... "Mỗi năm con thắp đèn trời ..."
Câu chuyện rất đơn giản nếu một sớm ta đi uống cà phê, tán hươu nai với bạn bè về chuyện tiền nong, giá cả, thói đời, những chuyện tình ái lặt vặt. Hoặc nhìn cuộc sống bằng thái độ bất cần, khinh bạc hay tính toán, lo toan ích kỷ.
Riêng Khản đến với chú Sáu, chủ quán cà phê, sáng hôm nay, ngoài cái tình kết nghĩa sơ giao, Khản còn muốn tìm xem cách sinh sống của De Sam - do chú Sáu mới giới thiệu - người bạn nhỏ có cái tên rất lạ, sống ở vùng nông thôn sâu, nơi Quát, bạn Khản đang ở.
Chú Sáu người Tàu lai, xuề xòa trong cái áo trắng cụt tay và cái quần lở trùm tới gối . Chú nói :
- Chút xíu nó đến, ít khi trể lắm. Tôi lấy tiền nó hoài cũng đâm ngạị Thỉnh thoảng tôi bớt nhưng vợ tôi nó hay, lại nổi "tam bành" lên cằn nhằn dữ lắm. Tôi cũng chưa khá giả. Vả lại, lạ gì tính mấy con mẹ đàn bà mà chú - Chợt chú ngưng ngang, lấm lét nhìn vào buồng, hình như có tiếng guốc khua lẹt đẹt bên trong.
Quán chiếm ngay giữa chợ quê, chú cho là điều may mắn, buôn bán thứ gì cũng được, nhưng có cái phải hứng trọn mọi phiền toái của con người gây rạ Tiếng ồn ào, lời tục tĩu thói lừa đảo vô tình tấp vào nhà như rác rến của con nước lụt. Chú lắc đầu tiếp :
- "Thì tại môn tiền náo" mà ! - Nói xong, chú nâng cái áo lên rồi lấy hai tay xoa xoa cái bụng phề phệ và đi vàọ Ý chừng hơi bẽn lẽn vì lỡ nói một câu chữ không đúng lúc mà lại nói với Khản bạn của thầy giáo Quát.
Chú Sáu cho biết De Sam thường sáu giờ đã có ở quán.
Toàn cảnh, quán không lớn, bề ngang độ bốn thước, bề dài chừng mười thước. Chú mở thông thống ra phía sau sông. Trong quán để năm cái bàn cho khách ngồi uống nước. Còn lại lối đi và quầy pha cà phê.
Dưới ánh đèn điện ắc-quy lờ mờ có một cái truyền hình nhỏ, màu đỏ. Kế bên, một đầu máy trò chơi điện tử được liên nối bằng nhiều sợi dâỵ
Chú Sáu để ly cà phê trước mặt Khản, ngồi đối diện :
- Tui sống được cũng nhờ nó - Chú chỉ vào cái truyền hình. Tụi trẻ con mê dữ lắm. Mỗi ngày kiếm tiền cơm cá khỏe rụ Nhưng gì thì gì mình vẫn thua mấy thằng Nhật. Nó khôn thấy mẹ. Nó bán đầu máy cái rất rẻ, nhưng tới băng lại bán mắc vô cùng. Vài tháng lại ra băng mới, tôi theo muốn hụt hơị
Khản nói :
- Nhật mà chú, tính toán khôn lắm.
Ðương nói chuyện, Khản nghe :
- Chú Sáu, mở máy đị
Trước mắt Khản là một thằng bé cỡ mười hai, mười ba tuổị Khuôn mặt nhỏ như một chuột nhắt, ngay khóe miệng có một nốt ruồi to bằng đầu đũạ Ðầu cạo trọc lốc.
Ðặt biệt, lưng đang cõng một thằng nữa gần bằng nó. Ðầu cũng trọc. Chỉ khác nhau là thằng này hai chân bại liệt. Cho nên, khi thằng dưới cử động thì hai chân cậu trên đong đưa một cách kỳ dị. Giờ không cần ai giải thích Khản cũng hiểu tại sao người ta gọi tụi nó là De Sam.
Chú Sáu nháy mắt với Khản, rồi đứng lên hỏi :
- De Sam lới chơi gì nè ?
Thằng em trên lưng nói hớt.
- "Băng chiến đấu"
Chú Sáu kẹp dây điện vào bình.
De lớn móc trong túi ra một gói thuốc lá đen. Nó đốt hai điếụ Một nó, một thằng trên lưng.
Chú Sáu đưa hai hộp điều khiển cho tụi nó và mở máỵ
Trên màn ảnh một vùng ánh sáng chói chang bừng lên với đầy đủ màu sắc được chắt lọc tinh vị Từ đó, vẳng lên một điệu nhạc sắc đanh, thôi thúc con người hăng say chiến đấụ Một khung cảnh thành phố đổ vỡ hiện rạ Trên cao có một sợi dây thòng lơ lửng và hai chú lính nhỏ cỡ búp tay lăm lăm khẩu tiêu liên cực nhanh, ôm theo đó tuột xuống ... Ðó là hai chiến sĩ do De lớn và De nhỏ điều khiển.
Vừa đến đất, hai chiến sĩ đã nã tiểu liên rồị Ðạn năm tia tuôn ra chằng chịt, cùng với tiếng nhạc kích động tạo thành một cuộc sống chiến đấu ác liệt. Thằng De lớn hô :
- De nhỏ mầy bảo vệ phía saụ Còn tao tấn công phía trước.
Chướng ngại vật đầu tiên là những tên lính quết tử của địch. Chúng xông bừa bãi vào hai chiến sĩ của De lớn và nhỏ, nhưng lần lượt ngã gục dưới làn đạn chuyên nghiệp của hai chú Dẹ
Một ổ đại bác sừng sững chặn đường, nã những viên đạn khổng lồ. De lớn la :
- Nhảy lên !
Ðồng thời với tiếng la De lớn bấm nút, chiến sĩ nó nhảy lên cao tránh được quả đạn. Còn chiến sĩ của De nhỏ né không kịp, nó bị một phát vào bụng ngã ngửa ra sau chết không kịp ngáp.
- Mẹ nó. Chết một quân rồi - De lớn cằn nhằn.
- Vậy chớ tao bấm không kịp mà, - De nhỏ nói
Thằng dưới xốc lại thằng trên rồi hai anh em chơi tiếp.
Một chiếc trực thăng cỡ nửa cườm tay bay tới, tiếng phành phạch nghe nhức óc. Hai cánh xoay tít đến chóng mặt. Nó từ từ đáp xuống và phía dưới bụng một cánh cửa nhỏ há rạ Hàng loạt tên địch lao xuống tận diệt chiến sĩ của hai chú Dẹ
De lớn lại la :
- Mầy núp, sát vào hầm bắn chiếc máy bay maụ Còn tao diệt tụi lính.
Bây giờ mới thấy tài nghệ hai chú De Chiến sĩ của hai chú nhảy chồn lên, nằm sát xuống, né bên này, quay bên kia nã đạn liên hồị
Cặp chân liệt đong đưa liên hồi, khuỷu tay De nhỏ bám cổ De lớn. Bàn tay bám hộp điều khiển như bám chặt cây súng thật.
Chợt một thằng địch từ phía sau bắn tớị De nhỏ la lên :
- Mọp xuống, mọp xuống anh Dẹ Nó bắn lén kìạ Mọp xuống không chết bây giờ !
Nhưng thằng De lớn không sợ chết. Nó bỏ nút bấm cho thằng chiến sĩ ăn cả đạn.
Còn nó, vừa lấy tay quất đèn đẹt vào mông thằng De nhỏ trên lưng mình vừa lạ
- Mọp nè, mầy đui hả. Mọp cái con....
Thì ra, trong lúc quá say mê điều khiển trận đánh thằng De nhỏ la lên để làm rớt điếu thuốc trên cái đầu trọc lóc của thằng lớn. Khói cùng mùi da cháy khen khét. Thằng anh lắc đầu lia lịa . Thằng em lính quýnh lấy bàn tay dập tàn thuốc, không ngờ lại làm lửa bắn ra tung tóẹ
Thằng dưới lại quất vào mông thằng trên.
- Mầy làm cái gì vậỵ Rát quá. Mọp nè, mọp nè.
Thằng nhỏ mếu máo :
- Vậy chớ tao không thấy mà.
Trên cái truyền hình hai chiến sĩ gan dạ của hai chú De nằm chết sững vì không ai điều khiển. Cũng từ đó điệu nhạc khựng lại với những tiếng "tứng từng tưng" lặp đi, lặp lại mãị
Phía ngoài chợt có tiếng gọi lớn :
- De Sam, nước đá về kìa !
Trời sáng bạch
Chợ vào giờ cao điểm. Tiếng ồn ào inh taị
Bị lóa mắt bởi ánh sáng của cái ti vi từ nãy tới nhưng Khản vẫn gọi liền chú Sáu, trả tiền nước và bước theo hai chú Dẹ
Nhà của hai đứa là một cái chòi, cất sát đường đi, nền đất, lợp lá cạnh bến tàụ
Khi Khản tới, De nhỏ đương ngồi trên bộ ván xoàị Còn hai ghe nước đá đậu sát cầu tàụ Ngay chiếc ghe lớn, một cô gái cỡ mười sáu, mười bảy đang cuốn tấm vải bạt phủ ở trên lên, rồi lấy cái móc, móc từng cây nước đá cho De lớn vác.
Khản châm điếu thuốc rồi bước vào nhà. De nhỏ đang cắt móng chần bằng con dao díp. Ngẩng lên thấy Khản nó chưng hửng hỏi :
- chú kiếm ai ?
Khản cười mỉm rồi cho biết là chẳng kiếm ai, chỉ ngồi chờ đò về, xem Quát bạn mình có về không. Ðó là cái lý.
Thằng nhỏ, chống hai tay lết vào trong góc nhường chỗ cho Khản.
Khản đốt cho nó một điếu thuốc, nó nhìn Khản hỏi :
- Phải hồi sáng chú ở quán chú Sáu không ?
Khản trả lời rồi hỏi lại :
- Sao cháu còn nhỏ mà hút thuốc nhiều quá vậy ?
De nhỏ cười khì khì :
- Ở nhà một mình buồn quá, hút bậy chơi chú ơị Thằng lớn nó cứ bỏ cháu đi hoàị
- Rồi ai nấu cơm cho cháu ăn.
- Nó chớ ai chú. Nó nấu nồi cơm ăn từ sáng tới chiềụ De nhỏ lấy tay chỉ nồi cơm, rồi tiếp. Ở nhà một mình buồn thấy mẹ !
- Ba má cháu mất năm ngoái phải không ?
- Ông bà với thằng De lớn đi chở nước đá, qua sông ghe bị chìm. Chỉ có thằng De lớn đeo được cái thùng mủ nên sống. Còn ông bà "ngủm cù đèo". Nên bây giờ, mấy ghe nước đá quen, mới cho nó vác đó chớ. Nó nhỏ con vác cứ rớt hoài người ta cũng chán.
Nói xong nó cười khì khì, đưa hàm răng vàng xỉn vì khói thuốc rạ
Nhìn cái lư hương trên bàn thờ. Khản hỏi :
- De lớn vác nước đá cả ngàỵ Cháu ở một mình ?
- Riết rồi quen chú ơị Hôm nay, nó lại đi thổi cuốc sáng đêm. Cháu ở nhà buồn thấy mẹ. Mà mấy ngày nay nước ngập nền nhà. Trùng hổ nó bò đặt mặt đất. Nó muốn bò lên cả bộ ngựa nầy ăn thịt cháu nữạ Thấy ghê chết mẹ !
- Thổi quốc là làm sao ?
- Là thổi bắt con cuốc đó. Cháu cũng chẳng biết làm saọ Nhưng mỗi đêm nó bắt mười mấy, hai mươi con là thường.
- Tại sao anh em cháu lại cạo đầu hết.
- Nó nói láo chú ơị Nó cạo đầu để vái cháu khỏi liệt hai chân. Nhưng hổng phải vậỵ Nó hà tiện đặng có tiền chơi trò điện tử với mua gạo nấu cơm ăn. Nó mua một cái kéo, một bàn bào, lưỡi bào, rồi nó cạo đầu cháu, cháu cạo đầu nó. Ðỡ tốn lắm.
- Còn thổi cuốc thì đêm nào nó cũng đi ? Khản hỏi
- Ðâu có chú, tới mùa nước rong nước nổi mới thổi được. Cái nầy chú hỏi nó đó. Nó nói thổi đặng kiếm thêm tiền.
Ghe nước đá vơi gần phân nửạ Cô gái đương khệ nệ, đỡ cây nước đá cho thằng De lớn vác. Vai của nó lệch sang một bên. Tảng nước đá gần bằng người nó. Khản ước lượng nó vác tới cây thứ mười chín, hai mươi là ít.
*************
Tới đó, chú đừng hút thuốc nghen.
Khản ngồi giữa xuồng, án cho ánh sáng cái đèn bóng nhỏ khỏi rọi ra saụ De lớn bơi láị
Tiếng mái đầm khuya lụp cụp khiến Khản buồn man mác, nhớ lại ngày còn nhỏ cùng cha đi vớt bợn lát ở ruộng lúạ
Xa xa, một dãy núi màu nâu đen ẩn hiện trong bóng sương mờ. Con trăng non, mới tối đã đi gần đến đỉnh đầụ Nó như chiếc thuyền trắng làm bằng chất lân tinh, đang phủ thứ ánh sáng lạnh tái xuống trái đất, làm mọi vật hư ảọ Phía Tây, thỉnh thoảng trời chớp lên vài lượt.
Sao ken dầy đặc
Những đốm sáng diệu kỳ, có một thời nào đã quyến rũ tuổi thơ của Khản. Sao đòn cân mọc phuơơng Nam, cán hơi lệch xuống thành một góc chừng bốn mươi lăm độ đang gánh giùm loài người những bể khổ đau đè trên trái đất. Rồi sao thập tự với bốn nhánh rõ ràng. Cạnh đó, sao gàu hình chữ V, sao cày hình số 5 đang đứng bất động trên trờị Ông thần nông hôm nay mãi dạo dãy Ngân Hà cùng với Ngưu Lang, chắc hai ông đắm say nhan sắc Chức Nữ nên quên cả việc tát nước, cày ruộng.
De lớn tránh tảng lục bình, cho xuồng theo con rạch nhỏ ra gò cây dông. Ðâu đó có tiếng con cá lóc táp mồi sồn sộn.
Thằng De lớn xin điếu thuốc phà một hơi rồi nói :
- Gò cây dông là cái đốm đen lớn trước mặt mình đó chú. Coi gần vậy chớ còn xa lắm. Ðộ tàn hai điếu thuốc nữa mới tớị
- Sao cháu không tìm những gò gần đây mà phải tới gò cây dông.
- Cháu ớn cái gò ấy lắm. Nhưng được cái, nơi ấy có nhiều cuốc vì chẳng ai dám lại gần vào lúc ban đêm.
- Sao vậy ?
- Ở gò đó cái cái mả trời trồng. Người ta kể, hồi trước có ông gì đó tối ngày rượu chè be bét, tới khi hết tiền lại về khảo cha mẹ. Bà mẹ hết tiền chọ Nhưng ông lại không tin cứ cho bà giấụ Nên ông ta xách búa rượt chém. Rượt tới gò này, bà mẹ đuối sức té nhào - De lớn ngưng một lát rồi tiếp - Lúc đó trời giữa trưa, bỗng nhiên u ám và có một cầu vòng bảy sắc úp chụp xuống đất. Người ta kể, trong cầu vòng đó có hai con vạc bay qua, cất tiếng kêu rất não nùng. Người con đang đưa búa định chém bỗng nghe tiếng vạc đứng trơ ra không nhúc nhích được. Người ta lại nói, vì ông ta bất hiếu nên bị trời trồng. Người mẹ được cứu sống nhưng sau đó cũng chết vì thương nhớ con. Còng người con chịu đói khát đến chết, không thể nào chôn được vì chân ông ta đã mọc rễ xuống đất. Ðể răn đời, người ta đắp đất xung quanh làm mả chôn đứng ông. Lâu ngày cái mãi được mối đắp thêm, giờ nó trở thành một khối đất cạnh cây dông. Ở chỗ đó chú ! Ghê lắm. Chính mắt cháu thấy, thỉnh thoảng có những tia sáng như máu xẹt lên trờị
- Bữa nay có chú, cháu mới dám lại gò này phải không ?
- Ở đây có nhiều cuốc, nhưng đi một mình cháu sợ, sợ nhất là ông rằn.
- Ông rằn là gì ?
- Nó là rằn mái gầm, cắn nằm tại chỗ đó chú. Người ta cứ gọi tên ông. Ai cũng sợ. Mùa nước rong, nước nổi ông thường lên những cao vắng vẻ để bắt mồị Mùa này cuốc thay lông nên chậm chạp, thường làm mồi cho nó.
Khản hỏi câu khác :
- Cháu mê trò chơi điện tử lắm phải không ?
- Chơi hoài cũng chán, nhưng thằng De nhỏ nó mê dữ lắm. Chân nó bị liệt đâu có đi đâu được. Cho nên ngày nào cháu cũng cõng cho nó chơi sớm, để nước đá về cháu còn đi vác mướn nữạ
- Vác vậy tiền đủ sống không ?
- Mùa nắng thì đủ, còn mùa mưa nước đá ế. Có nhiều lúc hai thằng nhịn đói đến hai ba ngày là thường. Cháu phải kiếm việc làm thêm.
Câu chuyện lòng dòng của thằng De Sam đã đưa chiếc xuồng đến nơi lúc nào không haỵ Mũi xuồng dũi vào một ổ mối to dị thường. Khản định bước xuống nhưng thằng De lớn đưa tay ngăn :
- Khoan chú, để cháu rọi xem đã - Nói xong nó lấy cái đèn pin soi xung quanh. Rồi bắt đầu giăng lướị
Ngồi một mình, Khản mỉm cười nhớ lại thằng De lớn kể về chuyện người bị trời trồng. Truyền thuyết hoang đường này có quá lâu rồi, tưởng nó đã rụng xuống hư vô. Không ngời hôm nay Khản bắt gặp tại nơi thôn dã nàỵ
Khản nhìn cái gò. Nó giống như một người đang cầm búa sắp chém xuống. Có lẽ vì hình dáng như thế cho nên người dân ở đây bịa ra chuyện đó để răn đờị Khản lại chăm chú nhìn và thật kỳ lạ là cái gò chợt động đậy, Khảng càng nhìn nó bựt nứt ra năm sáu mảnh và một người khổng lồ từ trong đó đứng lên. Người ấy tay lăm lăm cái búa to, sáng lóa, đưa tay ngoắc Khản và hét lên.
- Lại đây, cho tao chém một búa
- Tại sao ngươi chém ta - Khản hỏi
- Thượng đế tao cũng chém
- Tại sao người đòi chém Thượng đế ?
- Vì thượng đế cũng không công bằng. Xử tội mà không cho tao cách gì biện minh cả.
- Người đã chém mẹ, giờ lại định chém ta ư ?
- Hả ! Ngươi nói gì ? Ta chém mẹ ta ư ? - Người khổng lồ nghe nhắc tới đó như đỉa phải vôi, buông búa xuống và hai tay ôm lấy mặt. Hắn nức nở khóc và nóị Có đời nào con giết mẹ bao giờ. Hỡi Thượng Ðế ! Hàng ngàn năm nay rồi, có lẽ nào án xử chưa xong. Thằng kia, lúc nãy thằng ngồi trước mũi xuồng của ngươi cũng đã xử tạ Lúc đót a say, khi say ta là con vật. Ta chỉ muốn dọa mẹ ta lấy tiền mua rượu uống để trốn thói đời đen bạc thôi mà. Ðó là lỗi lầm duy nhất của tạ Hàng ngàn năm rồi ta dở sống, dở chết, trong miệng thế gian. Sao nỡ xua ta đi mãi một mình với nỗi oan khiên. Ðừng bỏ ta đị Hãy nói giùm với người đời, kẻ giết mẹ ta lẫn ta là bia miệng thế gian. Hãy nhớ lấy, bia miệng thế gian. Hãy cứu ta vớị Hãy cứu ta với !
Nói đến đây nước mắt rơi lã chã hòa với sông nước chảy lai láng. Hắn lại ôm mặt nghẹn ngào gọi : "Mẹ ơi ! Ngàn năm rồi mẹ ơi ! Con khổ lắm. Hãy cứu con với mẹ ơi !". Và hắn gục xuống, những nét hung tợn phút chốc biến mất, gương mặt chợt hiền hòa như trẻ con và những mảnh vỡ khi nãy từ từ kép chặt hắn lại thành cái gò mối đứng dưới cây dông đồng.
Lưới giăng xong
- Chú đừng hút thuốc - De lớn lại dặn Khản - Giống này đánh hơi giỏị Cũng đừng nóng vì những con đầu tiên là những con cuốc chúa, nó lớn và khôn lắm.
Khản nói :
- Chú vừa mới nói chuyện với ông bị trồng nè
- Chú nói chơi làm cháu ớn da gà. Ổng có mẹ mà ổng chém, thì chú nói chuyện với ổng làm gì.
- Không chú nói thật. Chuyện đó không đơn giản như cháu hiểu đâụ
- Chú cứ giỡn hoài - De lớn nói - Thôi để cháu thổị
Khản và De lớn vẫn ngồi trên xuồng, mỗi người phủ tấm mũ đen tiệp với lùm câỵ Xong đâu đấy, De lớn lấy đồ nghề. Dụng cụ thổi cuốc hình tròn, như ống tiêu, cụt cỡ chừng nửa tấc. Nó bắt đầu đưa lên môị
Mặt ruộng liền sông lớn, đầy ánh thủy ngân anh ánh. Nước chở một nỗi buồn bàng bạc lan rộng mênh mông mút tầm mắt người nhìn.
Theo làn hơi của De lớn, tiếng "cuốc, cuốc, oa, oa" nhanh hơn vang lên thúc giục, nôn nả như nỗi đớn đau đầy nước mắt.
Những tiếng kâu, nó được nhả ra cùng từng giọt máu và theo đó thàn quách, đền đài, lăng tẩm rêu phong thời hưng thịnh của một vương triều vây quanh hồn Khản.
Ðang lội bì bỏm ngược dòng thời gian, bỗng De lớn nắm tay Khản giựt giựt. Miệng nó vẫn thổi, tay chỉ về bụi lát đang động đậỵ De lớn rút tiếng "tu, oa" nức nở cuối cùng, thế là một bóng đen như một hồn ma bay thốc vào lướị
De lớn bước lai gỡ, rồi buộc chân nó đưa cho Khản.
Một con, hai con, ba con, càng lúc càng nhiềụ
Trời gần sáng, Khản lấy đèn phi rọi vào những con cuốc bắt được. Con đầu tiên lớn nhất, bộ lông xanh thật đẹp với cái ức trắng vương giả, khoác cái mũ hoàng đế vàng tươi màu của sự ca sang tột đỉnh. Giờ bị trói chân nằm dưới khoang thuyền.
Qua ánh sáng của ngọn đèn pin, bắt hai con cuốc ánh lên sắc lửa kỳ lạ hình như nó muốn chối từ lòng thương cảm nhỏ nhoi của Khản dành cho nó. Ðôi mắt nó nhuốm đầy vẻ chán chường, khinh bạc hình như nó muốn nói :
"Biến hóa lẽ huyền vi
Ta tột đỉnh quyền uy
Cũng ngã vực hư vô
Thân hơn chi hạt bụi
Gọi : "Quốc, quốc, gia, gia"
Ta gọi nước, gọi nhà
gọi chi họa ngôi báu
Biến hóa lẽ huyền vi"
Và từ trong đôi mắt đó, bỗng ưá ra hai giọt nước. Hai giọt nước chảy xuống bỗng chốc biến thành hai chùm lông trắng phếu viền phía dưới vành mi mắt của con cuốc và nó chợt vùng vẫy kịch liệt.
Ðột nhiên, một mối thương cảm kỳ lạ, thôi thúc mãnh liệt buộc Khản mở chùm dâyt rói, thảy cả bọn lên trờị Ðược thả, những con cuốc hoảng hốt đập cánh bay tán loạn. Thoáng chút, chúng mất dạng trong những lùm câỵ
De lớn kinh ngạc nhìn Khản. Khản vỗ vai anh bạn nhỏ.
- Về nhà chú sẽ trả tiên cho cháu gấy hai - Lẳng lặng không nói tiếng nàọ Nó cuốn lưới, xin Khản một điếu thốc rồi bơi về. Không biết nó có giận không. Riêng Khản lòng thấy ngùi ngùi vì có một đêm sống cùng những oan hồn người xưa cũ.
Ðến nhà, trời sáng bạch. Khản bước vào trước và thấy trên bộ ngựa xoài trống không. Thằng De nhỏ đang ôm chân bộ ngựạ
Hai chân liệt của nó trắng bợt như mủ nhựa tái sinh có lẽ vì bị ngâm nước quá lâụ Còn xung quanh nó, vô số những con trùng hổ to, dài nhằng đang bò lúc nhúc trên nền nhà, bò vào bếp nấu ăn, bò lên chân bàn thờ, bò đầy gạch cửạ
De lớn xách đèn và lưới đi saụ Khi thấy thằng em ngồi bệt dưới đất, nó hoảng hốt ẵm em lên và cằn nhằn :
- Mầy làm cái gì vậỵ Tao đã dặn rồị Tao đi vắng thì nằm nghỉ. Ðừng bò tới bò lui nó té mà mầy cãi taọ
- Mày kỳ quá !
Thằng De nhỏ rươm rướm nước mắt.
- Tao đu lên ngựa không được. Chớ tao muốn ở đây làm gì. Mấy tiếng đồng hồ bị nước ngập, chân tao tê cứng rồi nè.
- Vậy chớ mầy bò ra ngoài làm chi
Thằng De nhỏ vẫn thút thít :
- Tao nằm chiêm bao thấy ba với má về kêut ao đi tỉnh chơị Tao chạy theo, ai ngờ nó té xuống, chớ tao muốn đâu !
Thằng De lớn lấy đồ thay cho em. Khi nó lột cái quần ướt của thằng em ra để thay quần khác thì ở kế ngay bộ phận sinh dục teo héo của thằng De nhỏ rớt ra năm sáu con trùng hổ. De lớn lấy tay bốc liệng xuống đất.
- Mầy cứ đi hoài, một mình tao ở nhà buồn muốn chết - De nhỏ nóị
- Không đi làm sao có tiền, mà thôi tao không đi ban đêm nữa đâu - De lớn vừa nói, vừa đưa tay xoa xoa, bóp bóp cái chân trắng bệch, què quặt của đứa em.
Qua lổ thủng trên vách, ánh sáng tràn vào nhà. Thằng De lớn gục đầu nhìn đôi chân thằng em và khóc. Những giọt nước mắt rơi lả tả xuống chiếụ
Chợt phía dưới cầu tầu, có tiếng gọi lớn :
- De Sam nước đá về kìạ
Khản vội cho tay vào túi quần móc lấy cái gì mà mình cũng không biết. Những ngón tay gầy thô của anh đụng nhằm một vật hình như nó là gói thuốc.
- Chú cất đi - De lớn nói - Tôi không đi thổi cuốc nữa ! Nó bước nhanh về phía cầu tàụ
Phương Ðông. Mặt trời lên. Mặt vùng ánh sáng chói chang như một bông hồng rực thắm cài trên ngực áo buổi bình minh.
Khản vuốt mặt, thẫn thờ nhìn.219
Trong Dưỡng trí viện, ông giám đốc bắt gặp một thân chủ vén áo cho một bạn đồng viện liếm lưng lia lịa. Ông hỏi:
Hai anh làm gì thế?
Anh kia thụt lưỡi vào đáp:
Đây là một trò chơi mới sáng chế ra.
Ông giám đốc ngạc nhiên:
Trò chơi à? Hai anh chơi gì đấy?
Anh kia nói:
Chúng tôi chơi trò bưu điện. Thằng này làm con tem, tôi liếm nó để dán lên bao thư.
2813
Chú bé Bill chạy vào tiệm tạp hóa ở góc đường:
- Bác chủ đâu rồi? Mau lên! Gấp lắm!
- Có chuyện gì thế?
- ông chủ vội vàng hỏi.
- Bố cháu cưa cành cây, bị cái chạc móc vào thắt lưng đang treo lơ lửng trên cao...
- Chà! Vậy cháu muốn tìm cái thang hở?
- Không ạ! Cháu muốn mua cuộn phim, lắp vào máy ảnh cho cháu, mau lên!
1715
Làm người ai cũng có đấng sinh thành là CHA MẸ. Đặc biệt nhân mùa Vu Lan báo hiếu này tôi xin được nói về Mẹ như một bó hoa tưởng niệm Mẹ tôi vừa mới qua đời tại Việt Nam ngày 1.3.1996. Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam Hai câu thơ trên còn nói lên bổn phận, công lao của người mẹ đối với con với chồng trong gia đình Việt Nam. Gió đưa cây cửu lý hương Hoặc là: Có cha có mẹ thì hơn Hay là những câu thơ sau đây đã nói lên được một phần công ơn của người mẹ. Trong thời kỳ đầu của sự thai nghén người mẹ phải chịu: … Sự buồn nôn của thời kỳ đầu thai nghén Khi bào thai trong thời kỳ phát triển trong cơ thể người mẹ: … Mỗi ngày con mỗi lớn Nỗi lo lắng và … Nỗi lo của người gần sinh nở Công lao của người MẸ nuôi con và lo giáo dục, lo tương lai cho con mình: Và con sẽ lớn lên người dạy bảo Biết bao nhiêu là thơ, nhạc, văn chương nói về MẸ. Nào là ví lòng MẸ? hư biển rộng bao la như trời cao không cùng tột… Bài nào nói về MẸ cũng hay, cũng réo rắt, cảm động dễ đi vào lòng người. Bởi vì nói về MẸ là nói về tình thương, mà tình thương thì bắt nguồn từ cõi lòng chân thật và sâu lắng nhất của tâm hồn mình. Do đó nói về MẸ là nói về những gì mình có kinh nghiệm sống thực, những xúc động chân thành những suối nguồn êm dịu trong làn Chữ hiếu hạnh niệm tròn một tiết Người bất hiếu nghĩa là Sân Lai cách mấy nắng mưa Trong Pháp Bảo Đàn Kinh phẩm Hành Do có nói đến hiếu hạnh của Lục Tổ Huệ Năng. Trước khi ngày đi tu, cha mất sớm, mẹ góa con côi, hằng ngày ngài phải gánh củi ra chợ bán để kiếm tiền phụng dưỡng mẹ. Con dù xác thịt thai phàm Trường hợp Nhật bản ngày nay họ cũng áp dụng Ngày Mẹ như các nước Tây Phương chọn ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm để kỷ niệm. Họ gởi thiệp, tặng hoa và tặng quà cho Mẹ để tỏ lòng hiếu kính và yêu thương Mẹ. Vì tình mẫu tử sâu xa Liền sau đó Đức Thế Tôn thuyết pháp Tứ diệu Đế để độ bà. Bà liền chứng quả Tu-Đà-Hườn và Làm con mà biết báo đền Sau đó bà xin phép xuất gia và nhập vào hàng tỳ kheo ni. Bà tinh tấn tu hành và chứng quả A-La-Hán. Thế Tôn lại bảo A Nan ("Kinh Đại báo Phụ Mẫu Trọng Ân", không rõ dịch giả) Ngoài mười điều ân trọng ghi trên toàn bài kinh Đức Phật còn chỉ rất rành rẽ từng ly từng tí một về công sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ cho con nên người. Đọc toàn bài kinh được chuyển ngữ thành thể thơ song thất lục bát khiến tôi bùi ngùi xúc động đến rơi nước mắt nhiều lần khi nghĩ đến người mẹ vừa mới qua đời. Tôi thấy mình bất hạnh vì đã xa cha mẹ rất lâu năm, và bây giờ nhìn đóa hoa trắng trên áo tôi mới thấm dần thấ, dần và hiểu nghĩa rất sâu sắc của tâm trạng kẻ mồ côi mẹ. Vì có người gặp cơn đói rét Như vậy phải làm thế nào để báo đáp được hiếu ân đó. Đức Phật đã dạy rất nhiều phương pháp trong rất nhiều kinh điển như bố thí Ba La Mật, thân cận Ba La Mật, chân thật Ba La Mật... Nhưng hôm nay xin theo các bộ kinh đã dẫn và
Khi đề cập đến Mẹ trong ngôn từ tiếng Việt ta thử so sánh với nhiều ngôn ngữ khác nhau gọi Mẹ như thế nào và thử tìm xem có từ nào mà toàn thể các dân tộc trên thế giới này có tiếng gọi chung về Mẹ hay không? Mẹ trong văn hóa và tập tục của Đông Phương và Tây Phương như thế nào? Mẹ trong kinh điển Phật Giáo, và phương pháp báo hiếu ra sao?
I. Danh từ MẸ
Trong tiếng Việt gọi MẸ là người đàn bà
đã sinh ra ta. Trong đó bao gồm ý nghĩa mười tháng cưu mang chịu không biết bao nhiêu điều cực nhọc cho đến ngày khai hoa nở nhụy và nuôi nấng dạy dỗ con đến khi khôn lớn nên người. Những thâm ân đó chỉ khi nào chúng ta nuôi con mới biết được công ơn của Cha Mẹ. Như đức Khổng Tử đã nói: "dưỡng tử phương chi phụ mẫu ân" (khi nuôi con mới biết được công ơn của cha mẹ). Danh từ MẸ ấy tiếng Tây Ban Nha gọi là Madre, tiếng Ý cũng gọi là Madre. Tiếng La tinh là Mater. Tiếng Anh là Mother. Tiếng Đức là Mutter. Tiếng Pháp là La Me`re. Tiếng Hy Lạp là Mitera. Tiếng Nga là Mat. Tiếng Iran là Modar. Tiếng Trung Hoa là Mouchan. Tiếng Ấn Độ là Mata. Tiếng Nhật là Okaasan. Tiếng Ả Rập là Waldetak. Kể cả tiếng Việt tất cả mười bốn ngôn ngữ vừa nêu trên hầu như là
đại đa số các dân tộc trên thế giới ngày nay đang dùng những ngôn từ đó. Trừ tiếng Nhật và tiếng Ả rập có âm vận riêng còn mười hai ngôn ngữ còn lại âm vận na ná giống nhau và
điều bắt đầu bằng mẫu tự "M".
Có điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tất cả các nước trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng, thế nhưng khi nói danh từ MAMA tất cả điều biết đó là MẸ. Làm sao tôi có thể cả quyết điều đó. Bởi vì chính tôi đã tiếp xúc trực tiếp với mấy chục người nói những ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau nhưng khi hỏi danh từ MẸ trong ngôn ngữ họ tất cả đều gọi là MAMA. Tôi chưa thỏa mãn. Vì tôi biết từ đó không phải là ngôn ngữ chính gốc của họ nên lần lược họ mới cho tôi biết từ chính gốc trong ngôn ngữ riêng biệt của mỗi dân tộc. Thế nhưng tại sao lại có một từ phổ thông như thế. Theo tôi nghĩ là tiếng nói bập bẹ đầu tiên của một đứa bé vừa tập nói mà ra rồi thành ra tiếng nói phổ thông bất thành văn trong dân gian của mỗi dân tộc mà thành. Trừ danh từ MAMA là MẸ vừa nói ngoài ra không có một từ nào có tính phổ thông như thế cả. Như vậy đủ chứng tỏ MẸ là thiêng liêng cao cả không có người nào hoặc vật gì khác có thể sánh bằng MẸ. Khi nghĩ về công sanh thành dưỡng dục đứa con mà nói, ngay cả CHA cũng không bằng MẸ. Vì chỉ có thân thể người MẸ mới có thể thai nghén và sinh con ra được mà thôi.
II. MẸ trong xã hội Đông Phương (trường hợp điển hình của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản)
A- Tại Việt Nam
Mẹ là người mười tháng cưu mang, ba năm bồng bế, sau đó là giáo dục cho con nên người hữu ích trong xã hội như trong Chinh Phụ Ngâm đã nói:
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Cha mẹ là chỗ dựa tinh thần và là cây cổ thụ để con nương nhờ về vật chất:
Con xa cha mẹ thất thường bữa ăn
(không rõ tác giả)
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
(Ca dao)
Mặt mày xanh choáng váng lúc chiều về
Mắt tối sầm dù nắng đẹp trưa hè
Những thú vui không màng mơ tưởng đến
(thơ Như Tạng)
Da căng theo ngày tháng bước nặng dần
Cử kiêng từng hành động lẫn thức ăn
Đêm trằn trọc dáng nằm ngồi khó nhọc
(thơ Như Tạng)đau đớn của người mẹ trong lúc sinh nở:
Những cơn đau quằn quại vỡ người
Kịp đến khi nghe con khóc chào đời
Hồn nhẹ nhõm cơn đau dường dừng lại
(thơ Như Tạng)
Nuôi nấng, nâng niu, ấp ủ, dỗ dành
Vì tương lai MẸ lo lắng tảo tần
(thơ Như Tạng)
h mát mẻ nhất. Vì thế cho nên những bài thơ, nhạc… viết về MẸ đều hay và cảm động.
Vì ân trọng đối với MẸ như thế nên ngày xưa trong xã hội Việt Nam không được làm đám cưới hoặc người vợ không được có thai trong lúc thọ tang CHA MẸ.
Trong sách "Hải Dương Phong Vật Chí" của Trần Đạm Trai có ghi: "Cổ thời trọng đạo hiếu đến nỗi luật pháp cấm vợ có thai trong khi tang chế, đến thời Lê Thánh Tông mới bỏ lệ ấy, nhân vì có người tỉnh Hải Dương huyện Đường An xã Thời Cử tên là Nguyễn Kim An, thuở nhỏ hàn vi, thời Hồng Đức (1470-1497) làm lính chầu trong cung. Vua thấy có tài cho về đi học, 22 tuổi đỗ Hương cống, rồi thi hội thi đình đỗ Bảng nhãn (học vị của người thi đỗ thứ hai, sau Trạng nguyên trong khoa thi đình). Được bổ làm quan ít lâu, về cư tang, giữ trọn ba năm đạo hiếu thì mất, không có con trai, vua cảm thương, từ đó bỏ lệ kia".
"Các triều vua thường khuyến miễn thuần phong mỹ tục vẫn nhắc nhở đạo hiếu, như lệnh vua Lê Huyền Tông ra ngày 11 năm Cảnh Trị thứ ba (1665) cho tinh biển những người có hiếu hạnh, trong biển ghi tên tuổi quán chỉ người được khen thưởng và nói rõ duyên do có hiếu hạnh như thế nào) (Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính). Lệnh vua Hàm Nghi năm đầu (1884) ban thưởng biển son khắc bốn chữ vàng HIẾU HẠNH KHẢ PHONG cho những người có tiếng hiếu hạnh (Đại Nam Điê?Lệ)". (theo sách Đất Lề Quê Thói của Nhất Thanh, 1992).
Những gương hiếu thảo ngày xưa nhiều khi đã phải hy sinh thân mình để cứu mạng cha mẹ. Trong sách "Việt Nam văn học toàn thư" của Hoàng Trọng Miên có ghi trường hợp: "Lãnh Tạo người làng Tuần Lễ tỉnh Nghệ An, chống đối triều Minh Mạng. Lê Văn Duyệt được cử làm Tống trấn Nghệ an để dẹp Lãnh Tạo, bị Tạo lừa, ngang nhiên đem quân lính tới dinh trấn giả làm đi thanh tra; Lê Văn Duyệt dụ hàng, tâu vua cho làm quan, Tạo không chịu, chỉ ưng thuận vàng bạc rồi đi. Sau đó Lê Văn Duyệt sai lính bắt giữ mẹ và vợ của Tạo. Vì thương mẹ mà Tạo phải ra hàng…".
Năm 1962 thầy Nhất Hạnh cho ra đời tác phẩm Bông Hồng Cài Áo rất nổi tiếng và rất thành công trong mục đích cổ võ cho Ngày Mẹ nhằm ngày Vu Lan rằm tháng Bảy âm lịch. Hiện nay ngày rằm tháng Bảy đã hiển nhiên trở thành ngày Mẹ của người Việt Nam. Trong ngày ấy hoa hồng được cài cho người có diễm phúc còn mẹ và hoa trắng cho những người mà mẹ đã qua đời.
Theo truyền thống Đông Phương thì hiếu đứng đầu trăm hạnh lành như trong Nhị Thập Tứ Hiếu Diễn Âm của Lý Văn Phức có câu:
Thời suy ra trăm nết điều nênđối xử không tốt với đấng sinh thành của mình thì khi ra đời không còn ai tin tưởng người ấy nữa. Do đó mà trăm sự trăm việc sẽ đỗ vỡ, không thể thành công trên đường đời dù là việc nhỏ hay việc lớn.
B. Tại Trung Quốc
Trường hợp Trung Quốc ngày xưa có nhiều điểm giống Việt Nam trong những câu chuyện về hiếu đạo. Còn cha mẹ tại thế để được phụng dưỡng là một niềm vinh hạnh và là nỗi vui sướng trong đời:
Nhất nhật đại dưỡng bất dĩ Tam Công hoán (Còn được nuôi cha mẹ ngày nào thì dẫu cho đổi lấy chức Tam Công cũng không màng. Tam Công là ba chức quan lớn nhất của chế độ quân chủ ngày xưa: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo).
Nhiều người khi mẹ mất làm nhà bên cạnh mộ mẹ ở để nhang khói cho đến lúc mãn tang.
Quan niệm của nhà Nho rất nghiêm khắc về hiếu hạnh. Đạo làm con lúc còn nhỏ phải kính cẩn vâng lời cha mẹ dạy bảo, hầu hạ cha mẹ. Khi lớn khôn ra đời thì lo phụng dưỡng ngọt bùi ấm lạnh cho cha mẹ.
Trong truyện Kiều Nguyễn Du cũng đã nhắc đến phong tục báo hiếu của người Trung Hoa qua điển tích Lão Lai, người đã bảy mươi tuổi vẫn mặc đồ hoa hòe sặc sỡ ra sân múa hát cốt làm cho cha mẹ được vui lúc tuổi già bóng xế:
Có khi gốc tử cũng vừa người ôm
(Kiều)
C. Tại Nhật Bản
Trường hợp Nhật Bản trong truyện cổ tích có câu truyện của người con hiếu thảo như sau: ngày xưa trên đảo Kita có anh chuyên làm nghề chài lưới tên là Taro ngày ngày lo đánh cá nuôi mẹ. Mẹ anh đã tám mươi tuổi, anh cũng đã lớn tuổi mà không chịu lấy vợ sinh con để nối dõi tông đường theo như phong tục người Nhật. Mẹ thường hay bảo anh hãy lấy vợ sinh con nhưng anh nhất định không, vì sợ lấy vợ phải lo cho vợ con không có thì giờ hầu hạ mẹ. Taro nói rằng:
Cũng lo phụng dưỡng xin an tấc lòng…
III. Mẹ trong truyền thống xã hội Tây Phương (trường hợp của Hoa Kỳ và các nước Tây phương khác)
Mother’s Day (Ngày Mẹ) là ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm mỗi năm. Mỗi năm đến Ngày Mẹ dù người lớn bao nhiêu tuổi mà có diễm phúc còn mẹ đều rất sung sướng về thăm Mẹ, tặng Mẹ một thiệp chúc mừng Ngày Mẹ, một món quà và một món hoa tươi để mừng Mẹ được sống lâu. Tục lệ này hầu hết các nước Phương Tây đều áp dụng như Hoa Kỳ, Anh úc Đại Lợi, Thụy Điển, Đan Mạch v.v… Người Tây Phương giải thích rằng họ làm như vậy là để biểu lộ tình thương và lòng hiếu kính đối với Mẹ.
Khởi nguyên của ngày này là do bà Julia Ward Howe khởi xướng năm 1872 tại Hoa Kỳ. Vài năm sau tại Boston, tiểu bang Massachusetts, bà đã kêu gọi và
đã thành công trong buổi tập hợp kỷ niệm Ngày Mẹ hàng năm.
Bà Julia Ward Howe là một học giả, giảng sư Đại học rất nổi tiếng đương thời của Hoa Kỳ.
Mãi đến năm 1914 quốc hội Hoa Kỳ mới chấp nhận Ngày Mẹ nói trên như một ngày lễ quốc gia bằng một đạo luật do quốc hội thông qua.
Kể từ đó các nước theo văn hóa tây Phương hoặc ảnh hưởng của nền văn hóa của họ đều theo phong tục kể trên để biểu lộ lòng hiếu kính và yêu thương đối với mẹ. (theo sách "The World Book Encyclopedia" xuất bản tại Hoa Kỳ, 1992).
IV. Mẹ trong kinh điển Phật giáo
A. Tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật
Trong bài kinh BÀ MẸ HỒI CÁC ĐỜI TRƯỚC (trong sách "Một trăm bài Kinh Phật" của Đoàn Trung Còn, không ghi năm xuất bản) có ghi tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật như sau:
Lúc ấy Phật ngự với Giáo Đoàn chư đại tỳ kheo tại xứ Ca-căn-ga-la (kacangala). Trong cảnh rừng ở đó, có bà già tên là Ca-căn-Ga-Lác (Kâcangalâ), bà xách một cái bình đến giếng mà múc nước.
Lúc ấy Đức Thế Tôn gọi A-Nan và bảo rằng: "Này A-Nan hãy đi nói với bà ấy rằng, Đức thế Tôn khát nước, bà cho ngài uống với".
A-Nan nói với bà mấy lời ấy, bà đáp rằng: "Để tôi đem đến cho Ngài".
Bà đổ nước đầy bình mang đến trước mặt Phật. Bà thấy Phật rất trang nghiêm với 32 tướng chánh, 80 tướng phụ, một vòng hào quang sáng ngời.
Bà vừa thấy Phật, cái tình mẹ thương con nẩy sinh trong lòng bà, bà vội đưa tay lên ôm hôn Đức Phật vừa nói rằng: "Con tôi! Con tôi!". Mấy vị tỳ kheo muốn cản bà lại nhưng Đức Phật liền phán rằng: Này chư tỳ kheo! Chớ cản bà ấy. Tại sao vậy? Bởi vì trong năm trăm đời liên tiếp bà đã là MẸ ta:
Nên bà chạy đến ôm ta hôn nhầu
Ai mà ngăn cản đón đầu
Thì bà giận tức máu hầu tuôn ra
Ta đây nhớ MẸ buổi qua
Cám ơn nghĩa nặng vì ta bao đời
Từ bi, thương xót lấy người
Nên ta chịu để ôm vùi mà hônđọc bài kệ như sau:
Tác thành việc khó, đáp tình mẫu thân
Thế Tôn giữ trọn hiếu phần
Giúp ta đổi tánh thoát trần dứt mê
Độ ta ra khỏi bến mê
Đường tiên đường Phật đưa về đúng nơi
Con ta chuyển sức ra tài
Đặng làm việc tốt, đáng đời kính khen.
B. Kinh Tâm Địa Quán
Kinh Tâm Địa Quán, phẩm báo ân, Đức Phật nhân tán thán 500 vị trưởng giả thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà đến cúng dường Phật và
đại chúng. Đức Phật giảng cho họ nghe về công ơn sanh thành của mẹ như sau:
"… Mẹ hiền thương con, thật không lấy vật gì để so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi vào thai trải qua 10 tháng, những lúc mẹ đi, đứng ngồi nằm chịu trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo mặc, dú có được cũng chẳng mừng, vì lòng lo lắng không hề dứt, chỉ lo nghĩ đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thì như trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân. Nếu khi sanh đẻ được an lành, ba mẹ cùng các người thân thuộc cùng chung vui sướng y như kẻ nghèo được châu báu. Sự đau khổ của mẹ trong mười tháng do một tiếng khóc đầu tiên của con khi mới lọt lòng mà nỗi khổ ấy mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế làm chỗ dạo chơi, và do nước giếng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi ơn đức của mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng sánh kịp. Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thì được chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng…"
(Kinh Tâm Địa Quán, H.T.T Tâm Châu dịch). (tham khảo sách Cho Trọn Hiếu Ân của T.T.T. Bảo Lạc, 1991).
C. Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Nhân khi Đức Phật dẫn đại chúng đi hành đạo hướng về phương Nam. Giữa đường Đức Phật đến lại trước một đống xương khô đã lâu đời chất to như quả núi. Đại chúng thấy vậy không rõ nguyên do, A Nan liền bạch Phật sinh dạy cho biết tại sao Đức Thế Tôn lại làm như thế. Phật chỉ rõ rằng đóng xương đã chồng chất đó rất lâu đời về trước nên biết đâu trong đó có xương của cha, mẹ, vợ, con, anh, em ta nhiều đời trước. Vì lòng hiếu kính nên ta lạy đống xương như vậy. Đức Phật đã dạy bảo đại chúng rất nhiều về công ơn sinh thành của cha mẹ, đặc biệt mười điều chúng ta nên ghi nhớ như sau:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ hai sinh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳntg nhờm chẳng ghê
Điều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chă? màng tội lỗi bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng…
Đây bầu trời đen tối đã phủ kính tâm hồn tôí! Tôi trở thành kẻ mồ côi mẹ, đau đớn quá! Cho dù tôi đã bao nhiêu tuổi trên đầu…
V. Phương pháp báo hiếu
Tôi nghĩ ai có khát nước đến cùng cực khi gặp nước mới thấy nước quí giá vô vàn. Vấn đề báo hiếu cũng vậy. Ai đã mất cha mẹ mới thấy phương pháp báo hiếu của Đức Phật dạy là quí báu.
Lấy kinh nghiệm của bản thân mà nói, khi mẹ tôi còn tại thế tôi vẫn thường xem kinh sách, vẫn tin lời Đức Phật dạy, vẫn cầu nguyện cho cha mẹ trong bảy đời đã qua trong quá khứ siêu sanh về miền Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, như trong kinh Vu Lan đã dạy.Vẫn luôn luôn học về gương hiếu hạnh của đức đại hiếu Mục Kiền Liên. Vẫn biết về ngày Mother's Day của các nước Tây Phương, và truyền thống báo hiếu của Đông Phương. Thế nhưng những việc làm đã qua của tôi là do lý trí chủ đạo. Còn việc báo hiếu của tôi nhân mùa Vu Lan năm nay được thúc bách bởi một sự mất mát to lớn nhất trong đời tôi. Đồng thời nó bắt nguồn từ lòng thương mẹ mà ra. Tôi muốn tìm một cái gì đó, một hành động nào đó để may ra lấp bớt được một khoảng trống tâm hồn.
Ngược dòng thời gian về thời điểm trước khi mẹ tôi qua đời, tôi thường tìm hiểu xem những người không phải là Phật tử họ nghĩ gì về tôn giáo của mình, để có thêm kiến thức. Tôi cũng tìm hiểu được những giáo lý của đức Phật dạy được các học giả khác tôn giáo với mình và các nhà khoa học, triết gia Tây Phương có những nhận xét gì về Phật giáo để cũng cố thêm niềm tin của mình về phương pháp báo hiếu của đức Phật đã dạy.
Trong đó có Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận là rất nhiều tín đồ thiên Chúa Giáo có cả các vị Linh mục đã áp dụng phương pháp thiền quán để tu tập, trao dồi thân tâm của họ.
Một học giả đạo Hồi đã nói: "Đức Phật là của cả nhân loại. (Buddha is for whole mankind. The Buddha is not property of Buddhists only. He is the property of whole mankind. His teaching is common to everybody. Every religion, which came into existence after the Buddha, has borrowed many good ideas from Buddha).
Triết gia Bertrant Russel ca ngợi Phật Giáo có triết lý hành động vĩ đại nhất và lâu đời nhất...
Có thể nói khoa học gia nổi tiuếng nhất của thế kỷ, Albert Einstein, đã nói là "Phật giáo đương đầu với khoa học" (Buddhism copes with Science), (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Theo tôi không phải Phật giáo đương đầu với khoa học mà Đức Phật đã hướng dẫn cho khoa học tự nhiên tiến lên về mọi mặt mới đúng. Tôi klhông muốn dài dòng trích dẫn lời Đức Phật để chứng minh ở đây vì bài báo đã quá dài. Xin mời bạn đọc đọc Duy Thức Học ta sẽ thấy Đức Phật đã giải thích về nguồn gốc của con người và vũ trụ rất tinh tế, rất khoa học khiến các nhà khoa học, các triết gia phải tìm tòi học hỏi.
Giáo sư Rhys Davids nói rằng: "Không có tôn giáo nào vượt trội hơn Phật giáo" (Nothing to surpass Buddhism. Buddhist or not buddhist, I have examined everyone of the great religious systems of the world, and in none of them I have found anything to surpass, in beauty and comprehensiveness, the Noble Eightfold Path and the Four Noble truths of the Buddha. I am content to shape my life according to that path). (Tham khảo sách "BUDDHISM in the EYES of INTELLECTUALS" của K. Sri Dhammananda).
Trở lại lời Phật dạy về phương pháp báo hiếu kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân và Kinh Vu Lan: Phật đã dạy rằng vì công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn. Vì thế chúng ta không thể nào đền đáp công ơn ấy bằng phương diện vật chất hữu hạn được. Hơn nữa trong cõi luân hồi kể từ vô thỉ đến nay chúng ta có không biết bao nhiêu là cha mẹ thì làm sao chỉ dùng những phương tiện vật chất để phụng dưỡng cha mẹ hiện tiền mà có thể đền đáp thâm trọng ân ấy. Phật đã cho thí dụ là:
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng...
(Kinh báo Ân)đặc biệt về sự giới hạn của bài này nên chúng tôi xin tóm lược thành hai phương pháp đơn giản: TỰ LỰC và THA LỰC.
Thứ nhất là: TỰ LỰC
Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, cầu Phật Đạo giải thoát, tiến tu, thật học để đem khả năng của mình giảng giải cho mọi người chung quanh chúng ta cùng phát tâm ấy, hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và cuối cùng là cầu nhất thừa Phật Đạo.
Giai đoạn đầu là chúng ta phải học hỏi và hiểu thấu đáo về thâm ân sinh thành của cha mẹ. ăn năn hối cải những lỗi lầm, nếu có, từ trước đã làm hại mình hại người vạ lây tiếng xấu đến song thân. Giai đoạn kế tiếp là phải siêng năng không ngừng nghĩ để đạt dược những thành công lớn trong đời, khiến cha mẹ vui lòng toại nguyện, an tâm vì con... Và làm thế nào để cho cha mẹ cảm nhận được lòng hiếu kính, yêu thương của mình đối với cha mẹ. Đồng thời phải có tâm niệm sung sướng không gì bằng khi mình còn được cha mẹ trên đời, Bởi vì nếu cha mẹ biết được điều đó cha mẹ cũng sung sướng vô vàn. Những điều vừa kể rất đơn giản nhưng không kém phần khó khăn khi thực hiện được nó. Giai đoạn cuối cùng như trên đã nói là cầu Nhất Thừa Phật Đạo để giải thoát cho mình, và phổ độ giải thoát cho cha mẹ nhiều đời đã qua và hiện tiền cha mẹ sống lâu và tránh khỏi những ách nạn trong đời.
Thứ hai là: THA LỰC
Như Đức Phật đã dạy trong kinh Vu Lan, cho dù đã chứng được quả vị Bồ Tát và
đã được thần thông quảng đại như ngài Mục Kiền Liên, cộng với tiếng tăm vang lừng cả trời người đều nể phục đi chăng nữa một mình ngài không thể cứu được mẹ ngài trong địa ngục và càng klhông thể cầu siêu độ cho cha mẹ bảy đời trước đó nữa. Như vậy chỉ có một cách là cầu THA LỰC. Hay nói đúng hơn là cầu cộng lực của chư tăng trong mười phương tụ hội về nhân ngày rằm tháng bảy. Trong hàng chư tăng đó gồm có phàm tăng, thánh tăng, và những hàng bồ tát mười phương vì nguyện lực độ sinh nên các ngài đã hiện hình làm phàm tăng thân cận chúng ta.
Nhân ngày ấy nhờ thần lực chư tăng chú nguyện cho sở cầu báo hiếu của chúng ta được viên thành.