách của người Việt. Và người ta hãnh diện đó là thành phố mà bạn không tài nào nhìn ra một sợi giây điện giăng ngang. Mọi thứ đều được cất dấu vén khéo dưới lòng đất. Tựa con đường hầm băng qua eo biển mà hắn sẽ chui đi thăm Ngọc, qua tuốt bên Paris.
Hắn ngồi xuống ghế, ánh sáng ngoài cửa luôn yếu đuối vậy mà hắn thấy rõ một hàng chữ in trên gáy sách: La porte étroitẹ " Bạn hãy mạnh dạn đi vào khung cửa hẹp..." André Gide nói nhiều điều thú vị, nhưng chẳng phải là tác giả câu: " Hành lý nặng nhất của kẻ lữ hành chính là cái ví không tiền." Nặng, nặng lắm. Hắn đã mỏi nhừ đôi chân.
" Dạo đó, vì cớ gì ông và Ngọc phải chia taỷ"
Cà phê thơm tho xộc vào mũị Chẳng có mùi gì thích hợp cho một đầu ngày bằng hương cà phê cả. Hắn gầm đầu vào tách nước đen sóng sánh. Ngọc cũng có một mùi hương tiềm ẩn nơi da thịt, nhưng đó gần là thứ hương dạ lý. Mùi của đêm hôm, của bóng tốị Có Ngọc kề cận, đêm sẽ ngạt ngào hơn, đằm thắm hơn; bóng tối sẽ dịu dàng hơn, huyền hoặc hơn, ngất ngây hơn.
" Dạo ấy tôi tập tành viết văn, có thể đó là nguyên cớ khiến gia đình Ngọc lãnh đạm ra mặt. Tôi thích nhất câu nói tát nước của ông bố Ngọc: " Bố mẹ mày, đồ bán trời không văn tự. Thứ nghèo đói mà luôn lếu láọ"
" Ồng chết rồi phải không?"
" Tôi không biết. Có lẽ vậỵ Người ta chẳng thể sống lâu với sự bẳn gắt đeo bên lưng gần như thường trực."
" Ông ta sẽ khác đi nếu có một thằng rể là bác sĩ kỹ sư."
" Tôi hy vọng thế."
" Chồng cũ của Ngọc làm gì?"
" Nha sĩ."
" Vậy thì ít ra khi về già, ông bố của Ngọc sẽ có một hàm răng giả được tặng không, miễn phí."
Gia chủ nói, có vẻ mỉa mai, có vẻ so sánh. Làm như một thằng văn sĩ sẽ không giúp ích được cho một ai, suốt cả cuộc đờị Hắn nhấm nháp cà phê, nghĩ tới câu khôi hài từng đăng trên báo: " Đừng dại uống cà phê" ?ở London. Bạn không thấy sao, nếu ngon, dân Anh đã không nghiện trà?!"
" Mấy giờ ông phải đến hãng?"
" Tôi khai bệnh. Tôi không đành lòng để cho ông phải chịu vất vưởng một mình ở xứ lạ."
" Nghe như ông đang trò chuyện với một con mạ Như tôi là một oan hồn chưa siêu thoát."
" Tôi nói điều này ông đừng ái ngạị"
" Về Ngọc? Hay một nhận xét về con người tôỉ"
" Về nhiều thứ... Ông tin chuyện ma không? Trong đời ông từng thấy qua người của cõi âm chưả"
Treo trên vách là bức ảnh đen trắng đóng khung một khuôn mặt phụ nữ. Người ấy đã thật sự khiếm diện, đã về với đất lạnh; đã làm căn nhà này trở nên quạnh quẽ toàn phần. Hắn nhìn lên, cảm nhận một nỗi buồn lẫn khuất.
" Tin. Tuyệt đối tin. Ngày mai tôi đi Paris rồi, cho tôi giữ kỷ niệm đẹp về ông, chớ kể những điều chẳng mấy vuị"
" Nhát gan! Sao yếu bóng viá thế? Vợ tôi luôn là người không bao giờ làm phật lòng một aị Đêm qua ông ngủ ngon, có phải thế không?"
" Không."
" Vì saỏ"
" Giờ giấc thay đổị Lạ chỗ nằm. Những chuyện xưa cũ liên quan tới ông bỗng chốc uà về và nhất là nghe được giọng Ngọc trong điện thoạị Tôi trằn trọc, tôi nhớ những thứ vụn vặt về Ngọc. Chưa bao giờ trí nhớ tôi trở nên minh mẫn đến dường ấỵ"
" Tôi nghe phong thanh những điều không mấy hay về Ngọc. Cô ta sống có vẻ buông thả."
" Vậy saỏ"
" Sau khi vợ tôi mất, nhiều người có ý muốn giới thiệu cho tôi một vài cô bạn gáị Ai tốt ai xấu, cô này ra sao bà kia thế nào, họ biết rành rọt hết ráọ Người mình quả thật kỳ lạ. Thảy một phường công an! Trong cái danh sách bá tánh thập phương ấy có ai loáng thoáng nhắc tới Ngọc. Ông hiểu không?"
Hắn thắp một điếu thuốc, thở khói xuống mặt bàn. Ngọc cũng hút thuốc, một đôi khị Điều đó có phải làm xấu đi, bôi mờ cái hạnh kiểm của một người đàn bà?
" Ông có vẻ đăm chiêủ Chắc tôi chớ nên rườm lờị Ông sẽ gặp Ngọc, trực giác của một nhà văn sẽ bày ra cho ông một nhận xét đúng đắn nhất."
" Cám ơn ông. Tôi cũng không tò mò để hỏi rằng, ông đã có một cô bạn mới chưả"
" Mệt mỏị Tôi chỉ biết trả lời có vậy thôị Ở Soho, trên khu phố Tàu có những ổ nhện. Nếu cần, tôi lên đó chọn lựa và trả tiền sòng phẳng chuyện mua bán xác thịt. Thật khỏe trí. Nghĩ tới hò hẹn, đấu láo, diễn kịch, giả dối và thề nguyền. Của cải và sự chia chác phân công tiền chợ tiền nhà... Mọi thứ đó làm tôi sợ hãị Một cái định nghĩa có thể chấp nhận được: Càng về già người ta càng giống như trẻ thơ."
" Trẻ thơ là hạng tuổi chúa đòi hỏi, chưa kể đó là thành phần ưa táy máy tay chân. Ngồi một chỗ không yên, sờ cái này, thử bóp cái kia, ưa thọc tay vào những hang ổ; lỗ cắm điện chẳng hạn."
" Đấy, tôi sợ phỏng tay, sợ điện giật lắm rồị Cho tôi xin hai chữ bình an!"
" Tôi lại nghĩ khác, người ta đâm khó tính khi về già. Ưa bình phẩm, ưa bắt bẻ. Họ luôn để ý tới những tiểu tiết. Họ chẳng thể có được sự hồn nhiên như mấy đứa trẻ. Họ giống như những tờ giấy đã trải qua nhiều lần tái sinh."
" Ông ăn gì không? Bánh mì với trứng gà..."
" Tôi không dùng điểm tâm, một tách cà phê và đôi ba điếu thuốc là đủ. Cầm cự cho tới trưạ"
" Ở đây không bằng Paris, nói riêng về khoản ăn uống. Sang đó rồi, Ngọc sẽ tẩm bổ cho ông. Khi được tẩm bổ, được chìu chuộng, người ta sẽ bớt rắc rối khi nhìn ngó cuộc đờị Có đúng không?"
Hắn nhìn vào mặt bạn, chẳng đọc được điều gì lạ. Vẫn khuôn mặt xanh tái chứa nhiều nếp nhăn, những chân râu mọc tùy tiện. Đã hai ngày, hắn chưa ngó ra sự thư giãn có trên đó. Một gương mặt không hề thay đổi kể cả lúc bỡn cợt.
" Ông còn nhớ thằng Trí không?"
" Trí nàỏ"
" Lý ra ông phải biết nó hơn ai hết. Trí mà hồi xưa từng có chân trong đội bóng của Tổng cục Hoá chất đó."
" Trí nhớ tôi đã suỵ Chịu! Tôi chỉ biết Cảng, biết Tổng cục đường sắt, biết đội tuyển Công an Hà nộị.."
" Đám tang vợ tôi có mặt Trí. Nó hiện ở Bỉ. Có dạo nó đi Paris về, mặc trên người chiếc áo T shirt và ưỡn ngực ra khoe: Quà của Ngọc đấy... Ông ưa nghe kể tiếp không?"
Hắn uống hết những giọt đắng cuốị Lạnh, lợn cợn xác cà phê nhám hột trên đầu lưỡị Bao thuốc Lucky chỉ còn một điếụ
" Tại sao không?"
" Chiếc áo trắng, in công phu tựa hồ một bức tranh thuỷ mạc mà Ngọc cất công lựa mua ở trong một thương xá trên Avenue des Champs Élysées."
" Rồi sao nữả"
" Áo in nhạt hình thiếu nữ khỏa thân, một bên có hàng chữ Tàu viết thật bay bướm mà Trí thắc mắc không tài nào hiểu lấy nội dung."
" Ông thì saỏ Ông đọc có được thông?"
" Dĩ nhiên. Đó là câu nói nổi tiếng của vua Hán Vũ Đế: " Năng tam nhật bất thực, bất năng nhất nhật vô phụ nhân." Nghĩa là: có thể nhịn ăn trong ba bữa chứ không thể thiếu đàn bà trong một hôm. Trí nghe cắt nghĩa xong nó cười ré lên: Ôi! Ngọc quả là người duy nhất đã hiểu thấu suốt tâm cang ta vậy!"
Cánh cửa gương không đón nhận thêm ánh sáng, thủy chung vẫn là thứ màu nhợt nhạt, tựa hoàng hôn đang rơị Tựa điềm báo một cơn mưa sẽ đổ ập xuống. Ngọn đèn vàng được bật lên, nó chiếm ngự mau cái không gian vuông vắn ẩm lạnh. Ánh sáng, tự nó như biết reo vui; hay tại mắt mình nhảy múa nhìn ra hết mọi sự vật đang ẩn náủ
Hắn đứng lên, cầm bật lửa đi lần ra cửa chính. Nơi đó, khuất sau một bức vách có dựng cái bàn thờ người vắn số. Thiếu phụ trong ảnh nhìn hắn bằng một nhãn tuyến long lanh, ngầm nói thật nhiều điềụ Đôi mắt ấy đã nhắm lại khi tròn bốn mươị Chịu hưởng dương mà không muốn hưởng thọ. Hắn thắp hương, cúi đầụ Tai nghe tiếng những con quạ còn xớn xác ở sân sau, như chúng muốn điểm danh sĩ số hiện diện. Hắn thực sự chưa già, chưa đi xong hạng tuổi tri thiên mệnh, nhưng khi cắm hương lên bàn thờ bằng những ngón run, hắn chợt hiểu một điều: Giờ này quanh hắn, bạn bè chẳng còn ai đông vuị Thưa dần, hao hụt, khuất lấp, đổi thaỵ Phải thế không Ngọc? Hẹn gặp ở ga Paris Nord, lần cuối trong đờị