Tại trường Đại học Ngoại giao, giờ seminar về các tình huống, Giáo sư đưa ra đề tài ứng xử nhanh như sau:
- Nếu trót bước lầm vào một phòng vệ sinh khác giới, đối mặt với đám đông đang "on line", anh chị sẽ xử trí thế nào? Sinh viên nhao nhao:
- Rất tiếc, xin quý vị cứ tự nhiên.
- Xin lỗi các bạn, mình đãng trí quá!
- Lao nhanh ra ngoài hoán vị hai tấm biển.
- Lặng lẽ quay ra ấp khăn lạnh lên mặt.
- ... ... ...
- Sai bét cả
- vị giáo sư ngắt lời
- Cách tốt nhất để hóa giải tình huống này, chúng ta cần sử dụng kịch bản gọi là "thong manh": Lập tức cố định tròng mắt, giữ nguyên hướng nhìn, sau đó chuyển mắt sang trạng thái dài dại, mất phản ứng. Tiếp theo, tay quờ quạng, chân dò dẫm, môi mấp máy, và... từ từ lần theo tường quay ra.
2338





Một cô gái gặp vấn đề về chiều cao, cô cao đến 2m và thường phải cúi người người xuống khi bước qua cửa nhà, và cô cũng không thoải mái khi đi xe. Cô gái quyết định đi gặp một chuyên gia. Ông ta bảo:

- Cô hãy đến thăm thị trấn những người lùn. Nơi đấy đầy những người lùn sống mà thôi. Hãy gặp bất cứ một người nào ở đấy và hỏi coi anh ta có muốn cưới cô làm vợ hay không. Cứ mỗi khi một người lùn nói “không” thì chiều cao của cô sẽ giảm đi 10cm.

Cô gái đồng ý và đến thăm thị trấn người lùn. Cô gặp một người lùn và hỏi anh ta có muốn cưới cô không. Anh lùn từ chối. Cô gái liền nhận thấy chiều cao giảm đi 10cm ngay lập tức. Cô tiếp tục lặp lại câu hỏi với một người lùn khác. Và cô chỉ còn 180cm, thế là cô gái quyết định hỏi thêm nhiều nguời lùn khác trước khi về nhà. Cô bước đến trước mặt một anh lùn nọ và hỏi liệu anh ta có muốn lấy cô làm vợ không. Anh lùn trả lời:

- Không, không, không, không, không…! Tôi không muốn lấy một người cao như cô! Cô quá cao! Không, không, không, không, không bao giờ!!!

1405




- Cậu ấy là sinh viên, mà sao vô ý vô tứ, vào nhà người ta, chẳng chào hỏi ai cả, cứ tự nhiên như không thế nhỉ ?

- À, cậu ấy đang học Đại học Khoa học Tự nhiên mà lại !



o O o


Tại một ký túc xá sinh viên , một chàng vừa tỉnh dậy ngồi khóc hu hu, bạn khác lại hỏi:

- Ủa, sao mày khóc?

- Tao nằm mơ thấy đang ăn mì.

- Ăn mì đã thí mồ mà sao mày khóc?

- ... nhưng thức dậy tao thấy dây giày của tao mất tiêu.

- Trời!!1174




Một bộ trưởng vừa mướn được người giúp việc. Bà lớn căn dặn:

Mỗi khi tôi bảo chị lấy một món gì đưa tôi thì phải bỏ món đó vào vào khay hay dĩa đàng hoàng rồi bưng lên tôi, nghe không!

Người giúp việc cúi đầu vâng lời. Một lúc sau bà bộ trưởng bảo chị lấy cái áo choàng cho bà. Chị ở vội vàng vào tủ lấy cái áo choàng bỏ vào cái dĩa lớn, đem đến. Bà bộ trưởng ngạc nhiên quát:

Bộ mày điên rồi sao? Ai lại để cái áo choàng vào dĩa như vậy?

Người giúp việc bình tĩnh trả lời:

Thưa bà, bà vừa bảo con là bất cứ cái gì đưa cho bà cũng phải bỏ vào khay hoặc dĩa cơ mà!

2829




Trong phòng đợi của ông trưởng toà, một ông đứng tuổi ngồi chờ khá lâu, lấy làm nóng ruột, gõ cửa bước vào văn phòng, nói rằng:

Tôi được giấy mời sáng nay đến về việc nhận lãnh gia tài của chú tôi, và...

Ông trưởng toà hỏi:

Xin lỗi, chắc ông chờ lâu lắm phải không?

Người thừa hưởng gia tài đáp:

Dạ, lâu lắm! Tôi chờ mười sáu năm rồi!

2786




Hai ông tướng ngồi dự tiệc tại tư dinh; nhân lúc trà dư tửu hậu, một ông trổ tài nói:

Trong lần cầm quân có lần tôi đã thoát hiểm một cách thật kỳ lạ. Lúc đó tôi đang đứng trên gò đất chỉ huy, bỗng nghe viên đạn bay vèo tới, tôi vội vàng cúi đầu xuống và thoát chết.

Ông tướng kia cũng nói:

Tôi thì không ở trong trường hợp của bác. Nhưng một hôm tôi đang quan sát trận đánh bằng "Dzuy men" (ống nhòm), thấy bên kia địch có ổ súng máy, nhả đạn liên miên làm quân ta không tiến được, tôi nóng lòng, nên cầm cái "Dzuy men" ném trúng ổ súng máy. Ổ súng đó hết xài và có lẽ cũng vì vậy mà quân của tôi mới thắng...

Người lính đứng gác cửa phòng lắng tai nghe đến đây, quát lớn lên:

Quân sĩ đâu bắt hai ông tướng này lại cho ta!

Hai ông tướng ngơ ngác, lạ lùng, không hiểu làm sao cả. Nhưng ngay lúc đó người lính bước tới đứng thẳng chào và nói:

Thưa hai tướng, nghe hai tướng nói khoác vui quá, tôi cũng xin góp phần đó ạ!...


2869




Cô gái sắp về nhà chồng sụt sịt khóc, hỏi chị dâu:
- Ai bày ra cái trò con gái phải lấy chồng thế này?
- Chu Công. Thế là cô ả cứ nhè Chu Công mà chửi. Sáng hôm sau, về lại mặt, cô nường bẽn lẽn hỏi chị dâu:
- Nhà Chu Công ở đâu?
- Em tìm ông ta làm gì?
- Biếu ông ấy một hũ rượu ngon.
2333




Duyên Phận So Le


     Một bữa gió dầm dề, khách vắng teo, 13 nhân viên khu du lịch văn hóa So Le tổ chức nhậu nhẹt, xong rồi thi coi ai có cuộc đời buồn nhất. Mới biết, dì Chín nấu bếp hồi nào giờ chưa từng biết yêu ai, con Mỵ nghèo, toàn mặc đồ cũ của chị Hai, 18 tuổi mới vung vinh được bộ quần áo của chính mình.

Hường thì yêu thầm nhớ trộm ông thầy dạy toán... Xuyến kể sau cùng, bằng cái giọng hết sức điềm nhiên, cô nói 17 tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha mẹ theo tình. 18 tuổi thằng nọ phụ phàng, bỏ cù bơ cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa...

Mọi người rưng rưng bảo thôi, khỏi kể thêm khúc sau mày cũng xứng đáng là người có cuộc đời buồn nhất ở So Le này rồi. Rồi cả bọn lặng lẽ ngồi nghe gió thốc qua lòng, rúm ró nỗi cô đơn. Trời ơi, thêm một mùa gió đông nữa mà chưa người nào lấy được chồng. Tuyệt vọng như dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hường... và cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi.

Mà ngộ, chỉ Xuyến là không xao động gì hết, lúc gió về. Kể chuyện mình xong, cô đứng dậy, đóng hết các cửa sổ, lau sàn nhà, trải khăn lên bàn, xếp ghế cho ngay ngắn. Ngang qua phòng anh Năm, Xuyến vào coi có quần áo dơ không rồi gom ra sàn nước ngồi giặt, cằn nhằn anh sao để cổ áo thâm kim. Dửng dưng, bởi không còn gì để trông đợi, bởi Khởi đã thật sự không quay lại nữa rồi?

Hay bởi những mùa gió chẳng còn gì để lạ, Xuyến tới đây lúc khu du lịch mới hình thành, giám đốc Thụy hay bảo, Xuyến là bậc “khai quốc công thần” của So Le. Chân bước lên bờ, thấy vợ Thụy đang ẵm con ngơ ngác trước mênh mông hoang vắng, không sợ đã đành, đằng này, Xuyến mừng húm. Cụm nhà nghỉ lọt thỏm cuối bìa rừng. Biển đằng trước. Và gió lộng lồng trên đầu. Ở đây là cuối đất, xóm làng gần nhất cũng cách hai vạt rừng, sau lưng So Le chừng nửa giờ đồng hồ là trung tâm xã, thêm ba giờ để đến huyện, ra tỉnh mất nửa ngày. Tàu đò thường quăng lên khu du lịch những người khách xốc xếch, lử lả đường xa, họ cuống quýt ngắm rừng xanh ngời ngợi trên đầu, luýnh quýnh ngó những con thuyền dập dềnh thăm thẳm đằng phía biển. Nôn nả chạy ra mốc tọa độ chụp hình, hối nhà hàng dọn cơm ra. Vừa ăn vừa coi đồng hồ, tính xem thêm chén nữa thì có kịp chuyến đò trưa không. Vội vậy, nhưng vẻ thỏa mãn hiện lên trên nét mặt, vì chụp được cái hình ngay chỗ panô vẽ chữ mũi So Le tổ bố để về khoe với bạn bè, vì được móc cục đất khóc ồ ồ, ôi giời ơi, đất thiêng của ta ơi, đất thương đất nhớ ơi, sau đấy thì làm thơ.

Bọn Xuyến cố nín cười, thấy lòng vui, dù biết với những du khách này, chẳng thu lợi nhuận gì nhiều. Nhưng có họ cũng đỡ thèm ngươi, đỡ thấy mình giống khỉ. Rồi khu du lịch được vực dậy, bắt đầu từ một nhà hàng thủy tạ ngoài bãi bồi, cụm panô tiểu cảnh, những con đường xi măng giả gỗ ngoằn ngoèo luồn sâu vào rừng... Mũi So Le ngỡ ngàng giụi mắt đón những du khách cười nói bạo liệt, đạp mũi canô lên bến. Họ ở lại lâu, ca hát tưng bừng...

Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn thiu. Khách đến, khách say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương yêu ấp. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thủy tạ ốm tong teo, đen nhẻm, vậy mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.

Chuyện đó cũng đã lâu, nhắc lại, Xuyến cười, quên mất tiêu rồi (giọng như quên cái nón, cái khăn, cây bàn chải đánh răng...). Chiều chiều, nó hay ra cái bến trước quán cà phê nhỏ của vợ chồng giám đốc Thụy, ngó xa theo con rạch loằn ngoằn, vắng ngắt. Như chờ đợi, như mong ngóng, như hy vọng... Nhưng có chờ đến tối chỉ chiếc đò máy chở bé Bi, con gái Thụy, tan trường về ghé lại. Xuyến lên nhà chơi với Bi (hú vía, may mà có con bé nhỏ teo xinh xẻo này). Xuyến nướng tôm cho Bi ăn, thắt mớ tóc xoăn mềm mại của Bi thành bím, Xuyến hỏi con bé bữa nay cô giáo dạy bài gì, rồi lớn nhỏ hai người vỗ tay hát nghêu ngao. Ai, nhìn thấy cảnh ấy cũng thương, Xuyến leo lẻo nói cười, thấy vậy mà không phải vậy.

Mọi người bảo nhau, lòng con nhỏ Xuyến vẫn còn đau. Một bữa thấy Xuyến vào phòng Khởi, thụp xuống vùi mặt vào chiếc áo anh bỏ lại. Một bữa nhìn trời mây nước mênh mông mà đôi mắt ráo hoảnh, trống trơ, nhìn mà không thấy gì hết. Một bữa thấy Xuyến tết tóc cho bé Bi, Xuyến rơi nước mắt.

Một bữa Xuyến bảo anh Năm Già đừng hát cái bài “Lòng dạ đàn bà”, “hồi đó anh Khởi hát hoài, em nghe mắc chán rồi”. Anh Năm vậy a, vậy à, mà trách mình vô ý dữ. 39 tuổi, sớm lấm láp bụi đời nên mặt anh Năm khằn, đen đúa, lưng hơi khom. Hôm tới đây anh vẫn còn là nhân viên hậu đài của đoàn ca múa nhạc. Hết mùa lưu diễn, bữa đó cả đoàn được thưởng một bữa nhậu tại mũi So Le. Ai cũng vui nên say quá chừng, say vùi dẫn cho đến khi một nhân viên của nhà hàng đập cây đàn vào bức tường trước mặt. Những sợi dây đứt bặt buốt nhức giữa tiếng gãy giòn, và trong những sững sờ, cồn cào một tiếng thở thảng thốt. Mắt mở trợn trạo, mặt đỏ bừng, Khởi lia tay vào bàn tiệc (như đang đếm gà, vịt), gằn giọng: “Cô nắm níu ở đây là vì thèm khát thứ người này sao, Xuyến?", xong quay lưng đi một nước.

Xuyến tuyệt vọng ngó theo, rồi cô run rẩy mỉm cười, lẩy bẩy rót rượu cho khách, bảo uống đi mấy anh, không có chuyện gì đâu... Nhưng cuộc vui tới đó đã tàn mất. Khách xuống tàu, anh Năm Già còn đứng trên bến, anh bảo sau này chắc nhà hàng mình thiếu người, tôi ở lại để đàn cho cô hát nghen, cô Hai. Xuyến lắc đầu cười thê thiết: “Anh tính đền cho tôi à... có phải tại anh đâu mà..." nhưng anh Năm đã quả quyết xô mũi tàu ra.

Anh ở lại mũi So Le, làm con khỉ thứ 13, những con khỉ khác cứ hỏi nhau sao chuyện đi ở thằng cha này coi nhẹ hều vậy cà. Anh được phân cho một căn phòng ngó ra hành lang phía sau có nhiều dây phơi, một bữa đang lui cui dọn giường nghe Xuyến mừng rỡ, ngỡ ngàng kêu “Anh Khởi”. Anh quay lại, Xuyến thất vọng bưng mớ quần áo quay đi. Năm "Già" xin được chuyển phòng.

Mỗi chiều Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó, anh nói láp giáp đủ chuyện dưới đất trên trời (như thể mình mà im lặng Xuyến sẽ khóc mất). Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày gạo cá lên giá quá chừng... (ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo).

Có khi Xuyến hụ hợ vài câu, có khi cô chỉ mỉm cười. Ngoài chỗ nói nhiều ra (mà toàn nói chuyện khơi khơi), sao mà anh Năm “Già” giống Khởi kỳ lạ. Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y chang). Đóng cái móc áo trong phòng Xuyến, thay bóng đèn, sửa chốt cửa, nấu tô cháo nóng để đầu giương lúc Xuyến say. Ngày ngày, anh Năm bắc một cái ghế ngoài bàn tiệc, phục vụ việc hát hò cho khách, uống đỡ giùm Xuyến vài ly rượu khi khách mời. Anh còn lấy xuồng chở Xuyến với bé Bi chơi dài trong rạch, hái trái ô rô. Nhiễu khi Bi ngọng nghịu nói cười, thấy thương không chịu được, Xuyến ôm ghì nó, bảo sao mà em mê con nít quá chừng à, anh Năm. Anh cười hỏi sao Xuyến không đi làm cô nuôi trẻ. Xuyến lặng người đi, vì vết thương cũ trong lòng nghe rịn máu.

Khởi cũng có lần hỏi Xuyến câu ấy. Đâu chỉ vậy, nhiều bữa nhìn Xuyến quằn quại vì bị mời rượu say mèm, anh lẳng lặng ra thị xã xin sẵn một chỗ làm rồi hỏi Xuyến có đi với anh không, Xuyến cười, trời đất, đi đâu anh. Khởi bảo, đi làm cô nuôi trẻ, bỏ mũi So Le. Xuyến bần thần một thoáng (nhìn đứa trẻ ấy có một mụn thịt trong vành tay, có một nốt ruồi son đỏ sau gáy, có cái rón to nhăn nhúm buồn cười như cái mặt người, cái rốn 21 ngày mới rụng... như Bi không?). Tần ngần, Xuyến bảo: “Mai mốt nghen anh, bây giờ công chuyện đang rối... Mấy đứa Nga, Hường mới vô làm, công việc chưa rành, khờ ịt, chỗ mình còn xây dựng tùm lum, chẳng ai coi sóc... Đó, bé Bi con anh Thụy bệnh đang nằm ngoài trạm xá hỏng biết chừng nào về...".

Nhớ lại, nhiều lúc Xuyến cười, mấy lý do đó trớt quớt, chẳng ăn nhập gì với mình, hèn chi Khởi cười gằn, bỏ đi. Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền hình). Ở đây 3 năm rồi, bây giờ bỏ rừng, bỏ biển, bỏ cả những cơn gió đông cồn cào mắc dịch này thiệt không đành... Còn nữa nghen, bạn bè ở đây ai nấy đều tốt, vợ chồng giám đốc Thụy cũng thấy thương quá chừng, tóc sắp bạc màu mới kiếm được đứa con, chắc là hiếm muộn, chắc là chờ đợi, chắc là chữa trị rất tốn tiền. Em biết họ từ hồi họ còn ở chợ, trước nhà có một hàng điệp đỏ, mùa nắng lá rụng tả tơi, lá xếp dày, nằm lên đấy không sợ bụi đất...

Những lời hay ho đó, Xuyến học thuộc lòng, định nói vào cái ngày anh Năm mở lời biểu Xuyến theo anh. Một bữa hai người chơi thả tàu giấy dưới bãi với Bi, anh Năm nhìn Xuyến thật lâu, trìu mến nhìn chị em vung vinh thách nhau thuyền nào đi trước, cắn môi mấy cái; nhìn trước nhìn sau (như sắp truyền tin cho nhau giống trong phim Biệt động Sài Gòn), anh bảo: "Cô Xuyến mê con nít vậy, sinh cho tôi một đứa nghen". Hôm đó trời đứng gió, Xuyến nghe con ong o e trên ngọn đước, nghe mình rỗng không, nghe tim nín thít (và bần thần tự hỏi, đứa trẻ mình sẽ sinh với anh có cái ngón chân út quẹo đơ, có những sợi lông măng dày mịt che cả bớt đen sau cổ như con bé Bi xinh xẻo này không). Xuyến cười lạt nhách, lấy tay phát nước đẩy chiếc tàu giấy đi, Xuyến bảo, em chưa tính tới anh à. Anh Năm cũng cười, nhìn con tàu trắng trôi xa, từ từ mù mịt, bẽ bàng nghĩ, dường như Xuyến không quên được một người.

Sáng sau, anh Năm từ giã mũi So Le. Mọi người kêu trời, sao cha nội này đi ở đơn giản vậy kìa. Tiễn anh vòng vèo qua những con đường nhỏ trong rừng, ai cũng nghe tiếc, nghe đau, nói gièm với nhau (cốt để anh Năm nghe thấy), khu du lịch mình bộ khai trương ngay ngày xấu, hồi đó tới giờ không tổ chức được một đám cưới nào. Xuyến đi sau cuối, chân bời rời bước, anh Năm tần ngần hỏi: “Cô Xuyến có chuyện gì nói với tôi không?". Xuyến ngơ ngác một lát rồi cười, dạ, anh đi mạnh giỏi.

Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi. Mọi người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo, mai mốt cũng quên (như quên đôi dép, đôi giày... Và như quên Khởi). Rồi Xuyến đi gom khăn trải bàn, cuốn tất cả các bức màn, đem giặt. Nhưng vừa rảnh tay, Xuyến đã nghe buồn anh cõng buồn em đi lê thê trong dạ, cô dựa lưng vào tường, những vuông vải phơi trên đầu cồn cào, oằn oại, tơi tả gió. Xuyến ngồi ở đó, ngó nắng, bỗng thèm có con bé Bi ở cạnh, để khóc với nó chơi, để đi qua niềm đau đang như bão bời.

Để thấy đời có buồn thêm chút đỉnh, cũng không sao. Như thế này thì nhằm nhò gì cái hồi Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được đi lại (chầm chậm) trên khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lúm cúm trong nhà. Bi biết đi, mẹ dắt ra sân, Xuyến giả đò lại gần khen, em bé dễ thương quá hen, mà không dám xiết chặt Bi vào lòng, áp mặt mình lên đôi má phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc. Bữa kia mới buồn ác, thấy Bi lon ton chơi mình ngoài sân, bỗng không kềm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy... Xuyến đưa Bi quay lai. Nhưng khuya, ngủ không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẫm chỗ đất cạnh góc điệp già (chỗ đó, có một sáng đôi vợ chồng nọ mở cửa ra, thấy một đứa bé đang nằm say ngủ).

Mấy chuyện này may mà Xuyến giấu chặt trong lòng, phải kể ra chắc là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái mũi So Le nhỏ nhoi này.





Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư

54









Chị Hoàng đến đón tôi ở phi trường với vòng hoa sứ trắng. Hai tay chị khua khua vòng hoa ngang ngực, nụ cười với hàm răng đều trắng rạng rỡ, cặp mắt tít lại dưới vòm tóc khum tròn. Giữa đám đông người, tôi buông vội chiếc va li, chạy ào tới ôm chị. Hai mươi lăm năm!


Chị choàng hoa vào cổ tôi rồi hôn tới tấp lên má. Vẫn giọng nói khàn khàn ngày xưa:


- Cuối cùng em đã đến!


- Ôi, em tệ quá. Bao nhiêu ngày tháng em tự do, đi đó đi đây, thế mà...


Sau khi lăng xăng tự xách hết hành lý, chị đẩy tôi vào xe, đưa về khách sạn. Trên đường rời phi trường, chị nhăn nhó: - Sao em không chịu về nhà anh chị cho vui, để tụi mình tha hồ tâm sự. Tôi chỉ biết cười, tự nhủ, có nói tại sao tôi thích được một mình, chắc chị cũng không hiểu. Gió mát ùa vào xe. Cả bầu trời xanh biếc và màu biển như ngọc chan hòa trước mắt. Có một luồng khí luồn lên từ chân dồn tới ngực, vào tim, lên đầu. Tôi ngả người ra, cố thở nhẹ nhàng. Chị Hoàng như cảm nhận, bóp nhẹ tay tôi.


Chị thả tôi trước thềm khách sạn, hẹn chiều ghé đón, dặn dò mấy lần, hãy cố ngủ để bắt lại mười hai giờ đồng hồ cách biệt giữa nơi tôi ở với hòn đảo thơ mộng này. Tiếng sóng rộn rã dội lên tới chiếc ban công của mười tầng lầu. Những ngọn sóng trắng xóa, đúng là sóng bạc đầu. Hình như gió bây giờ lốc mạnh hơn khi tôi mới đến. Tôi trở vào phòng, khép kín những tấm màn, leo lên giường, ôm chiếc gối vào lòng. Giường xứ này thật rộng thênh thang. Chập chờn trong vùng tranh tối tranh sáng, giữa tiếng máy lạnh u u rì rầm, tôi vẫn không ngủ được. Lại nghĩ tới chị Hoàng. Và hình ảnh những cây dừa phất phơ tàu lá trên những con đường vừa đi qua, lẫn bụi trúc xanh mướt thoáng gặp trong khu vườn sau khách sạn bỗng đưa tôi quay ngược thời gian.


Chị Hoàng năm đó còn trẻ lắm, và tôi, mười lăm tuổi. Mỗi lần từ Đà Lạt xuống Sàigon chị không bao giờ quên túi mận cho tôi. Vừa ngồi cắn ngon lành những quả mận đôi khi còn chua đắng, tôi vừa ngây ngất nhìn đôi má mịn hồng dưới cặp mắt đen long lanh của chị. Rồi tôi theo chị bát phố, mua sắm, thăm bà con...Và ngay cả trong vài buổi hẹn hò của chị với anh Tố. Chị vẫn cười tít và đấm vào vai hay véo sườn tôi mỗi khi tôi thầm thì, hay cố tình hét to: - Tố của Hoàng ơi! Trước mắt tôi, chị là khuôn mẫu của một sắc đẹp tươi mát, một tâm hồn hiền hậu. Nhiều khi nơi hàng quán, ngồi đối diện với anh Tố, tôi chẳng chút ngượng ngập, hai bàn tay tì vào má, chăm chăm nhìn anh Tố ngẫm nghĩ: - Một con chim ríu rít yêu đời như chị tôi sao có thể yêu thương cái ông thầy giáo nghiêm nghị đến cù lần này? Nhưng phải công nhận, anh Tố đẹp trai, khuôn mặt xương xương với những sợi tóc xõa xuống trán. Đầy đủ vẻ nghệ sĩ. Điều khiến tôi chẳng mấy yên tâm. Cứ thấy tôi trầm ngâm như thế, anh Tố gõ ngay lên mặt bàn:


-Ê, nhỏ M., tỉnh dậy đi chứ! Tôi xì một tiếng, định nói với anh ý nghĩ của mình, nhưng lại thôi. Dù gì chị Hoàng cũng đã yêu anh dữ dội lắm, và tôi thương chị Hoàng của tôi biết mấy.


Mùa hè năm ấy, chị Hoàng thi đỗ tú tài, đòi về Sàigon học Dược. Nhưng ai cũng biết chị muốn được gần anh Tố nhiều hơn. Vừa xuống xe, thấy tôi ra đón ở sân trước, chị đã vội vàng lôi tuột tôi ra sân sau. Hai đứa đứng cạnh hàng dâm bụt, những bông hoa kèn tươi rực hơn trên mái tóc chị. Linh cảm có điều gì lạ, tôi lắc vai chị:


- Nè, được vào ở trong này luôn, sướng quá đi, sao mặt mày buồn hiu vậy? Chị xô nhẹ tôi ra, rươm rướm nước mắt:


- Nhỏ ơi, gần ba tháng nay không có thư anh Tố rồi, chẳng hiểu tại sao!


Ngay hôm sau, hai đứa kéo nhau tìm đến nơi anh Tố ở trọ. Bà chủ nhà béo mập gục gặc đầu xác định, anh đã dọn đi lâu rồi. Nửa đêm, trời Saigon mùa hạ thường đổ những cơn mưa. Có khi một chút hơi lạnh thoáng qua lúc gần sáng. Tôi nhẹ nhàng kéo tấm chăn đắp lên người chị. Hoàng vẫn thút thít khóc suốt từ ban chiều. Cuối cùng tôi không chịu nổi, phán ngay rằng, ngày mai hai đứa ra bến xe đò đi Mỹ Tho. Chị Hoàng co rúm trong chăn:


- Thôi đi, tụi mình chưa bao giờ mạo hiểm kiểu đó! Mà nhà ba anh Tố đâu ở Mỹ Tho, tận Bến Tre kia, xa lắm, biết đường đâu mà đi! Tôi bực mình gắt:


- Dễ quá, ra bến xe hỏi, chứ có gì mà sợ. Bộ chị tính nằm chờ thư anh Tố tới sang năm? Coi chừng là “ Tố của ai “ rồi đó! Nói xong tôi ân hận ngay, quay sang ôm chị vỗ về.


Lần đầu tiên được đi xa một mình - thật ra đâu phải thế, chị Hoàng ngồi bên cạnh đấy chứ. Nhưng đối với tôi, chị bỗng dưng trở thành bé nhỏ, yếu đuối, cần được bảo bọc. Tôi quên bẵng đi số tuổi mười lăm của mình, và cũng có khi, tôi quên cả nỗi đau của chị Hoàng. Tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ chiếc xe đò, mải mê nhìn ngắm. Những ruộng mạ xanh tươi, những mái lá thơ mộng ở cuối con đường làng cong cong, thấp thoáng sau những bụi tre, bụi chuối. Chiếc xe đò chật chội, vậy mà người ta ồn ào chuyện trò, ăn uống, cười đùa trước những câu diễu cợt của hai anh lơ xe. Đằng sau, trên nóc xe, chất đầy thúng mủng, quang gánh, gà vịt cục cục cạp cạp, có cả vài con chó con gâu gâu trong cái lồng dây kẽm. Tất cả những tiếng động ấy càng kích động tôi hơn. Rồi đến bến Mỹ Tho, lên một chiếc ghe, bơi ngang dòng sông nước đục. Gió mát giữa con sông thổi bay những sợi tóc dài của chị Hoàng. Tôi ngồi đầu mũi ghe, nhìn hình ảnh thật dịu dàng của chị rọi xuống mặt nuớc. Đôi khi nó vỡ tan, biến mất, khi gặp đám lục bình lềnh bềnh giạt tới. Con đường từ chỗ ghe ghé bến tới nhà gia đình anh Tố loang loáng nắng. Co chân ngồi trên chiếc xe thổ mộ lắc lư tôi lấy làm lý thú. Mùi cây cỏ, mùi lúa, nắng và đất hoà lẫn vào nhau. Một cây cầu gỗ bắc ngang con lạch nhỏ. Những vòm tre cao vọi xanh biếc giao nhau. Tôi ngẩn ngơ trước cảnh vật thanh thoát an bình, mà cô bé thành thị chẳng hề được hưởng.


Căn nhà anh Tố ba gian, lọt thỏm trong mảnh vườn rộng trồng đầy ổi và mận. Mùa đó hãy còn ổi chín trên cành thơm nức. Chị anh Tố mời chúng tôi uống nước dừa tươi với một đĩa ổi và muối ớt dầm bên cạnh. Ba anh Tố đã đi thăm ai ngoài đầu xóm. Người chị của anh trò chuyện cầm chừng với chị Hoàng. Điều khiến tôi hơi ngạc nhiên và khó chịu, vì tôi chờ đợi một thái độ thân thiện hơn. Ba anh Tố đã có lần chính thức lên Đà Lạt gặp bố mẹ chị Hoàng rồi đó. Nói qua nói lại, chị tôi vẫn chưa dám hỏi thăm điều chị nôn nóng. Chị anh Tố dường như cũng cố tránh. Lát sau chị ấy đứng lên:


- Hai cô ngồi chơi, để nói tụi nhỏ đi kiếm ông ngoại về. Tôi ra sau
sửa soạn cơm. Hai cô ở ăn trưa rồi chiều về, còn kịp chuyến xe.


Chị Hoàng quay sang tôi, ánh mắt cầu cứu. Tôi bèn hít hơi lấy can đảm đứng dậy định nhập đề, nhưng chị ấy đã vội vàng vén cái mành trúc đi xuống nhà sau. Hai chị em tôi nhìn nhau thở dài. Để hạ cơn khó chịu, tôi cầm ngay miếng ổi hồng đào chấm vào đĩa muối ớt. Chị Hoàng nhìn tôi ăn ngon lành với cái nhìn hiền lành tha thứ. Một chốc, có đứa bé gái từ ngoài sân nắng chạy tọt vào nhà, đứng khựng lại trước chúng tôi, giương tròn đôi mắt. Chị Hoàng nhận ra ngay:


- A, bé Hương, cháu anh Tố đây mà! Con bé gật gật, chị chụp ngay cơ hội:


- Hương ơi, cậu Tư đâu rồi, cậu có về đây không?


- Dạ, cậu Tư đi với mợ Tư về Sàigon bữa kia rồi.


Chị tôi nhìn sững con bé. Tôi ngỡ mình nghe lầm, hỏi lại:


- Mợ Tư nào?


- Dạ, thì mợ Tư mới đám cưới bữa gì với cậu Tư đó.


Chị Hoàng ù chạy ra cửa. Không hiểu sao tôi còn chút tỉnh táo để chụp lấy cái túi xách của hai chị em. Vừa ra tới cổng, ba anh Tố trong bộ bà ba trắng, chống ba-toong lững thững đi vào. Ông thấy chị Hoàng, vội đưa tay ôm chị lại. Chị vùng vẫy thoát ra, suýt nữa xô ông cụ ngã nhào vào bụi hoa trang. Tôi chụp đỡ ông và cây ba-toong, rồi vừa nói:


-Thưa Bác, vừa trả gậy cho ông, chạy vội theo chị Hoàng. Đằng sau, tiếng ông cụ khản đặc, với theo:


- Hoàng ơi, bác xin lỗi cháu. Bác không làm sao khác được. Thằng Tố nó sắp có con rồi!


Con đường đầy nắng rơi khi đến, phút chốc âm u. Lại chuyến xe ngựa lóc cóc đưa chúng tôi ra bến đò. Những đám lục bình vẫn từ muôn ngã trôi về, vỡ toang khuôn mặt chị tôi bất động như xác chết trên mặt nước. Mới buổi sáng đến đây, tôi ngây thơ thu góp cảnh vật êm đềm thơ mộng. Bây giờ, vừa xế trưa, tôi đã già dặn không ngờ. Tôi ôm chị Hoàng tả tơi trong hai cánh tay mình mảnh khảnh. Tất cả, con đường tre trúc xanh tươi, bến đò, dòng nước phù sa bình thản, con ghe một lá sang sông...mới sáng ngày, còn lắng lòng tôi thơ mát. Vậy mà lúc này mang màu phản trắc. Hai cô gái nhỏ nép sát cạnh nhau trong chiếc xe đò vốn đã nêm cối, mặc những cái nhìn xoi mói của mọi người.


Tối hôm ấy về tới nhà, tôi mệt lả, ngủ vùi. Xế trưa tỉnh dậy, chị Hoàng đã bỏ tôi trở về Đà Lạt. Vài tháng trôi qua, một hôm Bác tôi, mẹ chị, gọi về thảng thốt, chị Hoàng vừa bỏ nhà đi. Tôi khóc ngất. Mọi người đổ xô các nơi tìm chị. Nhưng biết tìm đâu ? Một đêm khuya, tôi nằm đọc “ Ngoại ô, Dĩ An và linh hồn tôi “ của một nhà văn vừa nổi tiếng thi bấy giờ, thì ngày hôm sau, tôi nhận được lá thư. Nét chữ quen thuộc của chị với con dấu bưu điện Đà Nẵng bỗng làm tôi rùng người, sợ hãi. Chỉ vỏn vẹn vài chữ trên tờ thư. Không thể nào đoán được thực sự chị đang làm gì và sống ra sao. Đầu óc tôi bấn loạn, hằng bao ý nghĩ u tối nhất. Hình ảnh hai chị em gái nghèo khổ cùng những tên GI vừa đổ bộ lên thành phố miền biển xa xôi, mà tôi vừa bắt gặp trong truyện ngắn đêm qua, đảo lộn quay cuồng trong tâm trí. Gia đình chạy hết ra Đà Nẵng tìm chị. Những lần đầu vô hiệu. Nhưng rồi cuối cùng cũng tìm được chị về. Tôi ôm quàng lấy chị Hoàng, chị đẩy tôi ra. Tôi nhìn sâu vào lòng mắt đen của chị, cũng vẫn ánh tinh anh trong vắt của bao giờ. Tự nhiên tôi thở ra, yên lòng thanh thản. Chẳng bao lâu sau, tôi lớn thêm hơn, và cuộc đi, định mệnh đã đẩy tôi đi, xa chị muôn trùng. Một đôi lần tôi có dịp trở về, chị vẫn phòng không. Gặng hỏi thêm, chị lắc đầu:


- Ta già rồi, yêu thương chi nữa, dành cho em đó. Tôi kề tai nói nhỏ:


- Em cũng sợ tình yêu lắm Hoàng ơi. Chị trừng mắt :


- Ê, bậy nào!


Làm sao chị hiểu được cái dấu ấn đã đóng rập lên linh hồn tôi vào buổi trưa hè, trong vườn ổi thơm năm ấy.


Gần mười năm sau, chị Hoàng rời quê hương đi đoàn tụ với mẹ và anh. Thỉnh thoảng chị viết cho tôi một thư ngắn kể sơ về cuộc sống. Không than thở, cũng không rạng chút niềm vui. Rồi thư thưa vắng, chị bảo chẳng có gì hay ho để kể. Tôi thở dài, tôi cũng thế thôi. Khi chị xa dần số tuổi ba mươi, tôi nghĩ chị Hoàng đã chọn con đường lầm lũi cho mình. Nào ngờ, một lá thư rất gọn vượt đại dương đến báo tin: Chị đã gặp anh Nguyên. Tháng bảy mùa ngâu, chị đi lấy chồng em ạ.


Lấy chồng rồi, chị Hoàng chạy theo những di chuyển không ngừng của anh Nguyên. Anh di đổi chỗ làm luôn luôn, hết miền tây sang miền đông của cái nước non rộng không biết bao lần cái xứ tôi ở. Tôi hẹn sẽ sang thăm chị và xem mặt anh Nguyên, từ hè này qua hạ khác. Cũng có nhiều khi, trong dòng đi băng băng, tôi cố kìm mình đứng lại. Giữa chặng ngừng ngắn ngủi ấy, không có gì gọi kêu tha thiết bằng những hồi tưởng lặng thầm về quê nhà và quá khứ tuổi thơ. Trong quá khứ ấy, có tia sáng lung linh từ một góc trời riêng rọi tới, mang theo hình ảnh chị Hoàng tươi mát lẫn khổ đau. Có lẽ tôi chần chờ một lần hội ngộ, vì tôi không dám chạm vào thực tại, sợ một thứ “động hờ sẽ tan “. Hay chỉ vì chút nắng còn vương lại trong tôi vốn đã mong manh.


Ba tiếng gõ cửa, tôi choàng dậy. Chị Hoàng vừa bước vào phòng vừa kêu :


- Dậy đi, giờ này thiên hạ đang tưng bừng sống, còn em âm u ngủ! Rồi chị kéo rột mấy tấm màn. Ánh sáng ngoài trời đã dịu. Chiều nay, chị Hoàng mặc chiếc áo trắng điểm hoa vàng li ti. bây giờ tôi mới ngắm kỹ, chị đẫy đà hơn trước. Tóc cắt ngắn, úp hai bên má. Tôi tiếc những sợi tóc chị dài năm xưa. Lòng mắt vẫn đen nhưng mí hơi sụp xuống. Tuy thế lúc chị cười hãy còn linh động lạ lùng. Tôi chui vào phòng tắm, hỏi vọng ra:


- Hoàng nè, sao tóc chị còn đen thế?


- Nhuộm đó. Ta tra rồi mi ơi, chừ còn đen chi được!


Tôi mỉm cười, chao ơi chị Hoàng bây giờ nói pha tiếng Huế. Nghe đâu anh Nguyên gốc Huế năm đời.


Chúng tôi đi dọc theo bờ biển. Buổi chiều tung gió mát. Những con hải âu cánh xám, không sợ người, xà ngang mặt cát. Chúng to lớn, kềnh càng, nhưng từng con một gục gù đơn độc. Trong khi ở nơi tôi, loài chim biển trắng bé nhỏ họp nhau bay từng đàn. Chị Hoàng bảo lên xe, rồi chạy vòng mấy con đường phố chính tràn đầy du khách. Tôi bâng quơ nhìn những khách sạn cao ốc vươn lên nhiều tầng, và bao nhiêu cửa hiệu đã sáng rực ánh đèn. Chị Hoàng chỉ trỏ, giới thiệu từng nơi như một chuyên viên du lịch, thật khác hẳn cô gái nhỏ nhẹ bẽn lẽn năm xưa. Tôi ngạc nhiên:


- Sao mới ở đây ba năm mà chị rành thế, đi chơi nhiều lắm hả?


- Nhiều chi. Anh Nguyên có cho đi mô. Mỗi lần khách trong đất liền ra, chị giở mấy cuốn sách du lịch học trước. Vài lần bắt nhớ chứ chi. Mà xứ ni nhỏ xíu, bằng nắm tay, sợ em ở hai ngày đã chán.


Tôi sẽ mau chán không? Tôi mãi lãng đãng lênh đênh như chị Hoàng biết tính. Chị đang huyên thuyên chợt kêu hoảng: - Chui cha, anh Nguyên chừ ở nhà rồi. Hai cha con chờ mình, về thôi em hỉ?


Con đường đến nhà chị qua những khu biệt thự dựng sát bờ biển, ẩn mình sau bao nhiêu loại cây và hoa thường chỉ gặp ở miền nhiệt đới. Bắt đầu khúc quành này, tôi ngỡ ngàng xúc động. Những cây phượng đầy hoa như một áng trời đỏ cam rực rỡ trước mắt. Không biết đã bao năm, tôi mới thấy lại màu phượng đằm thắm thế này. Đôi lần trở về quê hương, tôi tìm đến ngôi trường cũ - một góc sân trường vẫn còn gốc phượng già. Nhưng có phải, những sinh lực được hấp thụ từ bao tâm hồn học trò non trẻ từng tụ tập dưới chân cây, gi đã tiêu hao. Chúng tôi dần dần từ bỏ nó ra đi. Cây chẳng còn gì nuôi sống, nên mỗi mùa hoa chỉ nở vài cành như một hoài niệm mà thôi.  Căn nhà chị Hoàng xinh xắn, vườn trước vườn sau với những cây dừa và hoa sứ. Anh Nguyên ra mở cửa. Thằng bé Đan, mười hai tuổi lấp ló đằng sau. Hắn ngăm đen như thổ dân đảo này. Anh Nguyên chìa tay ra, tôi vội vàng nắm lấy, mắt không rời vầng trán cao trên đôi mắt hiền từ - anh toát ra vẻ gì điềm đạm, tín cẩn. Bỗng dưng tôi cảm thấy yên tâm. Chị Hoàng lăng xăng bầy cơm. Đây, em phải ăn món này, đó, em nếm thứ kia đi. Anh Nguyên ngồi trước mặt, ăn chậm rãi. Tôi tiếp thức ăn vào bát anh, anh đẩy lui, từ chối. Chị Hoàng vội nói:


- Quên, không cho em biết, anh ni phải ăn kiêng, bệnh dị ứng nặng lắm. Ăn bậy là khó thở ngay! Rồi chị kể một thôi, nào anh bị áp huyết cao, anh bị đường nhiều trong máu, nào cholestérol...Tôi ngạc nhiên:


- Kiêng gì mà kinh khiếp vậy, cả rau cỏ nữa sao? Em thấy nãy giờ anh chỉ ăn toàn cá nướng thôi.


Anh Nguyên cười tội nghiệp:


- Có chi mô, quen rồi cô ạ. Kiêng để sống lâu với vợ con. Hoàng, hắn sợ tui chết lắm! Chị Hoàng bỏ đũa, nắm lấy tay anh, giọng ướt sượt:


- Ba Đan à, em không thích anh nói gở ri đâu!


Những hôm sau, ban ngày hai chị em chạy chơi mọi nơi, tắm biển, dạo phố, ăn hàng, thăm viếng phong cảnh. Và tôi kéo chị đến chơi với vài người bạn quen trên đảo. Nhưng chiều nào, cứ tới giờ, chị cũng lật đật, về thôi, nấu ăn cho anh Nguyên. Tôi chặc lưỡi: - Cơm cho anh dễ ợt, có gì đâu mà làm.


Chị nghiêm trọng:


- Phải nấu đàng hoàng, không giỡn đâu em.


Tôi cằn nhằn: - Ăn là cái thú nhất. Chị bắt ảnh kiêng quá, còn gì là đời. Em, thà chết sướng hơn.


Chị cười: - Trông mi như con cò con, mà nói ngon. Nì, ở đây lâu hơn, ta nuôi mi cho mập! Tôi xua tay:


-Thôi, em không ham. Bữa nào cũng nhìn một đống thức ăn trước mắt, trong khi anh Nguyên có mỗi đĩa cá nướng trần, em chịu gì nổi. Chị ăn vậy mà chịu được sao?


- Thì, chị cũng ăn cùng với anh như thế, ủng hộ tinh thần mà.


- Còn cháu Đan?


- Nó ăn trước. Lâu lâu, chị thèm quá, hai mẹ con chờ anh đi làm rồi, bày ra ăn đủ thứ.


Đêm trước ngày từ giã chị rơi trúng đêm rằm. Anh Nguyên sùng đạo, cả nhà ăn chay. Sau bữa cơm chiều, anh chị đề nghị đưa tôi đi chơi đêm lần cuối. Tôi từ chối, kêu mệt. Chị Hoàng bầy chiếc bàn nhỏ ra sân để cúng rằm. Trong khi chị thắp hương, tôi ngồi trên bệ cửa. Trăng trong vắt, rải đầy trên cây cỏ. Hồn tôi rưng rưng khi nhìn ánh trăng sáng trên những bông sứ rơi rụng đầy sân. Tôi thầm ước, phải chi có thêm loài hoa mận nữa, cho tôi cảm thấy màu trăng càng trắng hơn, hay mang vẻ huyền ảo của những vần thơ thân thuộc đang khẽ khàng âm vọng trong tôi.


Chị Hoàng lặng lẽ đến ngồi bên cạnh lúc nào không hay. Gương mặt chị nghiêng nghiêng trong ánh trăng. Vẻ hiền hậu, lắng đọng ở một người đàn bà đã đạt tới sự bình yên. Suốt mấy ngày chúng tôi đã kể với nhau về cuộc sống của mỗi người. Nhưng có đôi điều, như về vết thương xưa, hay về một chút cảm giác có thể gọi là hạnh phúc, thì tôi vẫn loanh quanh, chưa hỏi được. Ngoài tiếng gió xao động trên cành lá và mấy chú chim sục sạo trong các lùm cây, đêm êm ả vô cùng. Chợt tôi thấy những câu chưa hỏi kia không cần thiết nữa.


Mãi một lúc lâu, chị Hoàng đưa tay quàng qua vai, rồi vuốt mái tóc tôi. Vỗ về, gượng nhẹ. Tôi không thể cầm giữ những giọt nước dâng lên trong mắt. Hoá ra dù không gian chia cách, dù đã bao tuổi đi, chị vẫn âm thầm ở bên tôi tựa ngày thơ trẻ. Như chia nỗi xúc động, chị Hoàng cầm lấy bàn tay tôi và nói thật khẽ:


- Tay em sao lạnh thế! Nì, khi nào anh Nguyên khỏe hơn, chị sẽ sang thăm.


Chị yên lặng một chút rồi chậm rãi:


- Chẳng phải cuộc đời không thể khác. Cũng không phải điều gì chúng ta chạm vào cũng sẽ vỡ tan, cũng là một nỗi đau hay thất vọng. Đừng khăng khăng từ chối nó. Có tiếng tôi vâng dạ mơ hồ. Những đoá hoa sứ nằm trên thảm cỏ bấy gi như đang lớn dần lên, trước đôi mắt tôi ướt đẫm. Cánh hoa càng nở bung nguyệt bạch thì nhụy vàng lại thẫm đi như đã hút thêm bóng tối. Cuối cùng, chị Hoàng kéo tay tôi đứng dậy:


- Chị đưa về khách sạn nghỉ thôi, kẻo ngày mai em mệt trên chuyến bay. Trước khi vào nhà, tôi cúi xuống nhặt lấy một bông hoa. Hôm đầu chị Hoàng đã bảo, hoa sứ ở đây không hăng như quê mình. Tôi cố tìm chút hương thoang thoảng. Anh Nguyên không đi theo như những tối trước. Anh tế nhị, để hai chị em chuyện trò thêm đêm cuối. Xe lại qua những con đường đầy phượng vĩ hai bên. Câu nói lúc nãy của chị Hoàng rất nhỏ nhẹ như hơi thở, thế mà đã dấy động trong tôi nỗi rưng rưng kỳ lạ. Một khuôn mặt, một nụ cười từ nơi xa, bỗng nao nao về đậu trên đoá hoa tôi vẫn cầm trong tay. Lại mong ước giá là hoa mận.


Bâng quơ, tôi quay sang hỏi:


- Bên này có trồng mận hay ổi không Hoàng?


- Mận xứ mình chị không thấy, nhưng ổi thì có.


Tôi thầm nghĩ, chắc chẳng phải ổi lòng đào! Cả hai cùng im lặng. Bất ngờ giọng chị Hoàng khe khẽ :


- “ Những cây ổi thơm ngày ấy...và vườn hoa ngâu mưa thu “ (3). Em à, một lần, chị đã gặp lại anh Tố.


Không biết sao, tôi chẳng mấy ngạc nhiên. Có lẽ, hiểu chị Hoàng từ hồi nhỏ, tôi đã linh cảm được sự bình yên thanh thản kia của chị chỉ có thể bắt đầu từ một điều như thế. Tôi không vội vã, biết rằng chị sẽ kể.


- Bao năm ở quê hương và quê người chẳng hề gặp lại. Vậy mà một năm sau đám cưới, hôm ấy, chị vào siêu thị đó lần đầu. Cuối dãy hàng thực phẩm, chị bỗng thấy anh Tố đứng đầu kia. Anh ấy vẫn vậy, chị nhận ra ngay. Còn chị, chắc đã đổi khác quá nhiều, ảnh ngỡ ngàng một lúc. Bấy nhiêu câu hỏi dồn ứ, tích đọng trong ngần ấy thời gian. Chị cứ nghĩ rằng, một ngày, chị phải hỏi cho ra, phải tìm cho hiểu . Thế nhưng, khi một người đàn bà trang điểm kỹ lưỡng, vững chắc, mập mạnh đi đến cạnh anh Tố, để bỏ thêm đồ đạc vào chiếc xe đẩy, thì những sôi sục từ thuở nào bỗng nhiên nguội lạnh. Chỉ qua giây phút đó thôi, tất cả như bị nhúng vào một hồ nuớc mùa đông. Chị quay người ra khỏi siêu thị. Trời đổ cơn mưa nhỏ, chị đứng lại dưới mái hiên. Mưa giống khi xưa còn ở Đà Lạt, có anh Tố lên thăm. Hai đứa đội chung áo mưa trên đường đến quán cà phê gần chùa Linh Sơn. Em có đến đó rồi, còn nhớ chăng M.? Không ngờ phút chốc, những hồi tưởng từng làm đớn đau quay quắt lại có thể rơi xuống nhẹ nhàng như những hạt mưa trời dìu dịu. M. ơi, chị sung sướng nhận ra rằng, mọi sự đã vào trong thinh lặng, đã là chuyện cổ xưa.


Tôi bâng khuâng quay sang nhìn chị. Thật sự tôi không hiểu mình buồn hay vui. Nếu tôi buồn, chắc vì tôi quá lãng mạn. Nếu bảo tôi vui, thì sai sự thật. Bởi, tôi đang ngậm ngùi với hình ảnh chị Hoàng đã bứng đi cả một vườn ổi xanh xưa.


Sau khi hai chị em chia tay, tôi muốn đi ngủ sớm, hay nhấc điện thoại để nói với một người về hoa mận trắng, về những cành phượng đỏ ối trong tôi với nỗi buồn khó tả. Nhưng vẫn tiếc rẻ một đêm trăng và không khí ấm, tôi mặc vội áo tắm, chạy xuống bãi biển. Còn một vài người đang tắm đêm. Đèn hắt ra từ những quán nước của các khách sạn quanh đây. Chiếc khăn tắm rộng quàng trên vai, tôi đứng nhìn biển đen thẵm ngoài xa và hít không khí thật sâu vào người. Vẫn chẳng có chút mùi rong rêu sò ốc của biển mặn . Tôi đã đến nơi này, rồi ngày mai sẽ đi, thật chóng vánh. Chị Hoàng kèo nài đòi tiễn tôi ra phi trường, nhưng tôi cản lại. Anh Nguyên không đi làm chiều mai, sẽ về ăn trưa. Và tôi thích chị ở nhà dọn cơm cho anh. Mấy ngày nay, tuy hay chế diễu, tự nhiên bây giờ , tôi nghiệm ra ý nghĩa trong cử chỉ săn sóc nhưng nghiêm ngặt, bắt anh Nguyên kiêng thứ này, cữ thứ kia, của chị Hoàng. Tôi mỉm cười mường tượng lại những đối đáp của họ. Nhiều lúc chị Hoàng cố tình đùa nghịch, gọi kêu anh bằng cái giọng ngọt ngào dẻo kẹo trước mặt tôi. Còn anh thường đáp lời chị ngắn gọn, vụng về nhưng kèm theo con mắt rất dài.


Sóng không còn động như buổi chiều, chỉ lăn tăn liếm láp bờ cát. Mặt nước yên ả, dập dềnh ánh trăng. Trong làn sáng bạc ấy, tôi nhìn thấy hình ảnh những con cá phơi mình óng ánh. Không phải trong lưới nắng, nhưng tựa hồ cũng phập phồng hơi thở. Cá kia chắc đang mong mỏi một bàn tay độ lượng gỡ thả chúng về thế giới thênh thang. Bỏ tấm khăn rơi

2714








Cứ một rằng yêu, hai rằng yêu, ba rằng yêu mà cứ giận lên giận xuống , cứ trách cứ móc chuyện chẳng đâu vào đâu . Xem lại đi có phải tình yêu còn nguyên si trọn vẹn như hồi xưa không ? Cái hồi tóc còn dài cho hát bài Suối Tóc của nhạc sĩ Văn Phụng mải mê, cái hồi áo còn thướt tha cho ngâm nga thơ Nguyên Sa thơ Du Tử Lê không chán , cái hồi theo mòn cả con dốc đến trường .

Đó, không yêu đủ, làm sao vượt bao nhiêu núi, bao nhiêu đèo để đến cùng nhau chứ . Tính coi, từ ngày mẹ bảo cấm không cho giao du mật thiết với người không có đạo đến nay bao nhiêu năm rồi ? Còn nhớ mà tính ra không ?
Nghe mãi một bài hát :
-“Con quỳ lạy Chúa trên trời sao cho con lấy được người con yêu . . .”
mà rồi không biết Chúa nghe lời cầu xin , hay người trần nghe mãi mà thương, mà thành “nối giáo cho giặc” mà thành cãi mẹ, dối cha cho thành gia thành thất , để giờ này làm mặt hờn mặt giận với người ta .
Muốn không, kể hết cho nghe đọan đường gian truân khổ ải đã qua. Đừng bảo các bà các cô hay kể lể , hay thù vặt hay nhớ dai , hay lôi chuyện từ ngày còn mặc quần thủng đít , hay đay nghiến những chuyện đâu đâu, hay để lòng để dạ lỗi phải của chồng mà không thèm nghe, không thèm để mắt , kể cho nghe nè .

Hồi đó người ta đi lễ sáng, lẽo đẽo đi theo , chẳng nói chẳng rằng cứ lầm lầm lũi lũi . Buổi sáng đẹp lắm, những giải mây mỏng giăng khắp trời, không che hết những tia nắng mặt trời vừa mọc . Con đường thênh thang im ắng , thanh thản hiền hòa, tiếng chuông nhà thờ ngân nga nhè nhẹ . Nhà thờ mỗi sáng không đông người lắm, ánh sáng ban mai rọi vào ô kính, cùng ánh nến trên bàn thánh lung linh huyền ảo . Giọng kinh trầm nhẹ len khe khẽ vào lòng cô chiên ngoan đạo, bị ánh mắt theo dõi từ hàng ghế bên kia làm chia trí chia lòng . Cứ thế từ nhà thờ đến trường học, không biết lúc nào vào được cả trong nhà . Trong nhà có ông bà cụ, có anh Hòan , có chị Hảo , có em Mai . Anh Hòan cũng thích đi lễ , nhưng đi lễ buổi chiều . Dáng anh nghệ sĩ, lưng hơi khòm vì cao, hai tay đút túi quần tóc để dài chấm ót . Tối anh hay hát

:“Nhớ tới đêm đầy ánh sáng
Hương trong gió tràn mênh mang
Giây phút như ngừng thôi rơi
Tiếng kinh muôn lời
Dáng xinh xinh bao tiên kiều
quỳ ngân Thánh kinh ban chiều
Trong giáo đường đêm Noel ấy
ngàn đời tôi mến yêu
Thánh giá xa vời lắm với chuông chiều ngân
Hồn thánh thót mưa dầm buồn tới âm thầm
Nơi giáo đường im bóng tôi thầm mong ngóng
Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ”

Chị Hảo cũng đi lễ nhưng đi với bà cụ , nghĩa là đi sớm lắm để lần đủ chuỗi hạt mân côi , ngắm đàng thánh giá . Chị hiền dịu như dì phước, giọng nhỏ nhẹ ôn tồn . Bé Mai đi với ông cụ, nghĩa là đến nhà thờ trước khi cha ra làm lễ khỏang vài phút .

Không khí lễ buổi sáng êm đềm, trong văn vắt . Không biết đến khi nào đi xưng tội đã xưng :
-“Thưa cha con chia lòng chia trí trong thánh lễ . . . lần”
tội ấy cứ càng ngày càng tăng, mỗi lần vào tòa giải tội .

Ngày tháng thong thả qua .Anh Hòan đang đi học đại học bỗng một ngày đùng đùng đăng vào lính . Trước ngày lên đường anh cứ hát :

-“Người ta đã bỏ con rồi Chúa ơi”
-“Tiếng thánh ca buồn vang trong đếm tối
Nhớ qúa đi thôi giọng hát ai buồn . .”

Chị Hảo kín đáo nói nhỏ :
-“Thất tình rồi, con bé mắt nai lấy chồng tháng trước”

Tội anh qúa , cô bé mắt nai của anh đi học ngang nhà mỗi ngày , đi lễ chiều cùng anh bao nhiêu ngày , (cùng đây là cô vừa đi ngang nhà khỏang vài bước, là anh từ hàng ba đi ra theo) mà chẳng biết . Chúa phạt anh cái tội đi lễ không dâng hết lòng lên với Chúa hay sao ấy nhỉ ? Vì nếu anh thật tâm cầu khấn chắc chắn phải có điều gì đó ứng nghiệm , nếu không các nhà viết nhạc đã không viết những bài hát than thở cùng Chúa nhiều đến thế .

Đến ngày chị Hảo hân hoan đi vào dòng Mến Thánh Giá để được phụng vụ Chúa , ba mẹ mừng phải biết , bữa cơm tiễn chị đi , mẹ cuốn chả giò cua, nấu măng, nấu mọc, những bốn bàn khách, ngồi cả ra ngòai sân sau . Ba Mẹ luôn muốn có một đứa trong gia đình đi tu , anh Hòan đã từng được cha sở giới thiệu vào dòng Chúa Cứu Thế , nhưng cuối cùng anh xin ra vì anh bảo –“Chúa chê anh , anh nằm mơ thấy Chúa đuổi cổ vì tội đi lễ đi liếc”.

Còn lại hai cô con gái , ông bà cụ canh chừng nghiêm ngặt, đến một ngày bà cụ biết con bé có “bồ” , bồ của nó là : “cái thằng không có đạo, vì không bao giờ thấy nó lên rước lễ, gia đình nó lại là gia đình Phật giáo thế có chết không ?” . Nghe bà chì chiết với ông cụ , con bé chỉ biết lặng lẽ dùng cửa sau , đến nhà thờ, vào hang đá Đức Mẹ cầu xin . Vẫn biết cầu xin Mẹ về chuyện tình duyên trắc trở, yêu ai không yêu, lại yêu người ngọai đạo là điều không đúng , nhưng ngòai Mẹ ra biết cậy vào ai, biết than thở cùng ai .
Viết thơ cho chị Hảo không được, chị đang trong thời kỳ thử thách, lại mang chuyện tình nhân gian phiền phức ra bắt chị suy nghĩ, xao lãng kinh kệ không nên tị nào cả . Méc anh Hòan cũng không xong , anh ấy lại cho những lời khuyên phản đạo lý , nào là sống chết vì tình, nào là theo tình tình phớt , phớt tình tình theo , anh ấy cay cú chuyện tình vỡ tan trong trứng , nên cứ tỉ dụ đang dậy dỗ cô người yêu hụt , để phần thắng lợi về anh ấy . Cầu xin với Mẹ dễ dàng làm sao :
- “Mẹ ơi thương cho con, anh ấy không có đạo, xin Mẹ biến cải tâm hồn anh, để anh chịu theo đạo , để tụi con được lấy nhau . Không có anh ấy con không lấy ai hết con sẽ đi tu như chị Hảo ”
-“Mẹ ơi thương con giúp cho me con thay đổi thành kiến, chấp nhận người con yêu, không lấy được anh ấy , con sẽ chết dần chết mòn, đạo nào cũng là đạo mà Mẹ ơi ” .

trong khi chạy đến cùng Mẹ Hằng Cứu giúp than thở như thế , bà cụ dùng mọi chiêu thức để ngăn cản con gái không được yêu người ngọai đạo. Mẹ cấm cửa thằng “ngọai đạo” tới nhà .Ngày anh Hòan còn ở nhà mẹ đâu thèm để ý, chuyện đạo hay đời, cứ cười tít mắt, mỗi khi thằng ngọai đạo khen lấy khen để tô canh cua đồng, rau đay mướp mẹ nấu .
Thay vì đi lễ với chị Hảo ngày xưa, bây giờ bà cụ theo cô gái rượu còn lại . Bà cụ chiều lòng đi trễ , không lần hạt trong nhà thờ , bà cụ lần hạt trên đường đi . Mẹ trên trời được nghe lời than thở, nhưng mẹ thật thì không . Bà cụ khó khăn đòi hỏi con gái phải để ý đến các anh trong ca đòan, các anh giúp lễ . Bà cụ cứ tỉ tê : “ Con xem anh giúp lễ đứng sau lưng cha ấy, người đâu mà thánh thiện thế, mặt cứ như thiên thần” . (Anh thiên thần này, về sau lấy người gần xóm, khiếp ông ấy say sưa đánh vợ cái nào xứng cái ấy, hồn chị ấy mấy lần gần lìa khỏi xác, mà vì : “Sự gì Thiên Chúa kết hợp, lòai người không đư%
E11004




Vẻ đẹp bên ngoài.

1- Con gà trống đẹp hơn hay con gà mái đẹp hơn!?
Câu trả lời: Con gà trống!

2- Con công đực xấu hơn con công mái!?
Câu trả lời: Con công mái xấu hơn!

3- Con cá (bất kỳ loài nào) đực đẹp hơn con cá cái!?
Câu trả lời: Tất nhiên rồi! Đến con cá chép đực cũng còn có râu ở đầu và kiếm ở bụng cơ mà!

4- Tại sao con hươu đực đẹp hơn con hươu cái!?
Câu trả lời: Bởi vì nó có bộ sừng rất đẹp!

5- Những con cào cào đực lại đẹp hơn con cào cào cái!?
Câu trả lời: Đơn giản bởi vì nó đẹp

6- Và tại sao lại gọi là ông trăng (ông mặt trời, ông sao) mà không gọi là bà trăng!?
Câu trả lời: Bởi vì ông đẹp hơn bà!


Về trái tim.

1- Tai sao chỉ có bà phù thuỷ đọc ác mà không có ông phù thuỷ độc ác!?
Câu trả lời: Không có người đàn ông nào độc ác như đàn bà!

2- Tại sao người mẹ kế luôn luôn là cái ác mà không phải là bố dượng!?
Câu trả lời: Họ không thể không như vậy!

3- Tại sao chỉ có mỹ nhân kế chứ không có nam nhân kế!?
Câu trả lời: Họ không gian xảo như phụ nữ được!

4- Tại sao người ta nói ''Làm một người tốt đã khó nhưng làm một người đàn bà tốt còn khó hơn!''!?
Câu trả lời: Vì phụ nữ khó mà trở thành một người tốt!

5- Tại sao người ta nói: ''Nếu muốn trả thù một ai đó, hãy gửi cho hắn một người đàn bà đẹp''!?
Câu trả lời: Bởi vì phụ nữ thật là nguy hiểm!
2601


Powered by Blogger.