Hai anh bạn gặp nhau sau một thời gian xa cách khá lâu. Anh Xoài thấy anh Ổi mặt mày xuôi xị, quần áo bèo nhèo thì hỏi rằng:

Sao anh thiểu não quá vậy?

Anh Ổi đáp:

Thật là kinh khủng, tôi có một người yêu hiền hậu, vui tánh, xinh đẹp dễ thương...

Anh Xoài ngạc nhiên:

Chị ấy bỏ rơi anh à?

Anh Ổi lắc đầu:

Chính tôi phải cưới nàng mới ra nông nỗi này chứ!

2898




Viên cai ngục đến xưởng giày trong nhà giam, nơi Jimmy Valentine đang cần mẫn khâu mũi giày, để đưa anh ta lên phòng giám đốc. ở đấy, viên giám đốc nhà giam giao cho Jimmy tờ lệnh được tha vừa được ngài Thống đốc Tiểu bang phê chuẩn sáng nay. Jimmy thờ ơ cầm lấy tờ giấy, không nói gì. Anh bị kêu án bốn năm và đã ở đây được mười tháng. Đối với một người quen biết rộng như Jimmy thì cái án ấy chả bõ bèn gì, " xoay" một cái là ra ngay ! Ông Giám đốc nhà giam nói :

      - Thế nào, anh Valentine ? Sáng mai anh được ra rồi đấy. Hãy tự răn mình và tỏ ra là một người đàn ông chân chính. Tôi biết tự thâm tâm anh không phải là người xấu. Hãy thôi đừng trộm két sắt nữa và cố sống cho nghiêm chỉnh xem nào.

      - Thưa ngài, tôi ư ? Tôi trộm két sắt ư ?

      - Jimmy trố mắt, ngạc nhiên hỏi. Ông Giám đốc cười :

      - Thôi đi ! Hừ, không với chả có. Thế cái vụ ở Springfield ai làm ? Tại sao anh phải vào đây ? Anh thì chạy tội là giỏi nhất !

      Jimmy vẫn tỉnh bơ chối :

      - Ái chà ! Không đâu, thưa ngài. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới Springfield cả.

      Ông Giám đốc nhà giam dễ dãi cười, quay sang bảo người cai ngục :

      - Cronin, anh đưa cậu ta về phòng. Báo chuẩn bị đồ đạc phóng thích cho cậu ta và bảy giờ sáng mai đưa cậu ta đến đây. Valentine ! Hãy nhớ lời tôi nhé !

      Bảy giờ mười lăm phút sáng hôm sau. Valentine đứng trước cửa nhà giam. Anh mặc một bộ complet cắt thật vụng về, chân mang đôi giày cứng nhắc thường phát cho những người tù được phóng thích.

      Hồi nãy, viên thư ký nhà giam đưa cho anh một vé tàu và năm đô- la với hi vọng của nhà nước rằng với số tiền ân huệ ấy, anh sẽ có thể làm lại cuộc đời trở nên một công dân lương thiện. Ông Giám đốc nhà giam mời anh điếu xì gà rồi bắt tay thật chặt.

      Valentine, người tù số 9762, được vào sổ như sau : " Lệnh tha của Thống đốc".

      Thế là Jimmy Valentine đường hoàng trở về với những con đường đầy ánh nắng.

      Chẳng màng đến tiếng chim hót líu lo, đến cành lá xanh tươi đang vẫy gọi bên đường, đến hương hoa thơm ngát từ khu vườn gần đấy, Valentine đi một mạch đến quán ăn. Tại đây, anh tận hưởng hương vị tuyệt vời của tự do bằng cách chén sạch nguyên con gà quay vàng rộm, uống cạn chai vang trắng, rồi khoan khoái phì phà điếu xì gà đắt tiền, đắt hơn nhiều so với điếu của viên Giám đốc nhà giam vừa tặng. No nê, thỏa mãn, anh nhàn tản đi đến nhà ga, điệu nghệ búng đồng xu con vào chiếc nón của người hành khất mù đứng trước sân ga, rồi nhanh nhẹn lên tàu. Ba tiếng đồng hồ sau đó, anh xuống tàu ở một ga nhỏ hiu quạnh, nằm gần ranh giới tiểu bang. Dừng chân ở quán cà phê mang tên Mike Dolan, Jimmy bước vào thân mật tay bắt mặt mừng ông chủ quán đang đứng sau quày. Ông chủ quán nói :

      - Xin lỗi cậu, Jimmy, tớ không thể xoay sở sớm hơn được. Có ý kiến phản đối việc tha cậu ở Springfield nên tay Thống đốc Tiểu bang rét quá suýt nữa hắn thôi không giải quyết đấy. Thế nào, khỏe chứ ? Jimmy cười :

      - Khoẻ. Có chìa khóa cho tôi không đấy ?

      Cầm lấy chìa khóa, Jimmy lên lầu, ra mãi căn phòng nhỏ phía sau. Đồ vật trong phòng vẫn y nguyên. Trên sàn nhà vẫn còn hột nút áo của ông Chánh thanh tra Ben Price, lúc ông ấy cùng đám cảnh sát dưới quyền ập vào túm lấy anh.

      Hạ chiếc giường xếp xuống, Jimmy mở ngăn bí mật trong vách, lấy ra chiếc vali bám bụi. Anh thận trọng đặt lên bàn, mở nắp, rồi đứng im, khoan khoái ngắm bộ đồ nghề mở két sắt độc nhất vô nhị của anh, bộ đồ nghề mở két hữu hiệu nhất miền Đông nước Mỹ. Nó đầy đủ các cơ phận, làm bằng loại thép cứng nhất, thiết kế theo mẫu mới nhất. Nào khoan, nào đục, nào kẹp, nào kềm, có một số bộ phận do đích thân Jimmy vẽ kiểu. Anh rất tự hào về bộ đồ nghề này. Anh đã phải trả hết 900 đô để đặt làm theo ý riêng của mình ở một chỗ chuyên làm dụng cụ cho giới giang hồ.

      Nửa giờ sau, Jimmy xuống lầu, ra cửa. Giờ đây, anh mặc bộ complet vừa vặn, kiểu mới, tay xách chiếc vali. Người chủ quán nháy mắt, hỏi :

      - Đi làm sớm thế ?

      - Làm gì ?

      - Jimmy ra bộ ngơ ngác

      - Ờ hay, cái cậu này. Tôi chỉ là một nhân viên công ty bánh ngọt và chế biến lương thực New York đấy, nhớ chưa ?

      Người chủ quán gật lia lịa, rối rít mời Jimmy uống rượu, nhưng anh từ chối, Jimmy không bao giờ uống rượu. Một tuần sau ngày Valentine, người tù số 9762, được phóng thích, một vụ trộm lớn được tiến hành rất khéo ở Richmond, bang Indiana. Không một dấu vết để lại. Hai tuần sau, lại thêm một vụ khác. Lần này chiếc két bị trộm là loại hiện đại nhất, có gắn cả thiết bị báo động chống trộm, thế mà cánh cửa dày cộm của nó vẫn bị mở toang như người ta mở cửa sổ đón gió hè. Vụ trộm này xảy ra ở Logansport, số của cải bị mất trộm trị giá khoảng 1500 đô, trong tủ còn có nhiều hối phiếu và tiền xu lẻ nhưng không hề bị tên trộm mó tay vào. Cảnh sát bắt đầu quan tâm, nhưng mãi đến vụ trộm ở ngân hàng Jefferson City, số thất thoát lên cao, thì ông Chánh thanh tra Ben Price mới chịu xuất quân. So sánh dấu vết tại hiện trường, ông phát hiện ngay một nét tương tự về phong cách thực hiện của các vụ án. Ông tuyên bố :

      - Chính thằng Jimmy Valentine chứ không ai khác ! Hắn lại giở trò rồi đấy. Xem cái núm khóa kia kìa - nó bị kéo tung ra cứ như người ta nhổ củ cải vào tháng mưa ấy. Kiểu ấy thì chỉ có cái kích hiện đại của thằng Valentine mới làm nổi thôi. Lại xem mấy thanh ngang kia kìa, chỉ khoan có một lỗ là bung ngay thế kia thì ngoài thằng Valentine ra chẳng có ai làm nổi !

      Ông Ben Price đã thuộc lòng tính nết Jimmy. Ông nắm cả những thói quen nhỏ nhất của tên trộm tài hoa này qua những lần điều tra vụ cướp ở Springfield vừa qua. Jimmy thường đánh theo lối nhảy cóc. Đánh nhanh, rút lẹ, lẩn đi thật xa, rồi lại ra tay tiếp, lần sau táo bạo hơn lần trước. Hắn không cần phụ tá. Giới chủ ngân hàng phần nào nhẹ nhõm khi nghe tin ông Ben Price lại lên đường lần theo dấu vết tên trộm quỷ quái ấy.

      Một chiều nọ, Jimmy Valentine tay xách vali, xuống xe tại một thị trấn nhỏ, tên là Elmore. Đấy là một thị trấn hẻo lánh, cách đường xe lửa xuyên Mỹ trên năm dậm, thuộc bang Arkansas. Trông anh ta như một sinh viên năm cuối bậc đại học, thích thể thao, đang trên đường về quê thăm nhà. Bước chậm rãi trên lề đường lót ván, anh dừng chân ở khách sạn.

      Bỗng một thiếu nữ băng qua đường, đi ngang trước mặt anh, rồi rẽ vào căn nhà có treo tấm biển " Ngân hàng Elmore" . Tình cờ cô liếc mắt nhìn anh. Thế là tâm hồn anh như choáng ngợp bởi ánh mắt diệu kỳ ấy, đầu óc bay bổng tận đâu đâu. Anh như đã biến thành một người nào khác. Cô thiếu nữ thẹn thùng cúi gầm mặt, hai má ửng hồng. Chả lẽ ở Elmore này, ăn vận như thế, ... đẹp trai như thế, hiếm lắm !

      Jimmy vội túm ngay lấy một cậu bé con đang ngồi chơi trên bậc thềm gần đấy, giả vờ đang có ý muốn mua cổ phiếu của ngân hàng ở đây, nên phải hỏi để nắm tình hình. Cứ mỗi câu hỏi, anh ta lại giúi vào tay cậu bé đồng mười xu. Một lúc sau, cô gái đi ra, lần này không thèm để mắt đến chàng trai tay xách vali vẫn còn đứng đấy. Jimmy nháy mắt, hỏi cậu bé :

      - Hình như là cô Polly Simpson đấy phải không?

      - Không đâu, chính là cô Annabel Adams đấy chứ. Bố cô ấy là chủ ngân hàng này.

      Jimmy đến khách sạn gần đấy, đăng ký mướn phòng với tên Ralph Spencer. Anh nhẩn nha ở quày tiếp tân, gợi chuyện với anh nhân viên khách sạn, nói cho anh ta hay rằng mình muốn ở lại thị trấn Elmore này để làm ăn bằng việc kinh doanh giày, liệu có sống nổi không ?

      Người nhân viên tiếp tân nhìn vẻ bên ngoài bảnh bao của Jimmy ra dáng kính nể. Anh ta nhiệt tình cho biết : - Vâng, mở hàng giày ở đây sống lắm ! Hiện ở đây chưa có nơi nào kinh doanh giày cả. Trước nay mặt hàng này chỉ được bày bán ở cửa hàng tạp hóa và vật tư ở đằng kia. Việc kinh doanh buôn bán tại đây đang có chiều hướng phát triển khá. Hi vọng rằng sau khi cân nhắc thiệt hơn, ông sẽ quyết định lập nghiệp ở đây. Dân cư nơi đây hiền và hiếu khách lắm !

      Jimmy cười :

      - Vâng. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ ở lại vài ngày xem sao. ồ, không cần gọi bồi làm gì, tự tôi xách lấy được rồi. Thế là Ralph Spencer, con phượng hoàng thoát xác cất cánh lên cao từ đống tro tàn của người tù Valentine - đống tro tàn phát xuất từ ngọn lửa tình nồng cháy qua lần đầu gặp gỡ. Jimmy quyết định lập nghiệp ở thị trấn nhỏ tên Elmore này. Hiệu giày của anh hoạt động tốt, có lãi.

      Về mặt quan hệ xã hội, Jimmy cũng thành công không kém, anh quen biết nhiều, và hơn cả, sở nguyện của anh cũng đã thành. Annabel Adams nay là bạn anh và tình cảm của anh dành cho nàng ngày càng say đắm. Đến cuối năm ấy, có thể tóm tắt hoàn cảnh sống của chủ hiệu giày Ralph Spencer như sau : anh được hầu hết cư dân trong thị trấn tin yêu, cửa hàng giày của anh ngày càng thịnh vượng. Trên tất cả, anh vừa đính hôn với cô Annabel Adams và đám cưới sẽ cử hành trong hai tuần nữa. Ông Adams, chủ ngân hàng Elmore, bố vợ tương lai của anh, rất hài lòng với chàng rể quý. Phần Annabel, cô yêu anh bao nhiêu thì quý trọng anh chừng ấy. Lúc này, Ralph Spencer gần như là thành viên chính thức của gia đình Adams. Ngày nào anh cũng đến chơi nhà bố vợ và nhà cô chị của Annabel.

      Một hôm, Jimmy ngồi viết thư cho một người bạn ở St. Louis :

      Billy thân mến,

      Tớ muốn tối thứ tư tới đây, lúc chín giờ, cậu đến quán Sullivan ở Little Rock gặp tớ. Nhờ cậu giúp cho một việc. Ngoài ra, tớ muốn tặng cậu bộ đồ nghề của tớ. Tớ biết cậu khoái muốn chết khi có được một bộ như thế, làm bộ khác phải mất hơn nghìn đô- la là cái chắc. Billy ạ, tớ đã bỏ nghề rồi - được hơn năm nay. Hiện tớ đang có một cửa hàng, một cuộc sống lương thiện và hai tuần nữa tớ sẽ làm đám cưới với một cô gái tuyệt diệu nhất trên đời này. Cậu biết không ? Tớ đã nhận thức rằng chỉ lương thiện mới sống đời được, và tớ đã nhất quyết từ nay sẽ không tơ hào của ai một đồng xu nhỏ. Cưới vợ xong, tớ sẽ bán tất rồi dọn về miền Tây sinh sống, chỉ ở đấy mới hi vọng tớ sẽ không bị quấy rầy vì những tai tiếng cũ của mình. Tớ nói thật đấy ! Vợ tớ đúng là một nàng tiên. Nàng tin ở tớ hết lòng và chính vì thế tớ sẽ cố hết sức không làm một điều gì để phụ lòng tin ấy. Nhớ đến quán Sully'' s nhé. Tớ cần cậu lắm, và tớ sẽ đem bộ đồ nghề đến cho cậu.

      Bạn cậu, Jimmy Vào tối thứ hai ấy. lúc Jimmy đang ngồi viết những dòng cuối cùng gởi cho bạn, thì Ben Price ngồi lắc lẻo trên chiếc xe ngựa thồ chạy đến Elmore. Đến nơi, ông lặng thinh, kín đáo rảo quanh một vòng để nắm tình hình qua chiếc gương trong cửa hàng tạp hóa nằm đối diện với tiệm giày của Ralph Spencer. Ông chăm chú quan sát thật kỹ dung mạo và dáng điệu của ông chủ trẻ. Ben Price thích thú cười :

      - Thế đấy, Jimmy, chú mày lại sắp đi cưới con gái chủ ngân hàng cơ đấy !

      Sáng hôm sau, Jimmy đến dùng điểm tâm bên nhà vợ. Hôm nay, anh định đi Little Rock để sắm sửa mấy món đồ chuẩn bị cho đám cưới và mua một món quà thật đáng giá cho Annabel. Kể từ lúc định cư ở Elmore đến nay, đây là lần đầu tiên anh rời thị trấn đi xa. Có lẽ không hề gì, vì tính từ vụ " làm ăn" cuối cùng đến nay đã ngót một năm rồi. Điểm tâm xong, cả nhà Annabel đều kéo nhau đi tiễn chân Spencer - ông Adams, Annabel, cả cô chị của Annabel cùng hai cô gái nhỏ mới lên năm và lên chín. Họ đến khách sạn nơi Jimmy ở để anh lấy hành lý - chiếc vali dạo ấy. Rồi tất cả kéo nhau đến ngân hàng. ở đấy, xe ngựa đang chờ Jimmy cùng với người xà ích tên Dolph Gibson để đưa anh ra ga. Ông Adams mời chàng rể quý vào ngân hàng chơi chốc lát, ông muốn khoe mọi người chiếc tủ sắt hiện đại ông vừa cho lắp đặt xong dưới tầng hầm. Đám nhân viên ngân hàng cúi chào anh răm rắp.

      Đấy là một két sắt khá lớn được gắn chìm vào vách. Cửa tủ rất chắc chắn, mỗi lần quay tay nắm là ba thanh thép lớn đâm sâu, gắn chặt vào vách tủ. Trên cửa còn có cả núm khóa hẹn giờ tự động. Ông Adams phổng mũi giải thích những tính năng hiện đại của chiếc két sắt cho chàng rể quý, nhưng anh ta tỏ ra không quan tâm lắm. Hai bé gái, cháu May và Agatha, con gái của người chị Annabel, tỏ vẻ thích thú lắm. Chúng trố mắt nhìn lớp thép bóng loáng, mấy núm điều khiển tròn xoe trên cửa.

      Trong khi mọi người đang lắng nghe ông Adams giải thích về cách đóng mở cửa, Ben Price từ từ bước vào, ông ta tì tay lên mặt quày bình thản nhìn quanh. Cô nhân viên đến hỏi, ông đáp đang chờ người quen.

      Bỗng có tiếng phụ nữ la thất thanh, không khí hoảng hốt bao trùm lấy khu hầm để tủ sắt. Nhân lúc người lớn đang ham chuyện, cô bé May, chín tuổi, đùa nghịch đẩy Agatha vào trong tủ rồi đóng sập cửa lại. Cô bé còn bắt chước ông ngoại, kéo tay khóa rồi vặn mấy núm điều khiển trên cửa.

      Ông Adams vội nhào đến chụp lấy tay nắm lay mạnh, nhưng muộn rồi. Ông hốt hoảng kêu lên :

      - Chết rồi ! Không tài nào mở được. Lại chưa kịp chỉnh số hẹn giờ mới chết!

      Người mẹ thất đảm hét hớn. Ông Adams run rẩy trấn an con gái :

      - Giữ bình tĩnh đi nào ! Agatha cháu ơi !

      - Ông cố gọi thật lớn

      - Cháu nghe ông nói không ?

      Trong bầu không khí im lặng đến nghẹt thở, mọi người nghe rõ tiếng khóc la của cô bé đang bị nhốt trong hầm tối. Người mẹ khóc nức nở, cuống quýt lên :

      - Ôi, phải làm gì kia chứ! Hãy phá cửa ra ngay !

      Ông Adams thất vọng, lắc đầu :

      - Con ơi, phải đến mãi Little mới có người mở được loại cửa này. Ông Ralph Spencer, ta phải làm sao đây ? Con bé đến chết mất ! Trong ấy ngộp lắm và đầy bóng tối nữa, con bé đến chết vì khiếp sợ thôi !

      Người mẹ lúc này như phát cuồng lên, chị đập mạnh đôi tay yếu ớt vào cánh cửa thép nặng nề dầy cộm như muốn phá tung nó ra để cứu con mình. Có người hoảng quá, định lấy cốt mìn phá cửa. Nhưng làm như vậy thì còn gì cháu bé bên trong. Annabel ngước mắt nhìn Jimmy, ánh mắt khẩn khoản đầy hi vọng. Hi vọng, vì đối với nàng, người yêu của nàng có thể làm được tất cả, ngay cả những điều kỳ diệu nhất.

      - Anh Ralph, hãy giúp chị ấy đi anh.

      Jimmy nhìn sâu vào mắt nàng, miệng nở một nụ cười khó hiểu. Đối với anh, yêu cầu của nàng chính là mệnh lệnh của trái tim anh. Anh nói :

      - Annabel, em hãy cho anh đoá hồng trên áo em. Cô bỡ ngỡ, không tin vào tai mình, nhưng vẫn đưa tay gỡ lấy cánh hồng trên áo, trao cho người yêu. Jimmy cẩn thận cài cánh hồng vào túi, rồi bắt đầu xắn tay áo. Chính qua hành động xắn áo ấy, nhân vật Ralph Spencer đã chết, và tên trộm tài danh Jimmy Valentine đã trỗi dậy từ đống tro tàn quá khứ.

      Anh nói ngắn, gọn :

      - Mọi người tránh ra hết đi !

      Anh mở toác chiếc vali mang theo. Và từ lúc ấy đối với anh, chung quanh như không có ai. Bằng những hành động rất chính xác, nhanh gọn, anh lấy đồ nghề ra, sắp xếp theo thứ tự sử dụng, vừa làm vừa huýt sáo nho nhỏ. Đấy là một thói quen cố hữu của anh lúc đang " hành sự" . Mọi người nhìn anh trân trối.

      Chỉ một phút sau, mũi khoan nhỏ của Jimmy ăn thật ngọt vào cánh cửa thép. Mười phút sau, cánh của mở toang. Anh đã phá cả kỷ lục chính anh lập nên qua các lần mở trước.

      Cô bé Agatha té xỉu trong vòng tay mẹ. Không việc gì.

      Jimmy Valentine cầm lấy áo khoác vắt trên ghế đi nhanh ra cửa. Anh nghe có tiếng kêu " Anh Ralph !" thật thân thương nhưng xa vắng làm sao. Anh vội bước đi.

      Bỗng có người chắn lối anh đi.

      Jimmy cười, vẫn nụ cười khó hiểu ấy :

      - A, xin chào ông Ben. Ông đã đến đấy ư ? Thôi ta đi nào, đến mãi bây giờ tôi mới thấy được rằng cuộc sống thật phù du vô ích.

      Nhưng ông Ben Price cứ đứng yên. Ông ta nói :

      - Ông Ralph Spencer, ông nhầm rồi đấy ! Tôi không hề quen ông. Hình như xe đang chờ ông ngoài ấy ?

      Nói xong, ông quay lưng đi thẳng.

576




Một lão trọc phú đang ngồi tiếp khách. Chợt có người vào đưa một tờ giấy và đứng đợi trả lời. Lão kia vốn dốt đặc, nhưng trước mắt khách, lão làm ra vẻ biết chữ, giả bộ mở tờ giấy ra xem rồi trả lời:


- Cứ về đi, chốc nữa tao sang ngay!


Tên người nhà gãi đầu gãi tai, thưa:


- Ông con sai con sang mượn ông con bò đem về ngay kẻo lỡ buổi cày, chứ không phải mời ông sang đâu ạ!

1298




Vợ cằn nhằn:

- Từ hồi lấy nhau tới bây giờ, tôi làm cái gì ông cũng cản, nào là: “Đừng mua đồ...”, “Đừng ăn diện...”, nào là “Đừng ngồi lê đôi mách với mấy người hàng xóm...”, tôi chán mấy chữ "Đừng" đó lắm rồi. Sao chẳng bao giờ ông nói: “Ừ, mua đi em” , “Ừ làm đi em...” Chắc tôi phải dọn về nhà ba mẹ tôi ở quá!

Chồng:

- Ừ, đi đi em!



o O o


Ai phục vụ nổi

Bà vợ đã cố hết sức làm vừa ý chồng nhưng ông chồng khó tính vẫn luôn bươi móc. Lúc thì chê bà không làm trứng ốp la, lúc thì bất bà làm trứng chiên ăn sáng.

Một hôm, bà vợ cẩn thận dọn cho ông một phần ốp la và một phần trứng chiên, chắc mẩm thế nào ông ấy cũng khen.

Nào ngờ, ông chồng trừng mắt gắt: "Cái trứng nên làm ốp la thì bà đem chiên, còn cái trứng định chiên bà lại làm ốp la".



o O o


Ở tù là phải

Trong tù, hai tên tù nói chuyện. Một tên hỏi:

- Tại sao chú mày phải vào đây?

- Thì tại vì tôi bỏ vợ....

- Chỉ có thế mà phải vào tù à? Chuyện vô lý quá!

- Chưa hết, tui bỏ... từ trên sân thượng xuống.



o O o


Để lần sau

Anh chồng cằn nhằn với vợ:

- Đáng lẽ những việc bếp núc như thế này thì em phải học từ trước khi bước về nhà chồng mới phải chứ.

- Vâng, anh nói đúng! Lần sau em sẽ làm như vậy.2612





Ha... hạ.hạ.ha! há..há..a..ha! Hú... hu... hụ.hu... u!
Hooooooooooooooooooooooooooooooooooooooooooo
Thiệt là hãi hùnh, khi không sao lại có tiếng cười ai đó văng vẳng trong đêm làm cho bất cứ ai nghe được cũng cảm thấy rợn người... Sáng hôm sau đâu đâu người ta cũng nghe lời bàn tán về tiếng cười đêm trước - người thì cho đó là tiếng rên rĩ của muột người con gái còn rất trẻ, người thì bảo đó là tiếng hú của một chàng thanh niên trong tuổi đôI mươi, còn có người thì cho rằng đó là tiếng la hét của hai người... mà là hai người đã chết v.v. Thiệt ra thì đó là tiếng cười, hay tiếng rên rỉ, hoặc là tiếng la hét. Nhưng những tiếng đó phát xuất từ đâu? Phải chăng là ở bãi tha ma vắng vẻ trên ngọn đồi phía bắc làng, hay là những tiếng đó phát ra từ ngôi nhà hoang ở phía nam?...


Rồi thì sự sinh hoạt trong làng cũng trở lại bình thường và đêm lại một lần nữa trở lại với vạn vật như mọi khị Nhưng đêm nay thì khác, hầu như mọi người trong làng đều cảm thấy lành lạnh. Lạnh mà họ cảm được đây không phải là do thời tiết mà là lạnh do tiếng cười đêm qua ám ảnh. Mới có 10 giờ tối mà cả xóm làng đều im phăng phắc; không biết là đã có ai ngủ vô chưa nhưng vạn vật hình như đã bị lắng đọng lại - cả đến những tiếng động do súc vật gây ra cũng không có. Không lẽ chó, gà, heo, vịt cũng đều kiếm chỗ ẫn nấp hết rồi sao? Tại sao tiếng cười lại có ma lực ghê gớm như thế? Không lẽ thật là tiếng ma kêu quỉ hú?...


Chuyện gì tới rồi cũng sẽ tới... Trong lúc mọi người trong làng đều trùm mền kín đầu thì tiếng cười đêm trước lại lanh lãnh vang dội... Hảhảha! ?Hủhủhu! Và cứ như thế 5, 10 phút một lần. Người Công Giáo thì thì thầm đọc kinh, người Phật Giáo thì Nam-Mô-AĐi, còn trẻ con thì ôm cứng lấy cha mẹ anh chị chúng. Thật là khinh khủng sợ hãi... Nhưng rồi một đêm kinh sợ cũng qua đi và mặt trời lại ló dạng. Mọi người lại một lần nữa xôn xao bàn tán - "Làng mình chắc là có ma quỉ xuất hiện, phải nhờ cụ Tám ra giúp giải quết vấn đề!" một người xướng. "Đồng ý! Đồng ý!" mọi người khác đều hưởng ứng.


Cụ Tám là người nổi tiếng không sợ trời, không sợ đất. Cụ là người duy nhất luôn luôn tắm xác cho người chết trước khi bỏ vô hòm. Người ta khẩu truyền rằng cụ đã gặp rất là nhiều ma quỉ nhưng chưa một lần tỏ ra khiếp sợ... Tuy rằng không muốn liều mình, nhưng vì xóm làng cụ Tám cũng đành phải miễn cưỡng tuân theo để tìm hiểu nguyên do tiếng cười bí mật kia.


Cụ Tám sửa soạn con dao cặt củi mà cụ cho là một vũ khí lợi hại nhất của cụ. Trời vừa chập tối là cụ đã ra khỏi nhà. "MớI có 9 giờ mà mọi nhà đã đóng cử tắt đèn rồi," cụ lẩm bẩm và từ từ tiến tới ngôi nhà hoang ở phía nam khu xóm, nơi mà cụ nghĩ rằng sẽ tìm được nguyên do tiếng ma gào quỉ khóc kia.... Đã hai tiếng trôi qua mà không có gì xãy ra, cụ cảm thấy người cụ hơi mỏi mệt vì nấp trong bụi cỏ trước căn nhà hoang... Nhưng, bất chợt, cụ cảm thấy rờn rợn lạnh trong người. Linh tính báo cho cụ biết là có gì không ổn đâu đây. Cụ cố lấy bình tĩnh để chờ đợi thêm.


Khoảng đúng 12 giờ đêm, thì Hủ.hủ.hủ.hu! Tiếng hú làm cho cụ giật bắn người giậy; tay cụ nắm chặt con dao để chờ đợi. Tiếng Hụ.hụ.hủhảhảha! mỗi lúc một tiến gần nơi cụ nấp là cho cụ toát mồ hôi lạnh và tự nhủ, "Trong suốt cuộc đời, đây là lần ta cảm thấy rợn nhất, không biết tại ta đã già nua hay là tại con quỉ này ghê gớm đến vậy."... Một lần nữa tiếng Hủhu lại nổi lên bên cạnh cụ và một bóng trắng xuất hiện trước mặt cụ. Hai tay nắm chặt con dao, cụ định tung ra một nhát vào bóng trắng kia nhưng bóng trắng đã bay xa hơn và dùng tay để vẫy cụ như là muốn thách thức cụ Tám. Cụ cứ tiến gần thì bóng trắng đó lại bay xa thêm... Cứ như thế mà đã đến gần bờ biển. Bất chợt, lại thêm một bóng trắng xuất hiện. Lần này thì cả hai bóng trắng đều quay lại như muốn nói với cụ Tám điều gì đó và cả hai chợt biến mất trước mặt cụ Tám. Cụ mĩm cười ra điều hãnh diện vì con ma ác ôn đó mà cũng sợ cụ. Sau đó cụ quay người trở lại để ra về thì chân cụ vấp phải vật gì đó. Bật chiết đèn lên cụ chợt hốt hoảng vì dưới chân cụ là hai xác chết của một đôi nam nữ độ đôi mươi. Lúc này thì cụ đã đoán ra được 9 phần 10 của câu truyện. Cụ khéo hai cái xác lui vô trong để nước khỏi cuốn đi, rồi ra về... Sáng hôm sau dân làng mang hai cái xác đi chôn và lập một bàn thờ cho đôi trai gái xấu số; và từ đó người ta không còn bị ám ảnh bởi tiếng gào thét kinh sợ giữa đêm khuya nữa.
586




Có một anh chàng sợ vợ nổi tiếng. Một hôm chỉ vì chuyện nhỏ nhặt mà chị vợ mắng anh. Lần này thì anh hết nhịn nổi bèn nhặt lấy thanh củi trong lò đánh vợ. Bà vợ thấy nguy bèn co giò chạy, anh chàng cứ rượt nà theo. Chợt bà vợ đứng phắt lại trợn mắt hỏi: "Anh định làm gì tôi?"

Anh chàng luống cuống vội nhét thanh củi vào tay vợ: "Mình đốt chết tôi đi!"

1042





Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và yên vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên.

Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng đế lảng quên với việc triều chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại, hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên năn nhà vua nên lo cho dân chúng và chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng.

Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân.

Trước áp lực của bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hoàng hậu bồng con đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng.

Đứa bé nằm bên mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần gian. Khi thấy hoàn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác của người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ đó bằng sự cô đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh.

Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem quân cố chiếm lại thành trì nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng mình đã không nghe lời hoàng hậu khuyên ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vô tội của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngoài thì địch quân vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.

Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía quân xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và với lòng tin thống nhất, nhà vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.

Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã thốt lên rằng:

" Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết mặt !..."

Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hoàng cung với tấm vải thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi đến gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà không nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng:

" Thưa phụ hoàng, con đây !" .

Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ôm người thật chặt vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu. Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng thấy mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ xuống.

Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó và n1009




Ba tháng hè, khoảng thời gian mơ ước của bất cứ giáo viên nào vì sẽ được cuộc sống thảnh thơi. Không phải lo soạn giáo án. Không phải lo đi dạy đúng giờ giấc. Như một ngôi nhà từ lâu bị đóng kín vì chủ nhân bị đau ốm hay đi vắng, bây giờ những cánh cửa được mở tung đón chủ nhân trở về, đón ánh nắng ban mai rực rỡ, đón những ngọn gió đêm tươi mát thổi vào. Trong ba tháng hè, tâm hồn và hành vi của giáo viên cũng được mở tung sau chín tháng bị đóng cửa.
Tất cả những người bạn giáo viên của Kha đã được sống thảnh thơi trong mùa hè. Họ đã được trở về quê nhà hay đi đến một thành phố khác để nghỉ xả hơi, để được sống tự do không bị những đôi mắt dòm ngó, phê phán của học sinh và các phụ huynh. Tưởng tượng sống ở một nơi không bị những đôi mắt đó theo dõi, thật sung sướng biết bao.

Nhưng Kha đã không được sung sướng biết bao. Không được sống thảnh thơi như các bạn trong ba tháng hè tại thị trấn này.

Kha phải ở lại để dạy các lớp hè hai buổi sáng và dạy thêm lớp toán ban đêm. Chàng muốn dành dụm một số tiền để lo đám hỏi người yêu của chàng ở quê nhà vào dịp cuối năm nay. Không có nàng chắc chàng đã theo thằng bạn dạy văn đi rong chơi. Dù cho bao tử có đói, chàng tin cũng sẽ được sống một thời gian thảnh thơi và thích thú. Nhưng vì nàng, vì những đòi hỏi của gia đình nàng. Kha đã phải tiếp tục đóng kín những cửa sổ tâm hồn trong ba tháng hè.

Những lớp toán ban đêm, Kha dạy ngay ở căn phòng trọ. Chàng đã phải khó nhọc giảng giải những bài toán cho học sinh hiểu. Không phải những bài toán đó quá khó hay học sinh chậm hiểu mà vì Kha biết chính chàng cũng không thích giải những bài toán đó một tí nào. Ðấy không phải là thời gian để giải những bài toán hình học, đại số, hóa học. Ðấy là thời gian phải được dành cho nàng. Cùng nàng đi dạo chơi dọc theo bờ sông Hương trong đêm hè nóng bức. Cùng nhau vào trong thành nội có những cây nhãn lá mướt xanh và hương hoa sen tỏa ra thơm ngát. Cùng nàng vào ngồi một quán nước có âm nhạc dịu dàng và ăn những ly chè hạt sen ngọt lịm...

Nhưng ở lại chốn này, Kha chỉ biết cùng học trò cặm cụi giải những bài toán khô khan, chán ngắt. Khi nghe những cậu học trò hỏi : "Ba tháng hè, thầy không về thăm nhà hả thầy ? Dạy nhiều vậy thầy không sợ bể phổi sao thầy ?" Kha đã phải bóp vụn cục phấn trong tay, để khỏi bạt tai chúng và môi chàng đã mím chặt để khỏi cau có. Chúng đâu có biết gì, chúng còn vô tư. Chàng nghĩ vậy để xoa dịu cơn giận dữ.

Còn nàng có biết gì không ? Hay nàng cũng vô tư ? Thắc mắc này đã khiến Kha nổi điên đập vỡ mấy ly bia khi chàng ngồi uống một mình trong căn phòng trọ vắng lặng sau những buổi dạy đêm.

Thật ra Kha không sống cô độc khi phải ở lại đây ba tháng hè vì chàng đã có những người bạn chân tình ở địa phương này. Nhưng họ chẳng giúp được gì cho chàng. Những chai bia cũng chẳng giúp gì được cho chàng. Tất cả đều biết chuyện tình của chàng và nàng nhưng tất cả đều không hiểu tình yêu của chàng dành cho nàng.

Ngay cả thằng bạn dạy văn ở cùng phòng (nay đã đi xa) cũng không hiểu tình yêu đó. Hắn đâu đã yêu một cô gái nào bao giờ đâu mà hiểu chàng. Hắn chỉ yêu cây trúc đào sau vườn và say sưa nhìn ngắm những nụ hoa đỏ hồng lóng lánh sương đêm hé nở mỗi sáng như say sưa nhìn ngắm đôi môi người tình mỉm cười. Thấy dáng vẻ si mê điên khùng của hắn, đã có lần chàng nổi điên cầm dao định đốn cây trúc đào nếu hắn không đứng ôm chặt gốc cây che chở cho những nụ hoa.

Chàng không yêu đương lãng mạn lẩm cẩm như thằng bạn kỳ cục đó. Tuy sinh ra ở một thành phố thơ mộng nhưng Kha không yêu những đóa hoa vớ vẩn, chàng yêu một cô gái cùng quê hương và dự định phải kết hôn bằng được với nàng. "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở". Cái "đẹp đó chàng xin dành cho thằng bạn dạy văn".

Gia đình nàng rất giàu, có gian hàng lớn buôn bán đủ thứ ở phố chính. Còn gia đinh chàng ở miền quê sống nhờ những vườn cau trổ trái bốn mùa. Ðám hỏi và đám cưới của chàng khỏi phải lo vụ trầu cau vì đã có sẵn "cây nhà lá vườn" đủ biếu cho ngàn người. Chàng chỉ còn lo mấy thứ lỉnh kỉnh : rượu, trà, bánh su sê, vòng, nhẫn, áo cưới, xe hoa... Mấy thứ đó tuy lỉnh kỉnh nhưng cũng làm chàng điên cái đầu.

Cả hai gia đình đều sẵn sàng giúp đỡ chàng mấy thứ lỉnh kỉnh, sẵn sàng đùm bọc đời sống vợ chồng chàng, nhưng Kha từ chối sự giúp đỡ và đùm bọc đó. Bài học đầu tiên chàng học được ở Ðại học Sư phạm không phải là phương pháp dạy dỗ học sinh mau hiểu mà là ý thức tự lập. Chàng muốn một gia đình do chính tay chàng tạo ra. Cưới nàng xong chàng sẽ thuê nhà cho hai người ở rồi dành dụm tiền mua nhà, rồi dành dụm tiền cho những đứa con, rồi dành dụm tiền cho đủ thứ. Nhưng trước tiên chàng phải dành dụm cho đám hỏi nàng vì vậy chàng đã ở lại thị trấn để dạy hè.

Kha không nhận được lá thư nào của nàng trong suốt ba tháng hè. Ở đây, chàng chỉ có một địa chỉ duy nhất là ngôi trường chàng dạy. Ba tháng hè trường đóng cửa những giấy tờ công văn đều được trực tiếp chuyển bằng tay từ Phòng Giáo dục đến trường, còn những thư từ riêng chẳng thể gửi đến vì không có người đi nhận. Kha có thể mượn địa chỉ của một người bạn địa phương để cho nàng gửi thư nhưng chàng sợ những lá thư của nàng gửi cho chàng trong dịp hè sẽ khiến chàng không còn can đảm ở lại đây. Nhìn những con dấu bưu điện mang tên quê hương mến yêu và đọc những dòng chữ mảnh mai nàng viết, Kha dám có quyết định trở về quê nhà gặp nàng ngay cho bớt nhớ nhung. Trở về quê nhà, bỏ dạy cours làm sao chàng còn có thể dành dụm đủ tiền đi hỏi nàng ?

Mùa hè đã chấm dứt. Kha nôn nóng chời đợi ngày khai giảng niên học mới để được nhân thư nàng. Cách một tuần trước ngày khai giảng. Kha đã gửi cho nàng một lá thư bảo đảm để nàng biết dự tính của chàng đã thành. Chàng đã dành đủ tiền cho đám hỏi. Nàng hãy gửi thư trả lời cho chàng biết ý kiến gấp qua địa chỉ nhà trường.

Ngày khai giảng đến, Kha vội vã đến trường nhưng chàng chẳng nhận được lá thư nào. Nhìn các cô cậu học sinh vui vẻ cười đùa với bạn bè sau những ngày hè tạm biệt, Kha đã buồn cho hoàn cảnh của mình ! Ðiều chàng nôn nóng đợi chờ ở niên học mới đã không đến.

Chàng tự hỏi phải chăng nàng đã đi lấy chồng trong mùa hè vừa qua ? Ồ, đâu có chuyện lạ lùng đó được. Nàng phải chờ mình chứ. Mình đã trung thành với nàng vậy nàng bắt buộc cũng phải trung thành với mình. Hay nàng đã bị bệnh cúm nên chẳng thể viết thư trả lời ? Giả thuyết này có thể tin được vì ở quê hương chàng mùa này mưa nắng bất thường và ai cũng có thể mắc bệnh cúm - chàng lẩm bẩm - chứ nàng đừng mắc bệnh nôn nóng lấy chồng.

Nửa tháng sau ngày khai giảng đã trôi qua. Kha đã gửi cho nàng hai lá thư bảo đảm nhưng vẫn không thấy hồi âm. Bố khỉ người yêu ! Chàng lẩm bẩm khi ngồi một mình trong phòng giáo viên đợi giờ dạy. Ðột nhiên Kha bật cười, chàng nghĩ chàng đã thốt ra hai tiếng "Bố khỉ" kỳ quặc một cách vô thức và chẳng hiểu chúng có nghĩa gì ? Thằng bạn dạy văn luôn miệng thốt ra hai tiếng đó và chàng không ngờ chúng đã xâm nhập vào đầu óc chàng lúc nào không hay. Bố khỉ đầu óc ! Kha lẩm bẩm khi quẹt diêm châm một điếu thuốc.

Hai giờ đầu buổi sáng nay thật nản. Kha chẳng dạy được gì, có một bài toán nhỏ mà chàng giải ba lần vẫn sai khiến cả lớp cười ồ. Ðầu óc chàng bay bổng đâu đâu và chàng đã chờ đợi tiếng kẻng báo hiệu giờ ra chơi ngay khi mới bước chân vào lớp. Rồi tiếng kẻng chờ đợi đã vang lên. Kha bẻ đôi cục phấn đang viết ném xuống bục gỗ như người trút khỏi gánh nặng trên vai. Chàng cố nở một nụ cười chào học sinh và định nói vài lời xin lỗi nhưng chẳng thể hé môi, chàng đành lắc đầu bước ra khỏi lớp. Mong các em sẽ hiểu và thông cảm cho tôi. Mong các em sẽ hiểu khi các em cũng nôn nóng chờ đợi một cái gì...

Phòng giáo viên đã có mặt những cô giáo mặc áo dài đủ màu ngồi nói chuyện "thiên trời địa đất" với các ông giáo. Kha rót ly nước trà uống một hơi rồi kéo ghế ngồi dựa lưng vào tường. Chàng muốn ngủ một giấc ngắn - chỉ năm phút thôi - cũng đủ giúp chàng khỏe khoắn dạy những giờ kế tiếp. Khổ nỗi những tiếng trò chuyện cười đùa của các vị đồng nghiệp vang lên như bầy kiến lầm lì bò vào tai, khiến Kha không chợp mắt được.

"Thầy có thư".

Kha tỉnh người, ngồi thẳng dậy nói cám ơn bác bảo vệ khi đưa tay nhận lá thư. Chắc là thư của nàng rồi, ít ra nàng cũng đủ thông minh để hiểu rằng mình đang nôn nóng đợi thư của nàng chứ. Chẳng thấy tên người gửi đề ngoài bì thư, nhưng nhìn nét chữ Kha cũng biết đây không phải là thư của nàng. Chàng thở dài, vậy mình đã mừng hụt. Không phải thư của nàng thì thư của ai đi nữa chàng cũng muốn quăng vào sọt rác.

Nhìn kỹ nét chữ Kha nhận ra thư của thằng bạn dạy văn. Chàng không muốn đọc thư của thằng bạn kỳ cục làm gì, chàng chỉ muốn ngủ nhưng những tiếng cười đùa vẫn tiếp tục vang lên. Thôi thì đọc thư xem hắn viết gì. Hắn là giáo viên dạy văn biết đâu văn của hắn sẽ giúp mình ngủ được.

Kha,

Mày nói với Ông Hiệu trưởng tao chưa thể đến trường ngay được. Vì bị xe đụng gãy chân, còn đang bó bột. Như thế, tao chưa thể tiếp tục đi dạy được, dù lúc này rất muốn đi dạy sau ba tháng hè rong chơi.

Hãy chịu khó thay tao tưới nước, bắt sâu ở cây trúc đào mỗi ngày. Hãy chịu khó quét dọn phòng sạch sẽ. Hãy chịu khó giữ vững niềm tin thế nào rồi tao cũng sẽ trở về.

TH.

Bố khỉ thằng bạn văn ! Kha rủa thầm và xé lá thư ném vào sọt rác. Viết văn như thế không hiểu sao hắn lại được người ta xuất bản cho một tập truyện ngắn ! Văn chương gì chỉ khiến mình mất ngủ.

Chẳng còn kiên nhẫn đợi thư của nàng, đêm nay Kha đã đem hết số tiền dành dụm được nhờ dạy thêm ba tháng hè ra đãi bạn bè nhậu. Một bữa tiệc linh đình mừng người hết lo đợi chờ : gà quay, chim cu quay, heo quay, vịt quay, đủ thứ quay cộng thêm những chai rượu Johnny "đi bộ" đã giúp Kha có những trận cười ha ha.

Bữa tiệc tàn, bạn bè ra về hết, Kha vẫn còn ngồi nhâm nhi một đùi gà quay với ly rượu vàng óng ánh trong căn phòng trọ vắng lặng và bề bộn những đồ nhậu trên nền xi măng. Chàng đã dạy học trò tỉ trọng của rượu là 0,8 gram nhưng không hiểu sao nó lại làm đầu chàng nặng chình chịch. Phải chăng tỉ trọng đích thực của rượu là một tấn ? Kha lắc lắc cái đầu muốn nó văng ra khỏi cổ cho nhẹ người, nhưng cái đầu vẫn bám chặt vào cổ chàng. Chẳng biết gì hơn Kha đứng dậy tìm giấy viết thư. Phải viết cho nàng một lá thư nữa - chàng nghĩ - không biết đây là lá thư thứ mấy mình gửi cho nàng mà nàng không thèm trả lời nhưng thây kệ hãy viết thêm cho nàng một lá thư cuối cùng nữa. Kha bóc một tờ lịch và viết ở phía sau để khỏi mất công ghi ngày tháng. Dù say khướt nhưng chàng vẫn đủ tỉnh táo để quẹt diêm châm một điếu thuốc và viết :

Này người anh yêu.

Chắc em nghĩ em là mẹ anh nên anh có bổn phận phải viết thư vấn an em đều đều phải không ?

Hay tại lúc này giấy đắt, mực đắt, tem đắt nên em "thắt lưng buộc bụng giữ eo" không viết thư trả lời?

Chắc em cũng biết, yêu nhau đâu phải là làm cha mẹ nhau mà chỉ được quyền làm cha mẹ những đứa con của nhau mà thôi. Nhưng chúng ta đâu đã có đứa con nào vậy chúng ta chỉ là người tình của nhau. Là người tình thì phải chịu khó viết thư hỏi thăm sức khỏe nhau, chứ đâu có thể lơ là như em chẳng cần biết anh sống chết như thế nào trong ba tháng hè xa cách.

Vì vậy, anh rất buồn mà báo tin cho em biết, đám hỏi em đã được anh sửa đổi thành "đám nhậu" với bạn bè. Mong rằng hơi rượu sẽ mãi mãi ở trong tim anh như hình bóng em.

KHA.

Chẳng thèm đọc lá thư để sửa lỗi chính tả, Kha gấp tờ lịch bỏ vào bì thư màu xanh có sẵn tem và dán lại. Chàng biết khi đọc xong thư này, nàng sẽ chửi rủa chàng là người vô học, mất dạy, du côn và nhiều thứ nữa. Nhưng tất cả những tiếng chửi đó không làm chàng buồn. Chàng chỉ thật sự buồn và hiểu rằng ở kiếp này hay triệu triệu kiếp sau nàng cũng không có đủ thông minh để hiểu rằng chàng tha thiết yêu nàng... Chỉ có Chúa mới biết được tình yêu của chàng dành cho nàng. Nhưng Chúa là người quá nghiêm trang, chắc Ngài chẳng bao giờ thèm "mách lẻo" tình yêu của chàng cho nàng biết.

Kha cố gắng đứng thẳng người rồi loạng choạng bước ra khỏi nhà đi bỏ thư vào một thùng thư đặt trước Bưu điện quận ở cuối phố. Chàng phải đi bỏ thư ngay lúc này nếu không ngày mai chàng sẽ không còn hứng thú đi gửi thư nữa.

Trời mới mưa buổi chiều. Không khí mát mẻ nhưng đầu óc Kha vẫn nóng bừng. Ðêm tối đen. Những ngôi nhà quanh căn phòng chàng trọ đều đã tắt đèn. Kha nghiêng ngã bước đi không còn nhận ra phương hướng chiếc cổng sơn xanh đóng kín nằm ở đâu. Thình lình chàng đâm sầm vào một gốc cây ngã nhoài xuống đất, những giọt mưa còn đọng trên lá rơi tới tấp xuống mặt chàng mát lạnh. Kha tỉnh dần, chàng đưa tay quờ quạng trên mặt đất ướt để tìm lá thư đánh rơi và chàng chỉ bắt gặp những đóa hoa trúc đào rơi rụng. Chàng giận dữ vò nát một đóa hoa trong tay và Chúa ơi nếu có thằng bạn dạy văn ở đây chắc hắn sẽ cười chàng bể bụng, khi hắn nhận ra chàng đang khóc.
253




Một họa sĩ đi đến một vùng quê đẹp nghỉ ngơi và ở lại nhà một điền chủ. Hàng ngày anh ta mang thuốc và bút vẽ đi vẽ lại từ sáng đến tối, khi trời tối anh ta lại trở về trang trại ăn uống no nê rồi đi ngủ.

Đến ngày nghỉ cuối tuần anh ta muốn trả tiền cho ông điền chủ này, nhưng điền chủ nói:

- Không, tôi không muốn lấy tiền của ông đâu, tôi muốn xin ông một bức tranh. Tiền mà làm gì? Chỉ trong một tuần là tôi tiêu hết món tiền, nhưng tranh của ông thì vẫn không suy suyển tí nào.

Họa sĩ rất lấy làm hài lòng và cảm ơn điền chủ đã nói những điều tốt đẹp về những bức tranh của mình.

Điền chủ cười và trả lời:

- Không hẳn thế, tôi có một con trai đang ở tại Luân Đôn. Con trai tôi muốn trở thành họa sĩ. Tôi cho rằng ... tháng sau nó trở về đây, tôi sẽ chỉ cho cháu nó xem những bức tranh của ông và nó sẽ không muốn trở thành họa sĩ nữa!1934





Thanh tra Shapyro cảm thấy rất băn khoăn trước vụ án mạng này. Cách đây hơn một giờ bà Letty Cooks, 75 tuổi, đã chết trong bệnh viện. Một kẻ nào đó đã đập vỡ sọ của bà. Bà Letty có một người em gái song sinh - Natty. Cả hai chị em đều không lấy chồng và sau khi cha họ - một bác sĩ nổi tiếng - qua đời, họ ở cùng với nhau trong căn nhà lớn.

Khi thanh tra Shapyro nhấn chuông, bà Natty nhã nhặn mời ông vào nhà. Bà vẫn giữ được sự cân đốim mảnh mai so với độ tuổi. Những nếp nhăn trên khuôn mặt không che được nhan sắc của một thời, còn đôi mắt xanh khiến người ta liên tưởng đến mặt hồ trên các dãy núi cao.

- Cho phép tôi cất mũ giùm ông chứ, ông Shapyro? Mời ông ngồi. Ông dùng với tôi một tách trà nhé?

Shapyro vừa uống cà phê trước đó ít phút, còn ngoài giờ làm việc, ông thích uống bia lạnh, nhưng ông ko dám từ chối lời mời của chủ nhà.

Bà lão rót trà vào bộ tách sứ cổ, đặt trên một cái khay bạc, rồi bà ngồi xuống, hia tay để trên gối.

- Tôi biết thế nào ông cũng đến. Xin ông cứ hỏi - Bà nói, giọng điềm tĩnh.

Viên thanh tra cảm thấy thán phục trước sự tự chủ, thông minh của bà lão.

Những câu trả lời đúng theo dự đoán của ông. Sau cái chết của cha, chỉ có hai chị em sống trong ngôi nhà của mình. Mỗi tuần có một người đến dọn vườn. Họ ít khi đi ra ngoài. Thỉnh thoảng, họ mời các bạn già đến uống trà hoặc chơi bài.

Vừa nghe bà lão nói, Shapyro vừa nhấm nháp tách trà. Ông phải công nhận là bà có loại trà rất ngon.

- Chị tôi rất hiền lành, nhân hậu... Làm sao có kẻ lại đang tâm hại chị ấy - Tay bà run run, làm sánh nước trà ra đĩa. Bà thở sâu rồi nói tiếp - Chiều hôm kia, tôi làm kẹo dừa, đó là món tôi rất thích. Ở cuối phố nhà tôi có một gia đình nghèo, một bà mẹ với bốn con nhỏ, trong đó có hai chị em sinh đôi, giống như tôi với chị Letty vậy. Chúng tôi quen biết họ qua những đứa trẻ. Chúng thường chơi đùa ngoài phố. Chiều hôm qua, tôi được biết một trong hai chị em sinh đôi bị cúm nên tôi đến thăm. Cô bé tỏ ý thất vọng khi tôi không mang theo kẹo dừa.

- Vì vậy bà quay về và vội nấu kẹo dừa...
- Vâng.
- Khi kẹo dừa nấu xong, chị bà đã mang đến cho cô bé?

Bà lão im lặng gật đầu. Nước mắt bà ứa ra.

- Đến tối vẫn không thấy Letty trở về. Lúc đầu, tôi ko lo lắm vì nghĩ rằng chị ấy còn nói chuyện với bọn trẻ. Sau đó tôi gọi điện cho người quản lý chung cư - nơi chị tôi đến - thì ông ta nói rằng chị tôi chưa hề tới đó.

- Rồi bà ra khỏi nhà để tìm chị và thấy bà ấy ở sau lò bánh mì, trong dãy phố tối đen - Shapyro tiếp lời bà.

- Vâng - Ly nước lại sánh trong tay bà Natty - Trong bóng tối, tôi không nhận ra và bước qua. Chợt nghe có tiếng rên khe khẽ, tôi quay lại thấy chị ấy đang nằm trên vỉa hè. Tên tội phạm đã đánh chị ấy bất tỉnh rồi kéo vào sau lò bánh mì. Nó vừa lục túi xách vừa nhai kẹo dừa. Một tên quái vật, thưa ông Shapyro! Giọng bà nghẹn lại.

- Có thể đó là một kẻ nghiện ma tuý - Shapyro nhận xét - Tôi nghĩ rằng chúng thường rất ham ăn đồ ngọt.

- Trông nó còn trẻ, hơi cao gầy, trên mặt có một vết sẹo hình chữ V. Chị tôi đã kịp kể lại như vậy. Chị ấy còn dặn tôi nhớ chăm mấy cây hồng trong vườn - Bà lão nức nở.

Shapyro đặt tay lên vai bà, ông tưởng như đang phải thấy một con chim bị trúng thương.

- Đây là vụ cướp thứ tư trong vòng sáu tuần qua - Ông nói - Nhưng chị của bà là trường hợp bị tử vong đầu tiên.

- Cùng một tên tội phạm ư?

- Chúng tôi chưa khẳng định hoàn toàn. Có một phụ nữ cũng tả lại hắn tương tự, trước khi bất tỉnh.

- Có nghĩa là các ông truy tìm hắn từ lâu...

- Rất tiếc đến giờ này vẫn chưa có dấu vết gì - Shapyro thừa nhận.

Bà Natty vỗ nhẹ vào tay ông, tỏ ý an ủi:

- Chúc ông ngủ ngon, ông Shapyro. Cảm ơn ông đã chu đáo, quan tâm đến một bà lão...

Những ngày tiếp theo, Shapyro thường xuyên theo dõi khu phố nhà bà Natty. Ông không vừa lòng khi nhận thấy một chuyện. Hàng ngày, khi trời sắp tối, bà Natty lại ra khỏi nhà, đi dọc theo con phố tối tăm, ngang qua phía sau lò bánh mì, đến tận cuối phố mới quay về. Trông bà thật yếu đuối và cô đơn. Bà không nghỉ ngày nào, kể cả lúc có mưa hay gió lớn. Hình như nỗi đau khổ lớn lao khiến bà muốn nhìn lại nơi chị mình đã đi qua lần cuối cùng trong đời.

Lần nào thấy bóng bà xuất hiện, viên thanh tra cũng nép vào một gốc cây và quan sát. Nếu cứ tiếp tục thế này, ông sẽ phải nhờ đến một bác sĩ tâm thần mất.
Sang tuần thứ ba, bà Natty thay đổi thời gian biểu. Bà ra khỏi nhà muộn hơn 20 phút. Shapyro định nói chuyện với bà, khuyên bà không nên mạo hiểm như vậy nữa, nhưng ông bỗn thấy một bóng đen xuất hiện phía sau lưng bà lão. Loáng một cái, kẻ lạ mặt đã đánh vào gáy bà, giật lấy cái túi xách bà đang cầm.

- Đứng lại!- Shapyro thét to và chạy tới.

Tên tội phạm xô bà lão xuống vỉa hè rồi lao vào bóng đêm. Bà lão cố ngồi dậy. Khi Shapyro tới nơi, bà túm chặt lấy chân ông.

- Bà bỏ tôi ra và ở yên đây - Ông vừa thở vừa nói, muốn bứt ra khỏi hai tay bà - Tôi không muốn hắn trốn thoát!

Nhưng bà lão càng giữ chặt ông hơn.

- Ông không việc gì phải liều mạng vì tôi, ông Shapyro. Có thể hắn có vũ khí. Mà dù ông có bắt được hắn, hắn cũng chỉ đi tù vài năm, sau đó lại tiếp tục hại những người khác. Tôi chắc chắn đúng là kẻ đã hại chị tôi: cao, gầy, có sẹo ở mặt. Xin ông đừng giận tôi không thể để ông đi đâu.

Trước nửa đêm, Shapyro rời khỏi văn phòng, mắt đỏ ngầu vì mệt mỏi, đầu đau nhức. Một đồng nghiệp đuổi kịp ông trong hành lang:

- May quá, gặp được anh. Chúng tôi vừa được tin báo là đã bắt được tên tội phạm. Cô bồ của hắn thấy hắn chết trong phòng.

Năm phút sau, Shapyro đến nơi xảy ra án mạng cùng với hai điều tra viên, một bác sĩ giám định, một nhân viên phân tích của phòng thí nghiệm và một người chụp ảnh. Lý lịch của tên tội phạm đã được mang đến, hắn tên là Peter Farley gì đó. Trong tủ của hắn, mộtt lô túi xách phụ nữ nằm ngổn ngang. Shapyro không biết cái nào của bà Natty. Ông chọn đại một cái màu sẫm có viền trắng kiểu cũ. Và ông đã không nhầm. Khi xem xét bên trong túi xách, ông như ngạt thở vì trong thấy một cái kẹo bọc giấy bóng nằm sát một góc.

- Theo bác sĩ, nguyên nhân gây tử vong là gì? - Ông hỏi bác sĩ giám định.

- Rõ ràng đây là một ca ngộ độc. Chắc chắn là chất arsen. Chúng tôi tìm thấy trong phòng hắn có rất nhiều giấy kẹo. Loại vẫn thường bán ở tất cả các tiệm bánh kẹo.

Mặc dù đã quá khuya bà Natty vẫn niềm nở tiếp Shapyro. Bà mời ông vào nhà, hỏi ông có muốn dùng trà không.

- Cảm ơn bà, lần này thì không . Tôi chỉ muốn hỏi bà xem cái túi xách này có phải của bà không?
%3
CBR>- Vâng đúng là của tôi. Cảm ơn ông đã tìm ra.

- Thưa bà Cooks, bà đã biến tôi thành một tên ngốc. Shapyro không còn tự chủ được sẵng giọng. Bà đã tự làm mồi cho tên cướp, khi hắn tấn công bà, bà đã làm hết sức để ngăn tôi truy đuổi hắn. Bà đã cố tình để hắn cướp cái túi xách và những thứ trong đó. Bà đã đạt được mục đích rồi đấy. Hắn đã ăn hết kẹo. Tôi đã tình cờ phát hiện ra một cái duy nhất còn sót lại dưới tấm lót. Bà có công nhận đây là kẹo do bà nấu không?

Bà lão đứng dậy, nhìn cái kẹo trong tay viên thanh tra. Bà trịnh trọng đưa tay ra lấy kẹo và trong tích tắc, nó đã nằm gọn trong miệng bà. Khi Shapyro nhận thức được sự việc thì cả cái kẹo lẫn lớp giấy bọc đã nằm trong bụng bà lão.

- Ông Shapyro, chẳng lẽ ông cho là tôi dám nuốt kẹo có thuốc độc ư? - Bà mỉm cười hỏi.

- Tôi đoán chắc là bà sẽ làm như vậy, một khi tình huống bắt buộc. Nhưng lượng arsen trong một cái kẹo không thể gây tử vong. Tôi biết làm gì với bà đây bà Natty?

- Ông có thể bắt tôi vì tội huỷ vật chứng.

- Tôi không tin là sẽ thuyết phục được hội đồng thẩm phán. Nhưng kể cả nếu tôi có chứng minh được là kẹo đã tẩm thuốc độc, bà cũng đừng bao giờ cho ai ăn nữa nhé, bà Natty?

Bà Natty tiễn ông ra cửa.

- Ông sẽ ghé lại uống trà nữa chứ?

Viên thanh tra nhìn bà lão, im lặng một lúc. Rồi ông nói:

- Không, thưa bà Natty, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không đến nữa...

Bà lão gật đầu, vỗ vỗ vào tay tỏ ý đã hiểu.
244


Powered by Blogger.