Ông Việt Nam đụng phải ông người Tây, ông VN (mới biết tiếng Anh): I’m sorry, ông tây cũng lịch sự: I’m sorry too, ông VN nghe xong vội vàng: I’m sorry three, ông Tây nghe thấy lạ quá hỏi: What are you sorry for, ông VN làm luôn: I’m sorry five. Ông người tây bực mình: Oh shit!!! Ông VN hết hồn: Oh seven!!!
1414
Tôi ngồi dựa lưng vào những cột gỗ còn sần sùi vết rìu đẽo. Bấy giờ ngày đã hết từ lâu và đêm xuống mênh mông trên bờ bể. Một đêm hè gió lặng. Tiếng sóng vỗ nghe chừng cũng âu yếm dịu dàng hơn. Anh phó chủ nhiệm tập đoàn đánh cá Mũi Né treo cây đèn bão lên cột nhà rồi ngồi ghé xuống bên cạnh tôi. Hai cánh tay buông thõng dài đến quá gối. Anh thẫn thờ nhìn tôi mất một lúc rồi cất giọng ồ ề hỏi:
- Ai nói với anh tôi giữ bức tranh đó mà anh lặn lội đi tầm tôi vậy?
- Tôi nghe một người quen nói. Một chiến sĩ cũng là người Nam Bộ.
Anh phó chủ nhiệm chồm người tới:
- Có phải là một đồng chí tiểu đoàn trưởng không?
- Phải, anh ấy là tiểu đoàn trưởng, tên là Danh.
- Thôi, đúng rồi. Đúng là anh Danh rồi!
Anh ta vừa kêu lên vừa lập cập để hai bàn tay lên gối chân tôi. Đôi mắt của người đàn ông Nam Bộ trạc bốn mươi tuổi này chớp lia lịa, hai hàng mi đen rậm nhíu nhíu lại. Anh ta thu hai bàn tay về, thở dài một thôi rồi lắc đầu:
- Bức tranh... bức tranh đó... không có ở đây đâu. Tôi không còn giữ nữa. Nhưng mất thì chắc chưa thể mất được. Tới bây giờ tôi vẫn tin là nó hãy còn. Anh à, bức tranh đó vẽ Cụ không được sắc sảo lắm đâu. Là vì do một anh thợ họa hình ở miệt vườn vẽ thôi mà. Nếu đem so sánh với những ảnh Cụ bây giờ thì đâu đẹp bằng được. Nhưng có điều tôi dám quyết với anh là bức tranh đó không có bạc vàng nào trên đời này sánh nổi. Bởi vì ở trên đời này chắc gì đã có một người thứ hai vẽ được...
Nói tới đây anh đưa tay lên cào cào ngực. Tôi có cảm giác như trong ngực anh bấy giờ có cái gì nóng lắm.
- Trời, mà người vẽ bức tranh đó lại chính là em tôi. Em của tôi đã họa bức tranh đó trong những giờ phút cuối cùng của đời nó... Thôi thì tôi cũng nói cho anh rõ hoàn cảnh gia đình của tôi. Cha mẹ anh em tôi đều chết sớm hết anh à. Tên nó là Đô. Tôi không muốn em tôi dốt nát, nên chi hồi đó một mình tôi đã làm lụng, đi gặt hái, đi câu lưới nuôi em tôi học hành. Nói thiệt với anh, tôi thì có phần hơi quê mùa cục mịch, đầu óc không đặng sáng sủa bằng em tôi. Với lại tánh tôi củ mỉ cù mì, chớ tánh em tôi nó gan góc lắm. Trong làng hễ ai bắt nạt tôi thì nó bênh tôi, dám chống chọi với bất cứ đứa nào hiếp đáp tôi.
Tính ra như vậy thì nó đã học hết lớp nhứt trường làng. Sau nó thi đậu tên tỉnh học. Học đâu gần được một năm thì thôi học. Ngay hồi nhỏ nó đã có hoa tay. Thôi học về đi làm ruộng đi câu kéo với tôi chớ nó vẫn ham hố vẽ vời. Khắp nhà tôi treo la liệt những hình, tranh của nó. Nào là hình lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, hình người đi chài cá, hình phong cảnh, đủ thứ.
Năm cái đình làng tôi được phép tu sửa, làng đã rước em tôi ra vẽ lại con kỳ lân nơi tấm bình phong trước đình. Hình con kỳ lân do em tôi vẽ mãi tới kháng chiến cũng còn. Sau Tây nó mới phá đi lấy gạch xây bót. Em tôi lại có tập họa hình. Họa được hình người rất giống. Ông già bà cả trong làng được nó họa cho, ai cũng đều ngợi khen. Không bao lâu cả làng đều gọi nó là thằng Tám họa hình. Vẽ một tấm hình nó được người ta trả một giạ lúa, lại được mời đi ăn giỗ. Cái gì chớ uống rượu thì tôi phải chạy em tôi. Thằng uống rượu cứng quá, càng uống mặt càng xanh tái chớ không đỏ. Lúc kháng chiến nó tham gia tự vệ. Năm bốn sáu đánh du kích bị trúng thương ở tay. Vết thương làm độc sưng vù lên. Ông bác sĩ ở tỉnh nói:
- Tám Đô à, tôi thấy chú phải chịu cho tôi cưa cái tay của chú, không cưa thì chết đa.
Em tôi đáp:
- Nếu không cưa mà phải thiệt mạng thì tôi chịu cưa. Còn cưa mà chết thì tôi giết ông.
- Nhưng không có cưa nghề đâu. Tôi cưa bằng cưa thợ mộc liệu chú có chịu nổi không?
Em tôi lặng lẽ bảo:
- Được, cứ cưa!
Và nó xoắn ngay tay áo lên. Từ nói đến làm không đầy mười lăm phút. Không có rượu an-côn, ông bác sĩ khử trùng lưỡi cưa bằng rượu đế. ổng cưa mà tay ổng còn rung thì anh biết. Ngược lại em tôi chẳng hé răng kêu một tiếng. Nó ngoảnh mặt đi nơi khác, mồ hôi chảy có giọt xuống hai bên màng tang... Đó, tánh khí của nó như vậy đó. Cụt mất tay trái rồi nó vẫn đi đánh chim sẻ, đi gài lựu đạn. Lúc đó bận rộn nhứt là những lúc sắp tới ngày sinh nhật Cụ. Tôi còn nhớ đồng chí chánh trị viên xã đội trưởng thường bảo nó:
- Thôi, Tám Đô, mày không không phải đi gài lựu đạn nữa. Gần tới ngày mười chín tháng năm rồi. Việc đánh chác để tụi tao, còn mầy ở nhà lo họa hình Cụ. Bà con ai cũng muốn có một tấm ảnh Cụ để treo. Vậy thì mày ở nhà vẽ. Kỷ niệm ngày sinh nhật của ông Cụ, mỗi nhà đều có ảnh thì quý lắm.
Thế làm thằng Đô em tôi tối ngày sáng đêm cặm cụi lo họa ảnh Cụ. Hồi đó vẫn còn vẽ theo ảnh cũ, Cụ trông gầy chớ đâu được hồng hào như bây giờ. Thằng em tôi vẽ mãi nên nó thuộc lòng như hết mọi nét trên khuôn mặt ông Cụ. Vẽ xong bức này lại vẽ tới bức khác. Bà con tới lui nhà tôi suốt ngày kính cẩn rước ảnh Cụ về treo. Em tôi vẽ xong cho mỗi nóc gia một bức rồi lại còn vẽ thêm một tấm thiệt lớn, tô màu coi rất sắc sảo. Trưa cái hôm vẽ xong nó hỏi tôi:
- Anh Bảy ơi, anh có biết em vẽ bức tranh lớn này để mần chi không?
Tôi chưa kịp đáp thì nó ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Để treo lên ngọn dừa lão ngoài chợ cho đồng bào nhìn thấy và để tụi lính nó coi. Kẻo tụi nó trách mình không cho nó biết chân dung của ông Cụ mình.
Em tôi nói rồi cười ha hả. Từ ngày kháng chiến bao giờ nó cũng cười vui như vậy. Năm đó nó ới có hăm hai tuổi. Mặc dù đã bị mất một tay nhưng lúc nào nó cũng lạc quan. Thằng em tôi hễ nó nói là nó làm thiệt. Chiều hôm đó mới nói với tôi đó thì sáng ngày đã nghe thấy bà con đi chợ về nói rum lên là ảnh Cụ đã thấy ở trên ngọn cây dừa lão. Bà con ở thị trấn được nhìn thấy ảnh Cụ, ai cũng cảm động rưng rưng. Bọn lính đi tuần chỉ dám đứng nghiêng ngó chớ không dám trèo lên lấy. Vì ở dưới gốc dừa có cắm tấm biển đề "Không ai được hạ ảnh Hồ Chủ tịch. Nếu trái lệnh sẽ bị trừng trị ngay tại đây". Thằng Tây xếp bót, tôi còn nhớ, tên nó là Mônôry, một thằng Tây rất trẻ, mới hăm sáu tuổi, đẹp trai, ở bên Tây qua có hơn một năm mà đã giết riêng ở Hiệp Hưng này gần ba chục người. Sáng đó thằng Mônôry nghe tụi lính về báo tin, thì nó liền đi ra tận nơi, đứng chắp hai tay sau lưng nhìn lên tranh Cụ rất lâu. Nhưng nó không ra lệnh tháo gỡ gì cả. Một chốc sau nó đích thân dẫn hai trung đội xộc vào làng. Du kích nổ súng. Đánh nhau tới chiều, bọn địch chết sáu bảy đứa. Lúc rút về chúng bắt theo một số người. Trong số người bị bắt có một đồng chí đảng là anh Chín. Bởi chân ảnh cao như chân sếu nên chúng tôi gọi ảnh là anh Chín Giò. Anh Chín Giò về tới bót thì bị lính ngụy nhận mặt. Thằng Mônôry cho điệu anh ra gốc dừa lão. Nó rút súng lục trỏ lên ngọn dừa bảo anh trèo lên tháo tấm tranh Cụ xuống. Anh Chín Giò thừa biết là lúc ta treo tranh không có bẫy lựu đạn gì cả, nhưng anh nói:
- Du kích có gài lựu đạn, tôi không dám leo.
Thằng Mônôry lên đạn súng lục:
- Trèo lên ngay không tao bắn tức khắc.
Anh Chín Giò đứng tại gốc cây dừa ngước nhìn lên ảnh Cụ. Thằng Mônôry giục lần thứ hai. Anh quay lại nhìn thẳng vào mặt nó lắc đầu. Nó liền giơ súng bắn chết anh tại chỗ. Anh Chín Giò chết rồi mà bức tranh chúng nó vẫn chưa đem xuống được. Thằng Mônôry tức tối như điên. Sau đó nó bắt đồng bào leo lên lấy ảnh, bà con không dám leo. Bắt lính, lính cũng không dám trèo. Thằng Mônôry rút súng dí sau lưng một thằng lính ngụy. Nhìn họng súng trong tay xếp bóp, thằng lính ngụy phải leo. Leo lên lưng chừng cây dừa trên ngọn thấy động chạm làm rơi mấy trái dừa non sạt sạt. Thằng lính hoảng quá, từ trên tuột xuống một cái rột. Nó chấp tay lạy thằng xếp lia lịt, bảo có bắn nó thì bắn chớ nó không dám leo lên nữa. Thằng xếp bất lực, cười gằn bỏ về. Thành ra bức tranh Cụ vẫn còn y nguyên trên ngọn dừa. Hai ba bữa sau xảy ra có một trận giông lớn, bức tranh mới bị gió thổi bay mất. Bà con tìm khắp bờ chuối đọt tre mà không gặp. Trong ấp tôi có một thằng cha tên Tư Râu, thuở giờ chuyên môn nói dóc. Lần đó y vê râu nghiêm trang nói với mọi người: "Thôi, đừng có kiếm chi cho mất công. Hồi đêm tôi nằm chiêm bao thấy ông thần gió tới báo cho tôi rằng chính ông đã đem bức tranh đó đi. Tôi mới trách ổng: "Đáng lẽ ngài muốn thỉnh cụ đi cũng phải cho bà con hay trước chớ?". ổng năn nỉ tôi: "Không thể cho hay trước đặng bây giờ tôi báo cáo cho anh biết, anh nói lại với bà con giùm tôi"... Thằng cha Tư Râu xưa nay nói dóc quá nên khi y nói gì ra cũng hay bị người ta chất vấn hoặc cãi lại, thế mà lần đó hình như không có ai phản đối y cả.
Anh Bảy phó chủ nhiệm kể đến đấy dừng lại, cởi áo ra rồi nói tiếp:
- Tôi là bạn thân với anh Chín Giò. Tôi nghe tin ảnh chết thì hết sức phục ảnh. Anh à, mình hiểu cái tinh thần của anh Chính nên mình khâm phục anh Chín là phải, nhưng tôi cứ hồ nghi rằng thằng Mônôry nó bắn chết anh Chín chớ chưa chắc nó biết được lý do anh Chín không chịu trèo lên là bởi làm sao?... Có khi nó tưởng anh Chín mình sợ bẫy lựu đạn cũng nên.
Tôi cũng phân vân đáp:
- Chẳng biết nó có hiểu được không?
Anh Bảy ngắt lời tôi:
- Không, rồi sự ấy nó phải hiểu. Sau đó một vài tháng có một người nữa, cũng như anh Chín, đã làm cho nó hiểu thêm. Người đó là em tôi. Phải, Tám Đô bị bắt sau đó hai tháng. Vì hầm bí mật bị chó săn đánh hơi được. Thằng Mônôry lần đầu tiên thí nghiệm chó săn thì bắt được em tôi. Kể ra nếu lúc Tám Đô nhảy lên khỏi hầm mà không bị một viên đạn lễu trúng trán và đùi thì nó đã chạy thoát. Nhưng vì bị thương khá nặng nên phải chịu bắt. Lúc đầu thằng Mônôry cũng cho em tôi là một du kích nào đó thôi. Nhưng mấy thằng ngụy người Hiệp Hưng bảo với thằng Mônôry:
- Thưa ông xếp, thằng này tên là Đô. Chính nó đã vẽ ảnh lãnh tụ của nó treo lên ngọn cây dừa hồi tháng trước. Lúc ông xếp chưa đổi về đây, năm nào nó cũng đều làm như vậy!
Thằng Mônôry biết ra việc ấy thì chiều hôm đó nó chưa đem bắn em tôi vội. Tờ mờ sáng hôm sau thình lình nó dẫn lính vây ráp bắt tất cả mọi người ở chợ và một số người ở Hiệp Hưng, lùa tất cả mọi người ra bãi cỏ gần cầu sắt để coi xử em tôi. Có người chạy vô xóm cho tôi hay. Tôi vì nóng lòng thương em, nên liều mạng mò ra, lẫn vào đám đông bà con. Khi tôi ra tới nơi thì đã thấy em tôi bị trói ngồi trên bãi cỏ. Thằng Mônôry nói tiếng Tây với mọi người. Tên lính thông ngôn dịch lại:
- Bữa nay ông xếp đem xử cái thằng đã vẽ ảnh Hồ Chí Minh. Thằng đó ông xếp đã ra lệnh thộp nó từ lâu. Nay chính tay ông xếp đã bắt được nó. Ông xếp muốn nó đền tội trước mặt mọi người, cho tất cả ai cũng đều đặng trông thấy.
Tôi nghe nó nói xong chỉ còn cố ráng đứng nhìn mặt em tôi một lần cuối, để khi súng nổ rồi tôi có thể nhớ thiệt lâu cái gương mặt em tôi trước khi nó chết. Mặt em tôi bấy giờ nhợt nhạt hẳn đi, vì vết thương ở đầu và chân chảy mất nhiều máu quá. Nhưng nói chung nó vẫn bình thường. Dưới mớ tóc đắp rủ lên mép trán, đôi mắt nó liếc nhìn tên xếp bót trông vừa bén lạnh lại vừa dữ tợn. Đôi mắt ấy khi bắt gặp tôi thì dịu hẳn ngay xuống, không buông tôi ra nữa, và cứ lặng lẽ nhìn cho đến lúc tôi phải quay mặt đi mới thôi. Có gần năm phút mà chúng nó vẫn chưa rục rịch gì. Nhìn về phía thằng Mônôry, tôi lạ quá, thấy nó cứ đứng thừ cái bộ mặt của nó ra. Một tay nó nắm cán súng lục đeo trễ bên hông, một tay bẹo cằm, có vẻ suy nghĩ lung lắm. Bọn lính đã ghìm những cây súng trường Anh đầu bằng, chỉ đợi thằng Mônôry hạ lệnh bắn vào em tôi. Vừa lúc đó thằng Mônôry giơ tay. Tôi nhắm mắt day mặt chỗ khác. Nhưng mãi không nghe thấy súng nổ, và mọi người xung quanh bỗng xôn xao cả lên. Tôi quay lại thấy thằng Mônôry vung mạnh tay ra hiệu cho bọn lính giạt qua hai bên. Nó vẫy tên lính thông ngôn cùng đi với nó lại trước mặt em tôi. Nó hỏi em tôi:
- Trước đây mày học vẽ ở đâu? Có học ở trường Gia Định không?
Em tôi lờ đi không đáp. Thằng Mônôry tự trỏ ngón tay cái vào ngực:
- Mày không rõ chớ tao cũng là họa sĩ đây. Thấy mày biết vẽ nên tao chưa nỡ bắn mày. Nhưng tao hỏi: Nếu bây giờ tao thả mày ra thì mày còn dám vẽ nữa không?
Em tôi trề môi đáp:
- Vẽ là nghề của tao mà.
- Bây giờ tao cho mày vẽ mày dám vẽ không?
- Vẽ cái gì?
- Vẽ gì tùy ý. Vẽ hình Hồ Chí Minh cũng được.
Em tôi đáp giọng cứng cỏi:
- Mày nói chuyện nghe ngu lắm. Hình lãnh tụ của tao mà sao tao không vẽ được. Bất cứ ở đâu tao cũng vẽ được hết thảy!
Thằng xếp Mônôry nghe em tôi đáp thì nó giương cặp mắt xanh lè như mắt mèo nhìn suốt người em tôi. Nó day qua nói vào tai tên thông ngôn. Tên thông ngôn bảo em tôi:
- Ông xếp nói thiệt đấy. Nếu anh dám vẽ trước những mũi súng này thì ổng lấy danh dự của một người quân nhân bảo đảm không bắn anh bất tử. Nè, anh không biết, chớ ổng là một người có học vấn, trước kia hồi ở bên Tây ổng có học vẽ. Bây giờ thỉnh thoảng ổng cũng hay vẽ chơi. ổng muốn coi anh vẽ. ổng sẽ cho người lấy đủ giấy bút cho anh vẽ tại đây. Anh vẽ được chớ?
Em tôi hất ngược mớ tóc ra sau gật đầu không chút do dự. Tôi không ngờ thằng xếp bót có ý định lạ lùng như vậy. Ban đầu tôi nghi nó bày ra việc này để dẫn tới cái sự gì đây. Nhưng tôi rất tin em tôi. Từ trước tới nay nó chưa từng chịu thua trí thằng địch bao giờ. Thằng Mônôry sau khi thấy em tôi gật đầu, nó liền móc túi lấy ra một xâu thìa khóa quẳng cho một tên ngụy. Trong lúc tên ngụy chạy về bót thì thằng Mônôry ra lệnh mở trói cho em tôi. Nó đi đến đứng trước mặt em tôi, miệng bập bập cái ống píp. Nó lừ ngừ nhìn em tôi một lúc rồi rút phắt cái píp thuốc ra khỏi miệng, lên giọng:
- Tụi như chúng mày mà biết vẽ cái gì... Nếu mày biết vẽ ắt là mày phải có phần nào biết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tại sao mày không vẽ phong cảnh, vẽ động vật hoặc vẽ cái gì khác... mà lại đi vẽ thứ này để phá rối trị an?
Và nó hạ thấp giọng xuống:
- Mày có biết ông Pát không? Ông Pát là một nhà điêu khắc và họa sĩ có tài, rất nổi tiếng ở Paris. Ông sang bên này làm giám đốc trường mỹ thuật Gia Định để giáo dục cho tụi bây hiểu biết về cái đẹp, về nền nghệ thuật hội họa lâu đời của một nước văn minh lớn ở nước Pháp chúng tao. Thế mà tụi bây đã giết ổng, giết một người nghệ sĩ... Ông Pát có phải là một nhà quân sự gì đâu. Ông không phải là người cầm súng. Ông chỉ đi chung với những sĩ quan trong đoàn xe hộ tốngt trên đường Là Ngà. Tụi bây đã bắn ổng chết...
Nghe nó nói, em tôi im lặng một chốc rồi ngẩng lên bảo:
- Thứ như mày mà cũng nói chuyện thiên nhiên, cây cỏ. Trước khi mày mở miệng nói với tao câu đó đáng lẽ mày phải nhìn khắp chung quanh cái bót này coi có còn một cái cây nào còn sống được không? Cây có trái tụi mày cũng đốn, cây sắp ra trái tụi mày cũng chặt. Tới từng ngọn cỏ chúng mày cũng đạp lên... Mày nói mày là họa sĩ, thì tao cũng có thể tin cho mày đi. Mày lại nói nước Pháp có một nền nghệ thuật hội họa nổi danh. Có, cái đó có... Nhưng riêng tụi chúng mày thì đừng có xí phần vào, nghe không? Mày nói chúng tao giết chết ông Pát là giết một nghệ sĩ Pháp. Không, nhân dân Việt Nam chúng tao không bao giờ có ý định giết hại những người nghệ sĩ chân chính của nước Pháp. Trái lại chúng tao rất yêu mến những người đó. Mày có đọc quyển "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của lãnh tụ tao chưa? Trong cuốn sách đó, lãnh tụ của chúng tao có nói rõ "... Chúng ta đánh bọn thực dân xâm lược Pháp, chúng ta không đánh nhân dân Pháp"... Ông Pát nào mà mày nói đó nếu quả ổng có chết thì ổng phải cam chịu thôi. Chúng tao nã súng vào đoàn xe chở lổn nhổn bọ sĩ quan xâm lược chúng mày, đạn liên thanh của chúng tao có nhận mặt được ông Pát mà chừa ổng ra được đâu?
Câu chuyện đối đáp qua lại giữa thằng Mônôry với em tôi vừa đến đấy thì tên lính ngụy về bót khi nãy đã ra tới. Nó đem đến đưa thằng Mônôry một cuộn giấy vẽ trắng tinh và một hộp màu hình chữ nhật bằng gỗ đánh vẹcni nâu bóng nhoáng. Thằng Mônôry cầm các thứ đi lại chỗ em tôi. Nó mở tờ giấy, thận trọng trải ra trên cỏ rồi đặt hộp màu bên cạnh. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ của em tôi. Bà con trước đó không ai muốn đứng nhìn cảnh thương tâm sắp diễn ra thì giờ chen nhau mà coi cảnh em tôi đang loay hoay chuẩn bị vẽ trên bãi cỏ. Bấy giờ em tôi chỉ có được cánh tay phải và chân trái là còn lành lặn. Mà cánh tay phải vì bị trói nghịt lâu quá, vừa được cởi ra nhưng chắc bị tê hay sao nên em tôi nó cứ quơ quơ một lúc mới cử động được. Đầu tiên em tôi mở hộp màu ra. Tôi thấy cặp mắt nó vụt sáng rực lên trước những gói bột màu lổn nhổn, những bút, những than vẽ. Hộp màu ấy đối với nó quý lắm. Có bao giờ nó sắm được một hộp màu như vậy đâu. Em tôi đưa tay bươi bươi những gói màu. Nhưng cuối cùng nó chỉ cầm lấy một mẩu than. Tôi hơi ngạc nhiên. Tôi đoán có lẽ em tôi nó biết sức lực của nó không cho phép có thì giờ rảnh rỗi để tô màu tô mè gì nữa. Cho nên nó chỉ chọn lấy một mẩu than rồi đưa cùi tay trái chận xuống tờ giấy rà vuốt cho mặt giấy nằm im. Nhưng khổ nỗi gió ngoài vàm sông cái thổi vào làm tờ giấy nằm trên cỏ cứ phập phều, em tôi loay hoay mãi mà không sao vẽ được.
Thằng Mônôry thấy thế liền sai tên thông ngôn tức tốc chạy về bót vác lại một cái giá vẽ. Rồi tự tay nó bê cái giá vẽ lại đặt trước chỗ em tôi. Nó bố trí sắp xếp, hạ trục giá thấp xuống, áp tờ giấy lên bảng vẽ, ghim kim bốn góc. Xong rồi nó xoa xoa hai bàn tay vào nhau, bước lùi ra. Em tôi liền duỗi cái chân bị thương sang một bên, tỳ khuỷu tay cục xuống cỏ, rướn người tới. Tay phải em tôi cầm mẩu than nhanh nhẹn phác họa những đường trên không khí chớ chưa chạm lên mặt giấy. Bỗng thình lình một giọt máu từ trên trán nó nhễu xuống giữa tờ giấy. Em tôi dừng tay, đôi mày nhíu lại đăm đăm nhìn giọt máu. Và nó từ từ buông mẩu than đang cầm, đưa tay lên quệt máu nơi trán. Tức thì tôi cảm thấy khắp người tôi máu nóng ran. Thằng Mônôry biến sắc. Nó luôn đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá của nó. Bà con chung quanh chạo rạo cả lên. Có người buột miệng kêu "Trời ơi..." và tiếng đàn bà khóc sùi sụt. Anh ạ, em tôi bắt đầu vẽ bằng ngón tay trỏ chấm máu trên trán của nó. Trước tiên nó vẽ đôi mắt Cụ. Tất cả sức lực nó đều dành cho việc vẽ đôi mắt ấy. Tôi đứng nhìn mà chân cứ như giẫm phải lửa. Bấy giờ tôi không còn nặng lo về số phận của em tôi lắm mà lại lo không biết em tôi có đủ sức vẽ xong bức tranh Cụ hay không. Việc đó bấy giờ đã trở nên quan trọng hơn cả cái tính mạng của em tôi nhiều. Tôi chỉ đợi hễ em tôi ngước lên bắt gặp tôi lần nữa thì tôi sẽ nhìn nó, trợ tinh thần và khích lệ nó. Nhưng nó không nhìn tôi. Từ đó trở đi, đôi mắt nó chỉ dán lên bảng vẽ. Vẽ được một bên mắt trái Cụ, em tôi mệt quá ngất đi. Thằng Mônôry sai lính xách gầu ra bờ sông múc nước rẩy lên mặt em tôi. Em tôi tỉnh dậy thì máu trên ngón tay trỏ của nó vừa ráo lại. Nó đưa mắt nhìn đồng bào một lượt đoạn quệt máu trên trán cúi xuống vẽ. Lúc em tôi vẽ xong đôi mắt Cụ, tôi nhẹ nhõm cả người. Nhưng em tôi thì lại gục xuống một lần nữa. Bọn lính vốc nước còn lại trong gầu tưới lên người em tôi. Nó dần hồi tỉnh. Lần này nó ngồi dậy đưa ngón tay chấm phá rất nhanh. Đến lúc bức tranh gần thành hình, em tôi chõi khuỷu tay trái, nghiêng người ra phía sau để ngắm rồi mới ngã vật ra. Bọn lính kêu lên:
- Nó chết giấc nữa rồi!
- Đổ nước nữa đi!
Nhưng lần này chúng tưới trọn một gầu nước mà em tôi vẫn không động đậy. Thằng Mônôry chạy tới cầm chéo áo em tôi giật giật mấy cái. Em tôi vẫn nằm im, mặt ngửa ra dưới ánh mặt trời mười hai giờ trưa. Thằng Tây cúi xuống sát mặt em tôi xem một lúc rồi đứng thưỡn dậy, lẩm bẩm:
- Chết rồi...
... Tôi cũng tính là em tôi phải chết chớ không thể nào sống đặng. Vì có bao nhiêu sức sống còn lại nó đã dốc ra hết. Nhưng tôi không khóc. Cái cảm giác đau đớn khi có đứa em ruột mình chết đi ở trong tôi bấy giờ mình như không cào cấu ruột gan tôi mạnh như trước. Thằng Mônôry thấy em tôi đã chết, nó đứng rũ ra một chốc. Nó không còn cái vẻ hống hách thường ngày của thằng xếp bót nữa. Nó đứng trước bức tranh rất lâu, nhìn những nét máu còn tươi rói trên tờ giấy... Anh ạ, bức tranh đó nói chung còn nhiều nét phụ chưa vẽ kịp, như râu tóc không vẽ được hết nét, bởi vì bao nhiêu nét đều phải dồn vào vẽ đôi mắt. Thiệt, đôi mắt của Cụ trong bức tranh ấy thì em tôi vẽ giỏi hơn tất cả những đôi mắt Cụ nó vẽ từ trước tới nay. Chỉ riêng nhìn đôi mắt không cũng có thể nhận ngay ra khuôn mặt nhân hậu của Cụ anh ạ... Trưa hôm đó, tôi đem xác em tôi về chôn...
Anh Bảy đang nói bỗng dừng lại. Không hiểu sao lúc ấy hai bàn tay tôi tự nhiên với ngoặc ra sau thân cột, run run rờ rẫm những vết rìu đẽo sần sùi trên gỗ. Và tôi hỏi:
- Còn bức tranh?
- Bức tranh thì sau đó thằng Mônôry cuộn lại đem về bót.
Tôi kêu lên:
- Nó lấy bức tranh à?
- Phải, nó lấy đem về... Tới cuối năm năm mươi thằng Mônôry sắp được về Tây. Nhưng số nó không đi khỏi nước mình đặng. Bót Hiệp Hưng bị bộ đội về đánh và thằng Mônôry chết trước một ngày nó lên đường đi Sài Gòn để về Tây. Anh em bộ đội lấy được trong buồng riêng của nó một cái va ly da. Trong va ly có nhiều bức tranh chính nó đã vẽ. Bức thì vẽ hình một chị phụ nữ lõa lồ đang oằm oại, bên dưới đề "Sau lúc hỏi cung", bức thì vẽ đồn bót cây cảnh ở Hiệp Hưng. Bức tranh Cụ của em tôi vẽ bằng máu tìm được trong góc va ly, đã cuộn lại, phía sau có ghi một dòng chữ Pháp. Anh Danh, chánh trị viên lúc trao bức tranh lại cho tôi đọc những câu văn nó ghi là: "Bức tranh này do một tù binh Việt Nam đã vẽ trong một hoàn cảnh hết sức khủng khiếp và kỳ quặc".
Anh Bảy phó chủ nhiệm thôi kể. Tôi được dịp thở ra một hơi. Anh Bảy đứng cầm lấy áo mặc vào và nói:
- Hồi đi tập kết tôi tính mang bức tranh theo nhưng bà con trong xã yêu cầu tôi để lại. Tôi đã nghe theo lời bà con mà để lại. Tiếc quá... nhưng thôi, để lại cho bà con mình ở trỏng thì có gì là đáng tiếc. Tôi cứ nghĩ sau này thống nhứt tìm lại bức tranh đó đưa vô bảo tàng thì quý lắm. Chắc chắn đến lúc đó bức tranh đã có ý nghĩa dài hơn cái ý nghĩa câu chuyện tôi vừa kể cho anh nghe nhiều lắm rồi.
Voi đang đi trong rừng, bỗng nhìn thấy cáo ngồi bên bờ suối vặt lông một con gà. Voi xông lại quát:
- Cáo! Sao mày dã man thế?
Cáo luống cuống, giả vờ bưng mặt nấc lên:
- Đây là... vợ tao. Cô ấy mới chết hôm qua.... hu hu...
- Đồ ác thú! Vợ chết mà lại vặt lông ăn thịt. Tao phải trừng trị mày!
Cáo bí quá, càng khóc to hơn:
- Tao làm thế này là vì tao... tao... chưa bao giờ nhìn thấy nàng... cởi trần cả.2665
Viên giám đốc dưỡng trí viện nhờ một thân chủ sơn trần nhà căn phòng khách. Người đứng trên thang xếp làm việc.
Một thân chủ khác có phận sự dọn dẹp đồ đạc cho có thứ tự, thấy cái thang để giữa phòng bèn nói:
Ê! Người anh em! Nắm chặt cây cọ, tôi dẹp cái thang đấy.
2826
Một thầy lang cho người bệnh uống thuốc thế nào đến nỗi người bệnh chết. Nhà chủ dọa đem lên quan kiện, thầy lạy lục, kêu van. Nhà chủ bắt phải khiêng quan tài đi chôn thì mới tha .
Thầy lang đành về nhà, gọi vợ và hai con, bốn người cùng khiêng méo cả mặt.
Đi đến giữa đường, thầy than thở :
- Làm người chớ có học nghề thuốc !
Người vợ nói thêm :
- Làm thuốc khổ đến vợ con.
Con thứ ngậm ngùi :
- Đầu nặng, chân nhẹ, khiêng không nổi .
Con trưởng ôn tồn khuyên bố :
- Từ nay, có chữa thì nên chọn người gầy gầy . 3
Có một người thợ mộc dốc hết vốn liếng trong nhà ra mua gỗ, làm nghề đẽo cầy. Cửa hàng ở ngay vệ đường, người qua kẻ lại thường ghé vào xem. Một hôm, một ông cụ nói: - Bắp cày thì phải đẽo cho cao, cho to. Anh ta cho là phải, đẽo cái nào cũng vừa to vừa cao. Mấy hôm sau, một bác nông dân rẽ vào, trông đống cầy, lắc đầu nói: - Thế này thì cày làm sao được! Phải đẽo nhỏ hơn, thấp hơn. Nghe cũng có lý, anh ta liền đẽo vừa nhỏ, vừa thấp. Nhưng hàng bầy ra đầy ở cửa, chẳng có ai mua. Chợt có người đến bảo: - Ở miền núi, người ta phá hoang, cày bằng voi. Anh đẽo to gấp đôi gấp ba thế này thì bao nhiêu cũng bán được, tha hồ mà lãi! Nghe nói được nhiều lãi, anh ta đem gỗ còn lại đẽo tất cả loại cầy để cho voi cày. Ngày qua tháng lại, chẳng thấy ai đến mua, vốn liếng đi đời nhà ma. Khi anh biết bệnh cả tin người là dại thì đã muộn.
Gián điệp Trần Cừ
và chú Xã Mai .
Tên nó là Dũng .Mẹ nó mất rồi hay tái giá , cũng chả ai biết nữa . Nó ở với bà cô . Bà này giàu có lắm .Bà nuôi nó , cho nó ăn học .
Nó học với tôi , lớp đệ thất tại một tư thục , niên khoá 1957 . Nó học chăm chỉ . Có lẽ không thông minh lắm đâu . Tôi không chắc lắm . Nhưng lúc nào cũng đứng đầu lớp .Dù được nghe tên mình là học sinh giỏi được tuyên dương , nó cũng chỉ nháy mắt nhiều hơn lên một chút , nhếch miệng cười . . . thật buồn . Nụ cười tắt ngay .Dáng nó hơi cao , so với các bạn đồng tuổi . Da nó lại đen sậm . Tôi chú ý đến màu da cuả nó hơi nhiều .
Bà cô nó thì nước da trắng , trắng lắm. Giàu có và sang trọng .Trò Dũng vẫn đi học với chiếc quần đùi , và cái áo cánh vải thô , nhuộm đen . Áo quần màu đen học sinh ở nhà quê cũng không còn phải dùng nhiều nữa .
Rồi tôi đi học cho xong Đại học . Nó học lên đệ tứ ở một trừờng công lập . Nó trúng tuyển vào trường công từ năm đệ ngũ .Nó bảo là nhờ nó đã được với tôi,mới biết ham học cho giỏi . . .được như thầy .
Gặp lại nó , thấy nó đã sáng suả hơn , dạn dĩ hơn tôi bèn tìm cách giới thiệu nó ăn ở tại nhà một ông bạn , làm " thầy kèm" . Ông này giàu có , nhưng lũ con hư quá , không chịu chăm học .
--- Cám ơn anh quá . Nhờ thằng Dũng . .. mà sắp con cuả tôi sau này chắc nên được .
Vài ba năm sau đó nưã , ông bạn giàu có cuả tôi bảo thế . Tôi hỏi :
--- Anh biết thằng Dũng , nó là con ai không ?
--- . . . anh bảo nó là học trò cũ cuả anh . Biết vậy thôi , chả đủ lắm sao . . .
--- Nó là con cuả . . .tên Gián Điệp Trần Cừ đấy .
Nghe thế, hai vợ chồng người bạn lấy làm lạ . Nhưng lại xuýt xoa hơn , thương mến nó hơn .
Có một lúc , về sau khá lâu, tôi hỏi vì sao mà anh chị giúp đỡ nó một cách khác thường như thế . Chị bảo :
--- Nó mồ côi mồ cút . . . ham học . . .
Anh bảo :
--- . . . kẻ thù cuả kẻ thù ta . . . thì là bạn ta . . .
Tôi hiểu cái cách nói cuả ông bạn môt thời nức tiếng là " Thằng Giặc Đại lộc " này
Cái thời mà tôi còn bé .Thời có vụ. . . Gián Điệp Trần Cừ .
Trần Cừ bị xử bắn .
Tại toà án , tại Pháp trường , Trần Cừ vẫn hiên ngang vẫn hùng biện.Ông từng hoạt động cách mạng, từng vào tù ra tội.Ông là Chủ nhiệm Việt minh , tỉnh . . .
Nghe kể về những người như thế , tôi thích họ hơn là gì hết .
Một hôm , đang ngồi ăn , nhìn ra cửa tôi thấy một gã thanh niên gầy gò , đội chiếc mủ " nghiã quân " đi xiêu vẹo vào nhà . Hắn dến đứng trước cửa trước . Và đứ' ng mãi ở đấy . Tôi bỏ đuã để ra mời anh ta vào nhà .
Y lấy mủ xuống . Cúi đầu chào . Anh nói lẩm bẩm những lời chào . Tôi không nghe rõ .
--- Ồ ! . . . Dũng ! Vào đây ! Vào đây !
Tôi diu nó vào . Bảo ngồi xuống ghế . Rồi tôi trở lại bàn ăn ở trong nhà :
--- . . .mẹ và mấy cháu ăn cơm tiếp tục . Con đang có khách . . . Lát nữa , con sẽ ăn tiếp . Con cũng no rồi . . .
Một đưá cháu tôi đưng dậy đi pha trà , để tôi mời khách .
--- Cháu làm hai ly nước . . . uống cho mát . Trời nóng . . .
Suốt buổi chiều hôm đó , hai thầy trò nói chuyện với nhau . Không được nhiều , nhưng tôi đã biết đại khái là nó thôi học một vài năm nay .Nó đang đi nghiã quân xã . Xã mất an ninh, nó chạy tản cư ra tỉnh .Người ta lãnh lương thay cho nó .Mỗi tháng nó chỉ phải về ký sổ lương .
Người chỉ huy , người phát lưng dặt cho nó biệt hiệu Dũng Trần Cừ .
Tôi mượn quần áo cuả một đứa cháu , và nhủ nó vào buồng tắm mà tắm cho mát .Rồi sẽ ăn cơm , ở chơi với thầy .
Tôi nhìn thấy nước mắt trong tròng mắt mó . Đôi mắt đục ngầu.Cái màu vàng cuả nước mật , pha sắc đỏ cuả máu . . . Nó đứng dậy vái chào và đi xà lui ra phía cửa như sợ sệt tôi . . . Nó đã uống xong ly nước đá lạnh , có chanh và đường .
--- Dũng . . . đừng có ngại . Bữa nào khác ghé chơi . . .
Tôi dúi vào tay nó tí tiền . Nó nhận và tiếp tục đi lui , đi lùi . . . xa ra .
Tôi quay vào nhà . Mẹ tôi hỏi :
--- cái trò nào đó vậy con ?
--- Nó là . . . cháu cuả ông Cữu Cựu . . . hồi còn nhỏ , nó là học trò cuả con .
--- Hình như . . . có bịnh gì hả con ?
--- Con . . .chắc là nó có bịnh . Hồi nó còn nhỏ , nó khác hẳn với nó bây giờ . . . Cha nó , chắc cũng như cậu . . . ở nhà . Hồi đó . . .
--- . .. vậy sao ?
--- Cha nó đi ở tù cho đã đời rồi về , rồi đi an trí . . . Hồi năm Việt minh khởi nghiã lên làm lớn . Bị xử án . . . Bị xử tử hình . . . Mẹ nhớ không ?
--- Mẹ nhớ .
Những lần sau ,Dũng lại đến .Thường lại nhằm lúc tôi không có nhà Mẹ tôi cho ăn , cho uống , biểu nó tắm rửa . . ." kẻo thầy về , thầy ngầy " . Nó nghe răm rắp .
--- Mẹ bắt chước ông ngoại . Mẹ nghe nó nói , nó sợ thầy .
Tôi nói đùa với bà :
--- Con hay nghe mẹ nói " phù thủy sái âm binh " . Con làm cho nó sợ , Để " hễ con biểu ,thì nó nghe"
--- làm vậy không nên . Mẹ nghe ông ngoại nói vậy . . .
Thằng Dũng tươi tỉnh hẳn ra . Nó hay ngồi ngó vào cái tủ sách cuả tôi . Nó biết nói chuyện . Mẹ tôi cho tôi biết như vậy .Nhưng sau đó , không thấy nó đâu nữa .Hỏi thăm , có người bảo hình như mấy ông trên núi xuống về xã nó , bắt nó đi . Thấy trong mình có " giấy tờ nghiã quân" , nên bắn bỏ . Nhưng quận chưa cho lãnh tiền tuất .Lương nghiã quân ( cuả nó) , người ta vẫn nhận đều đều .
Khoản sau năm 1978 . . .
Nhằm lúc vô công rồi nghề , tôi thường dạo chơi ở một con đường có bày bán đồ sành sứ , đồ xưa gần chợ Bến thành .
Từ bên này đường , nhìn qua bên kia , thấy cái nhà lầu nhiều tầng . Tầng dưới chất đầy những tủ gương , ghế đẩu gỗ tạp . Một ông già . . . đội nón cối đang đi thu các ghế gỗ đem vào nhà .Tôi nhớ mang máng như có người bảo một nhà cách mạng lão thành , nguời làng tôi về Nam , đang ở . . . gần đâu đây .
Sau một lúc quan sát hình vóc tóc da cuả ông già ấy , tôi vẫn không tin vào trí nhớ cuả mình sau những ba mươi năm lưu lạc .
Bỗng tôi như chợt nhớ ra điều gì đó , tôi gọi thử :
--- Chú Xã . . .
Ông ta vẫn không chú ý .
--- Chú xã . . . Mai . . .
Ông chợt đứng lại , như có chú ý . Tôi băng qua đường và chào hỏi , ra mắt , và xưng xuất một lý lịch trích ngang , một lý lich trích dọc .
Ông nhận ra tôi là con cháu nhà ai , là bạn học cuả các con ông hôi còn học lớp Năm lớp Tư , rồi lớp Ba , lớp Nhì .
--- Hồi chú bị Lính Tây về . . . dẫn đi , cháu có thấy . . . Hồi chú làm Chủ tịch xã , thì Ông Tám Hồ làm Chủ nhiệm . Cháu biết . Hồi có bà Lan Đen về tản cư . . . cháu ở trọ gần đó , ngày nào cháu cũng thấy chú đi xe đạp ghé ngang . . . uống nước .
--- Lâu quá , qua . . . quên .
--- Chú ở đây từ bao lâu nay rồi ? Cái nhà này . . . coi bộ tiện ( lợi ). . .
--- Anh em ở trên Thành uỷ . . . bố trí . Qua nghỉ hưu mấy chục năm nay rồi .
--- cháu hiện nay công tác ở Hội Trí , bên Mặt trận . . . Thành .
Tôi nói dối với mấy ông ngoài Bắc về , gần thành tinh .
Ông khen tôi có trí nhớ tốt . Không giống như ông bây giờ .
Qua câu chuyện , tôi biết rằng ông đang sống với lương hưu và một bà vợ trẻ . Ông cho thuê chỗ ngồi , cho thuê ghế gỗ tạp , cho thuê cái tầng trệt . .. cho anh chị em . . .có nhu cầu gủi hàng , gửi tủ . Người không bóc lột người nữa . Chỉ bóc lột cái . . . thăng dư giá trị . Tôi hầu chuyện chú Xã Mai một cách trơn tru thân mật như người nhà người làng .
Ông cho tôi biết " các em , giờ thì là Kỷ sư , là bác sĩ , là phó tiến sĩ " và đều công tác ở Sài gòn , có nhà cửa và có cả ô tô con .
Tôi hỏi :
--- Thưa chú , ai là người truyền bá việc chống Pháp ở làng mình sớm nhất .
--- Ông Học Tiên . . . Lúc bấy giờ chú Sĩ Hai , là lớp học trò thi . Ví qua , chỉ là lớp đàn em .
Ông Học Tiên , còn lớn tuổi hơn ông nội tôi .
--- Không biết chừng đâu . .. chú thuộc lớp với Ông Trần Cừ .
--- Anh Cừ có lớn hơn . Sao cháu biết anh Cừ .
--- Cháu làm sao biết được . Hồi đó cháu còn là con nít . . . mà chú .Chỉ nghe nói .
--- Hồi đó anh Trần Cừ , Trương quang Trọng , Trần nam Trung ( bây giờ) . . . có ở Kontum với chú ( khoản 1940 )
--- Cháu không hiểu vì sao về sau này ( 1947). . . có vụ Gián Điệp Trần Cừ .
--- . . . cũng không nên nhắc lại làm gì chuyện đáng buồn đó . Ra ngoài Bắc . . . . anh em ngồi lại kiểm điểm . . . thấy sai lầm .
--- Sai lầm . . . là sai lầm vì sao vậy chú .
--- lúc . . . ở Kontum , khi tụi Nhật qua , tụi Tây lép vế , chi bộ ( trong tù) thảo luận tình hình . Anh Cừ bảo Tổ chức (Đảng) nên Liên minh với Nhật mà đánh Pháp . Sai với chủ trương cuả Trung ương . Vì vậy anh em . . . sau này kết án anh Cừ là . . . . Tả khuynh , thân Nhật . . .
Tôi biết là nên dừng tại đây , đợi một lúc khác sẽ hỏi vì sao mà Ông Cừ đang là Chủ nhiệm ( như Bí thư ) , lại bị kết tội Gián diệp cho Nhật , lúc mà không còn bóng thằng quân thù Phát xít Nhật trên quê hương . . .
Tôi định kể chuyện về thằng Dũng, cho chú xã nghe .
--- Nó cư đi xà lui . Nó sợ có người ở sau lưng định giết nó .Nó cứ đi xà lui . Mỗi ngày một còm cõi . Rồi cuối cùng nó cũng bị bắt , bị giết . . . Nó là con cuả Trần Cừ .
Nhưng tôi thấy nên dừng ở đó . Trên đường về nhà , tôi ngẫm nghĩ đến một câu đọc thấy trong sách Tây:
Bất cứ một cuộc Cách mạng nào cũng có hai hạng người . Một hạng . . . làm Các Mạng . Một hạng khác lơi dụng cuộc cách mạng đó .
Dũng Trần Cừ , nó ở giữa .
Chú xã Mai , . . . biết làm cách mạng hơn cả Ông Trần Cừ .
285
Trên đường đến sở làm, bà Laura phải đi ngang một cửa hàng chim kiểng. Có một con vẹt nhìn bà chằm chằm và hét toáng lên:
- Này bà ơi... Thiệt chưa từng thấy ai xấu tệ như bà.
Bà Laura hơi ngạc nhiên nhưng cũng không nói gì. Ngày thứ hai, con vẹt cũng lại chào bà bằng câu chào đáng ghét đó:
- Này bà ơi.... Thiệt chưa từng thấy ai xấu tệ như bà.
Và hôm sau cũng y như vậy. Bà Laura đã bực mình lắm rồi. Bà bước vào tiệm và yêu cầu ông chủ hãy "dạy dỗ" lại con vẹt. Ông chủ tiệm hết sức xin lỗi bà và hứa sẽ không còn có tình trạng trên xảy ra nữa.
Sáng hôm sau, trên đường đi làm, bà Laura lại đi ngang cửa hàng chim kiểng. Vừa thấy bà từ xa, con vẹt đã tía lia:
- Này bà ơi...., này bà ơi...
- Gì nữa đây - Bà Laura ngạc nhiên.
- ... Bà biết rồi còn hỏi - Con vẹt trả lời.2670
Ông Thanh nói:
Trong đời, tôi nghĩ rằng không có gì xấu xa cho bằng lợi dụng người khác. Chém giết là tàn bạo. Hãm hại là gian ác. Trong khi đó, lợi dụng người khác, dùng kẻ khác vì lợi cho mình, tuy không phải là một điều dễ thấy, dễ lên án, lại là cực kỳ xấu xa, tồi bại. Lợi dụng là phủ nhận người khác, coi người khác không là con người, chỉ là phương tiện. Đây không phải khía cạnh đạo đức của một nơi, một thời. Đây là một vấn đề nhân sinh muôn thuở.
Tôi là người đã làm cái điều xấu xa đó. Nói ra, không nhẹ tội đi. Sớm muộn gì tôi cũng phải nói ra.
Ông Thanh năm nay đã xém 90. Ở tuổi đó, ông có vẻ còn khỏe mạnh. “Có vẻ” thôi, vì ông cho biết bị chứng nan y, sắp chết. Một năm, tối đa.
Nhà ông Thanh ở ngoại ô thành phố New York. Căn duplex nối liền với nhà bên cạnh. Trước, bà Thanh có đi làm. Ông Thanh nói: “Thừa phương tiện đi nơi khác, ở nhà riêng. Nhưng đây lâu, quen rồi. Hàng xóm bên cạnh là một cặp vợ chồng đã về hưu, hiền hòa, yên tĩnh. Khu vực này, nói chung, khá an toàn. Cây cao bóng mát. Tội gì dọn đi!”
Ông bà Thanh gốc Bắc. Ở Mỹ mấy chục năm mà vẫn còn nói tiếng Mỹ với giọng Thái bình. Tôi quen ông đã mấy năm mà vẫn mù mờ về quá khứ của ông. Hình như trước ông có ở Pháp, vừa đi học vừa đi làm chi đó. Kín đáo, ông không bao giờ nhắc lại quãng đời ở Việt nam và ở Pháp. Tính tôi lại không tò mò về đời tư người khác. Cho đến ngày ông kể tôi nghe chuyện sau đây.
Hồi ấy, tôi mới hăm hai, hăm ba. Tuổi con trai như gà trống. Đạp mái là nhu cầu cấp bách, năng nổ, thường xuyên. Từ thời ấy, xã hội Pháp, nhất là trong giới có học, đã có phần dễ dãi. Chiều chiều, lòng vòng hai đại lộ chính ở Xóm La tinh, thế nào cũng bắt được “bò lạc”. Hoặc ngay hôm ấy, hoặc với vài “bố trí”, một hai hôm sau, thế nào cũng đạt được việc. Hoặc chỉ một lần, rồi ai đi đường nấy, hoặc kéo dài ra. Tùy. Không hứa hẹn, không nợ nần, không trách nhiệm. Nghĩa là tuyệt đối không rắc rối. Chỉ cần cẩn thận đừng để lại vết tích, đừng gieo giống. Chủ yếu là sòng phẳng.
Cộng đồng người Việt vắng hoe, nhưng không thiếu một vài “dị nhân”. Một trong những “dị nhân” đó là chị Tịnh. Chừng 30, 35, độc thân, cán sự xã hội. Một người đàn bà phóng khoáng, gan góc, quyền biến. Chị thường nấu cơm, nấu phở, rồi gọi mấy thằng nhóc thân quen đến cho ăn. Bọn con trai xa nhà, háu ăn, chị ới là đến, gọi chị là Chị Cả. Hôm ấy, sau khi lùa xong mấy bát phở, chúng tôi định rút về Xóm, Chị Cả hỏi: “Có ai đi Nhà Tiếp với chị không?” và chị giải thích: “Nhà Tiếp là nơi con gái lỡ có bầu, các Xơ Dòng đem về nuôi ăn ở cho đến ngày sinh nở, rồi sau đó đem đứa sơ sinh cho làm con nuôi nơi tử tế. Còn các bà mẹ mới thì cho về trú ở Nhà Tiếp một thời gian trước khi trở về với ... đời.”
Đi với chị Tịnh hôm ấy, tôi gặp Marie-Louise, Pháp gốc Áo, một bà mẹ mới, trùng tên với hoàng hậu của Napoléon Đệ nhất. Mới sanh xong, M-L còn tái xanh. Hai mắt có quầng đen, nhưng sáng long lanh. Điều làm tôi chú ý nhất ở M-L là mái tóc cực kỳ lớn, rậm, dài, đen nhánh, và ... bề ngang của nàng. M-L mập béo quá cỡ. Tôi không ngạc nhiên nếu đứng lên cân, thiếu phụ trẻ này nặng gấp đôi tôi, nghĩa là vào khoảng 130, 140 ký!!! Cái ghế bành, to, rộng thế mà nàng ngồi vào có bề cấn cái. Áo M-L che mất hai cánh tay, nhưng không giấu được bộ ngực đồ sộ và cặp đùi căng phồng như có độn gối! Chị Tịnh thăm hỏi ân cần, đưa tay vuốt lại mấy sợi tóc lòa xòa bên má M-L, nói: “Mọi sự như vậy là suông sẻ. Nghỉ ngơi nhiều vào nhé. Rồi tôi lại vào thăm...” M-L cười buồn: “Tuần sau nhé! Ở đây, chỉ chờ người đến thăm...” Rồi quay sang tôi, nói thêm: “Và anh nữa! Tuần sau nhé! Tôi đợi đấy. Anh hứa đi... Tuần sau!” Con người hào hiệp trong tôi lồm cồm thức dậy. Tôi đành phải hứa, mặc dù không hăng hái cho lắm. Một đứa con gái bơ vơ, vừa trải qua một trận long đong như thế, cần có người an ủi, khích lệ! Tôi hứa mà trong bụng nghĩ rằng nếu M-L xinh xắn, thon gọn hơn, có lẽ lòng thương người của tôi vùng lên mạnh mẽ hơn, tươi tắn hơn...
Tuần sau đó, tôi cùng Chị Cả đi thăm M-L. Và tuần sau nữa. Và tuần sau nữa, khi quá bận , chị Tịnh đi không được. Đến ngày M-L rời Nhà Tiếp thì hai đứa đã quen nhau quá rồi, đã tutoyer thân thiết ngọt ngào rồi. Ra ngoài, M-L mướn được chung cư nhỏ và tìm được việc làm với sự giúp đỡ của các Xơ Dòng. Tôi cùng chị Tịnh đến thăm M-L ở nhà mới. Và tiếp tục đến gặp M-L ở chung cư khi thời hạn viếng thăm chính thức của chị Tịnh chấm dứt. Lý do vì hai đứa đã thành tình nhân.
Với một thân hình quá cỡ như vậy, dù có loại trừ sự to béo phục phịch ra, M-L cũng không thể được coi là “đẹp” nhưng khuôn mặt nàng có nhiều nét “dễ thương”. Đầy đặn, phúc hậu. Cánh mũi thanh. Đôi môi đầy. Nét đáng quí nhất ở thiếu phụ hăm lăm tuổi này là đôi mắt. Mi dài và cong vút, đôi mắt lớn trong veo, xanh lá cây pha nâu, màu rong rêu, long lanh một thoáng buồn bã. Ưu tư, đúng hơn. Long lanh một thoáng ưu tư. Hăm hai tuổi, tôi không lưu tâm tìm hiểu nỗi ưu tư nào đó. Tôi chỉ biết là M-L cần có tôi. Và tôi tận hưởng. Bằng cách đến thăm M-L thường xuyên ở chung cư nàng, và ăn nằm với nàng.
Thật ra, liên hệ hai đứa có điều bất thường. Tôi không bao giờ đi ra ngoài với M-L. Tiệm ăn, rạp hát, thư viện, nơi công cọng không bao giờ có mặt chúng tôi cùng nhau. Tôi tránh né, không để ai thấy tôi cặp kè với nàng. Giản dị: Tôi xấu hổ về bề ngang của M-L. Cả thân hình tôi e cũng chỉ cùng cỡ với một bắp đùi của nàng.
Tôi hoang tưởng rằng có một đồng minh ở nhà thơ lớn Charles Baudelaire. Anh trước có học văn chương Pháp, chắc là biết bài La Géante chứ gì. Ông Thanh tợp một hớp rượu mạnh, rồi cất cao giọng, đọc không vấp váp:
Du temps que la Nature en sa verve puissante
Concevait chaque jour des enfants monstrueux,
J’eusse aimé vivre auprès d’une jeune géante,
Comme aux pieds d’une reine un chat voluptueux.
vân vân...
Đặc biệt nhất là hai đoạn cuối này:
Parcourir à loisir ses magnifiques formes;
Ramper sur le versant de ses genoux énormes,
Et parfois en été, quand les soleils malsains,
Lasse, la font s’étendre à travers la campagne,
Dormir nonchalamment à l’ombre de ses seins,
Comme un hameau paisible au pied d’une montagne.
Đó, anh thấy không, tôi còn thuộc lòng bài thơ ấy. Sự thật, M-L không phải là một người đàn bà khổng lồ, như trong trí tưởng tượng của Baudelaire. Bề cao, M-L chỉ suýt soát bằng tôi thôi, nhưng bề ngang thì... M-L mập quá. Nếu nàng sống vào thời La Mã, mặc áo toga lụng thụng, có lẽ trông còn được. Chứ ở Pháp, thời trang phụ nữ thuở đó là váy chật, bó mông nhưng dài đến quá gối. Tôi dám chắc những anh con trai tuổi hai mươi vào thời ấy đều còn nhớ đến những thân hình thon gọn và bước chân gót cao lách cách trên hè phố. Đẫy đà như Sophia Loren, Simone Signoret là đã hết mức rồi. M-L mập béo đến độ bất thường. Gối chăn với M-L, tôi có cảm tưởng đắm mình trong một biển thịt, biển mỡ. Những vú, bụng, mông, đùi, trong chốn kín đáo, đem lại những ôm ấp, những vuốt ve của một thời thằng người còn nằm trong bụng mẹ. Ngoài đời, M-L là một người đàn bà quá nặng cân. Trên giường, nàng là một “Mẹ Đất”, một Mother Earth. Người con trai không làm tình với nàng. Hắn chui rúc nơi nàng. Ăn nằm với M-L, tôi không ân ái với một phụ nữ. Tôi lăn lộn, vẫy vùng trong một thế giới ăm ắp, mềm mại, ấm áp, thơm tho. Một thế giới tuyệt đối gợi tình và yên ổn. Say mê lăn lóc với M-L như thế, tôi vẫn không quên một điều: Tránh đi ra ngoài với nàng. Lòng kiêu hãnh và tự ái của thằng con trai hăm hai tuổi! Tôi nghĩ rằng M-L cũng biết vậy, và nàng nhẫn nhục chịu đựng. Chịu đựng và tiếp tục làm cho tôi thỏa mãn những đòi hỏi thầm kín, tối tăm nhất.
Tuy nhiên, M-L to béo quá, chúng tôi không thể gần gũi một cách “bình thường” được. Nằm trên nàng, vào trong nàng rồi, tôi vẫn có cảm giác chưa đến nơi nào cả. Tôi loay hoay trên thân thể M-L như một con bọ gậy quờ quạng trên bụng một con ếch to tổ chảng! Đành phải tìm một cách khác.
Một hôm, vì tiện đường, tôi đến chung cư của M-L sớm hơn giờ đã hẹn. Không có nàng ở nhà, tôi dùng chìa khóa riêng, M-L đã làm thêm cho tôi, mở cửa vào. Lần đầu tiên, tôi ở trong chung cư mà M-L không có mặt. Sự vắng vẻ, những đồ vật sở hữu, mùi hương phụ nữ quen thuộc, kích thích tôi một cách lạ thường. Tôi nhìn quanh. Giường nằm. Tủ áo. Bàn phấn: M-L là một người đàn bà rất ngăn nắp. Mấy tấm ảnh treo trên tường làm tôi ngạc nhiên. Không tấm nào có hình của M-L trong thời hiện tại cả. Một tấm, đã cũ, rửa theo lối xưa, là hình một em bé gái, chừng 5, 6 tuổi đứng nép vào lòng một bà cụ. Bà cụ, tôi không biết là ai, chứ em bé, đích thị là M-L hồi còn nhỏ. Trông đã mập mạp, phúng phính quá cỡ! Bà cụ, có lẽ là một bà cố, nội hay ngoại. Một bà cố vì đã vào khoảng bảy tám chục khi con cháu, M-L, còn nhỏ xíu. Bà cụ chít khăn đen, mặc áo dress đen dài quá gối, chân mang vớ len màu sẫm. Một bà cụ có nét Do thái Đông Âu. Tấm ảnh làm tôi cảm động, miên man tưởng tượng đời sống trong những ghettos ở Ba lan, ở Áo, ở Hung...
Tôi đang mải ngắm mấy tấm ảnh thì có tiếng lách cách ở cửa ra vào: M-L đã về. Tôi đỡ lấy mấy bao thực phẩm từ tay M-L, đem vào bếp nhỏ. Nàng hôn nhẹ tôi, thở mạnh: “ Ối, cái thang máy sáng nay không chạy. Leo bốn tầng lầu, mệt quá, nóng quá. Anh ngồi chơi, em đi tắm cái đã. Có chai rượu ngon, anh mở, uống tí chơi trước nhé!” Vừa nói, M-L vừa cởi phăng áo ngoài. Rồi chỉ mặc đồ lót, nàng ngồi xuống mép giường, dang chân, tính tuột vớ ra.
Nhìn mái tóc lớn, rậm rì, đen nhánh, một cánh rừng đen, xõa xuống bờ vai to tướng, che che hở hở bộ ngực đồ sộ; nhìn vòng eo phốp pháp và cặp hông mỡ màng vĩ đại phớt hồng, tôi xúc động, thèm muốn. Tiến lại gần M-L, tôi sẵn sàng. Nàng đưa hai tay ôm, kéo tôi lại gần hơn, sát vào ngực nàng. M-L vói tay, gỡ móc nịt vú. Hai cái bầu bung ra, đầy ắp, trắng ngần với hai núm căng phồng như hai quả trứng. Cương cứng tối đa, tôi cứ đứng vậy, để nằm ngay giữa hai bầu vú lớn. M-L đưa hai tay ép hai vú lại với nhau, tạo thành một cái vòm ôm lấy tôi sít sao, mềm và mướt. Tôi lên xuống, lên xuống như thể đó là chỗ kín của nàng. M-L cúi đầu, nhìn tôi hăm hở, miệng hé mở. Tôi tiếp tục lên xuống, dăm lần như thế nữa, là tôi xuất. Chưa bao giờ tôi cực khoái mãnh liệt như vậy. Tôi ôm chầm lấy M-L vì suýt khuỵu xuống. Có cảm giác tất cả sinh lực tôi phóng lên ngùn ngụt, như phún thạch trào ra từ lòng đất. Tinh khí phọt lên, bắn vào mồm M-L, và nàng nuốt lấy nuốt để. Mặt , môi, ngực người thiếu phụ trẻ tràn trụa sinh lực thằng con trai hăm hai tuổi...
Từ lần ấy trở đi, đó là cách duy nhất tôi yêu chuộng khi gần gũi M-L. Nàng biết rằng tôi đặc biệt thích thú như vậy, và âm thầm thu xếp tạo cơ hội cho tôi được thỏa mãn. Khổ nỗi, đó cũng là cách duy nhất tôi tìm thấy cực khoái với M-L. Tôi tiếp tục gần nàng như vậy, nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng mình lợi dụng nàng, biến nàng thành một phương tiện. M-L chỉ là con người thật nếu tôi xuất vào trong nàng, nếu tôi cùng nàng đi ra ngoài, nơi công cọng, để mọi người thấy được hai người là đôi lứa. Tôi giấu kín nàng trong chính chung cư của nàng, và dùng nàng để thỏa mãn chính mình. Lý do khiến tôi không muốn cho ai thấy tôi có một người tình như M-L cũng là lý do khiến cho tôi, khi chăn gối với M-L trong chung cư, say mê nàng. Nói đúng hơn, không phải say mê chính nàng, mà say mê những cảm giác nàng đem lại. Tôi ý thức mơ hồ sự bất thường của liên hệ giữa M-L và tôi, và tích cách bệnh hoạn của nó, nhưng tôi bỏ qua, mặc kệ. Tôi biết rằng M-L cần có tôi, mà tôi cũng biết là tôi cần nàng. Trong chốn riêng tư kín đáo, chỉ có hai đứa thôi, tôi cần nàng đem lại cho tôi những giây phút cực kỳ nóng bỏng mà tôi chưa từng được hưởng.
Chúng tôi tiếp tục gặp gỡ như vậy trong hơn nửa năm trời. Rồi tôi cảm thấy có sự nhàm chán. Bây giờ nghĩ lại, chẳng có gì lạ: Tôi chỉ ham thích cái khoái lạc M-L đem lại mà không ham thích con người của nàng. Sự khoái lạc thể xác của chính tôi tách rời khỏi thực tại toàn diện của chính nàng. Mệt mỏi là phải. Nhàm chán là điều không tránh được.
Tội nghiệp M-L! Thấy tôi không còn năng nổ như cũ, nàng càng tìm cách thỏa mãn tôi. Rồi một hôm, tôi bắt gặp một thoáng buồn bã, một thoáng ưu tư trong mắt M-L. Như hệt lần đầu tôi gặp nàng ở Nhà Tiếp. Tôi biết là M-L biết là chúng tôi đã sắp bước đến đoạn cuối đường. Rồi tình cờ tôi gặp được một người tôi cho là “hợp” với mình hơn. Tôi ít đến thăm M-L hơn trước. Những gặp gỡ ngắn lại dần, thưa thớt dần. Thưa thớt dần, rồi ngưng hẳn. Người ta thường nói: Youth is cruel. Đúng quá. “Tuổi trẻ ác nghiệt”! Ác nghiệt khơi khơi. Vì không ý thức nỗi khổ đau mình gây ra.
Ở tuổi hai mươi, gặp gỡ và ăn nằm với những người nữ xa lạ là điều thường tình trong đám con trai mới lớn, năng nổ, phóng túng, tự do. Nhưng M-L là người đầu tiên, sự liên hệ giữa đôi bên kéo dài đến nửa năm trời. Tôi tự nhủ rằng tôi không hứa hẹn, không cam kết gì với nàng cả. Mặc dù thế, sự kiện chung đụng với M-L bấy lâu vô hình trung gắn liền sự có mặt của tôi với cuộc đời của nàng...
Ông Thanh ngưng nói, thắp lại tẩu thuốc, phì phà một hồi lâu, mặt có nét buồn bã, già thêm hẳn:
Tôi thật tàn tệ đối với M-L. Gần nàng, tôi chỉ biết đến khoái cảm của mình, xem nàng như một phương tiện. Rồi tôi đã bỏ rơi nàng một cách tàn nhẫn. Mấy chục năm qua, tôi vẫn không quên M-L. Tự hỏi, người con gái ấy, rồi cuộc đời như thế nào. Bây giơ,ø lão già, M-L lớn hơn tôi ba tuổi, nặng cân như thế, xoay trở ra làm sao... Tôi không quên M-L...
Năm ấy, ông bà Thanh có dịp qua Paris. Một hôm trời đã chiều, trên chuyến métro đông nghẹt người, ông Thanh thoáng thấy, đằng xa, cuối toa xe, một dáng người quen quen. Ông nói nhỏ vào tai bà Thanh: “Cứ ngồi đây, chờ anh chút”. Rồi ông mon men, luồn lách đến gần cuối toa xe. Bỗng ông dừng chân. Người quen quen đó, khi đến gần hơn, nhìn nghiêng nghiêng, ông nhận ra, và khựng lại. Bà già mập ú, đầu đội cái mũ len, tay chống chiếc gậy sắt, mấy lọn tóc bạc xơ xác sau cổ áo. Là phụ nữ, lại già cả và nặng nề mà bà già cứ phải đứng; không ai trong toa xe nhường chỗ ngồi cho bà. Ông Thanh nhận ra người xưa. Ông quay mặt ngay qua phía khác, nghĩ thầm: “Thôi, quá khứ ấy, chỉ nên đem chôn đi!” Rồi ông vội vã trở về chỗ ngồi cũ với bà Thanh đang chờ. Tàu vừa dừng lại ở trạm sau, ông đã lật đật nắm tay bà, kéo ra khỏi toa xe. Bà Thanh cự nự: “Sao lại xuống đây? Em tưởng mình đổi xe ở trạm cuối kia chứ?” Ông Thanh ậm ừ.
***
Không đầy năm sau khi kể chuyện này cho tôi nghe, ông Thanh qua đời. Để lại không biết bao nhiêu thương tiếc. Ai cũng nhớ đến ông là một người suốt đời ăn hiền ở lành.
Võ Đình
31-XII-03
Xóm: Xóm La-tinh, gọi tắt. Quartier Latin, gồm đa phần hai quận, 5 và 6, ở Paris, nơi có nhiều cơ sở giáo dục và khoa học danh tiếng (các trường trung học Henri IV, Louis le Grand... đại học Y, Luật, Sorbonne, Bách khoa, Cao đẳng Mỹ thuật, các Viện Pasteur, Pháp quốc...)
tutoyer: khi thân, người nói tiếng Pháp “tutoyer” nhau, nghĩa đen là “mày tao”, nhưng trong trường hợp này, “anh em”
duplex: nhà đôi. Để tiết kiệm, người ta xây “nhà đôi”. Cùng một mái, một tường ở giữa, nhưng là hai nhà, với hai chủ. Người có phương tiện, thường ở nhà riêng, một mái, một nhà, tách rời những nhà khác.
métro: Réseau métropolitain, gọi tắt là métro, tàu chạy điện dưới lòng đất
Dịch nghĩa những đoạn thơ của Baudelaire ( Bài La Géante có tất cả bốn đoạn. Ông Thanh chỉ đọc lên đoạn 1, 3, và 4)
Thuở xa xưa, trong cơn bừng bừng hứng khởi,
Thiên nhiên sanh ra những đứa trẻ dị thường
Tôi ước sống cạnh một người nữ khổng lồ
Như con mèo trườn mình, vuốt ve chân hoàng hậu
Tôi lui tới thăm thú khắp thân hình tuyệt vời
Tôi bò lên, tụt xuống hai bắp đùi to tướng
Rồi, có lúc, vào hè, nắng nóng khiến nàng
Mệt, nhoài người trên cả cánh đồng quê
Tôi chui vào ngủ say trong bóng mát của đôi vú
Như ngôi nhà nhỏ nằm yên lành dưới chân núi.
nhà văn họa sĩ Võ Đình sinh năm Qúi Dậu, 1933, tại Huế. Chánh qúan huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Những năm 50 du học ở Lyon và Paris. Năm 1961, triễn lãm hoạ phấm đầu đời ở New York City.; Từ đó hơn 40 triễn lãm cá nhân và vô số triễn lãm tập thể ở Âu Châu, Á châu, Gia Nã Đại, và Hoa Kỳ.
Năm 1970, hai văn phẩm đầu tiên được xuất bản: The Jade Song (Chelsea House, New York) và The Toad Is the Emperor Uncle's (Doubleday&Co,. New York). Tất cả, hơn 40 tác phẩm: sáng tác, dịch thuật, minh họa. Công trình văn học nghệ thuật của Võ Đình được ghi nhận trong Nhân Vật Việt Nam (Sài gòn, 1974. Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, 1975 -1995 (Đại Nam, California, 1995), và những ấn bản hàng năm của Who's Who In American Art, Contemporary Authors, Prinworld, The New York Art Review... Năm 1975: Christopher Award, New York. Năm 1984: Literature Program Fellowship tu National Endowmentfor the Arts, Wahington, D.C.; Năm 1992: Bằng hữu bốn phương bày tranh và sách Võ Đình ở Montreal, Canada. Năm 2000: triễn lãm ở Pháp, kỷ niệm 50 năm về trước đặt chân -dến Paris . Năm 2002:tác phẩm mới nhất, Huyệt Tuyết (Văn Nghệ, California, 2002)
Hoạ sĩ nhà văn Võ Đình hiện cư ngụ tại một miền biển có nhiều tùng bách, và các loại dừa, kè, thốt nốt, .... Đông Nam Hoa Kỳ.
Có một bà nọ đến cha sở để xin lễ. Gặp lúc giữa trưa là giờ cha sở đang ngủ trưa. Bà tính đi về nhưng lại gặp con chim sáo của cha sở đang ở trong lồng , bà đưa tay vuốt ve bộ lông tuyệt đẹp của nó. Sau đó bà giật mình khi đọc hàng chữ của cha ghi "Không được sờ chim!" Bà về nhà mà trong bụng cứ bồn chồn mãi, phải chi bà nhìn thấy hàng chữ trước thì bà đâu có dám vi phạm luật..... Hôm sau, bà quyết định đi xưng tội để cho bà cảm thấy nhẹ nhõm hơn... Bà thu hết can đảm nói "Thưa cha, con đã dám sờ chim cha! ".... Cha sở hết hồn: "Hồi...hồi nào?" - "Thưa cha, hồi hôm qua, lúc cha đang ngủ ạ ! ".....
1354