Trời bắt đầu vào mùa Thu, ngoài đường lá đổi màu; dọc theo những con đường trong khu phố nhỏ, cây cối mang màu lá mới. Những cây lá: đỏ, vàng, xanh nổi rõ hơn trên nền trời xám màu chì; và lá cũng bắt đầu rụng nhiều.
Trong khu vườn sau nhà bà Năm chỉ còn mấy cây thông tháp bút là còn được màu xanh, căn nhà đâu lưng với khu vườn sau nhà bà có cây phong cành lá um tùm, nhánh de ngang qua hàng rào phủ xuống một góc vườn bà Năm. Những cành cây vào hè máy đứa cháu bà Năm có bóng mát vui chơi chạy nhảy, nhưng kẹt một nỗi vào Thu bà Năm hơi mệt vì phải gom lá hàng tuần. Căn nhà sau lưng là của vợ chồng người Mỹ hồi hưu, quanh năm im lìm dóng kín, thảng hoặc những ngày lễ lớn, Xuân Thu nhị kỳ như lễ Giáng sinh, lễ Phục Sinh mới thấy có ánh lửa reo vui hoặc tiếng ồn ào của đám con cháu về thăm. Bà Năm về ở khu nhà nầy hơn mấy năm rồi, nhưng chưa lần nào bà thấy mặt cặp vợ chồng người hàng xóm. Điều đó cũng dễ hiểu, vì căn nhà đâu lưng lại với nhau, hai mặt nhà quay ra hai con đường chia nhau một block đường.
Bà Năm đúng lặng nhìn khu vườn, được ông Năm chia ra thành nhiều ô nhỏ hình chữ nhựt, đóng bệ bằng cây, mua đất trộn phân đổ lên để cho bà trồng vài ba luống rau. Bà Năm chịu khó theo con ra chợ mua về nào ngò om, rau giấp cá, rau quế, rau thơm, húng cây, húng lủi, bạc hà, tía tô, hành lá... Bà Năm ngày ngày ra săm soi bắt sâu, xới gốc, tưới nước vô phân... Không bao lâu từ ngày bà về nhà nầy mảnh vườn nhỏ có sinh khí. Bà thường nói với sắp nhỏ cháu bà
-Tao ở đây như cây chùm gởi, sống nay thác mai, già rồi hổng có lo gì, chỉ tội nghiệp cho tụi bay thôi hà. Tao còn sống thì tụi bay còn chuyện để mà nghe, nữa khi tao theo ông bà ... chà, lúc đó chăc tụi bay thành Mỹ ráo trọi.
Lũ nhóc vây quanh bà đòi kể chuyện. Bà nhai trầu bỏm bẻm, một chưn co lên ... bà hắng giọng:
-Ừa, để tao kể cho tuị bây nghe. Lại chuyện năm non, bảy núi; chuyện ông bà..
Bà Năm kể chuyện, câu chuyện bà kể cho đám cháu bà nghe, nhưng mắt bà nhìn vào một khoảng không gian nào đó.
Khi vui thì muốn sống dai, Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi. Cuộc đời nó sao lắm nổi truân chuyên, buồn vui khó nói. Mới được đó, rồi mất đó; vừa mới cười xong thì bổng chốc nước mắt nó lưng tròng. Cuộc đời vốn nó là vô thường mà. Ai ai không muốn vui nhiều buồn ít, có phải vậy không? -Bà năm tự hỏi trống không. Vì đời không thường còn mãi mãi nên khi vui thì mình muốn sống dai, sống hoài để hưởng, nhưng lúc buồn thì muốn chết quách đi cho rồi. Vật đổi sao dời, ruộng lúa biến thành nương dâu mấy hồi! Làm sao đem cái chuyện "được thua còn mất" để mà định giá trị con người? Người Việt lúc nào cũng một lòng nhớ tưởng quê-hương, dù cho quê hương có rách nát tơi bời, dù cho đất mẹ có ba chìm bảy nổi, chín linh đinh. Chắc chắn một ngày nào đó sẽ "hết cơn bỉ cực, đến hồi thới lai"
Bà Năm kể không đầu không đuôi, bà nghĩ đôi lúc cũng buồn cho cái vận nước của mình. Càng nghĩ càng cố gắng làm sao để giữ cho cái nền, cái nếp của ông bà không bị mất trong đời sống ôi sao mà nó xô bồ hổn độn ở cái xứ tiền nhiều mà tình nghĩa hổng có bao nhiêu. Thằng con trai bà thường nói tếu với bầu bạn rằng "Tình là chín(h) nhưng tiền là mười còn vàng nó tới 24 lận, mà kim cương thì vô giá." Bà Năm nghĩ thằng con bà nói ra như vậy có vẻ như bi quan, chán đời nhưng nó là chuyện có thật.
Bà Năm cà kê cho lũ nhỏ đang đợi ba má đã ngủ gục dưới sàn nhà. Bà Năm ấm ớ nói như trong cơn mê... Gia đình bà Tư kia được sang đây bằng giấy bảo lảnh của con, những ngày đầu vui vẻ sao nó qua mau quá. Đời sống mới nó hoàn toàn hổng có giống bên nhà tí nào ráo trọi. Chuyện ăn chuyện ở nó khác huơ, khác hoắc. Nó ba mớ làm sao, người quê mùa thì chỉ còn có nước cười đau khóc hận, ai có qua cầu mới hay, ai có hiểu thì cảm thông cho cảnh bà Tư lắm. Mấy người hổng đồng ý kiến thì chê bai; họ nói ai biểu già rồi qua làm gì, sao hổng dzìa bển cho rồi. Nào là đứng núi nầy trông núi nọ. Họ còn biểu là được voi đòi tiên.... Thôi hơi sức đâu mà cãi. Ông bà mình dạy chín người mười ý mà. Thiệt đúng lắm. Nhưng họ có "Ởû trong chăn đâu mà biết chăn có rận". Bà Tư buồn lắm, ông Tư thì còn có chút thú vui cà-phê, cà-pháo, lâu lâu cũng phì phèo đôi điếu thuốc lá "Mâm-bô-rô" len lén vì sợ con nó ngầy ngà, con dâu nó ra vào nhìn ngó. Trời lạnh như vầy nếu có thèm chắc phải lủi vào nhà xe để phì phèo. Thôi thì bỏ tiệt đi cho nó xong. Riết rồi hút thuốc lá như một cái tội. Còn bà Tư đâu biết làm gì cho qua ngày dài đăng đẳng? Đi đâu cũng phải nhờ con cái nó chở đi. Nó vui thì được, hôm nào nó lỡ thua cá độ "phút-bôn", trong mình khó ở thì coi như bữa đó "huề tiền" là may lắm đó. Mà bà Tư bả đâu có muốn gì cho lắm. Chỉ muốn đi chùa, đi lể ngày chủ nhật, nấu nướng cái gì đó để cúng ông bà ngày giỗ, ngày quải vậy mà con cái nó cứ chê. Nó chê mê tín dị đoan, mùi nhang khói hôi nhà, vàng vách... Con cái nó đâu có biết người mình thờ cúng tổ tiên là việc "uống nước nhớ nguồn" Sách Trung Dung có nói "Tấu cách vô ngôn thị mỵ hữu tranh" (Tận tâm cúng vái mà không nói là không có tranh luận) nhưng nó có bằng lòng đâu mà cúng với vái. Cái gì cũng mang tới Chùa hết thảy. Mà cúng Chùa thì lại hổng có tiền. Đàng nào cũng kẹt. Ôi làm cái thân chùm gửi sao mà nó thấm thía làm vậy?
Bà Năm nhổ nước cốt trầu, bà nhìn đám cháu nằm lăn trên mặt thảm mượt như tơ, bà lẫm bẩm: "Đâu phải ai cũng bị như cảnh của bà Tư!? Có lẽ bà Tư là trường hợp đặc biệt đó thôi! Thôi thì ráng cầu nguyện." Bà Tư cũng là người có đọc sách thánh hiền đó chớ; Bả biểu rằng tại mình vô phước vô phần, chớ thiệt ra thì kinh Lể đà dạy rồi: "Duy thánh nhân vi năng hưởng Đế. Hiếu tử vi năng hưởng Thân. Hưởng dã, hưởng dã. Hướng chi nhi nhiên hậu năng hưởng yên" Việc cúng bái, việc thờ lạy tổ tiên là việc từ Vua chí Dân đều phải làm hết. Chỉ có bậc Thánh nhân mới biết tế lễ cho xứng đáng, chỉ có những đứa con hiếu thảo mới tế cho song thân. Chỉ có sự thành tâm mới có sự hiệu quả của việc cúng tế. Nước mình là nước thuộc phạm vi văn hóa Phương Đông mà. Có kiêng thì có lành. Cổ nhân có dạy: "Hữu thành tắc hữu kỳ thần,vô thành tắc vô kỳ thần." Có tin kính thành tâm thì có thần có thánh, ngược lại hổng tin là hổng có Thần linh gì ráo. Đời sống là sự tiếp nối của một chuỗi dài từ vô thỉ đến nay,và sẽ chảy mãi đến vô cùng. Mỗi con người thoạt sinh ra phải nhờ cha mẹ chăm sóc nuôi ăn, dạy bảo. Lúc còn đỏ hỏn, mọi việc đã có mẹ có cha, có tía có má. Do đó nếu có sự dưỡng nuôi, và nếu có "âm đức" thì mọi việc trơn tru; bằng ngược lại... Bà Tư cũng có cái lý của bả, có lẻ bà Tư không dung hợp được cái mới chớ gì?
Nhưng bên mấy người trẻ họ đâu có hiểu. "Thiên hạ chi lễ dã chí phản thủy dã. Chí phản thủy dã dĩ hậu kỳ bổn dã" (Kinh Lể Chương XXIb). Thiệt ra cái lễ nghĩa đi đến cùng cực là trở về với cái cội cái nguồn. Trở lại với cội nguồn đó chính là làm cho cái gốc của mình không bị mất,và mình không vong bản. Bà Năm chỉ là người hủ lậu, khi nghe chuyện chỉ biết thở dài, chớ làm gì hơn được. Bà Tư suy đi nghĩ lại, một ngày kia bả quyết định để dành tiền mua sẳn giấy máy bay về Việt Nam. Bả chuẩn bị một cuộc vượt biên ngược về nhà. Bà Tư đi thiệt, đám con khi biết chuyện hông hiểu họ nghĩ thế nào. Nhưng chỉ tội nghiệp ông chồng già ngày đêm lủi thủi ra vô, nhớ thương bà vợ.
Mấy đứa cháu ngáy pho pho. Bà Năm đứng lên bước vô nhà bếp bật đèn. Mâm cơm bà đã dọn sẵn mấy đứa cháu không chịu ăn. Hai vợ chồng đứa con chưa về. Bà Năm bước lại bàn thờ ông Năm thắp một cây nhang. Bà thở dài.
Mặt trời chưa ra khỏi đám mây. Trời vào Thu nên mặt trời dậy trễ. Bà Năm đã bước ra sau vườn. Bà chăm chút từng cọng rau, bà vuốt tay trên ấy lá bạc hà óng mượt đầy bụi phấn. Bà thở dài:
- Nhà không có cây rau sao ngó nó giống nhà hoang.
Mấy đứa con bà, nhứt là thằng Ba, người con bảo lãnh cho bà sang Mỹ, cứ cằn nhằn:
- Sao má không nghỉ cho khoẻ, mấy cây rau của má trồng không lại tiền nước má tưới cho nó. Má muốn ăn thì con ra ngoài chợ thiếu giống gì ngoài đó. Trồng vừa mệt mà không thấy có lợi gì hết ráo má ơi.
Bà Năm chỉ cười, những đứa con bà đâu có biết. Phải, mà làm sao nó biết được niềm vui của bà khi đứng nhìn những bông cà chua vàng rực rõ như ánh mặt trời khi cây mới đâm bông, nó cũng không thể nào hiểu được bà vui sướng như thế nào khi nhìn thấy cây rau quế nhảy mầm non nhú ra lộc mới, con bà lại càng không thể hiểu được cái mùi của đất. Bà Năm không thể nào diễn tả cho con cháu bà hiểu đươc cái vị hăng hăng nồng ấm của đất mới, mùi cỏ, mùi cây, những thứ mùi bà hít hoài không thấy chán.
Màu đất ở đây đen đen trộn phân ngái ngái, nhưng bà đã thêm đất mới thêm lá cây phong nên dịu bớt; nơi đó cây cuốc nhỏ của bà xới lên có những con trùn đen láng ngo ngoe làm bà nhớ. Bà Năm không biết, không hiểu tại sao nếu mỗi ngày bà không dẵm chưn trên đất là bà phát bịnh.
Bà Năm đi đi lại lại quanh vườn, sau trận mưa đầu mùa đất có mùi nồng nồng xông vô lỗ mũi, mấy cây rau quế rau thơm bà phải lấy bao ny long trùm kín, đang lùng bùng những hơi ấm bên trong. Bà Năm cười một mình. Bà lẩm bẩm:
- Ngộ thiệt, cây mà phải bận áo che.
Mấy đưa con đã dậy ồn ào. Một ngày cuối tuần như mọi ngày đã qua. Bà Năm bươc vô nhà, mùi của đất đi theo Bà Năm vô tận giường ngủ. Và sáng hôm sau mấy đứa con gõ cửa phòng mới hay bà đã ra đi.
Bờ tre, bụi chuối hai hình ảnh luôn nối liền với quê hương bản quán của người Việt Nam, hay ít ra nó cũng là hình ảnh quê hương trong ý nghĩ của anh Mười. Cứ mỗi khi có hình ảnh nào gợi nhớ đến lũy tre, bui chuối là anh Mười nghĩ ngay đến nơi chôn nhau cắt rún. Như buổi sáng hôm nay bước ra sau vườn bất chợt nhìn thấy bụi chuối lá rủ te tua vì cơn mưa đêm quạ Thế là trí nhớ òa vỡ.
Cây chuối xanh mơn mỡn, hay cây chuối te tua vì "Gió mưa bụi chuối te tàu ...", đều làm cho anh thấy thương thương, làm sao, khó mà diễn đạt được cái cảm giác lâng lâng, nó chạy rần rần dưới làn da, nó rung lên trong từng thớ thịt, nó kéo lên tận não, nó nghẹn ngào, rưng rưng. Thật là khó nói lắm. Như người uống nước, nóng hay lạnh tự "ên" người đó biết.
Nói đến chuối thì thiệt tình thì ai ai cũng biết, nhưng thử hỏi có bao nhiêu loại chuối, có mấy món ăn liên quan đến chuối thì... Úi chà chà ! thì có lẽ có người còn ngập ngừng không rõ. Ở cái xứ Mỹ này, chuối được chở từ Nam Mỹ lên chớ ở Bắc Mỹ làm gì có chuối\ "Ngộ thiệt !", anh lẩm bẩm trong miệng "Chuối không chịu được lạnh". Anh nghe nói trái chuối người ta hái và chỡ đi bán khi trái chuối còn xanh lè, xanh lét cho đến lúc tới tay mình có lẽ cũng gần tháng hoặc hơn. Cái kiểu này bên mình kêu bằng chuối gió đá, chuối dú ép ... Thôi đó là chuyện người, còn bên mình trái chuối hình như hổng có được quý trọng cho lắm. Sau bữa ăn phải có trái táo, trái nho, hay tệ lắm cũng phải là dâu tây ... tráng miệng mới gọi rằng sang, rằng quí ... còn chuối là ... thì nhà quê lắm .....
Thiệt tình mà nói cho ra thì anh nghĩ con người ta khó hiểu thiệt.
Tẩn mẩn anh ngồi tính - Đất nước mình nói về chuối thì nhiều lọai, chớ không chỉ có một loại như ở Mỹ này đây đâu nghen. Chuối ở đây kêu bằng chuối "Đổ-Lệ", (Ăn trái chuối mà nhớ tới quê hương rồi lệ đỗ hai hàng) Anh kêu như vậy cũng có lý do của nó; bởi vì ông chủ hãng chuối tên Dole, trên trái chuối có ghi rõ ràng. Nghe nói đâu rằng ổng là Thượng Nghị Sĩ của quốc hội Hoa Kỳ, và muốn ra làm Tổng Thống xứ Huê Kỳ.
Mỗi khi ăn trái chuối dù đó là trái chuối "gió đá" đổ lệ, cũng đều làm anh liên tuởng đến quê nhà. Anh thường nói với bạn bè :
"Đất mình là vương quốc chuối đó mà. Nếu kể về chuối thì... chuối già hương, chuối hột, chuối lá, chuối sứ, chuối ngự, chuối chát, chuối mốc, chuối cau, chuối Đồng Nai và nhiều nữạ "
Chuối thiệt là hữu dụng; trái chuối chín ăn đã đành, còn làm các món chuối, thôi thì lủ khủ : nào là chuối chiên, chuối nấu chè, chuối khô, chuối ép, chuối làm kẹo, chuối làm nhưn bánh tét chuối, còn gì nữa hông cà ? Còn chớ, còn cái bắp ở cuối buồng vẫn kkông bỏ đâu nghen, xắt ra ăn sống thì "hết xảy con cào cào"; có những món ăn như bún bò Huế, bún ốc, bún riêu, mì quảng mà thiếu cái món "bắp chuối" thì ăn mất ngon. Nhớ có lần ở Long Khánh vào một buổi chớm Đông, có chút mưa bay lất phất, có tí đất đỏ bám ở gót dày ....Trí nhớ anh quay về vùng quá khứ khi nào anh chẳng nhớ...Những ngày mưa gió đó được thưởng thức món bún riêu nhà nghèo ở trước cổng nhà. Người đàn bà bán bún thường chỉ cho một ít kinh giới và rau muống chẻ thôi, ăn bún nhà nghèo, nhưng hôm đó bả dặm thêm vài cộng rau thơm và đặt biệt cho thêm một đũa bắp chuối bào ... Ôi ! sao bữa đó món riêu trở nên có vị ngon đằm thắm đặt biệt. Những cọng bắp chuối bào thành từng khoanh, từng khoanh .......
"Khi bào bắp chuối cậu phải ngâm trong nước có tí hàn the để giữ cho cọng bắp chuối không trở nên xám đen xấu xí."
Người đàn bà vui miệng nói với khách hàng như vậỵ Nhìn những cọng bắp chuối bào có màu trăng trắng, nâu nâu khiêm nhường nằm trộn lẫn trong màu xanh phơn phớt của lá kinh giới, thêm cái xanh đậm đà đằm thắm của lá thơm rau quế; một tổng hợp về màu sắc đơn giản, không trau chuốt, không kiểu cọ nhưng không kém phần nghệ thuật, làm anh liên tưởng đến cô gái Bắc với chiếc áo tứ thân, với chiếc khăn mỏ quạ tay vân vê chiếc nón quai thaọ Những cô gái đảm đang mà Cụ Tú Vị Xuyên viết ra hình ảnh rằng :
'Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi cả năm con với một chồng.'
Những khi dọc thơ của cụ Tú khen bà Tú, anh lại nghĩ đến chuyện này, cái chuyện các bà mẹ Việt Nam :
"Trời mưa lác đác ruộng dâu,
Cái nón đội đầu, cái rổ cắp taỵ
Buớc chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn có ngày ươm tơ .
Thương nhau một chút ban sơ,
Lầm than đã trải nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ tường,
Gian nan tân khổ ta đừng quên nhau."
Từ cái bắp chuối đến tô bún riêu cua làm cho trí nhớ chạy lung tung, làm anh nhớ mẹ già còn đang ở Việt Nam, nhớ những ngày "trốn học bị đòn đau, mẹ chưa đánh roi nào đã khóc" (Thơ Giang Nam), nhớ những ngày mùa nước nổi mẹ chèo xuồng cho con đi học; nhớ những ngày mẹ tát đìa bị gai cá trê đâm nhức nhối nhưng mẹ vẫn cố nhịn chịu cơn đau để chuồi người theo con lóc bự đang vùi mình dưới vũng sình. Nhớ cây bần, cây mắm, nhớ khô sặc nước mắm me . Và nhớ cái hồi năm nẳm, nghe kể rằng cái hồi bị đói vì người Nhật thu mua lúa, người mình phải ăn tới củ chuối đó mà, lại nhớ về cái ngày bị đi tù hổng có lấy cái củ chuối để ăn.
Ngoài trái chuối bắp chuối ...thân cây chuối non ăn sống cũng không đến nỗi tệ, khi trộn nó với các loại rau khác như : Húng cây, rau quế, kinh giới, tiá tô, rau ngò, rau ngổ, đinh lăng, chuối chát, khế chua ... thì nó trở thành món không thể thiếu được khi ăn gỏi cá sống, hay là mắm và raụ
À ! Anh vỗ đùi cái bốp "Còn cái này mới ngộ nghen hông, cái bẹ cây chuối đó mà. Thân cây chuối được lớn lên nhờ những cái bẹ (tách ra khỏi cây nó hơi giống cái máng xối) và những cái bẹ này đem bọc cá lóc mà nướng truôi thêm bánh tráng nè, rau sống nè, cuốn chấm mắm me thì khỏi chệ Có người còn nói rằng cái bẹ đó có khả năng làm bay mùi tanh của cá lóc khi mình bọc nó nướng cá. Nhưng bây giờ làm gì có lóc mà trui ? Làm gì có bẹ chuối để bọc ? Coi xấu xí làm vậy chớ cây chuối cũng nhiều công dụng lắm.
Nhưng có người họ biểu rằng : " Dân mình vì nghèo nên mới ăn bậy ăn bạ chớ ngon cái nỗi gì cái món bắp chuối, gỏi cá, bún riêu .." Anh nghe thì nghe vậy chớ anh không có chấp mấy lời nói đó, anh chỉ buồn buồn thôị Anh hay nói với bạn bè "Ngưòi Mỹ họ thích " ham-bơ-gơ, hótđdót", người Ý khoái "Bi-xà, bà-ghét-ti", người Mễ Tây Cơ với "Bà-rí-tồ"..v..v..và v.v...thì người Việt thích bún riêu mắm tôm. Ai có phần nấy, nếu mình không ăn được pizza, hamburger thì người ta cũng đâu có quen cà pháo, mắm tôm. Ngưòi ta thích món "Pho" thì mình cũng xơi được "ba-bi-kiu". Hổng có gì lạ hết. Hổng có ai khen mình giỏi vì ăn được đồ người, "đồ" Tây, "đồ" Mỹ và cũng hổng có gì mắc cỡ, mắc càng khi mình ăn "mắm dzà rau" ăn cá kho quẹt, hay ngồi lại với nhau nấu món canh rau đay ăn với cà pháọ
Sách ca dao có câu :
Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn hay nói hay cười hay chơị
Khi ăn thì phải lựa mùi,
Khi nói thì phải lựa lời chớ saị
Cả vui xin chớ vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì.
Ta không chê của người,
Ta không khen của tạ
Nhưng dù sao đi nữa,
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Anh nhớ có ngưòi nhạc sĩ (có lẽ cũng ỡ đâu miệt vườn) viết ra bài ca như vầy : "Mẹ kêu cậu tới gần ngồi mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau ... rồi chợt thèm rau đắng nấu canh ... xin được làm mây mà bay khắp nơi giang hồ, tới chốn quê xưa ..." đó là "còn thương rau đắng mọc sau hè".
Cây rau đắng có gì ngon mà mẹ thèm khi mẹ trên đầu đã hai thứ tóc ? Phải chi mẹ thèm nem công chả phụng, trân châu bát bửu, hùng chưởng, yến sào thì nói làm gì. Mẹ chỉ thèm rau đắng nấu canh. Mẹ ơi ! Mẹ có biết ở quê hương mới có rau đắng để nấu canh, và cũng chỉ có quê hương mới có bông so đũa, bông súng, lá giang ....
Anh tần ngần hồi lâu nghĩ ngợi, lửng lơ chơi vơi vì ban nhạc, và thương quá là thương người mẹ, người cả đời hy sinh cho chồng, cho con. Mỗi lần nhớ nhà là anh nghĩ liền đến mẹ, người đàn bà xắn quần ống thấp ống cao, đã lo lắng cho ông già tía, và cho đám nhóc nên người . Không ai không có mẹ ? Và bà mẹ nào lại không thương con ? Những người mẹ khi :
"Đi ra đường soi gương đánh sáp,
Khi về nhà liếm láp nồi niêu".
Liếm láp vì người mẹ nhà nghèo luôn nhịn phần mình cho người thân trong nhà. Anh nghĩ như vậy, nên khi anh nghe bài ca rau đắng anh buồn muốn khóc. Anh nghĩ tới những bụi chuối sau hè, nhớ những bữa canh rau đắng. Nhìn bụi chuối anh thấy hình ảnh câm nín của người đàn bà Việt nam
Gió lay bụi chuối sau hè,
Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ
Cây chuối không là cái gì hết trơn trong cái thế giới bủng nhủng, bèo nhèo này, nhưng cây chuối còn rung trong gió là đời sống của con người còn một chỗ để trú chưn, còn một chỗ để đi về ....
Khi con suối đã tràn về biển cả, hoà nhập vào chỗ bao la bát ngát của đại dương, với những đợt sóng thần mang bước chân trôi đi muôn phương, ngàn nẻo, chắc nó chẳng còn nhớ tới cái nguồn nơi đã sinh ra vài giọt nước làm nên con suối ?
"Đêm khuya vằng vặc trăng rằm.
Mẹ đi rón rén vào nằm bên con.
Cánh tay ngắn ngủn no tròn,
Khư khư giữ chiếc gối ôm không rời
Cựa mình nhoẻn miệng thật tươi
Mơ chi trong mộng mà cừơi vậy con ?
Ngoài kia trăng dãi đầu non
Trong mơ có thấy trăng tròn quê ta ?
(Lời Mẹ Ru - Thơ Trương Anh Thụy)
Tiếng róc rách của con suối nhỏ khi len qua từng khe đá như tiếng mẹ ru khi mình còn nhỏ, tiếng ì ầm khi vượt những thác ghềnh, qua đồi cao, xuyên trũng thấp như lời la mắng, lời dặn dò lúc mình dợm bước vào đời ... nhưng con suối lúc nào cũng, dịu dàng, đằm thắm, và thần tiên nư lời ru của mẹ. Nhưng ... ở một xã hội mà :
Đồng tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khoẻ của người già,
Là cái đà cho danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý
Ôi đồng ttiền, thiệt hết ý ......
Thì chuyện suối, chuyện chuối, chuyện nhớ, chuyện thương, chuyện ân nghĩa, cội nguồn chắc là vô duyên lắm ? Anh chợt bật tiếng cười khan khi tự thấy mình "quê một cục". Nhưng, vốn sinh ra bên dòng sông, lớn lên bên ruộng lúa, vào đời bằng tiếng à ơi của mẹ, tiếng võng kẻo kẹt buổi trưa hè và thực chất là anh dân ruộng "đầu trần, chưn đất" nên nghĩ làm sao thì nói ra làm vậy mà thôi . Nhớ tiền nhân có nói :
"Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm khéo tô mặt người"
Đúng thiệt đó chớ. Tính anh lẩm cẩm, nói trước quên sau lại hay có cái tật cà kê dê ngỗng nên tía anh cứ chửi nhưng "chết cái nết hổng thèm chừa" nên hồi nhỏ bị roi mây đét đít hoàị Bây giờ trong cuộc đời ba chìm, bảy nổi, chín cái linh đinh trong cuộc sống, anh khoái nhứt hạng là thân thiết đi lại với mấy bà con "bình dân học vụ", thích nói lối nói vè, có vần có điệu của ông cha mình thưở trước. Lương làm sở Mỹ chỉ đủ trả tiền phòng trả tiền cơm tháng, nhưng anh có thì giờ để được rỉ rả ngồi nghe họ kể chuyện đời xưa, được nghe những bài lý, nào Lý Cái Mơn, lý qua cầu, lý quạ kêu ... lý quá trời là có lý như bài "Lý Giao Duyên".
"Chạnh nhớ đến quê hương.
Canh tàn đêm thắt thẻo .
Nghĩ thương cho song đường.
Tuổi hạc, da mồi khi tiết Đông thiên.
Ấm lạnh dường bao, chưa rõ âm hao .
Phận con bất hiếu cam đành.
Biết bao giờ trở lại quê hương.
Lo báo đền dưỡng dục thâm ân."
Đó, người dân quê hiền lành như cục đất, có sao nói vậy, tấm lòng chơn chất thật thà. Bờ tre bụi chuối giờ cách xa, có nhớ nhau thôi cũng đành. "À ơi ! Chiều chiều chim vịt kêu chiều, nhớ nồi xôi nếp, nhớ siêu nước chè."
Tiếng hát trầm ấm từ chiếc máy thu thanh "Xin được làm mây mà bay khắp nơi giang hồ..." Anh quay trở vô phòng nằm ngửa trên sàn nhà nhớ ông già tía anh ổng hay dặn rằng :
Thà ăn bắp hột nấu xôi,
Còn hơn giàu có mồ côi một mình.
Anh nghe chừng như ... Một giọt mằn mặn long lanh vừa lăn tròn qua gò má nhưng chưa rơi xuống thảm ...
Ngân Hà mở rộng cánh cửa sổ nhìn ra cánh đồng, mùi cỏ mới cắt sộc vô mũi nàng mùi ngai ngái tanh nồng. Đám học trò đang yên lặng làm bài bỗng la lên "Cô ơi hôi quá! Hôi quá!" Ngân Hà mĩm cười quay lại nhìn đám học trò nhỏ đang giương những đôi mắt nai tơ nhìn chờ đợi nàng trả lời. Nàng khẻ bảo "Các em chịu khó một chút rồi nó sẽ hết ngay mà. Chắc cỏ nầy là cỏ dại." Một cô học trò nhỏ ngồi trong góc đưa tay xin nói. Ngân Hà gật đầu ra dấu cho phép. "Thưa cô, cỏ nhà em thơm lắm. " Cả lớp cùng cười, Ngân Hà cười theo: "Ừa em. Cỏ nhà nào cũng thơm ..." Nàng chưa dứt lời có tiếng nói của một em bé trai "Thế sao cỏ trường học nầy không thơm hà cô." Ngân Hà bỏ dở câu nói quay lại nhìn người học trò vừa nói. Thằng bé tròn to bụ bẩm, hai má ú na ú nần, bạn bè đạt tên "Ông Địa" Nàng lựa lời "Ờ, ờ…cỏ nơi đây không được chăm sóc, có cỏ dại mọc chen vào cho nên mùi cỏ không được tinh khiết đó em." Câu giải thích mang đầy cảm tính của nàng chưa chắc thỏa mãn được thắc mắc tò mò của đám học trò, nhưng chúng im lặng trở lại và cặm cụi làm bài. Tuổi trẻ chóng quên và dễ tin.
Hôm nay vẫn lớp học bình thường. Chúa nhật có nắng xuân rực rỡ, chim líu lo trong vòm cây ven chân đồi, xe cộ ồn ào trên xa lộ không át nổi tiếng gió vi vu trong lùm cây hòa cùng tiếng chim trên cánh đồng bên cạnh ngôi trường. Từ căn phòng học nhìn qua cửa sổ, Ngân Hà có thể cho đôi mắt nàng tự do bay lượn trên khắp cành đồng thay đồi màu sác mỗi mùa. Cánh đồng áp sát hàng rào ngôi trường được trồng bắp, trồng lúa theo mùa, và đôi khi nàng còn nhìn thấy cả cánh đồng vàng hực khi vào vụ. Lần đầu tiên tham dự vào ban giảng huấn của trường, nàng đã choáng váng khi mở cánh cửa sổ; một thảm vàng lung linh reo vui, mùi lúa chín ngào ngạt trong không gian, và nàng đã căng lồng ngực hít lấy hít để. It lâu sau nàng còn thich thú khám phá thêm rằng mỗi sáng chúa nhật trước khi lớp học bắt đầu nếu đến sớm chừng nửa giờ nàng sẽ được chứng kiến sự hùng vĩ cảnh măït trời mọc đỏ ău từ phía chân trới. "Ôi! Sao mà thơ mộng thế." Nàng nhắm mắt kêu lên sung sướng khi căn phòng tràn ngập ánh náng sáng ấm áp, tươi mát, trong lành. Tạo hóa thật chí công, cái đẹp không chia riêng cho một ai nếu họ biết tìm đến và mở cửa đón nhận lấy nó. Ánh nắng rực rở, hàng cây xao động, cánh đồng lúa xanh rì lấp lánh dưới làn nước phun từ các ống dẫn nước tưới, tất cả tạo nên sức quyến rũ như một bức tranh tuyệt với. Nàng bỗng nhớ đến Vangoh và bức tranh Hoa Hướng Dương. "Ước chi ta là họa sĩ" Nàng chợt cười thầm với ý nghĩ vu vơ đó. Những người nghệ sĩ đã tạo nên cho đời biết bao bức tranh đẹp, những vần thơ hay, những mẩu chuyện để đời. Ử nhỉ, làm văn nghệ thật tuyệt vời. Mọi sự có thể sẽ qua đi nhưng tác phẩm sẽ còn đó. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, cảnh vật có thể thay đổi nhưng ánh nắng mặt trời vẫn không chút đổi thay. Ánh sáng đối nghịch bóng tối. Thái Dương -Thái Âm.
Ngân Hà chìm trong những suy nghĩ đầy cảm tính mông lung. Nàng muốn viết, vẽ "Khả năng không bằng ước muốn" Nàng tự nhủ. Có một lần cô bạn gái nói với nàng "Bồ muốn trở thành nhà văn à? Hay muốn làm họa sĩ?" Ngân Hà cười thay cho câu trả lời, cô bạn tiếp "Dễ ẹt mà. Có thì giờ cứ viết bừa xuống, nghĩ gì viết nấy rồi đem ra cậy đăng có trả tiền…" Cô bạn cười ngặt ngẹo sau câu nói chế diễu ước mơ thầm kín của nàng. Ngân Hà không có mộng ước trở thành văn sĩ hay họa sĩ. Nàng chỉ muốn được ghi nhận những cảm xúc của nàng ngay lúc đó. Đôi khi nàng tự hỏi "Tai sao cũng mực đó, màu đó, chữ nghĩa có sẵn đó mà nàng cắn mãi vẫn không ra?" Đám bạn cứ mỗi lần nhìn nàng mơ màng tư lự là chúng xúm vào chọc. Ngân Hà không trách đám bạn tinh nghịch.
Văn chương hội hoạ không phải là những tảng màu, những mầu mã văn tự chữ nghĩa lắp ghép. Làm văn nghệ không phải là có thời gian rảnh, hoặc sự đảo lộn vần điệu, pha trộn ngôn từ. Văn nghệ là làm đẹp cuộc đời, làm mới cuộc sống, tìm tòi khai quật để nẩy sinh những cái mới. Những suy nghĩ cạn cợt, những cố gắng thoát khỏi đường mòn bằng cách đào hang động, bẻ cong, che đậy, tối nghĩa những câu văn chỉ làm cho văn nghệ ngày càng đi xuống. Nếu không có căn bản nền móng vững thì sự làm văn nghệ đúng như bạn nàng thường chọc "Cứ viết bừa đi rối cậy đang có trả tiền." Ấy là một văn bản cáo phó, một quảng cáo "mì ăn liền".
Đám học trò vẫn cặm cụi trên bài tập. Ngân Hà rời khỏi khung cửa, lìa bỏ cánh đồng mơ ước phía xa xa để trở về với đám học trò nhỏ. "Thưa cô, chữ huỳnh với chữ hoàng có khác nhau không?" "Thưa cô tại sao chó mực, mèo mun, ngựa ô?" Những cái đầu bé tí xíu, những mái tóc (có khi) pha trộn màu nâu sáng, màu bánh mật không đen nhánh như những mái đầu Việt Nam của đám bạn bè như chị Ngân Hà nói "Học trò của mầy là tô tả phín lù.". Ngân Hà không dám chắc nàng đã hiểu hết những câu hỏi của đám học trò nhỏ-chúng nói tiếng Anh nhanh hơn gió-tuổi ô mai đã biết xài thuốc ngừa thai.
Nàng chới với trong cảnh đời đảo lộn. Chọn ngành sư phạm không phải Ngân Hà muốn làm "cô" thiên hạ, nhưng là những chia xẻ những đam mê, những nồng cháy. Bố trước khi mất có dặn "Làm bác sĩ lầm có thể giết một người, làm chánh trị lầm có thể giết một quốc gia…nhưng con ơi, làm văn hóa mà lầm là giết chết bao nhiêu thế hệ đó con ạ." Lời bố dạy có bao giờ Ngân Hà dám quên. Bố là một ông giáo làng từ ngày quân Pháp còn chiếm đóng. Ngôi trưòng làng nhỏ nằm trên mõm đồi nào đó ngoài miền Trung xa xôi, học trò của bố sau nầy hay đến thăm bố đã có ông một thời là m tướng, làm bộ trưởng, giám đốc trong chánh quyền Việt Nam. Bố nói "Làm nghề giáo như một người đi gieo giống con ạ. Hạt giống rơi xuống có thể sẽ bị chim, chuột ăn mất, hạt rơi vào đá, hạt rơi ngoài đồng…và có hạt sẽ nẩy mầm và sanh trái. Có thể có trái ngọt, trái đáng. Nhưng con ơi, hãy làm vói cái tâm chân chánh, tấm lòng vị tha cây sẽ nẩy mầm xanh." Và Ngân Hà theo bước chân của bố làm cô giáo tiểu học, và ngày nghỉ cuối tuần làm cô giáo Việt Ngữ. Dây học trò nhỏ nhiều sắc tộc bằng Anh Ngữ dễ hơn dạy đám học trò cùng chủng tộc vào ngày cuối tuần. Nàng không hơn gì đám nhóc đang ngồi kia. Nàng ngơ ngác và bối rối khi đọc chuyện Van Lang dựng nước, chuyện Bà Trưng, Bà Triệu đánh đuổi quân xâm lăng. Chuyện Son Tinh, chuyen Phù Đổng…v.v. càng làm cho nàng lạc mất lối về. Sách vỡ Việt Ngữ ít, tài liệu không có, các tác phẩm giá trị của Việt Nam nằm trong thư viện đại học Hoa Kỳ, thư khố Pháp.
Càng suy nghĩ, càng tìm về, Ngân Hà càng ý thức được trách nhiệm của
những công việc làm văn hóa văn nghệ. Phải chuẩn hành trang trước khi bưóc vào đời.
Ngôi trường đứng trên sườn đông ngọn đồi, hướng mặt trời mọc, những căn phòng nhiều cửa chớp bằng kiếng, có tấm bảng đen chạy dọc ngang tầm nhìn trên bốn bức tường màu xanh dương. Học trò ngồi hướng nào cũng nhìn thấy tấm bảng. Học cụ chứa đầy trên các ngăn tủ; bản đồ, hình vẽ được cuộn tròn trong những chiếc trục treo ở phần trên của những tấm bảng, chỉ cần bấm một chiếc nút nhỏ thì học cụ cần dùng sẽ mở ra. Lớp học Việt Ngữ dành cho ngân Hà được thuê mướn vào ngày chúa nhật. Những "học cu"ï cần thiết cho lớp Việt Ngữ không nằm ở nơi đây, nơi căn phòng này mà nằm ngay trong đầu nàng-một "bô nhớ" chưa hoàn chỉnh. Ngân Hà chưa đủ bề dày để làm cô giáo Việt Ngữ. Nàng đứng đây chỉ được trang bị băng một tấm lòng,một con tim thương nhớ quê hương.
Ngân Hà theo gia đình rời Việt Nam (theo lời mẹ kể) "Khi đó đạn nổ ầm ì trên phi trường Tân Sơn Nhứt., ba mầy vừa mới ra về lấy thêm đồ…thấy người ta chạy xuống bến tàu thì tao ẵm mầy chạy theo mà thôi." "Còn ba con và mấy anh chị khác như thế nào?" Mẹ Ngân Hà thở dài "Mẹ con mình đang nằm trong bệnh viện mà…mẹ thấy người ta nhốn nháo nên không kịp đợi ba trở lại…cuối cùng cả nhà gặp nhau tại trại tị nạn trên đảo Guam. Hú vía. Tạ ơn Phật Trời." Như một phép lạ, gia đình Ngân Hà toàn vẹn không mất mát một chút gì. Cứ mỗi lần có chuyện buồn, mẹ thường an ủi: "May lắm rồi con ơi. Nếu như mình ở lại bây giờ không biết thế nào? Gia đình mình may mắn lám đó con."
Ngân Hà lớn lên trong tình thương bao la của mẹ, trong sự đùm bọc mến yêu của anh chị. Nàng thật hạnh phúc. Cuộc sống của nàng thiếu một điều: Quê hương, mỗi khi nghe bạn bè cùng lớp nói về quê hương của chúng nó, Ngân Hà về hỏi mẹ. Tất cả tình yêu quê hương xuất phát từ những câu chuyện của mẹ, từ những buổi học Việt Ngữ với ba và các anh các chị. Dù có bận rộn đến đâu thì cuối tuần ba mẹ và các anh chị vẫn quây quần trong căn phòng đọc sách mấy giờ để cùng nhau học và đọc sách. Các anh chị rời Việt Nam đã có vốn liếng riêng, phần Ngân Hà việc tập đọc tập viết là một việc "Cố gắng đáng thưởng" như lời chị Hai và anh Ba trêu nàng.
Ba mất, mẹ quá tuổi làm việc, Ngân Hà và các anh chị cùng nhau phụng dưởng mẹ. Mẹ là nguồn tài liệu vô tận bằng các chuyện cổ tích. Các anh chị là gương sáng cho Ngân Hà. Đối với bố, Ngân Hà đã dành riêng một khoảng trời cho người cha kính yêu. Như căn nhà mở cửa ra hướng mặït trời mọc để hứng trọn nắng sớm của bình minh. Ngân Hà đứa con gái út của ông giáo già trường Lê Khiết vẫn mãi mãi mở rộng lòng nàng đi tiếp tục con đường của bố. Căn nhà hướng mặt trời mọc đang chông chênh nghiêng ngã mất hướng, trong khi đó Ngân Hà và đám bạn trẻ đang cố gắng tìm đướng leo lên đỉnh đồi cao.
Lớp học vẫn im lặng, đám học trò nhỏ cắm cúi làm bài. Ngân Hà đắm mình trong nắng và thả hồn ngao du chợt giật mình khi "Oâng Địa" cất tiếng hỏi: "Thưa cô bạn em nó nói người Việt là con cháu của người Tàu phải không thưa cô?"233