Prospéro , công tước Milan, là một vị quân vương lạ lùng. Cả đời, ngài vùi đầu sống giữa đống sách vở và các ống nghiệm, đắm hồn trong những cuộc nghiên cứu huyền bí, bỏ mặc việc triều chính cho người em trai là Antonio. Hậu quả thật tai hại. Gã Antonio đầy tham vọng, lợi dụng việc rời xa binh quyền và lòng tin cậy mù quáng của ngài để chiếm đoạt, trước tiên là mọi quyền lợi của công quốc, sau đó là lòng dân Milan. Tên gian tặc nghĩ mình mới thực sự là đấng quân vương, thu tóm mọi đặc quyền của Prospéro, là người vẫn cho rằng cái thư viện thênh thang là một công quốc vừa đủ cho nhà bác học. Vua xứ Naples, kẻ thù của Prospéro, tự xem mình là thượng quốc, hạ cố liên kết với Antonio. Cả hai âm mưu phế trừ Prospéro. Vào một đêm ghê rợn, lũ côn đồ theo lệnh Antonio xông vào Milan. Chúng bắt cóc Prospéro, vị công tước hợp pháp, cùng cô con gái ba tuổi Miranda, mang xuống thuyền, dông tuốt ra khơi. Gặp xác một con tàu đắm chỏng chơ giữa biển, đến loài chuột cũng chẳng thèm bén mảng đến, để tránh đổ máu, chúng quăng họ lên đó, bỏ mặc cho số phận đẩy đưa. Hồn nhiên, Miranda nhoẻn miệng cười, chính nụ cười đó giúp Prospéro có đủ nghị lực chống lại định mệnh khắc khe. Một công dân Naples tên là Gonzalo, mủi lòng trước cảnh hoạn nạn đó, dù lãnh nhiệm vụ thi hành mưu đồ độc ác, đã mang theo ít thực phẩm, nước uống, quần áo, chăn màn và số lớn sách vở mà Prospéro quí hơn cả công quốc của mình. Lênh đênh theo triều sóng, họ đến được một hòn đảo hoang vu, tưởng chừng như chưa có bóng người. Prospéro rời tàu, thực ra là mấy mảnh ván trôi giạt, dìu Miranda, ôm mớ hàng hóa quí hiếm lên bờ. Ngài sắp xếp chỗ ở trong một hang động thênh thang, chia ra làm nhiều ngăn. Nhà bác học kiêm pháp sư Prospéro nhận ra ngay trên đảo, có lai vãng những hồn ma Thiện và Ác. Bọn thủy thủ Alger đã vứt lên đấy mụ phù thủy hiểm ác Sycorax, hòng thoát khỏi sự trù yểm của mụ. Mụ ta có đứa con trai tên là Caliban, một con quái vật tóc hung gớm ghiếc, một tên súc sinh hung dữ, chỉ biết nói bập bẹ tiếng người. Để đảm bảo quyền cai quản hòn đảo cho con, trước khi chết, mụ ta đã nhốt trong các thân cây đại thụ các hồn ma đã không chịu tuân lệnh con mụ, Prospéro giải thoát cho họ và chiếm được lòng trung thành tuyệt đối của họ. Ariel hồn ma cầm đầu, nhất mực phục tùng ngài, luôn ngoan ngoãn làm điều thiện.

Mặt khác, Prospéro cũng nổ lực cải hóa tên Caliban gớm ghiếc, mong mang lại tính người cho hắn. Ngài đã dạy cho hắn nói, cho hắn uống nước và ăn quả ngọt, dạy cho hắn tên các vị tinh tú, -cái to sáng rực ban ngày và cái nhỏ lấp lánh trong đêm. Nhưng Caliban thừa hưởng của mẹ toàn bản năng xấu, hắn ta đã chẳng có lần hành hung cô bé Miranda đó sao? Bởi thế, hắn bị đày dưới hốc đá tối tăm và giáng xuống hàng nô lệ, phải gánh củi, đốt lửa, và luôn bị Ariel canh chừng. Gã này vô hình trước mắt mọi người, trừ ngài Prospéro. Cái hồn ma tinh nghịch ấy, nhớ lại cách cư xử tàn tệ khi xưa của mụ Sycorax đối với mình, đã tỏ ra khắc khe trong nhiệm vụ, gã kiềm kẹp Caliban, xô hắn ngã huỳnh huỵch trong các vũng nước, đôi khi biến thành khỉ, từ nhành cây cao, nhăn bộ mặt kinh dị với hắn, hay hóa ra con nhím, lăn tròn dưới chân hắn và tên đần độn, vụng về cất chân lên, để khỏi bị nhím đâm.

Trong lúc đó, thời gian vùn vụt trôi qua. Miranda lớn lên, càng thêm xinh đẹp và duyên dáng. Đến năm mười lăm tuổi, nàng chưa hề biết một người nào khác ngoài cha nàng, nên bao tâm tưởng, nàng đều gởi trọn cho cha. Hơn nữa, nhờ môn khoa học huyền bí đã trở nên điêu luyện sau mười hai năm ẩn dật và nghiền ngẫm, ngài có thể đọc mọi ý nghĩ giấu kín trong đầu con gái như trên trang sách. Ngài xét thấy thời gian đã chín muồi để có thể sử dụng sở trường khoa học của mình mà làm chủ mọi biến cố.

Ông em Antonio, thay ngài làm công tước Milan tháp tùng đức vua Naples và hoàng tử Ferdinand, đang lênh đênh trên biển với đám thuộc hạ. Họ vừa mang công chúa Claribelle sang châu Phi và đang trên đường về Italia, sau khi dự hôn lễ của nàng với vua Tunis. Chính lúc đó, họ lâm vào một trận đồ bát quái của Prospéro. Theo lệnh ngài, Ariel gây ra cơn bão lạ lùng, chưa bao giờ xảy ra trên Địa Trung Hải. Gió thổi khi thì trước mũi, khi thì sau lái, ma trơi chập chờn tứ phía, đỉnh cột buồm gãy ngang rồi trụ buồm, cột buồm cái thi nhau vặn mình răng rắc và đổ ập xuống. Giữa cảnh náo loạn, khi lưu hoàng theo sóng biển tràn lên, cả đoàn người đi tàu như lên cơn điên vì sợ hãi. Viên thuyền trưởng hoài công giữ chặt tay lái, họ nhảy bừa xuống biển đang ầm ầm cuộn sóng.

Chúng ta đắm tàu mất! -họ hét lên. Giờ này, ta xin đổi ngàn dặm biển để lấy một mảnh đất khô cằn, một bờ thạch thảo hay một bụi kim-tước chi gai góc. Chết trên khô vẫn sướng hơn! Hoàng tử Ferdinand kinh hoàng nhảy khỏi tàu, thốt lên:

- Tất cả yêu tinh quỷ quái đều tề tựu về đây, chắc địa ngục vắng không!

đức vua Naples, cha chàng, ngỡ chàng bị sóng cuốn mất.

Nhưng Ariel đã cẩn thận chọn nơi đắm tàu thật gần bờ. Vẫn theo lệnh Prospéro, gã phân tán nạn nhân ra từng nhóm, cho họ trôi dạt vào nhiều điểm khác nhau trên đảo, rồi về báo cáo với chủ:

- Chả thiếu mặt ai trong đoàn người trên tàu cả, dù rằng ai cũng ngỡ rằng mình là người duy nhất sống sót: họ mệt nhoài nên ngủ cả, bùa mê của ta sẽ khiến họ còn ngủ lâu: con tàu đỗ an toàn dưới bến, dù chẳng ai thấy được nó. Công tước và vua Naples đều đang tìm hoàng tử Ferdinand, nhưng chẳng mong gì gặp lại. Phần chàng vẫn bình an vô sự, khoanh tay trước ngực, khóc than cho cái chết của phụ vương mà chàng ngỡ đã chìm sâu dưới đáy biển. Chàng chẳng bị thương tích gì, quần áo tuy hơi ướt đẫm nước biển, lại thấy mát mẻ hơn bao giờ. Đoàn tàu còn lại, tiếp tục cuộc hành trình, buồn bã giương buồm về Naples, tất cả đều quả quyết, đã trông thấy tàu nhà vua chìm lỉm và đức vua đã băng hà.

Ariel nhận lệnh mới, lại hóa ra nữ thần hải dương, ra biển hát một ca khúc của mỹ nhân ngư: Hãy chạy lên bãi cát vàng

Nẵm chặt tay nhau

Nếu các ngươi đã gặp và hôn phải làn sóng dữ

Cứ tưng bừng nhảy múa đó đây

Hãy đến đây, những tâm hồn kỳ diệu, cùng cất tiếng hát với ta.

Bài ca đánh thức hoàng tử Ferdinand, đang còn thiếp ngủ vì mệt.

Ariel hát tiếp:

Dưới năm sải nước, cha ngươi vừa gục ngã

Xương ngài sẽ biến thành san hô

Mắt ngài sẽ là hai viên ngọc

Chẳng có gì của ngài mất đi

Nhưng đại dương sẽ biến tất cả thành những vật hiếm hoi và quí báu

Các nữ thủy thần sẽ từng giờ đổ chuông gọi hồn Ngài

Kia! Hãy chăm chú lắng nghe: Đinh, đong, đinh, đong!

Choàng dậy, Ferdinand cảm thấy nỗi khổ đau cơ hồ nguôi dần. Chàng bước lần theo tiếng hát đang bay xa. Tiếng hát đưa chàng đến một lùm cây rậm rạp: dưới bóng mát, Prospéro và Miranda đang ngồi. Miranda ngước mắt lên:

- Con nhìn gì đấy? –cha nàng hỏi

- Chắc hẳn đó là một con ma, -cô gái khẽ đáp- Nó nhìn quanh quất. Nó đẹp quá, chỉ có thể là một con ma thôi.

- Không đâu, con ạ! Đó là một con người, cũng ăn, ngủ và sống như chúng ta. Đó là một chàng trai trẻ, trên chiếc tàu vừa bị đắm. Chàng lạc mất cả bạn đồng hành và đang tìm kiếm họ khắp nơi.

Miranda vẫn tưởng rằng: mọi con người đều phải có bộ mặt trịnh trọng và chòm râu dài như Prospéro. Yên lòng và thích thú, nàng tiến lại gần. Hoàng tử Ferdinand, vẫn còn mê mẫn bởi tiếng hát Ariel, chợt ngất ngây trước tấm nhan sắc kỳ diệu, ngỡ mình đã lọt vào hòn đảo thần tiên. Miranda không thể là người trần. Nên chàng rụt rè hỏi: phải chăng nàng là thần nữ chốn này?

- Tôi chỉ là một cô gái bình thường –Miranda bẽn lẽn đáp. Nàng sắp sửa kể lại chuện đời mình, bởi nàng đâu đã biết đến tính đa nghi và lòng ngờ vực. Nhưng Prospéro kịp ngăn lại, ngài thấy rõ hai trẻ ngây thơ đã yêu nhau, ngay phút đầu gặp gỡ, -như người đời vẫn nói. Để thử thách Ferdinand, ngài vờ nghi chàng dối trá và đối xử hết sức khắt khe. Phải chăng chàng đến đây là để chiếm đảo của Ngài.

- Hãy theo ta –ngài cất giọng nghiêm khắc- Ta sẽ giam ngươi lại và trói chặt tay chân, ngươi sẽ phải uống nước biển, ăn vỏ sò, rễ khô và dẻ rừng.

- Ta chẳng cần làm gì cả! –Ferdinand hiên ngang cự lại, tay đặt vào chuôi kiếm. Nhưng Prospéro chỉ cần vung đũa thần lên, là hoàng tử đã bị trói chặt. Miranda thấy động lòng trắc ẩn.

- Thưa phụ thân, hãy thương xót chàng. Con xin đảm bảo cho chàng đấy! Chàng là người thứ hai mà con được thấy, nhưng con tin chàng ngay thẳng và chân thực.

- Sao? -Cha nàng hầm hừ- Con thấy hắn đẹp à, vì con chỉ biết có mỗi mình hắn và Caliban. Nhưng cha nói cho con rõ, này cô bé khờ khạo của cha, sánh với bao kẻ khác, hắn cũng chỉ là một tên Caliban thôi.

- Chắc là con quá khiêm tốn trong tình yêu, –cô gái nhỏ nhẹ nói- bởi lẽ con chẳng mong ước người nào khác quyến rũ hơn.

- Ngươi không có quyền cãi lệnh ta, nào theo ta ngay! –Prospéro quát lên, và vị hoàng tử sững sờ riu ríu bước theo.

- Linh hồn ta bị ràng buộc, -hoàng tử thầm thì- Nhưng cái chết của cha ta, sự yếu đuối và mệt mỏi của ta, tai nạn đắm tàu của lũ bạn, sự đe dọa của lão chủ, tất cả đều vô nghĩa, nếu mỗi ngày từ ngục tối ta được trông thấy nàng một lần, sá gì cái tự do nơi khác?

Prospéro quan sát rồi mỉm cười, vì bão tố, đắm tàu gặp gỡ buổi đầu, tình yêu chớm nở, tất cả đều là công trình trí tuệ của ngài. Ngài truyền dạy tên tù phải chất hàng đống củi cho thật nhanh. Ferdinand hầu như bị kiệt sức bởi công việc nặng nhọc đó; Miranda, ràn rụa nước mắt, cảm thương:

- Than ôi! –nàng khóc thút thít- đừng làm nhiều thế. Cha em đang vùi đầu trong sách vở, ít ra cũng đến ba tiếng. Anh hãy nghỉ đi! Em sẽ ôm củi thay anh một lát.

Ferdinand hốt hoảng ngăn lại, sau đó, quên mọi lời căn dặn của Prospéro, cả hai âu yếm chuyện trò. Nhà thông thái vô hình, thích thú chứng kiến từ đầu chí cuối. Miranda quên bẵng nghiêm lệnh của cha, thổ lộ tên mình và trả lời mọi câu hỏi của Ferdinand. Nàng say sưa lắng nghe những lời ngợi ca sắc đẹp của nàng. Gã trai trẻ si tình bảo rằng: nàng là người đàn bà đẹp nhất trần gian.

- Em chẳng còn nhớ nổi gương mặt một người phụ nữ nào, -Miranda từ tốn nói- em cũng chưa bao giờ trông thấy người đàn ông nào khác, ngoài chàng và phụ thân em. Nhưng cứ tin em đi, em không sao hình dung nổi nét mặt nào khác, có thể khiến lòng em xao động, cũng chẳng mong người bạn nào khác ngoài chàng.

Cảm kích trước tấm lòng chân thực của Mirand, Ferdinand cũng kể chuyện đời mình, cho biết chàng là thái tử Naples. Nàng có muốn làm hoàng hậu và có hứa sẽ thành hôn với chàng không? Cô bé tội nghiệp, rưng rưng nước mắt mừng vui, chưa kịp trả lời thì Prospéro đã hiện ra và ban phúc cho đôi lứa. Ngài chỉ giả vờ nghiêm khắc thôi, Ferdinand đã hiên ngang và dũng cảm vượt qua mọi thử thách. Cầu mong chúng được hạnh phúc với nhau. Phần ngài, công trình vẫn còn dang dở.

Lúc đó, vài hành khách đắm tàu đã gặp lại nhau ở ven bờ. Họ ngạc nhiên chẳng biết vì sao quần áo thấm nước biển, đến lúc khô, vẫn giữ được vẻ tươi mát và lộng lẫy. Chưa chi họ đã cãi vã nhau ỏm tỏi, người thì bảo khí hậu nơi đây dịu mát và không khí thoảng mùi hương; kẻ lại phàn nàn có mùi bùn lầy, nhớp nhúa. Có người bảo trông thấy hoàng tử Ferdinand lội vào bờ, nhưng vua Naples không tin, cứ tức tưởi khóc con. Ông em Sébastien phiền trách ngài về đường lối chính trị nói chung và chuyến đi này nói riêng. Lão Gonzalo, với con tim hiền dịu và khối óc hão huyền, mười hai năm trước đây đã cứu mạng Prospéro, tuyên bố sẽ ban hành hiến pháp trên hòn đảo man dại và hoang vắng này:

- Trong nước cộng hòa của tôi –ông trầm tư- tôi sẽ làm ngược lại những điều nơi khác làm. Tôi hủy bỏ mậu dịch. Chẳng có tổ chức hành chánh, trường học, không nô lệ, không giàu sang, không nghèo khó, chẳng giao kèo, của cải hay di sản gì cả. Dứt bỏ mọi ưu tư, thần dân của tôi sẽ không biết công dụng của sắt thép hay thóc lúa, dầu hay rượu; các nguồn lợi thiên nhiên sẽ thuộc về mọi người, chẳng mảy may khổ nhọc. Sự bội phản, lừa đảo, gươm giáo, dao găm, súng hỏa mai, nhục hình sẽ bị hủy diệt tất. Được thiên nhiên cung ứng mọi thứ, đám dân làng của tôi sẽ sống trong một thời đại hoàng kim.

Bọn họ cười chế giễu ông ta rồi tất cả chìm vào giấc ngủ, ngẩn ngơ bởi tiếng nhạc của Ariel vô hình. Khi thức dậy, bọn họ túa ra khắp đảo, cố gắng tìm dấu vết Ferdinand. Các cụ già chẳng mấy chốc đã mệt rũ, bởi Ariel luôn tìm cách bỡn cợt họ. Họ lạc lối trong mê cung, nghe như có tiếng gầm rú của sư tử, thế là họ tuốt kiếm đâm loạn xạ vào khoảng không. Họ thấy từ đâu thoắt hiện một bàn tiệc linh đình, do những người quái dị như con rối chiêu đãi, nhưng đúng vào lúc họ sắp sửa ngồi vào bàn, thì một nữ ác thần hiện ra. Vẫn chính là Ariel, chê trách họ yếu đuối và bất lực, nhắc họ nhớ đến tội ác, mà giờ đây họ phải chịu quả báo; chẳng phải họ đã đày ải Prospéro và cô con gái nhỏ vào cơn cuồng nộ của biển cả như vừa qua chính họ phải chịu đựng hay sao?

- Dù đi tới đâu, sự hủy diệt vẫn âm ỉ bám riết các người. Chỉ còn dành cho các người chút hy vọng mong manh trong niềm sám hối và một cuộc sống nhơ bẩn.

Nữ ác thần biến mất trong khoảng không. Những kẻ có tội bàng hoàng, kinh khiếp, chạy tán loạn. Prospéro thầm nhủ:

- Linh phù đang ra oai. Tất cả bọn họ đều nằm dưới quyền lực của ta.

Đoàn người trên tàu bị đưa đẩy đến một bến bờ khác, nơi tên Caliban ghớm ghiếc đang đốn củi, vừa hậm hực chửi bới và nguyền rủa chủ nhân mình. Vì Prospéro, tuy dạy tên súc sinh nói được, nhưng hắn chỉ biết nói toàn những lời mắng nhiếc và trù ẻo.

Một thủy thủ, gã Trinculo, thấy hắn trước tiên, nhạo báng hắn, chê hắn hôi mùi cá và chắc người ta sẽ vớ bở nếu mang hắn triển lãm ở hội chợ. Stéphano, một thủy thủ khác, cho rằng hắn đội lốt rừng rú để làm họ hoảng vía chơi. Họ thuần dưỡng hắn rất nhanh, vì lúc đắm tàu họ cứu thoát được một thùng rượu vang Cérès, giờ đây, họ trút cả chai vào miệng Caliban, vừa thích thú bảo cho Caliban biết rằng theo họ, đó là thứ tuyệt nhất trần gian.

- Mấy người này đẹp đẽ quá! –Caliban làu bàu- Rượu của họ tuyệt diệu. Có phải họ từ trên trời rơi xuống không?

Rồi do cứ vòi mãi chai rượu thần, đầu óc khốn khổ của hắn ta bỗng chốc quay cuồng. Hắn quị xuống trước trước mặt các chủ nhân thứ nước uống kỳ diệu và trở thành nô lệ của họ:

- Ôi con người kỳ diệu! Tôi sẽ chỉ cho ngài dòng suối mát trong, tôi sẽ hái quả ngọt, sẽ câu cá cho ngài. Để tôi đưa ngài đến nơi có những quả táo hoang, tôi sẽ dùng móng tay nắm lên, tôi sẽ chỉ ngài tổ chim cà cưỡng và cách bẫy sóc ra sao.

Rồi Caliban say khướt, lôi hai người bạn mới, vừa đi ngất ngưỡng, vừa ngêu ngao: Tớ chẳng thèm làm lờ bắt cá

Tớ chẳng thèm gom củi đốt lửa

Tớ chẳng thèm cọ rửa chén bát Tớ chẳng thèm lau dĩa nữa

Ban! Ban! Caliban!

Tự do! Thịnh vượng! Tự do! Tự do!

Tên cục súc không thấy rằng, khi ngỡ đã thoát khỏi cái ách nhân hậu của Prospéro, hắn lại dâng mình cho vị chủ mới bạo ngược, đần độn và dốt nát. Hai gã thủy thủ hỏi dò Caliban: - Nếu trên đảo chỉ có Prospéro và con gái, thì cả ba chúng ta có thể dễ dàng khống chế được ngay.

Caliban thấy như mình đã vượt khỏi quyền lực của Prospéro, kẻ chiếm đoạt gia sản của hắn, cái hòn đảo do Sycorax, mẹ hắn để lại.

- Khi nào lão ta ngủ, tôi sẽ bắt nộp các ngài –tên độc ác hí hởn nói- các ngài có thể đóng đinh vào đầu, hay đập vỡ sọ bằng gậy, mổ bụng bằng cọc nhọn, hay cắt cổ với dao bản. Không còn sách vở, lão cũng chỉ là thằng ngốc như tôi thôi, và lão sẽ chẳng còn điều khiển được âm binh nữa.

Caliban cũng quả quyết với Stéphano rằng hắn sẽ cưới nàng Miranda xinh đẹp, và sẽ làm chúa đảo. Ba gã say rượu hát vang:

Chế nhạo chúng! Canh giữ chúng!

Tư tưởng luôn tự do!

Nhưng một giọng nói từ trên không lặp lại điệp khúc đó, chính Ariel vừa khua chiếc trống con. Ba gã say, tâm hồn mê mẫn, mù quáng bước theo tiếng nhạc, băng qua bụi ngấy nhọn, khóm kim-tước chi gai góc và lùm kim-tước hoa sắc bén, họ rơi tõm xuống một cái ao bùn dơ đặc sệt, ngập tận cằm.

Hài lòng trước hạnh phúc của hai trẻ, Prospéro tặng họ một tiết mục nhạc hào hứng Cérès, Junon và iris (1) cùng đến ca hát chúc mừng họ.

Ferdinand ca ngợi đảo là một thiên đàng. Prospéro giải thích cho chàng biết cả buổi trình diễn ngoạn mục kia là do các hồn ma dựng nên, và những ảo ảnh êm đềm ấy rồi sẽ tan biến đi, không để lại dấu vết:

- Chúng ta được tạo ra cùng một thứ với chiêm bao, và cuộc sống phù du của chúng ta khác nào một giấc mơ.

Qua tin tức Ariel mang về, Prospéro thấy khó mà tìm ra một điểm tốt nào nơi Caliban, đó là một quái vật mà sự giáo dục đã tỏ ra vô hiệu. Các hồn ma biến thành chó săn. Ariel buông dây, thế là Caliban bỏ chạy, Stéphano chạy vắt giò lên cổ. Trinculo phi như ngựa, bị bầy quỉ rượt theo.

Từ nay, Prospéro là chủ đảo, không còn chối cãi vào đâu được, và giây phút chiến thắng cũng đã gần kề. Ariel giam giữ đức vua, công tước và đám tùy tùng trong khu vườn chanh huyền bí, khiến họ không thể nào thoát ra được, và tuyệt vọng, họ òa lên khóc.

- Nếu thấy họ, ngài hẳn sẽ rũ lòng thương hại, gã nói với Prospéro.

- Ngươi tin thế à?

- Nếu tôi là người, tôi sẽ tội nghiệp cho họ lắm.

- Ta cũng xót thương cho họ như vậy –nhà bác học Prospéro ôn tồn đáp- Lòng khoan dung bao giờ cũng cao cả hơn sự báo thù. Bởi họ đã khóc than và hối hận, ta đã đạt được mục đích. Hãy trả tự do cho họ, Ariel! Ta thu hồi bùa phép. Hãy để họ hoàn hồn lại.

Prospéro, còn lại một mình, chào giã biệt hòn đảo và từ bỏ mọi ma thuật:

- Thiên tinh của các giòng suối, của những ngọn đồi, của những ao hồ yên tĩnh và lùm cây xanh tươi! Bước chân thoáng nhẹ của các người không in vết trên cát, các ngươi hãy theo thần Neptune(2) khi ngài rút xuống và bỏ chạy khi ngài tràn lên, và các ngươi, bọn quỷ yêu, vẽ trên cỏ từng vòng tròn huyền diệu; dưới trăng khuya, các ngươi tiêu khiển bằng cách nửa đêm cho nấm dưới đất mọc lên, để các tiên nữ ngồi lên mà quây quần tụ hội. Các ngươi thức dậy trong giờ giới nghiêm. Các ngươi đã giúp ta làm mặt trời tối lại giữa trưa, nổi phong ba và dâng trào sóng bể, khiến sấm sét vang rền và nhổ bật rễ nào thông, nào bách hương, các ngươi hãy chứng giám cho ta! Ta nguyện từ bỏ yêu pháp. Theo tiếng nhạc lả lướt của các ngươi, ta bẻ gẫy chiếc đũa thần. Ta chôn vùi nó dưới đất đen, và ta sẽ dìm tất cả sách vở xuống tận đáy biển sâu! Tất cả những nạn nhân đắm tàu đều tụ hội đông đủ, theo sự hướng dẫn của Ariel. Prospéro cởi chiếc áo dài phù thủy ra, mặc áo ngắn vào, đội mũ lên, đeo gươm lại “như thuở nào ở Milan”, Ariel vừa giúp ngài vừa rầm rĩ bài hát:

Ong hút mật nơi nào, ta hút nơi ấy

Ta ngủ giữa lòng cây anh thảo

Ta ẩn náu khi chim cú cất tiếng kêu ai oán

Ta cởi trên lưng dơi

Mùa hè trôi qua vui vẻ

Vui thay, vui thay, từ đây ta sống giữa đóa hoa đong đưa dưới cuống

Sững sờ, họ ngại ngùgn chưa nhận ta Prospéro. Lão Gonzalo tốt bụng, là người đầu tiên trấn tĩnh, há chẳng phải nhờ lão mà Prospéro được bảo toàn tính mạng đó sao? Công tước Antonio và đức vua Naples ăn năn hối lỗi, tha thiết thỉnh cầu được dung thứ, ngài Prospéro quảng đại bèn hoan hỉ chấp nhận ngay. Đoạn ngài mở hé vách ngăn hang động, mọi người trông thấy đôi trai gái Ferdinand và Miranda đang bình thản chơi cờ.

Hãy hình dung niềm vui của hai cha con khi gặp lại nhau. Phần Miranda, nàng bàng hoàng trước một thế giới chưa hề quen biết, có những con người cũng đẹp đẽ như kẻ vừa đến với nàng. Đức vua Naples không quên tấm tắc khen nàng là một nhân vật siêu phàm, còn Ferdinand kiêu hãnh và vui sướng, trình diện với phụ vương người vợ tương lai, ái nữ của nhà bác học Prospéro.

- Ôi chẳng có nguồn vui nào sánh nổi –lão Gonzalo la to- Chúng ta đều gặp lại nhau cả, trong khi tất cả chúng ta ngỡ đã cùng đường, nghẽn lối.

Chỉ có hai gã thủy thủ say rượu và tên cục súc Caliban là không mấy vui. Hắn sợ bị trừng phạt, hứa sẽ triệt để phục tùng, nên được ân xá.

Ariel đánh thức toàn bộ thủy thủ đoàn, sửa sang và trang bị lại con tàu bằng phép lạ, để sẵn sàng đưa mọi người về Naples, nơi sẽ tổ chức hôn lễ thật huy hoàng. Prospéro đảm bảo chuyến đi sẽ nhanh chóng, thuận buồm xuôi gió trên mặt biển yên tĩnh. Ngài giải thoát cho Ariel, để linh hồn gã được phiêu diêu nơi miền cực lạc.

- Từ đây –Prospéro nói- gỡ bỏ hết bùa linh, ta cũng trở nên yếu đuối như tất cả mọi người. Chú thích

1) Cérès: nông thần

Junon: nữ thần, Jupiter

Iris, được xem như là sứ giả của các vị thần, có nhiệm vụ đưa các linh hồn xuống hỏa ngục, chiếc khăn choàng bảy màu của nàng trùng hợp với bảy sắc cầu vồng

2) Neptune: hải thần
2903




Caymbeline là vua Anh quốc, đó là một ông vua bất hạnh, vì sau khi các binh đoàn của Jules César rút đi, triều đại ngài luôn bị phá rối, bọn lính La Mã thường xuyên quấy nhiễu, hai đứa con trai ngài, đã khôn lớn và tỏ ra dũng cảm, đã bị bắt đi cùng với bà vú, trong trường hợp rất bí ẩn, hoàng hậu lại qua đời. Tuy nhiên, dù bao hoạn nạn dồn dập xảy ra, tuổi già của ngài cũng cảm thấy được an ủi. Ngài đã tục nguyền với một góa phụ, biết hết lòng lo lắng cho ngài, mẹ của một chàng trai to lớn, mà Cymbeline rất quí mến, trong khi mọi người đều ghét cay ghét đắng cái gã Cloten hợm hĩnh. Nhưng phần lớn niềm vui của vị vua già là do công chúa Imogène, đứa con duy nhất còn lại của ngài, cô gái sắc nước hương trời và là người kế nghiệp của vương quốc.

Cymbeline, nhu nhược và cả tin, hoàn toàn tin cẩn bà thứ phi, bà ta lúc nào cũng chăm chú nghiên cứu các loài dược thảo và đặc tính của chúng, khảo sát các tính chất, cho bọn tì nữ hái các cây lá có thể chữa bệnh, cũng như có thể giết người. Chỉ có mỗi nhà vua là không rõ bà thù hận Imogène đến mức nào, và sự mù quáng đó đã gây ra biết bao tai họa.

Để chiều ý hoàng hậu và cũng vì ngài tưởng lầm Cloten đứng đắn và dũng cảm, ngài muốn gả Imogène cho anh ta. Cô công chúa trẻ đẹp, sáng suốt và tinh tế hơn, rất khinh ghét kẻ cầu hôn ấy, vả lại tim nàng đã hướng về người khác, chàng Posthumus. Sau khi cha mẹ qua đời, chàng được nuôi dưỡng trong triều cùng với nàng. Cha chàng nổi tiếng dũng liệt đến mức thiên hạ tặng cho biệt danh là Léonatus, sư tử. Dù thuộc dòng quý tộc và thừa hưởng danh vọng của thân quyến, Posthumus rất nghèo, và vua Cymbeline đã đón chàng về nuôi dưỡng thật chu đáo. Chàng đã trở thành một hiệp sĩ toàn diện, và người ta chỉ có thể phiền trách chàng về sự nghèo túng mà thôi. Nhưng Imogène chẳng mấy quan tâm đến sự nghèo khổ của chàng, vì cô yêu chàng, và bởi e ngại cơn phẫn nộ của vua cha, và sự theo đuổi ráo riết của Cloten, cô đã bí mật thành hôn với Posthumus.

Nhưng mọi việc đều vỡ lẽ ngay, do các thủ đoạn của hoàng hậu. Cymbeline, bị bà vợ yêu xúi dục, đã ra lệnh trục xuất Posthumus ra khỏi vương quốc, và quản thúc Imogène trong lâu đài. Tuy nhiên, đôi vợ chồng trẻ vẫn tìm cách gặp lại nhau giây lát, trước khi Posthumus xuống tàu rời khỏi Anh quốc. Đó là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi và đau buồn.

- Điều duy nhất có thể giúp em chịu đựng nổi cuộc sống –Imogène tha thiết nói- đó là ý nghĩ trên đời này còn có một kho tàng mà đôi mắt em có ngày sẽ được thấy lại.

- Nữ hoàng của anh, người yêu quí nhất đời anh –Posthumus đáp, giọng thật nồng nàn- em đừng khóc nữa. Anh sẽ là người chồng chung thủy như vẫn hằng nguyện ước. Nhưng giờ đây, em yêu ơi! Phải để anh ra đi! Nếu những lời từ biệt cứ kéo dài mãi, trong suốt khoảnh khắc còn lại giữa đôi ta, thì niềm đau chia cách sẽ càng tăng lên nhiều. Thôi, xin giã từ em!

- Không hãy nán lại giây phút. -Imogène rên rỉ- Dẫu anh chỉ xa em để đi dạo mát, buổi chia ly này cũng chỉ là ngắn ngủi. Anh hãy nhìn, đây là chiếc nhẫn kim cương do mẹ em để lại, hãy đeo vào và gìn giữ nó cho đến ngày nào Imogène chết đi, rồi anh sẽ cưới vợ khác.

Posthumus nhận lấy món báu vật, rồi đeo vào cổ tay xinh xắn của Imogène chiếc vòng, tín vật tình yêu, mà nàng hứa sẽ chẳng bao giờ cởi ra. Rồi chàng ra đi, xua đuổi bởi Cymbeline, với những câu nguyền rủa thậm tệ. Thật lâu sau đó, nàng chỉ luôn tơ tưởng đến chuyến đi thê thảm. Nàng tự nhủ: “Sao ta không là con của một người chăn cừu và Posthumus chẳng là con của một chú mục đồng lân cận!”. Trong khi đó, Cymbeline, giận dữ vì thấy nàng tuy sầu muộn đến héo hon, nhưng vẫn nhất mực yêu kẻ bị lưu đày, đã không ngớt hầm hừ và thốt bao lời trách mắng, mà nàng chẳng muốn nghe. Tâm hồn nàng dõi theo người lữ khách đến tận bến cảng và xa hơn thế nữa. Nàng mòn mỏi đợi chờ ngày về của lão Pisaniô mà nàng phái đi dọ tin và rất ảo não khi gặp ông quay lại, bởi ông đã chứng kiến chuyến đi của Posthumus.

- Những lời cuối cùng, chàng nói gì? –nàng hỏi.

- Nữ hoàng của anh! Nữ hoàng của anh! Rồi chàng vẫy khăn và đưa lên môi hôn! Cho đến khi mắt còn phân biệt được tôi giữa đám đông, chàng vẫn đứng trên boong tàu, phe phẫy đôi găng tay, cái nón, hay chiếc khăn, như muốn cho tôi hiểu rằng, dù con tàu có lướt nhanh, hồn chàng vẫn lờ lững phía sau.

- Lẽ ra –Imogène nói- người phải đợi đến lúc chàng nhỏ như con chim mới được rời mắt khỏi chàng. Nếu là ta, ta sẽ nhìn chàng cho đến lúc khoảng cách khiến chàng nhỏ tợ con muỗi, tợ đầu cây kim, cho đến khi chàng tan biến trong không khí. Rồi ta sẽ ngoảnh mặt đi mà khóc. Và ta cũng sẽ không cáo biệt chàng, bởi ta còn nhiều điều lý thú muốn nói cho chàng nghe:“rằng ta nghĩ đến chàng vào những giờ nào đó, rằng chàng sẽ gặp ta trong những lời cầu nguyện, lúc đọc kinh buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, vì lúc đó ta đang trên trời để đợi chàng. Nhưng trước khi được trao cho chàng cái hôn từ biệt, cha ta đã bước vào hệt như cơn gió bấc, ông ta đã làm héo tàn mọi mùa hoa nở”.

Công chúa Imogène sầu muộn đã chuyện trò với gã nô bộc trung thành như thế đấy, trong khi chờ đợi tin tức người chồng yêu quí.

Trong lúc đó, Posthumus đã đến La Mã cho qua ngày tháng lưu đày, nơi đây, anh gặp lại vài đồng đội cũ, buộc anh về sống chung với họ. Anh chỉ khuây khỏa nỗi buồn đôi chút những khi ca ngợi người yêu, quả quyết rằng nàng là người đẹp nhất, trong trắng nhất, đức hạnh nhất, và thủy chung hơn bất cứ cô gái Pháp hay Italia nào. Anh ví nàng như viên kim cương vô giá và sáng ngời mà họ vẫn trầm trồ trên ngón tay anh. Nhưng một chiều kia, có một gã Italia, tên Iachimo, đến thách thức chàng hãy chứng minh lời nói, vì gã không chịu tin rằng Imogène lại có thể dửng dưng với một tay hiệp sĩ nào đó trong thời gian vắng chồng. Iachimo tự tin vào sức quyến rũ của mình, gã cho rằng tất cả đàn bà đều đỏm dáng, nông nổi, mau đổi thay và gã đoan chắc mình có thể tiếp xúc dễ dàng với người vợ chung thủy và u buồn nhất, rằng gã sẽ lãnh vai trò giải khuây và mang lại hứng thú cho nàng, đến mức khiến nàng quên khuấy kẻ lưu đày trong một thời gian.

Posthumus tin chắc vợ mình chẳng thiết tha bất cứ điều gì khi vắng anh, song le, không chịu nổi, cuối cùng anh đã khinh xuất khi nhận đánh cuộc với Iachimo. Anh cuộc chiếc nhẫn kim cương của mình với mười ngàn đồng Đuy-ca, phân nửa gia sản của Iachimo, là chẳng ai có thể mang lại bằng chứng rằng vợ anh có phút nào đó quên anh -rồi đặt tay lên đốc kiếm, anh tự hứa sẽ trừng phạt đích đáng kẻ hợm hĩnh, cứ tưởng dễ dàng lung lạc trái tim chung thủy của một người đàn bà.

Iachimo xoay được nhiều thư giới thiệu để tiến triều và đi ngay sang Anh quốc. Ngay khi đến nơi, gã xin được yết kiến công chúa. Nàng đón tiếp vị khách La Mã với sự vồn vã ân cần của người đàn bà đã từ lâu mong ngóng tin chồng. Dù rằng nhan sắc diễm lệ và thái độ trang nghiêm của nàng có làm gã nao núng trong những phút đầu tiên, nhưng kẻ bạo gan vẫn không mất bình tĩnh, gã mua chuộc lòng nàng bằng cách nhắc đến Posthumus và cuộc sống của chàng ở La Mã.

“Anh ta vui vẻ quá chừng, gã nói. Hiếm có khách lạ nào ở La Mã lại vui tính và hay đùa cợt đến thế: thiên hạ gọi anh chàng là gã “người Anh vui vẻ”! Imogène trầm ngâm, trả lời:

- Lúc còn ở đây, chàng vẫn hay buồn nhiều khi thật vô cớ.

Gã mô tả Posthumus khác hẳn với hình ảnh mà nàng khắc sâu trong tâm khảm. Nàng háo hức lắng nghe, rồi dần dần một nỗi buồn man mác xâm chiếm lòng nàng. Gã trơ tráo đến mức khiến nàng tưởng rằng người chồng xa cách đã quên lãng mình, còn cho đó là một thử thách. Nhưng dù gã tán hươu tán vượn thế nào đi nữa, có thể nói chẳng giây phút nào Imogène lại thôi nghĩ đến Posthumus. Gã thấy rõ mình đã thua cuộc, nên quyết định phải thắng bằng mưu kế.

Gã nài nỉ công chúa, lúc đêm khuya tăm tối cho gã được gửi cái rương to chứa đầy báu vật trong phòng riêng của nàng, đến sáng hôm sau là gã lên đường. Nhưng khốn nạn thay, gã tự giam mình trong rương, đến khuya lại mò ra, bất chợt những lời than thở của Imogène thốt ra trong lúc ngủ say -người đàn bà hiền dịu đang mơ tưởng đến chồng mình- lục lọi khắp phòng, quan sát mọi nơi, cuối cùng đoạt luôn chiếc vòng của Imogène. Đến sáng, gã cầm chắc trong tay những gì có thể khiến Posthumus tin rằng gã vừa nhanh chóng chiếm được lòng tin cậy của cô công chúa hồn nhiên vô tội.

Gã không quên đoan chắc với kẻ lưu đày khốn khổ rằng anh đã bị lãng quên. Gã kể rằng công chúa đã tiếp gã trong khuê phòng và mô tả cách trang hoàng nơi đó:

“ Những tấm thảm lụa và ngân tuyến trình bày nữ hoàng Cléopatre kiêu hãnh trong giây phút hội ngộ với Marc Antoine; dòng Cydnus(1) ngạo nghễ dưới sức nặng các chiến thuyền. Ôi! Thật là một kỳ công. Lò sưởi ở giữa, phía trên có bức phù điêu mô tả Diane đang tắm: thật là một bức chân dung sống động. Nhà điêu khắc, giống như người sáng tạo, đã mang sinh khí và cử động đến cho tác phẩm. Trần nhà, được tô điểm bởi những chú bé con bụ bẫm bằng vàng chạm nổi. Giá sắt là hai thần Cupidon nạm bạc, mắt bịt vải đứng một chân và tựa vào các ngọn đuốc.”

Posthumus cho rằng những cái đó rất phổ biến trong cung điện Cymbeline, người ta nghe nói đã nhiều, bởi thế Iachimo có thể nghe lỏm từ cửa miệng một thổ nữ, nhưng gã Iachimo không chịu buông tha chàng, vẫn tiếp tục lải nhải. Gã trưng ra chiếc vòng mà gã bảo là Imogène vừa tặng gã, vừa thủ thỉ: “trước đây, nó rất quí báu đối với em”. Tên phản phúc còn mô tả cả vết thẹo nhỏ bên thái dương công chúa mà Posthumus đã hôn lên bao lần. Thất vọng, rồi cuối cùng bị khuất phục, Posthumus bỏ cuộc và đành mất chiếc nhẫn kim cương anh vẫn giữ gìn đến nay như một kỷ vật thiêng liêng. Nhưng nỗi giận dữ và lòng phẫn uất đã làm tê liệt mọi tình cảm khác, anh rít lên: “Vội quên mình khi mình vừa đi, chẳng chút bền lòng chặt dạ, lại vô cùng lơ đãng!” Anh chỉ còn nghĩ đến giết nàng và hộc tốc viết thư cho tên người hầu Pisaniô, mà anh đã để lại bên nàng, bảo đưa nàng rời xa lâu đài, rồi cắt cổ nàng đi. Và kẻ nông nổi, tuy chẳng còn tin tưởng gì nàng Imogène hiền dịu, lại tin chắc ở nàng đến nơi để giao nàng cho tên sát nhân, anh báo cho nàng biết là mình đã về tới cảng Milford đất Anh.

Quả anh không lầm tí nào, khi nghĩ rằng nàng sẽ bí mật tìm mọi cách đến ngay với anh. Thực thế, nàng thoát khỏi lâu đài và ra đi với Pisanio. Đến giữa rừng rậm, khi sinh mạng nàng đã nằm trong tay, gã người hầu không có được cái can đảm man rợ để giết nàng, nên nàng vẫn sống. Nhưng gã tiết lộ cái lệnh quái ác của Posthumus, cả hai nhất trí rằng nàng chẳng nên quay về cung điện, tránh sự bám riết của Cloten. Họ quyết định nàng phải cải trang thành một thiếu niên và nàng sẽ tìm gặp viên tướng La Mã Lucius, ông ta chắc sẽ thu nhận nàng với tư cách thị đồng biết múa hát. Bởi vì các binh đoàn La Mã vừa đổ bộ xuống đất Anh, để buộc Cymbeline nạp triều cống cho hoàng đế Auguste.

Nhưng trước khi vào phục vụ dưới quyền Lucius, Imogène đã phải đương đầu với bao nỗi truân chuyên. Sau lúc chia tay với Pisanio, nàng đi bộ ròng rã thật lâu, đến lúc kiệt sức vì mệt và đói, mới tới trước một cái động; trông thấy thức ăn, nàng vội vồ lấy nhai ngấu nghiến. Những người cư ngụ trong động chẳng mấy chốc hiện ra. Một ông lão và hai thanh niên khôi ngô tuấn tú, sống giữa rừng nhờ vào các thứ săn được.

Ông lão đã từng biết qua các thành phố lớn, cả chiến tranh và vinh quang nữa, nhưng bị thất sủng, nên về ẩn náu nơi cảnh quạnh hiu cô tịch và nuôi dạy hai chàng trai trẻ, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Những người này lại luôn mơ ước được chiến đấu, họ cầu mong có dịp thi thố tài năng và tỏ rõ lòng dũng cảm. Cả ba đều ân cần tiếp đón chàng trai phiêu lãng và Imogène cảm thấy gắn bó một cách khó hiểu với hai người trẻ tuổi kia, họ cũng rất quí mến người bạn do định mênh run rủi đến với họ.

Rủi thay, một hôm Imogène ngã bệnh và mệt nhoài, trong lúc các chủ trọ đều đi vắng, để chữa cho mau lành, nàng dùng liều thuốc của Pisanio để lại, thuốc này do hoàng hậu, vợ của Cymbeline trao cho gã. Mụ đàn bà độc ác ngỡ đó là viên thuốc độc cực mạnh dành riêng cho Imogène, nhưng lão y sĩ nhận lệnh bào chế viên thuốc ấy đã tỏ ra dè dặt, không theo lời bà, lão đưa cho hoàng hậu viên thuốc chỉ có khả năng khiến người uống ngủ vùi một giấc dài nặng nề như chết mà thôi. Than ôi! Viên thuốc quả là công hiệu, và ba người thợ săn khi quay về, bắt gặp Imogène nằm thiêm thiếp bất động, cứ tưởng nàng đã lìa trần.

Hơn nữa, họ vừa vô tình giết chết Cloten, giải thoát nàng khỏi tay một kẻ vẫn gây khổ cho nàng, đang theo dấu vết nàng vào tận rừng sâu. Họ khâm liệm cả hai thi thể, nhưng trong khi vội vàng tống khứ cho rảnh mắt cái xác chết của Cloten, họ than khóc và thương tiếc không nguôi người bạn trẻ, con chim nhỏ, cánh hoa huệ trinh trắng của họ. Họ phủ hoa đầy phần mộ ngào ngạt hương thơm, nào anh-thảo, nào cát-cánh, nào hồng hoang, nào thanh-đài, vừa kể lể vừa hát điếu ca. Chính nơi đó, nằm trên lớp cỏ đẫm sương mai, Imogène đã tỉnh dậy sau giấc ngủ nặng nề. Nàng lại lên đường đi Milford và gặp cái binh đoàn La Mã đã thu nhận nàng làm thị đồng và đem nàng theo họ.

Cùng lúc, vua Cymbeline cảm thấy những tai họa của thời đã qua giờ lại tái diễn. Bọn La Mã trở lại xâm chiếm xứ sở, con gái ông biến mất, con trai của bà vợ thứ cũng biệt tăm. Ông đang lâm vào cảnh hiểm nghèo, bất ngờ bỗng được cứu nguy. Bốn người lạ mặt: ba chiến binh và một nông dân, tự mình chống giữ một đường đèo hiểm trở và mang lại chiến thắng cho nước Anh. Cymbeline thoát nạn, cho dẫn tất cả tù binh đến trước mặt ngài, và cho người đi tìm các anh hùng vô danh.

Bỗng nhiên, ngài nhận ra giữa bọn tù La Mã một chàng trai trẻ, mà họ kêu nài được khoan hồng. Nhác thấy, ngài đã hài lòng đến nỗi tự hứa sẽ tha ngay theo lời thỉnh cầu đầu tiên. Chàng trai trẻ đó, -chính là Imogène – yêu cầu một người La Mã hiện diện tại đó, giải thích vì sao hắn ta chiếm được chiếc nhẫn kim cương kỳ diệu đang lấp lánh trên ngón tay hắn. Người La Mã đó chẳng ai khác hơn là Iachimo. Hắn xem như mình sắp chết đến nơi, chẳng còn e ngại gì mà phải dối trá, nên đã thú nhận mưu kế và thủ đoạn của mình.

Ngay lúc đó, Posthumus từ hàng ngũ những kẻ bị bắt xông ra định giết hắn. Pisanio vừa nhận ra Imogène cũng nhảy bổ tới. Imogène ngả vào vòng tay vua cha. Ngài khoan hồng cho tất cả mọi người, vì chính ngài mới là kẻ duy nhất gây nên tội.

Cuối cùng, ngài nhận ra ông lão cư ngụ giữa rừng là Belarius, xưa kia bị lưu đày đã bắt cóc hai người con trai của Cymbeline mang theo. Giờ đây, ông giao họ lại cho đức vua, cha của họ. Ngài lấy làm mãn nguyện khi hiểu ra rằng, họ là ba người đứng ra chiến đấu bảo vệ vương quốc, hỗ trợ bởi gã nông dân, chẳng ai khác hơn là Posthumus. Mọi việc được phơi bày ra ánh sáng, họ ôm nhau, mừng mừng tủi tủi. Đức vua Cymbeline nối tình giao hảo với La Mã và tạ ơn trời đất.

Chú thích:

1) Cydnus: dòng sông ở Silicie (Tiểu Á), Alexandre le Grand có lần suýt chết vì tắm lúc dòng nước giá băng. Năm 42 Trước CN, Marc Antoine tổ chức nhiều buổi liên hoan ven bờ và trê

2904


Powered by Blogger.