Lương chèo đò mướn năm mười hai tuổi. Nhà Lương nghèo, chỉ là cái chòi rách tả tơi, từ ngày đi theo đò. Lương ăn, ngủ trên bến đò, nên nhà đã bỏ hoang hẳn. Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình đã khẳng khiu chỉ độc cái quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng. Lương không cha, má chết sớm nên cái quần dãn dây thun không ai may lại, nó tuột luốt mỗi lần Lương thót bụng rướn người trên đôi chèo.
Bây giờ cũng còn vài người nhớ dai nhắc hoài cái tướng Lương hồi đó. Bây giờ Lương ba mươi hai tuổi. Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang đi nhượng lại qua tay bốn người chủ. Mà, Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe, nghèo, cực nhưng vui lắm. Ngày trăm lượt chèo nát mặt sông từ bến xóm Miễu qua bến chợ, anh chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi cuộc đời, người xóm Miễu già đi, những thằng con trai, đứa con gái lấy nhau sinh ra nhiều thiệt nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên…
Chỉ Lương là già câng già cấc, già cóc thùng thiếc rồi mà chưa lấy vợ. Hỏi Lương, Lương cười hì hịch :”Tui xấu muốn chết, ai mà thèm ưng…”. Lương xấu trai thiệt. Tướng Lương nhỏ xíu, teo héo. Đầu to, tóc dày, cứng, cháy nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười :”Cái thằng, mầy chèo mà không ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?”. Lương không giận tựa như không biết giận. Cái thân nhỏ mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống nổi. Suốt ngày Lương hệch miệng ra cười, làm như vui, làm như không, khó nắm bắt. Trong Lương như một ngườI trí não chậm phát triển. Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn anh biết, chứ anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.
Bông cũng bị Lương nhìn như vậy. Nhà Bông cũng ở bên xóm Miễu, gần chòm mả Tiều. Lương biết Bông từ hồi Bông còn đi học. Bông mê đi đò, lần nào nó cũng năn nỉ Lương lén bà chủ bến cho nó ăn gian thêm mấy bận nữa. Nó ngồi đằng mũi xuồng, thò chân xuống nước quậy quậy chơi. Lương bảo dưới sông nhóc cá sấu, Bông tin liền. Sao mà Bông dễ tin vậy. Ngày nào, Bông cũng mặc chỉ một cái áo trắng bằng vải soa lông vịt, chiếc áo hơi ố vàng, rộng thùng thình. Tan học, Bông cùng một bầy em lít chít đi mót cây vụn ở các trại xuồng về nấu cơm. Má nó có một chiếc xuồng cũ, hai bên be bể như cá chốt rỉa, vớt bọc dưới sông. Ba nó đi nhậu, nhậu xong về đánh má con nó. Lớn lên, mỗi lần qua đò, Bông thôi vọc nước nhưng đăm đăm nhìn ra xa. Con sông Thủ đến ngã ba Vàm bỗng cuồn cuộn quặn đau khi hoà sông Gành Hào ra biển.
Bông lớn mau lắm. Chuyện đó không biết có mắc mớ gì mà tự nhiên Lương khoái soi mình xuống sông, những khi vắng khách, Lương ngồi mằn mằn lấy cồi mấy hột mụn trên mặt. Lương than với bà Tư, chủ bến “Lúc này dì thấy tui đen không?” Bà Tư cười , "Chà , hỏi kiểu này chắc biết làm điệu rồi. Muốn vợ hả? Mầy ráng dành dụm tiền, mai mốt có vợ rồi tao sang lại bến đò cho mà làm ăn”. Con mắt lé thờ ơ nhìn chỗ khác, nhưng con mắt còn lại thắp lửa lên. Mắc mớ gì Lương nghĩ tới Bông .
Bông thôi học. Bữa cuối tan trường, qua tới bờ xóm Miễu, Bông không chịu lên, nó biểu Lương cho nó đi thêm bận nữa, từ mai nó đã thôi học rồi. Từ mai, nó vẫn qua đò, nhưng nó đã khác, con Bông đã khác.
Con Bông đã khác. Buổi sáng, Bông mặc áo rách qua chợ, buổi chiều về. Trên mình là váy ngắn, áo yếm, vai quàng hờ hững hai cái dây nhỏ xíu có cũng vậy mà không có cũng vậy , vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống. Bông hỏi Lương: “Thấy tui đẹp hôn?” Lương hệch miệng ra cười : "Đẹp dữ dằn luôn". Bông lườm một cái rồi hất mặt đi, "Đẹp khỉ khô gì, tui đâu có ham”. Bông bước lên bờ, đạp đạp mũi đò ra.
Đám em Bông mặc áo mới tới trường. Má Bông sắm được chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt dài dài qua các hẻm. Ba Bông đi nhậu về, đã ngủ rất say.
Người xóm qua đò xầm xì Bông đi bán bia bên cầu, quán “Đêm sầu”. Bốn giờ chiều, Lương đưa Bông qua chợ. Bông nói giờ đó quán chưa có khách đâu, nhưng con mẹ chủ bắt phải mặc quần lửng ngồi ngoài băng đá đằng trước quán. Một bầy con gái ra đó giả đò ngắm mây trôi, coi xe cộ qua lại chơi nhưng thật ra là để chào hàng. Bông trở về lúc hai ba giờ sáng, quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn mặt đậm đà son phấn. Đôi mắt dại đi vì say, vì mất ngủ, người sềnh sệch mùi bia, đến nỗi Bông ngồi gần, Lương hít hơi men muốn xỉu luôn.
Lương ăn trên sông, ngủ trên sông nên không biết ở phía bờ, người ta đưa đẩy cuộc đời Bông như thế nào. Nhưng thế nào thì Bông chắc cũng giãy giụa, quặn đau như nước ở ngã ba Vàm vậy. Bởi vì Lương tin Bông, Lương hiểu Bông mà.
Dăm bữa, Bông rút trong áo ra một nắm tiền, xoè ra tròn như chiếc quạt, phơ phất mát mặt Lương, Bông cười, "tui giàu rồi”. Lương lắc đầu, Bông biểu Lương chèo đi, chèo hết đêm nay. Lương chèo trong những ánh đèn hắt ra từ hai bên bờ xóm chợ. Bông nhìn ra sông, cái nhìn vẫn buồn như lúc trước nhưng nó đã đanh đi, chai lì đi. Lương nhìn mà Bông đâu có hay. Lương hỏi Bông bộ tính làm như vầy hoài sao. Bông cười, chừng nào có người cưới tui. Lương hỏi, “Xấu xấu Bông chịu không?”. Bông cười, "Thân tui gì còn kén chọn nữa, khùng?”.
Lương mà khùng? Hỏng dám đâu. Lương ngồi gãy tay, gãi đầu hỏi bà Tư coi bà còn nhớ lời hứa hồi trước không, bà cười, "Nhớ, nhớ chớ sao không? Tiền mày gởi tao, dư sức qua cầu rồi”. Nhưng bà không biết đâu, Lương còn nhiều dự tính nữa, anh muốn cất lại căn nhà đã bỏ hoang lâu rồi. Lương muốn đóng một chiếc đò mới, cẩn vỏ xe quanh be, lấp dầu trong, cho từng sớ gỗ đỏ au au.
Lương đi xin cây vụn về để sẵn dưới sạp, rảnh rảnh, anh lấy ra, cưa đẽo đóng một cái hộp đựng tiền nho nhỏ, nhiều ngăn. Ngăn đựng giấy bạc hai trăm, năm trăm, ngăn đựng giấy bạc một ngàn. Lương mua giấy nhám về đánh cho nó bóng lên, rờ tay cho mát rượi. Lương giấu nó đi để khỏi ai trông thấy, sợ người ta hỏi tới hoài. Lương nói thiệt, người ta cười, bảo Lương cầu cao… Mắc cỡ lắm. Mà, anh còn chưa nói với Bông.
Nhưng Bông đã nói trước, Bông khoe, “Chắc tui bỏ nghề, tui lấy chồng”. Lương rà mái chèo cho đò cặp bến, Lương hỏi Bông lấy ai? Bông cười: "Cái ông hồi nãy đưa tui về”. Lương muốn sụm bộ giò, lặng người mà miệng vẫn cười hịch hạc, “Sướng nghen”.
Ông già vẫn thường đưa Bông về xóm Miễu. Người ta nói, con Bông ham giàu nên ráng kêu ông ngoại đó bằng anh. Bông giẫm cái cười của cuộc đời lên đôi giày cao hai tấc, đường kính gót một phân. Bông chờ ngày lấy chồng.
Nhưng bà già, vợ ông già không chịu, bà lùa bầy con qua nhà, rọc nham nhở mái tóc dài của Bông, xé quần áo, lột sạch những món đồ trang sức Bông đang đeo. Chuyến về, đám người đó qua sông. Lương trừ trừ chờ canô chạy qua rồi nương theo sóng lớn nhận chìm đò luôn. Bà già suýt chết đuối, may nhờ Lương ngoi ngóp kéo lên bờ. Bà vừa níu Lương vừa chửi: "Đồ không có văn hoá, đồ thất học”. Lương cười hề hề, sao bà chửi câu nào trúng câu đó vậy.
Bông biết chuyện, Bông nói trong ngân ngấn nước mắt “Làm chuyện đó chi vậy, Lương? Của người ta thì trả lại cho người ta đi. Sao mà tui dễ tin người quá vậy không biết”. Lần đầu tiên, Bông gọi Lương theo đúng tên của anh chứ không kêu “khùng”, kêu “đò” nữa. Lương sướng tê người đi. Bông ngồi chỏi tay ra ngoài sau, ngẩng mặt lên nhìn Lương như chị Hai nhìn thằng Út, như con chó Vá nhìn đống thóc.
- Tui biết anh thương tui mà, Lương.
Lương cười. Khuya đó về, sông vắng. Lâu lâu mới có một chiếc xe chở cát, chở dầu tạch tạch đi qua, ánh đèn đỏ lòm xa xa như ánh nến. Bông biểu có thương Bông thì ngồi thì lại gần ngồi gần Bông đi. Nước đứng rồi, đò có trôi đi đâu mà sợ. Hai đứa ngồi một bên be xuồng, nó nghiêng nghiêng lơ lửng. Bông biểu Lương nắm tay nó đi, Lương không dám, hai đứa cách nhau chừng bốn gang rưỡi. Lương nín khe hồi lâu rồi thở ra :
- Gió mát thiệt, hen?
- Lương!
- Gì?
- Ôm tui đi.
- Ý trời, người ta dòm.
- Thây kệ họ. Ôm tui đi.
- Thôi
Bất thần, Bông xô Lương té ngửa xuống nước. Đợi Lương vẹt đám rác trôi lều bều, trồi đầu lên, Bông hét :
- Chê thân tui dơ dáy, nhơ nhớp nên không dám động vô tui chớ gì. Vậy mà thương tui sao? Đồ xấu xí, đồ khùng.
Lương vịn một tay vô be xuồng, một tay vuốt nước trên mặt. Trong lòng anh nghĩ rất nhiều mà không nói được lời nào. Anh khờ khạo không có năng khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cười. Lương mà khùng? Lương chỉ không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như nhìn một món đồ chơi. Bông là Bông, là con gái, là người.
Sau nầy, Bông dửng dưng qua đò như chưa hề có cái đêm hôm đó. Bông đi với một thằng con trai mới. Thằng nầy để tóc năm năm nên Lương kêu nó bằng “Năm-năm”. "Năm-năm”trẻ măng, quần áo thơm, đầu tóc thơm, chiếc xe phân khối lớn nổ tè tè ra đám khói cũng thơm. Bốn giờ, "Năm-năm” đón Bông ở đầu bến đò. Nó hất mặt hỏi Lương có biết Hồng không? Lương nói Lương chỉ biết Bông thôi. Lòng anh nghĩ, dù là Hồng, là Mai, là Cúc thì vẫn là Bông."Năm-năm” cười sùi sụt: "Ông nội này cù lần thiệt”. Bông qua sông đi rồi. Mấy bà già đi chợ về nguýt muốn rách đuôi con mắt:
- Con gái con đứa gì mà ngồi vểnh phao câu, thấy ghét.
Lương lặng lẽ cười. Anh đưa Bông đi rồi chở Bông về. Kỳ cục, Lương không biết rằng mỗi lần thấy Lương dại miệng kéo răng ra cười là lòng Bông quặn đau. Bông muốn nhìn thấy anh buồn, thấy trong mắt anh lộ ra một cái nhìn ghen tức. Nhưng Lương không được thông minh lắm, Lương không hiểu. Lương khùng.
Lương không ngờ. Chiều đó anh đưa Bông tươi hồng qua sông, sáng hôm sau má Bông với đám em qua đò, mếu máo :
- Con Bông nó bị tai nạn.
Nghe nói Bông bị thương trong lúc đua xe cùng “Năm-năm”.
Nghe nói cột sống Bông bị tổn thương nặng. Một nửa chi dưới đã bất toại.
Lương chỉ nghe người xóm Miễu qua đò nói lại. Lương không bỏ đi đâu được đôi chèo. Lương không rành cái gì ngoài cái bến, dòng sông, đất đai xóm Miễu. Lương ngồi tưởng tượng ở trong bệnh viện chắc Bông buồn lắm. Lương chờ Bông về.
Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mãi miết chèo qua chèo lại, càn lên dòng chảy, lên sóng nước mà đi. Bông ngồi trên bến thu tiền. Nó vuốt phẳng phiu từng tờ giấy bạc lẻ nhàu vào từng ô của chiếc hộp Lương đóng ngày xưa. Người không biết qua bến nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng rồi nhìn vẻ mặt già háp của Lương mà lòng tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mốc với cái mâm son, tiếc bông lài trắng với bãi cứt trâu xanh. Người biết chuyện cười Lương khùng, cưu mang một đứa con gái lỡ lầm còn thêm chuyện không còn khả năng làm vợ.
Nên bên kia chợ người ta gọi bến này là bến Đậu Đỏ, bên này bờ xóm Miễu, người ta kêu bến “Lương khùng”.
-Chuyến bay lại trễ nửa tiếng, thím Quyên nói, thế là khá đó, hãng Air Cal này tệ lắm, nhiều khi còn trễ hơn!
Anh Đằng, anh của Thảo, cũng lên tiếng chê:
-Thức ăn của Air Cal không ngon, snack thì chỉ có gói đậu phọng...chỉ có Alaska là ngon thôi!
Thảo nghe và chỉ mỉm cười, nàng không có ý kiến. Đã lâu Thảo không đưa đón ai, mà có đi đâu thì cũng có người đến đón ngay, không ai bắt Thảo đợi nên không mấy khi nàng bồn chồn, bực mình. Còn trên máy bay, nàng chỉ thích ngủ, dễ ngủ và tha hồ ngủ. Tuy Thảo không nghĩ đi máy bay để ngủ hay ăn, nhưng giữa ngủ và ăn, nàng chọn ngủ!
Anh Đằng đi tới đi lui nóng nảy, thím Quyên ngồi mệt mỏi, đầu ngoẹo một bên dựa vào ghế sa lông. Chú Hoàng ngồi bên vợ, vừa đọc báo vừa đợi. Thảo nhìn thím nghĩ, bệnh hoạn thế sao còn đòi đi, rồi nàng lơ đãng nhìn đám hành khách đông đảo chung quanh, từ từ bởi tính tò mò lôi cuốn... Ở hàng ghế đối diện chỉ thấy hai cha con với xách tay mà không thấy bóng dáng của một người đàn bà - người vợ, người mẹ. Đứa con đi thăm mẹ hay sắp trở về sau chuyến thăm cha? Loáng thoáng nghe tiếng người cha..." gọi cho daddy ngay nghe con. Con đói không?" Người cha vừa mặc áo jacket thắt sợi dây nơi cổ cho con vừa dặn dò. Không nghe chú bé nói gì, chỉ thâý cái đầu gật gật. Để trả lời hay tại sợi dây làm đầu chú gật? Bên tay trái là cặp tình nhân hay đôi vợ chồng mới cưới mà nắm tay âu yếm, hôn hít không thôi? Tiếp viên hàng không kêu gọi quý khách đi Reno - San Francisco vui lòng ra cổng số 5 để lên máy bay. Mọi người lục đục đứng lên, xách hành lý hối hả kéo nhau đi. Cha con chia tay, hôn nhau. Thằng bé năm sáu tuổi trông vẫn dửng dưng nhất định không khóc. Xem ra ông bố còn bịn rịn yếu đuối hơn, ông đứng dựa thành chắn đưa tay vẫy vẫy. Thằng bé nhìn bố lần cuối rồi đi thẳng. Đám jacket đỏ vẫn ồn ào nói đùa trong khi đi ra. Team đánh bài ở Reno hay đội Bowling nào? Cặp uyên ương giờ mới đứng dậy tà tà nối theo đuôi. Vẫn đi với nhau. Thì ra họ không có chia tay. Bây giờ khu đợi đã thưa khách, chỉ còn lại là những người đợi thân nhân đến từ Seattle, trong đó có một người đàn ông ở tuổi trung niên đang ngồi ôm một bó hoa hồng nhung, bồn chồn đợi người yêu? Đám nhân viên mặc áo màu xanh đứng ở quầy Air Cal giờ đã biến mất, chỉ còn lại có một bà mập.
Thím Quyên nói, mắt hướng về phía quầy:
-Em mà là hãng bay chắc sẽ không mướn bà đó đâu, người gì mập quá!
Chú Hoàng cười trêu vợ:
-Người ta sẽ kiện em kỳ thị, không mướn mập thì cũng không ai mướn ốm như em đâu!
Thím cũng cười:
-Dĩ nhiên, hãng bay phải mướn người đẹp chớ.
Bỗng đâu có một ông áo jacket đỏ lúp xúp chạy đến quầy. Ông đi trễ! Bà mập kêu không cần kiểm danh cứ lên, tay chỉ nhanh gate 5. Chút nữa thì chim lạc bầy! Vẫn còn cô tiếp viên đứng nơi cổng cầm máy mời khách lần chót cho chuyến bay Reno - San Francisco. Rồi cánh cửa cổng đóng lại.
Chuyến bay vẫn chưa đến. Đám đợi vẫn cứ đợi.
-Hay có bão tuyết ở đâu nên trễ, thím Quyên nói, hay lại chờ máy bay ở Seattle?
Thảo cầm lên tờ báo USA Today ai đó bỏ quên trên ghế.
-Đi máy bay cũng sợ rớt hả?
Thảo chưa nói gì, thím lại lo âu.
Chú Hoàng đã đi đâu, không ai trò chuyện nên thím lại ngồi gần bên Thảo. Lần đầu tiên Thảo giật mình bắt gặp một khuôn mặt xanh xao gầy nhom xa lạ, Thảo có biết mấy tháng nay thím đau, bệnh nan y, nhưng không ngờ thím sa sút đến như vậy. Tinh thần cũng thay đổi theo, có hôm thím vui nói năng cười đùa dòn tan đòi ăn món này món nọ, đi chỗ này chỗ kia, có hôm thím buồn nằm bẹp trên giường chỉ khóc và nói chuyện chết chóc.
-Vậy chớ an toàn hơn lái xe, theo thống kê thì người chết vì tai nạn xe cộ nhiều hơn, thím à.
Thảo vừa trấn an thím vừa liếc mắt nhìn đồng hồ coi giờ. Trong lúc đó bất ngờ nàng nghe thím nói:
-Mới đó mà đã mười năm! Không biết thím có còn nhận ra nó không?...
*
* *
-Thảo, ngó đi! Ai như chàng của mày đang chờ ngoài cổng kia kìa?
Nghe kêu, Thảo hết hồn quay sang bụm miệng Uyên lại ngay, nó mà nói to cả lớp nghe được rồi đều nhìn ra cửa sổ thì Thảo quê chết, bà Hiên lại giảng cho nghe...các chị nên lo chuyện học hành đã - Người ta sống đâu chỉ có...điểm cao và thi đậu!
Thảo liếc nhanh xuống chiếc đồng hồ, cũng còn 15 phút nữa mới tan trường, rồi thấp thỏm đợi chờ, dĩ nhiên đầu óc Thảo chẳng nhét thêm chút chữ nghĩa nào. Cô bạn Uyên nhìn cười cười ghé tai Thảo nói nhỏ," chàng về sướng hở, tha hồ dung dăng dung dẻ."
Chuông reng, Thảo tông ra khỏi lớp liền. Bà Hiên còn dặn dò đám nữ sinh:
-Các chị, cẩn thận xe cộ!
Thảo nghĩ thầm, cái bà Hiên lẩm cẩm, để người ta về cho rồi, dạy Triết còn chưa đủ còn dạy cả luật đi đường nữa hở!
Gặp chàng là Thảo trách yêu:
-Anh...suýt chút nữa, trúng giờ bà Hiên!
Chàng cười hì hì giả vờ:
-Anh có làm gì đâu?
Thảo đập nhẹ vai chàng:
-Anh thật không biết gì cả?
Chàng vẫn còn cười, giọng nói có chút lẫy hờn:
-Cái thú duy nhất của người ta mà cấm! Mới vừa về phép, không đến đón em thì đi đâu? Không về nữa là hết cằn nhằn...
Thảo vén áo dài lên xe vespa ngồi sau chàng. Biết chắc là có rất nhiều cặp mắt lũ bạn đang dòm theo thèm thuồng, Sơn đẹp trai cao lớn khỏe mạnh với hai hoa mai rừng sáng chói, dân mũ đỏ anh hùng thứ thiệt chứ chẳng phải lính kiểng thành phố, Thảo rất sung sướng hãnh diện về chàng. Ở Sơn, Thảo cũng mê mái tóc cắt ngắn và khuôn mặt rạm nắng rắn chắc của chàng. Vì vậy, tuy trách chàng vì sợ bà giáo Hiên bắt gặp, Thảo vẫn mong chàng cứ đến đón nàng ở cổng trường. Chàng hỏi giọng săn sóc:
-Em muốn đi đâu, anh đưa đi?
Thảo nũng nịu:
-Em muốn đi ăn kem Mai Hương. Đã lâu không ăn!
Sơn vòng tay ra sau tìm kiếm bàn tay mềm mại của Thảo, cười:
-Em nói sao nghe lạ quá em! Đâu phải như xứ rừng của anh?
-Dĩ nhiên Sàigòn thì thứ gì lại chẳng có. Tại không có anh, em không muốn đi thôi.
Rợp bóng mát nhờ hai hàng cây, con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tràn ngập những tà áo trắng thướt tha dịu dàng. Chàng nói đó là con đường thơ mộng tình tứ nhất. Thảo cười " ủa, em tưởng con đường Tú Xương mới là con đường thơ mộng tình tứ nhất chớ, mấy ông văn sĩ nói như vậy" . Chàng từ từ giải thích..." con đường Tú Xương đẹp nhưng là con đường chết vì thiếu bóng dáng các cô Trưng Vương áo trắng lụa là đi học về" . Thảo chịu thua. Rồi chàng hỏi đố:
-Em có biết...ngày xưa anh học Pétrus Ký?
Tóc Thảo bay theo gió. Buổi chiều nắng nhẹ đẹp trời. Có chàng bên cạnh, lòng Thảo ấm áp, Thảo biết là nàng đang yêu đời, nàng âu yếm trả lời:
-Dĩ nhiên em phải biết chớ!
-Anh tưởng dân Trưng Vương chỉ chơi với dân Chu văn An?
Thảo cũng nghe vậy. Cũng như Pétrus Ký thì chơi với Gia Long, H
ồ ngọc Cẩn thì chơi với Lê văn Duyệt...nhưng Thảo dại gì " tưởng" như chàng. Thảo chê:
-Thì ai bảo anh luôn luôn tưởng đúng đâu? Đây nè ông bạn, nếu bố mẹ mà đã kỳ thị thì làm gì có em?
Bố Bắc, mẹ Nam nên Thảo ăn uống lung tung, dễ chịu, nhất là nói chuyện thức ăn mà kỳ thị thì khờ dại quá, đã một lần Thảo nói với chàng như vậy.
Chú của Thảo lấy cô của Sơn, rồi có dịp cháu ông quen cháu bà! Ba má của Sơn ở Mỹ Tho, Sơn không học trường Nguyễn Đình Chiểu mà lên Sàigòn học ở Pétrus Ký, Trương Vĩnh Ký. Đi lính mỗi lần về Sàigon, chàng đến nhà của cô dượng rồi gặp Thảo cũng hay ghé chú thím chơi. Rồi hai người yêu nhau. Sơn nói từ ngày yêu Thảo anh hay mong đợi ngày phép, và những lần về thành phố giờ có ý nghĩa hơn. Sơn về lần nào, Thảo cũng nhõng nhẽo đòi anh đưa đi ăn kem - Như là...không có anh, kem thành không ngon - rồi đi movies, bát phố. Từ nhà Thảo xuống phố Lê Lợi thường đi qua đường Trần Quý Cáp với hàng me cao bóng mát, có mấy chú nhỏ trèo lên hái trái đem xuống dụ khị chàng, " chú mua cho cô đi chú, me dốt đó...ăn ngon lắm" , chàng nghe bùi tai mua hết cả rổ, nhìn mớ me dốt ngọt ngọt chua chua, cô nào lại chẳng chảy nước miếng thèm thuồng, nhưng dạo đó mới quen, chàng có ngờ đâu ...nhỏ Thảo là dân hảo ngọt, ghét ăn chua không mê ô mai, xí muội, chỉ thích ăn kem ăn chè, mà chè phải thật ngọt thì Thảo mới ăn, không ưa các lối nấu bỏ ít đường, vì sợ hao đường hay sợ mập. Thấy chàng dại dột mà Thảo tức cười - thấy cảm động thương chàng hơn! Chàng lúng túng với rổ me trên tay, cười..." Không giúp người ta còn đứng ở đó mà cười. Mua cho em, em không ăn, rồi làm sao đây...?" " Em đem cho tụi bạn ở trường được không anh?" Thảo hỏi. Chàng trả lời..." em biết là em không phải xin phép anh mà" . Thảo nói..." em sẽ kể công nói là anh mua cho tụi nó đó. Để anh lấy điểm với đám bạn của em, nghe anh" . Chàng nháy mắt trêu - khuôn mặt chàng đen hồng rạm nắng quyến rũ dễ yêu ghê nơi, Thảo nghĩ thầm - " có quá trễ không, anh tưởng là em đã " chịu" anh rồi, cần gì phải lấy điểm với mấy cô bạn nữa chớ ?" Thảo cười cười kêu ớ ờ, đừng tưởng bở!
Tuy không nói ra nhưng Thảo công nhận là chàng đã nói đúng, nàng đã thật sự chịu anh rồi! Chàng lúc nào cũng chiều chuộng ngọt ngào với Thảo, có lần chàng nói tại Thảo bé nhỏ quá, thấy thương, nhất là khi thu mình trong chiếc ghế mây không thấy cô bé đâu, trời nóng nực nghĩ Thảo ngồi học thi mà tội nghiệp. Còn Thảo, ở đâu lúc nào, Thảo cũng nghĩ đến anh và lo cho anh. Đang lâm trận hay đang băng rừng vượt suối, đang dừng chân đóng quân bên ven sông hay ở góc đồi núi nào...?
Ở tiệm kem ra, Thảo đòi chàng đưa đến nhà thờ Đức Bà. Gió thổi, lá me li ti rụng bay xoắn ở góc đường Tự Do. Một tay giữ tà áo, một tay vòng phía trước ôm bụng Sơn , đầu Thảo ngả lên vai chàng. Trong phút giây gần gũi đó, Thảo bỗng thấy mình yếu đuối, lo sợ. Tình hình dạo này rất lộn xộn, tin tức chiến sự đầy rẫy sự chết chóc ngày nào cũng tràn ngập trên những trang báo. Người miền Trung tản cư vào Saigòn đã nhiều, dân Cao nguyên cũng đổ xuống khắp nơi, thành phần có tiền lục lạo đi mua nhà. Một hôm mẹ Thảo đang đứng trước cửa thì bỗng nhiên có người đến ngỏ ý mua nhà và hỏi giá bao nhiêu, mà nhà Thảo có để bảng bán nhà đâu. Ngạc nhiên mẹ hỏi chuyện rồi mời bà khách lạ vào nhà uống chén trà nghỉ chân và cũng để mẹ tò mò hỏi thăm. Thảo mò lên ngồi ở cái ghế trong góc phòng lắng tai nghe. Từ ngày yêu Sơn, đời sống của nàng gắn liền với thời cuộc, trong khi các cô bạn gái của Thảo vẫn vô tư ăn học ở lứa tuổi mười tám, thì nàng hốt hoảng vì bất cứ một tin tức từ xa nào, ban ngày cũng cố cười đùa cùng chúng bạn, nhưng đêm đến trong bóng tối nàng lo âu mất ngủ và hay giựt mình khi nghe tiếng đại bác vọng về.
Thảo sợ mất Sơn. Thấy Thảo ôm xiết lấy mình một cách khác thường, Sơn đưa tay nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé của Thảo:
-Chuyện gì vậy em?
Thảo thuật lại câu chuyện bà khách và nói:
-Em lo quá anh. Lỡ anh bị gì!
Giọng Thảo bỗng run run. Khuôn mặt đang hồng hào đầy sức sống chỉ vài phút trước đó đã trở nên xanh xao. Mọi lần Sơn hay đùa nói đừng lo, số anh thọ lắm, nhưng hôm nay lúc ngừng xe thấy sắc diện của Thảo, chàng cảm động vô cùng, biết rằng những câu trêu đùa sẽ trở thành vô duyên, để Thảo an tâm, chàng vỗ về:
-Anh sẽ cẩn thận.
Chỉ là câu nói chứ chuyện súng đạn làm sao nói được. Hai mắt Thảo đỏ hoe. Những giọt lệ nóng đang chảy dài xuống má. Sơn lau nước mắt cho nàng. Trong giáo đường Thảo cầu nguyện cho anh bình an.
Vài tháng sau đó vào một ngày thành phố Saigòn gần rơi vào tay Cộng Sản, Thảo hấp tấp ra đi với gia đình. Và lần đi chơi đó cũng là lần cuối cùng Thảo nhìn thấy Sơn...
Qua Mỹ, Thảo tiếp tục đi học, rồi ra trường, rồi đi làm. Mấy năm đầu nàng mong mỏi chờ đợi chàng, bạn bè cùng trang lứa ở trường cũng nhiều nhưng nàng không để ý đến ai, có ai tán tỉnh thẳng thì nàng chỉ mỉm cười, ngầm nói là nàng đã có người. Đời sống mới với học, giốp giếc quần quật bận rộn cũng có giúp Thảo quên đi chuyện cũ, nhưng những ngày nghỉ, những ngày cuối tuần, thời giờ rảnh rang, Thảo khổ sở vô cùng vì phải chống chọi với niềm nhớ thương Sơn quay quắt, nỗi cô đơn tê lịm ngất ngây. Qua tin tức bên thím thì lúc đó Sơn đi " học tập" . Cũng mấy năm...Rồi tin Sơn có vợ, rồi có con. Thảo buồn giận, Thảo đau khổ, nhưng đời sống vẫn phải tiếp tục. Lúc này Thảo tuy không đợi chờ nữa - đợi chờ ai đây - vẫn chưa lấy ai, vẫn đi làm và vẫn sống với gia đình. Mỗi ngày ít nhất là Thảo nghĩ tới chàng một lần. Mái tóc ngắn và khuôn mặt rạm nắng. Dáng oai hùng che chở và giọng nói săn sóc. Cổng trường Trưng Vương. Con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại lộ Thống Nhất. Quán kem Mai Hương. Đám lá me li ti xoắn tròn ở góc đường Tự Do gần nhà thờ Đức Bà. Quá khứ cũ như là một người bạn đồng hành. Khi học hành khuya, khi bon bon một mình trên freeway lái xe đi làm về, Thảo nhớ chàng, nhớ để thấy ấm cúng, hạnh phúc. Thảo kể chuyện sở cho chàng nghe, Thảo than thở về thời tiết lạnh lẽo, mưa gió, Thảo thố lộ những ước mơ, nhưng Thảo không còn nghĩ đến một tương lai của mình mà cũng có chàng trong đó. Thời gian cứ thế trôi qua, không ngờ!
Rồi bất ngờ một hôm Thảo được tin gia đình Sơn đã vượt biên được và đang ở bên đảo Mã Lai. Tay thím Quyên run run khi đọc thư của cháu, thím mừng quá, nó là đứa cháu duy nhất đi được của thím, họ hàng nhà chồng đông đảo, mỗi lần lễ lộc tụ tập lại làm thím tủi thân vì thấy sự cô độc lẻ loi của mình - tự thím nghĩ vậy chứ ai cũng đối xử tử tế biết điều với thím cả. Lá thư có đoạn..." Xin cô dượng lo cho chúng cháu được qua Mỹ sớm, nhà cháu yếu lắm, thằng Cu bị bệnh hoạn luôn, nó èo uột khó nuôi, khi sinh cháu không đủ tháng..." Thím lại có cháu gọi bằng bà nữa hỏi sao thím không vui mừng cho được? Thím đứng ngồi không yên trong những ngày sau đó.
Còn Thảo, nàng vui hay buồn? Những kỷ niệm cũ còn đó, hình ảnh về Sơn vẫn còn hiển hiện trong tâm tưởng của nàng...Vui vì Sơn và gia đình đã thoát được. Còn buồn, vì Sơn bây giờ đã có một gia đình nhỏ của riêng chàng. Thật ra, Sơn đã không còn là Sơn của Thảo từ năm năm trước khi Thảo được tin chàng lấy vợ. Và chuyện mười năm qua đã như là một truyện phim mà Thảo vừa xem trên màn ảnh lớn, có khóc lóc nhỏ lệ và rồi cũng chỉ là chuyện phim. Xã hội Mỹ, đời sống Mỹ...những lo âu Thảo đương đầu hằng ngày mà Thảo đã không thể chia sẻ cùng chàng và không hẳn chàng sẽ hiểu. Bây giờ Thảo đã thật... trưởng thành - cũng đã cao thêm - với tư tưởng một phần Việt, một phần Mỹ hóa. Nhiều việc Thảo bám lấy kiểu Việt Nam, nhiều việc Thảo thích kiểu Mỹ, nàng yêu nếp sống gia đình, sống với lý tưởng thủy chung và cùng lúc cũng quay cuồng theo công danh sự nghiệp, những quan niệm sống cho cái tôi của mình, để rồi bối rối hụt hẫng... nhiều lúc!
...Thấm thoát mới đó mà đã mười năm trôi qua.
-Dữ không, tưởng đợi suốt đêm!
Thím Quyên kêu òa mừng rỡ khi chuyến bay từ Seattle đã đến.
-Vừa thôi chứ, máy bay Mỹ mà. Chú Hoàng mắng yêu vợ.
-Cuối cùng rồi cũng tới. Thím lại nói.
Gia đình chàng lọt tọt ra sau cùng - thụng thịnh trong những cái áo lạnh rộng khổ. Chàng chưa nhìn thấy Thảo, nhưng Thảo đã thấy chàng. Khuôn mặt ốm xương xương, đôi mắt lõm thâm quầng, trông chàng già nhiều. Nếu không biết chàng đến từ chuyến bay đó, chưa chắc Thảo đã nhận ra chàng ngay. Chàng mệt mỏi cười giải thích, khi thím Quyên nói " chỉ thấy hành khách Mỹ, tưởng gia đình cháu không đi chuyến này."
-Lần đổi máy bay sau cùng, tụi nó nhét sau đuôi.
Bên cạnh chàng là một người đàn bà dáng nhỏ, mặt trắng xanh xao yếu đuối, ẵm một bé trai đang rụt rè che mặt vào vai mẹ. Thảo đến gần chào. Sơn cũng vừa nhìn thấy Thảo, quay sang giới thiệu với vợ, " Thảo, cháu của dượng Hoàng" . Cười nhẹ, Thảo nghĩ, chỉ có thế thôi sao, vợ chàng gật đầu chào Thảo, có lúc nào chàng kể về Thảo cho vợ chàng nghe? Và ô hay, Thảo có nghĩ tới...rồi sẽ là...một cơn đau nhói tê tái nơi tim nhưng không, trái tim nàng vẫn đập nhịp bình thường! Lạ chưa?
Về nhà chú thím, Thảo phụ dọn cháo gà ăn đỡ lòng. Chú thím huyên thuyên hỏi chuyện. Trăm ngàn thứ chuyện. Thảo đút cháo cho chú bé, thỉnh thoảng liếc nhìn Sơn và vợ chàng, theo thói tò mò có lẽ, đứa bé đã dạn dĩ nói cám ơn cô... nó có làn da trắng như mẹ và cái miệng hơi cong cong giống cha.
Nói là nàng không còn gì luyến tiếc một cuộc tình đã như mây khói quả là không sai. Hình ảnh cũ bao năm qua vẫn sống trong tâm tưởng nàng giờ bị làn sóng vỗ cuốn trôi đi tan nhòa trong bọt biển. Chàng không còn là chàng của ngày xưa, cũng như người ngồi đây với người hay về phép đón Thảo ở cổng trường là hai người khác nhau. Tù tội, cuộc sống mới, một lần ra đi...đời chàng đổi thay...và đời Thảo cũng đã đổi thay!
Cuộc hội ngộ không khó như nàng đã tưởng
Williams nổi tiếng là một con nợ lì lợm, nhưng một hôm anh ta bước vào cửa hàng tạp hóa trong vùng và thanh toán hết mọi khoản mua chịu không hề lẩm bẩm một tiếng nào.
Anh ta giải thích với ông chủ đang đứng sau quầy hàng:
- Chính lá thư ông gửi tôi đã khiến cho tôi phải trả dứt nợ. Chưa bao giờ tôi thấy lá thư nào có sức mạnh như vậy. Đọc lá thư đó thì đến gỗ đá cũng phải xì tiền ra. Làm sao ông viết được lá thư hay thế?
Ông chủ hiệu tạp hóa mỉm cười buồn bã:
- Tôi lấy những đoạn hay nhất trong lá thư vợ tôi gửi cho tôi khi bà ta đi nghỉ mát ở một khu du lịch đắt tiền.
Sơn dừng xe lại nơi một trạm xe bus. Người khách già đứng bên lề đường chậm chạp ngước mắt nhìn lên tấm bảng ghi số và tên lộ trình chạy bằng điện tử ngay phía trên cửa ra vào đang chớp tắt, thay đổi liên tục bằng đôi mắt hoang mang, ngơ ngác. Một lát, người khách già cúi xuống, lần từng bước thận trọng bước vào xe. Sơn lặng lẽ ngồi chờ. Bàn tay người khách run run, sờ soạng, lần mò trên thanh sắt tròn dọc theo lối vào. lên hết ba bực cấp, đứng hẳn trong xe rồi, người khách bắt đầu cho tay vào túi áo lục tìm vật gì đó.
Sơn cất tiếng chào:
"Chào cụ."
"Hả?"
Người khách già sửng sốt, bàn tay dừng lại nơi mép túi, ngước mắt nhìn Sơn dò xét. Sơn cười, lập lại:
"Chào cụ."
Người khách ngập ngừng:
"Ông là người Việt Nam?"
"Vâng, thưa cụ. Cháu là người Việt Nam."
Khuôn mặt người khách lộ vẻ vui mừng, ông cất giọng vừa xúc động vừa ngạc nhiên:
"Thật may quá, quý quá. Ở đây cũng có người Việt lái xe hở ông?"
Sơn đáp:
"Dạ có, thưa cụ."
Người khách già vẫn chưa hết ngạc nhiên và xúc động. Ông không biết làm gì, đứng xớ rớ, miệng cứ lẩm bẩm lập đi lập lại mấy tiếng: may quá, may quá. Sơn hỏi:
"Cụ xuống phố phải không ạ?"
Như sực nhớ ra, ông cụ vội vàng cho tay vào túi áo vừa lục tìm vừa nói với Sơn:
"Thật may quá. Tôi cứ ngại sẽ đi lạc. Tôi già rồi mà tiếng Tây tiếng u không biết. Con gái tôi có viết cho mấy chữ để đưa cho tài xế, không biết tôi bỏ vào túi nào, lại còn cái vé xe..."
Sơn cười:
"Thôi, cụ không cần phải tìm nữa. Mời cụ ngồi xuống đây."
Sơn chỉ tay vào băng ghế cạnh tài xế, tiếp:
"Cụ ngồi gần đây nói chuyện cho vui."
Người khách già nhìn quanh trong xe rồi ngồi xuống băng ghế Sơn chỉ:
"Sao vắng khách thế này? Tôi ngồi đây được hả ông? Con gái tôi dặn chỗ này dành riêng cho người tàn tật và người già."
Sơn đáp dịu dàng:
"Dạ được, cụ cứ ngồi. Cụ cũng là người già, không phải vậy sao?"
Cụ già mỉm cười, nụ cười hom hem, ngượng ngập:
"Tôi đi xe buýt đây là lần đầu nên ngại quá. Cái gì cũng ngại."
Đợi người khách ngồi xuống xong Sơn cho xe tách ra khỏi lề, nhập vào giòng xe cộ nhộn nhịp rồi trả lời tiếp câu hỏi của ông cụ:
"Hôm nay cụ là người khách đầu tiên của cháu. Chốc nữa sẽ có thêm nhưng không nhiều lắm đâu. Buổi sáng còn có khách, chứ trưa có hôm cháu chỉ chạy xe không."
Người khách già ngạc nhiên:
"Vậy à? Rồi làm sao đủ sống?"
Sơn cười, giải thích:
"Đây là hãng xe bus công cộng, cháu chỉ lái xe ăn lương giờ. Dân chúng đi làm đóng thuế cho chính phủ thì chính phủ phải lo. Dù có người đi hay không cũng phải có xe chạy, nếu không, dân chúng thưa gởi, khiếu nại lung tung, phiền phức lắm."
"Ông chạy cả ngày à?"
"Thưa cụ, không. Cháu chỉ lái vài chuyến buổi sáng, rồi về nghỉ, giao cho người khác thế; chiều lại chạy vài chuyến nữa."
Ông cụ chép miệng:
"Tốn kém nhỉ. Xe to lớn, đẹp đẽ thế này mua phải bộn tiền, rồi xăng nhớt, sửa chửa, bảo trì mà chỉ để chở năm ba người khách. Xe này mà ở Việt Nam thì phải biết."
Sơn tò mò:
"Cụ mới từ Việt Nam sang?"
"Vợ chồng đứa con gái bảo lãnh tôi sang đây được sáu tháng. Ở nhà buồn quá ông ơi. Hai vợ chồng tụi nó đi làm, mấy đứa cháu đi học. Nhà vắng tanh vắng ngắt. Tôi cứ đi ra rồi đi vào, không biết làm gì cho hết ngày. Coi ti vi không được, nghe nhạc không được, đọc sách một lát là mõi mắt. Hàng xóm lại toàn Mỹ. Mong cho lũ con lũ cháu về để nói chuyện cho vui mà lũ nhỏ về đến nhà là nói toàn tiếng Mỹ. Tôi bảo chúng nói tiếng Việt thì chúng cũng rán cho tôi vui lòng nhưng thực ra tôi nghe cái món tiếng Việt của tụi nó cũng chẳng khác gì tiếng ngoại quốc, chỉ hiểu đại khái. Còn bố mẹ chúng về đến nhà là mệt phờ, ăn uống qua loa, hỏi han năm ba câu lấy lệ rồi lăn ra ngủ để mai còn đi làm tiếp. Buồn thì có buồn nhưng đâu có thể bắt chúng ngồi nghe mình nói mãi được. Ối dà, mà có chuyện gì quan trọng đâu ông. Tôi già rồi, nói toàn những chuyện lẫm cẫm, chúng nghe chắc chán lắm."
Sơn an ủi ông cụ:
"Cháu hiểu tình cảnh của các cụ bên này. Bố mẹ cháu cũng vậy. Hai cụ buồn quá cứ đòi về Việt nam hoài. Cháu thật khó nghĩ. Đời sống bên này nó vậy cụ ạ."
"Nghĩ cũng tội cho con cái. Vợ chồng nó thấy tôi buồn mới ghi tên tôi vào hội bô lão gì đó, chỉ tôi đường đi xe buýt để ngày ngày tôi xuống gặp các cụ đồng hương nói chuyện cho vui. Nó bảo dưới đó người ta còn dạy tiếng Mỹ nữa. Nó nói bố rán học ít tiếng Mỹ. Chà, tôi già chừng tuổi này, học tiếng Mỹ để làm cái gì? Mà giá như có học được thì biết nói với họ cái gì? Họ khác, mình khác, cái gì cũng khác, phải không ông?"
"Dạ, cụ nói đúng. Phong tục, tập quán của họ khác xa mình."
"Tôi mới qua chắc không biết nhiều như các ông. Nhưng tôi thấy cái gì cũng kỳ cục. Tên họ thì đổi xuôi đổi ngược. Xóm làng gì mà nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm suốt ngày. Hàng xóm láng giềng với nhau mà cả tháng không thấy mặt nhau, không nói với nhau lời nào. Ai đời con cái lại đi kiện cha mẹ vì cái tủ lạnh. Học trò thưa thầy giáo ra tòa vì nghịch bị thầy đét vào đít. Hừm, người mình nói: nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba học trò. Con nít thì ở đâu cũng phá như giặc, không đét vào đít thì làm sao chúng nên người được, phải không ông?"
Sơn gật gù khen ông cụ:
"Cụ mới qua mà đã biết nhiều rồi. Thực ra họ có cái sai mà cũng có cái đúng. Tỷ như chuyện đánh con nít. Cụ dạy rất phải, con nít thì phải bị đòn chút ít mới nên người được, nhưng ở đây có nhiều người đánh con nít như đánh kẻ thù. Thiếu gì trường hợp cha mẹ bỏ bê con cái, đánh đập, hành hạ con cái cho đến chết. Thành ra luật là để ngăn ngừa những chuyện đó."
Cụ già chép miệng:
"Càng nhiều luật càng phiền. Mà luật nào đặt ra cho đủ hết mọi chuyện ở đời. Ông nghĩ coi..."
Sơn ép xe vào lề đường dừng lại. Hai cô cậu học sinh đang đứng ôm nhau vội vàng buông ra rồi lục tục kéo lên xe. Cả hai vừa đi vừa nhún nhảy, dắt nhau đến ngồi ở dãy ghế cuối cùng. Chiếc xe lại tiếp tục lăn bánh. Cụ già trở lại câu chuyện bị gián đoạn:
"Đó, ông thấy chưa? Có luật nào cấm con nít mười ba, mười bốn tuổi ôm nhau ngoài đường, trên xe" ông cụ liếc chừng về phía sau như sợ hai cô cậu nhỏ hiểu được điều mình vừa nói "Mà chuyện đó cũng nên đặt luật để cấm đấy."
Sơn cười lớn làm hai cô cậu đang ôm nhau nơi cuối xe vội vàng buông ra.
"Cụ ơi, cụ mà xúi người ta đặt luật cấm bọn trẻ ôm nhau là sẽ có loạn lớn đó."
"Thì tôi nói vậy thôi chứ sức nào mà cấm."
Sơn lại dừng xe đón mấy người khách. Hai người đàn bà da đen to cồng kềnh, ì ạch nhấc từng bước trên các bực cấp. Chiếc xe bus rung lên, lắc lư theo từng bước chân của họ. Cụ già co hai chân lại, cố thu mình nhường lối như sợ mấy khối thịt khổng lồ đó sẽ bất thần đè phủ lấy mình. Cụ ngước mắt tò mò, ngạc nhiên nhìn theo hai người đàn bà đang ì ạch đi dần về giữa xe rồi chật vật gieo mình xuống chiếc ghế nhỏ hẹp. Cụ lắc đầu nói với Sơn:
"Người đâu mà béo tốt quá!"
Sơn vừa cho xe chạy trở lại vừa nói với ông cụ:
"Béo chứ không tốt đâu cụ ạ. Chỉ tốn tiền đai ét."
Ông cụ nhíu mày:
"Đai ét là cái gì ông?"
"Dạ, đai ét là ăn kiêng. Họ phải nhịn ăn hoặc chỉ ăn những thức ăn dành riêng cho người mập để tiêu bớt mỡ, xuống bớt cân. Mập quá cũng không tốt đâu cụ."
Ông cụ tự nhiên im lặng. Ông ngồi thẳng lưng, hai tay đặt ngay ngắn trên đùi, những ngón tay gầy thỉnh thoảng gõ nhịp thong thả như đang đếm từng ý nghĩ trong đầu. Ông nhìn ra ngoài cửa xe. Nhà cửa cây cối chạy lùi về phía sau làm ông cụ cảm thấy chóng mặt. Ông lại quay vào trong. Người đàn bà da đen lúc này đang ngủ gà ngủ gật; khuôn mặt mập tròn đè xuống cái cổ ngắn làm vồng lên những ngấn thịt nung núc. Không nghe ông cụ nói gì, Sơn tưởng ông cụ đã chán chuyện. Nhưng xe chạy được một quãng, ông cụ lại lên tiếng:
"Nghĩ cũng thật bất công. Bên Việt nam không có mà ăn, bên này lại phải kiêng ăn."
Sơn gợi chuyện:
"Nghe nói bên nhà bây giờ dễ thở hơn hồi trước nhiều, phải không cụ?"
Ông cụ lắc đầu, chậm chạp:
"Có dễ thở gì đâu ông ơi. Ai cũng sắp tắt thở tới nơi nên nhà nước sợ, nới chút xíu cho khỏi sanh loạn. Rồi ở ngoài người ta la ầm lên là có sửa đổi, có cải cách, như vậy là dễ thở rồi. Chà, cộng sản mà để cho dân dễ thở thì đâu phải là cộng sản nữa."
Ông cụ dừng lại, ngó mông về phía trước. Sơn cũng không tiện nói gì, chỉ im lặng lái xe. Một lát ông cụ quay sang Sơn, giọng tâm sự:
"Tôi đã sống qua bao nhiêu thời rồi, từ thời Bảo Đại, thời Pháp, đến Quốc gia rồi Cộng sản, tôi chưa thấy thời nào mà dân mình khổ sở, khốn nạn như cái thời cộng sản này. Đàn bà con gái bán thân chỉ vì một lon gạo. Giành giựt, chém giết, lừa đảo nhau chỉ vì một lon gạo. Đạo đức, lễ nghĩa suy đồi, xuống dốc thê thảm. Cô giáo vừa dạy học vừa bày quà bán cho học trò ngay trong lớp. Thầy giáo bỏ dạy đi chạy chợ trời, đi đạp xích lô. Ông nghĩ coi, có thời nào mà thầy cô phải bấm bụng đi làm những chuyện như vậy? Là bởi vì đói quá mà. Còn con nít thì bỏ học đi bới rác nhặt bao ni lông. Người người, từ già tới bé đều phải xoay đủ cách mà cái ăn vẫn không có. Ông có học, có đọc sách, đọc sử chắc biết thời bọn Tàu đô hộ nước mình, bắt dân mình lên núi tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai đem dâng cho chúng. Tôi nghĩ tổ tiên mình hồi đó có khổ chắc cũng chỉ khổ như dân mình bây giờ chứ không hơn. Ngày nay người dân cũng phải lên non xuống biển tìm vàng, chứ không phải ngà voi, để nạp cho nhà nước."
Sơn quay sang nhìn ông cụ, kêu lên:
"Có vậy hả cụ?"
Ông cụ thở dài, chép miệng:
"Chà, thực ra thì nhà nước không bắt dân đi tìm vàng như bọn Tàu đô hộ nước ta ngày xưa. Nhà nước cộng sản là nhà nước của nhân dân mà, đâu có làm những chuyện bóc lột như vậy! Nhưng nhà nước để dân đói quá thì dân phải tính, mà ở thành phố, ở đồng bằng còn gì nữa để tính? Từng đống rác cũng bị bới nát ra rồi, nên phải lên núi đào xới may ra tìm được chút gì chăng. Rồi nó thành cái dịch đi tìm vàng, đi đãi vàng là vậy."
Sơn tò mò:
"Có đào được vàng không cụ?"
Ông cụ lắc đầu:
"Thú thực tôi cũng không rõ. Nhưng từ khi có phong trào đi tìm vàng thì nhà nước nhảy vô. Nhà nước chia lô từng khu rừng ra bán lại cho dân khai thác. Dân chúng đào xới, đãi lọc không biết có ra được tí vàng nào không mà người thì chết vì đói khát, vì sốt rét, bệnh tật; người thì chết vì sụp hầm sụp hố, vì tranh giành, cướp bóc; còn nhà nước thì tự nhiên ngồi không có được khối tiền. Nhà nước cộng sản sáng suốt, anh minh hơn bọn Tàu phong kiến là vậy."
Giọng ông cụ đều đều, trầm trầm mà buồn quá, chua xót quá. Bất chợt Sơn quay sang. Ông cụ đang cúi xuống nhìn vào những ngón tay đặt trên đùi, thế ngồi từ lúc lên xe đến giờ vẫn không thay đổi. Vài sợi tóc lưa thưa, bạc trắng, phủ xuống một vầng trán rộng, đầy những nếp nhăn.
"Tôi ở với họ mười mấy năm, thấy bao nhiêu cảnh khốn khổ, đau lòng, kể không biết đến bao giờ mới hết. Các ông may mắn đi trước, không tưởng tượng ra được hết đâu..."
"Sao cụ không qua sớm hơn?"
Ông cụ chép miệng:
"Tôi già rồi, sống nay chết mai, không muốn sang xứ lạ sống những ngày lơ láo cuối đời. Vả lại, tôi cũng không có nhu cầu gì nhiều. Hàng năm con cái tôi ở bên này gởi về chút ít tiền, đủ để hai vợ chồng tôi sống qua ngày, không phải làm lụng vất vả như người khác. Nhưng từ hồi bà nhà tôi mất đi, lũ nhỏ bên này thúc hối, nài nỉ quá, tôi đành phải sang cho chúng vui lòng. Vậy là tôi sống thêm một thời nữa, thời tư bản đó ông."
Sơn hỏi đùa:
"Cụ thấy tư bản thế nào?"
Ông cụ ngồi trầm ngâm không trả lời ngay. Những ngón tay gõ nhịp trên đùi, mắt nhìn thẳng về phía trước như đang suy nghĩ lung lắm. Mãi một lúc sau ông cụ mới cất tiếng chậm rãi:
"Tôi thấy đói quá thì sanh loạn mà no quá thì sanh tật. Đói khổ quá thì đạo lý không giữ được mà no đủ quá thì lại quên hết đạo lý. Chà, tôi nói không được rõ ràng, mạch lạc. Tôi nhớ có ông nhà văn nào đó nói một câu đại khái thế này: Cộng sản đem vật chất ra khống chế linh hồn; còn tư bản đem vật chất ra mua rẽ linh hồn. Lời đó tôi thấy thật chí lý. Thành ra tôi nghĩ như thế này: Ở bên nhà đói quá, khổ quá, quá cái mức chịu đựng thì đạo lý không giữ được là chuyện có thể thông cảm; nhưng bên này no đủ quá, sung sướng quá mà để người ta đem vật chất ra mua rẽ linh hồn thì thật là điều đáng trách..."
Chiếc xe chạy quanh co trong khu vực dân cư đón thêm một số khách rồi trực chỉ ra xa lộ. Xe bắt đầu chạy nhanh, gió lùa vào những khe hở kêu rít lên hòa với tiếng người nói chuyện trong xe ồn ào nên từ đó ông cụ ngồi im không nói gì thêm nữa. Ông cụ ngại phải nói lớn tiếng và cũng không muốn làm Sơn phân tâm lúc đang lái xe trên hệ thống xa lộ đan nhau chằng chịt, nhiều tầng nhiều lớp.
Mười lăm phút sau, Sơn bỏ xa lộ rẽ vào con đường dẫn xuống phố. Hành khách bắt đầu xuống ở các trạm ngừng. Đến một ngã tư và cũng là trạm cuối cùng, người khách duy nhất còn lại là ông cụ. Sơn dừng xe quay sang nói:
"Cụ đi theo con đường này đến cái đèn đỏ kế tiếp rồi quẹo phải. Căn nhà thứ ba, bên phải là văn phòng hội bô lão đó cụ."
Ông cụ chậm chạp đứng dậy nhìn theo hướng Sơn chỉ:
"Tới rồi hả ông? Nhanh quá nhỉ. Hôm nay được nói chuyện với ông một bữa bằng tiếng Việt thật thú quá. Lâu lâu mới có dịp nói thành ra nói hơi nhiều, không phiền gì ông chứ?"
Sơn vội vàng trả lời:
"Dạ không, cụ đừng ngại. Được hầu chuyện cụ, cháu học thêm nhiều điều bổ ích, cháu thích lắm."
Ông cụ đứng nấn ná chừng như không muốn rời xe, chừng như việc chia tay với người đồng hương gặp gỡ bất ngờ trên xe bus làm ông cụ cảm động. Ông nói thêm vài lời cảm ơn rồi chậm rãi bước xuống xe. Đứng bên lề đường, ông quay lại nhìn Sơn lần nữa, cánh tay gầy đưa lên nửa chừng và gật đầu nhè nhẹ:
"Thôi, chào ông."
"Dạ, chào cụ."
Ông cụ quay lưng bước đi. Sơn ngồi yên nơi tay lái nhìn theo dáng người nhỏ nhắn, gầy yếu của ông cụ lạc lõng giữa đám người bản xứ to lớn kềnh càng. Bước đi của ông cụ hơi xiêu; thỉnh thoảng ông dừng lại ngước mắt dò tìm với một vẻ rụt rè, ngơ ngác. Bất chợt Sơn thấy lòng chùng xuống, tràn ngập một nỗi buồn mênh mông
Một lão nhà giàu vừa buôn bán vừa cho vay nặng lãi, bóp nặn từng xu, nhưng lại cứ làm ra vẻ ta đây không thích giàu sang. Một hôm lão ngồi than thở với bạn: - Nhiều của cũng chẳng làm gì! Của càng nhiều càng khổ thân mà thôi. Người bạn mới bảo: - Tôi chỉ thấy thiên hạ có của, ít thì mong đựơc nhiều, nhiều lại mong nhiều hơn, chứ chưa thấy ai phàn nàn như ông bao giờ! Hay là nếu ông thấy khổ quá thì chia bớt cho tôi? Lão vội từ chối: - Ấy chết! Ðâu dám! Tôi có của đã lấy làm khổ rồi, đâu dám làm khổ lây đến ông!
Khi bệnh của ông tỷ phú già không còn hy vọng chữa chạy gì nữa, bác sĩ nói với cô vợ trẻ:
- Bà cần chuẩn bị tinh thần đón nhận khả năng xấu nhất có thể xảy ra. Cô vợ vẫn đang chìm trong suy tư, mắt nhìn xa xôi, lẩm bẩm:
- Vâng, lũ con ông ấy đòi thừa kế phần lớn số tài sản. Tôi đã xác định, giành được một nửa là may rồi.
2168
Hai bợm nhậu nói chuyện với nhau: - Dạo này đi nhậu không sợ vợ la ó sao?
- Ôi trời, vợ tao sợ tao lắm.
- Vậy là mày bản lĩnh giống tao. Mày biết không, khi đi nhậu về, vợ phải quỳ gối mới nói chuyện được với tao.
- Thế thì mày hơn đứt tao rồi. Chỉ tao cách với.
- Dễ ợt, khi nhậu về, tao chui xuống gầm giường....
Cô gái nói với bác sĩ:
- Tôi đến để cảm ơn bác sĩ vì thứ thuốc mà ông đã kê trong toa.
- Tôi rất vui vì đã giúp cô khỏi bệnh.
- Hiệu nghiệm hơn cả suy nghĩ của tôi, thưa bác sĩ.
- Thế cô đã uống được mấy lần?
- Tôi chưa hề đụng đến. Ông cậu tôi chỉ dùng có một lần. Sau đó, tôi trở thành người thừa kế duy nhất.
Tỉ lệ 1%
- Thưa bác sĩ, liệu tôi có qua khỏi không ạ?
- Bệnh của ông theo thống kê có 1% khả năng sống sót. Nhưng ông thì chắc chắn sống. Tôi cam đoan mà.
- ???
- Tôi đã nhận 99 ca như thế. Họ chết cả rồi!2495