A: Hôm qua tao ngủ mớ thấy mình được nhà trường cử đi thi thể thao cấp tỉnh môn chạy dài.
B: Chà! Một giấc mơ tuyệt đẹp.
A: Tuyệt cái con khỉ! Tao mơ đang chạy thì bị đứt dây thun quần!
B: Vậy sao?
A: Ờ. Nhưng vẫn còn may.
B: May chỗ nào nữa?
A: May là tao ngủ ở tư thế nằm co, chứ ở tư thế nằm thẳng cẳng thì quê chết!1126
Ông vua xe hơi, Henry Ford sau khi chết được đưa lên thiên đàng. Tại cổng thiên đàng có Thánh St Peter chờ sẵn để đón Ford.
Vừa gặp Ford, Thánh Peter cho biết: Ford hồi còn sống, ngươi đã làm nhiều việc công ích cho xã hội, như sáng chế phương pháp làm việc dây chuyền cho kỹ nghệ xe hơi làm thay đổi cả thế giới. Với thành quả như vậy, ngươi sẽ được một ân huệ là có thể chuyện trò với bất cứ ai ở thiên đàng này.
Suy nghĩ vài giây, Ford xin được gặp Thượng Ðế. Thánh Peter dẫn Ford đến gặp Thượng Ðế. Vừa gặp Thượng Ðế, Ford hỏi ngay:
- Thưa Ngài, lúc ngài chế tạo ra đàn bà, ngài đã suy nghĩ gì?
Thượng Ðế nghe xong bèn hỏi lại:
- Ngươi hỏi như vậy là ý gì?
Ford liền trả lời:
- Trong sáng chế của ngài có quá nhiều sơ sót. Phía trước thì bị phồng lên, phía sau thì bị nhô ra. Máy thường kêu to khi chạy nhanh. Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao. Thường xuyên đòi hỏi nước sơn mới. Cứ đi 28 ngày là lại bị chảy nhớt và không làm việc được. Chỗ bơm xăng và ống xả lại quá gần nhau. Ðèn trước thì quá nhỏ. Tiêu thụ nhiên liệu thì nhiều kinh khủng khiếp.
Thượng Ðế nghe qua liền bảo:
- Ngươi hãy đợi một chốc lát để ta xem lại bản thiết kế.
Ngài bèn cho gọi toàn bộ kỹ sư thiết kế và cơ khí trên thiên đàng lại để xem lại quá trình, sau một thời gian họ đã trình lên cho Thượng Ðế bản báo cáo. Xem xong, ngài bèn phán rằng:
- Những lời ngươi vừa nói hoàn toàn đúng, bằng sáng chế của ta thật có nhiều sai sót, nhưng nếu tính trên phương diện kinh tế thì hiệu quả lại rất cao: Có gần 98% đàn ông trên thế giới xài sản phẩm do ta chế tạo, trong khi chỉ chưa đầy 10% đàn ông xài sản phẩm của ngươi.2599
Thế là anh Linh đã ra đi vừa tròn một con giáp. Cái chết của anh chẳng bất ngờ nhưng cũng gieo vào lòng Khang những ấn tượng khó quên trong những ngày sống trên Hoa Kỳ.
Khang gặp anh Linh năm 1989 lúc chàng ghé về thăm người yêu của chàng khi nàng vừa nhận việc ở một hãng bảo hiểm lớn đóng đại bản dinh tại thành phố anh Linh sống cả mười mấy năm rồi. Anh Linh bấy giờ tuổi đã cao, xấp xỉ 50 gì đó, nước da ngăm đen, trông bên ngoài giống như một người Mễ. Anh nguyên là thợ sửa xe, khéo tay, sửa chữa nhà cửa lấy một mình. Trong nhà anh có đủ dụng cụ để sửa chữa.. Anh sang đây từ năm 1975, trong đợt tỵ nạn đầu tiên, khi chiến tranh vừa kết thúc. Trước đó anh là Đại Uý nhảy dù, giữ chức Quận trưởng.
Có lẽ vì từng giữ chức vụ cao nên lúc tha hương anh Linh gặp nhiều trở ngại, khó thích hợp với cuộc sống ở đây. Anh có vợ và một bé gái 5 tuổi lúc Khang gặp. Anh chẳng giữ việc nào được lâu, cứ làm vài tháng lại bị đuổi vì bất đồng ý kiến với chủ hoặc người xếp của anh hoặc vì chậm chạp, không còn nhanh nhẹn như lúc tuổi còn trẻ để làm kịp theo yêu cầu của chủ hoặc hãng. Khang nói với anh:
-- Anh làm giỏi, tuy là làm chậm. Vậy anh hãy đứng ra sang tiệm nào đó, mình làm chủ cho đỡ mệt!
Anh Linh loay hoay chạy tìm kiếm nhưng cũng khó vì ngân hàng xem tín ngân và lương bổng của anh chị không bao nhiêu. Chị Hiền làm lao công quét dọn trong bệnh viện, lương bổng và quyền lợi chỉ đủ trang trải chi phí hàng tháng, dành dụm lại cũng chỉ còn chút đỉnh. Không đủ tiền để thế chấp sang một cơ sở thương mại. Những người quen biết muốn giúp cũng có thể đóng góp một chút ít nhưng cũng ngài ngại vì một chuyện chẳng đâu vào đâu. Một hôm anh Linh cầm tiền chị Hiền, vợ anh, đi mua xe cho chị để thay chiếc xe cũ hay bị hư phải sửa hoài. Chẳng biết mấy người bán xe làm thế nào mà anh lại đổi chiếc xe anh còn tương đối mới lấy chiếc xe truck chạy bốn bánh cao nhồng nhồng trông rất ư là thể thao, kiểu các cậu tuổi đôi mươi thỉnh thoảng chạy.
Thế là chị Hiền lại phải chạy chiếc xe cũ ọp ẹp, bao nhiêu tiền dành dụm đã bị anh Linh bỏ xuống chiếc xe mới chỉ có anh mới chạy được rồi. Những người bạn bên lương cũng như bên đạo lắc đầu. Hình như câu Kinh Thánh, "Ai trung tín trong những việc nhỏ cũng sẽ trung tín trong những việc lớn hơn", làm người ta chùn tín nhiệm vào anh Linh. Cả ngay đến tiền tiết kiệm của vợ anh dành dụm để mua một chiếc xe tốt để đi làm hay đưa con đi học ngày đông giá băng anh cũng nhẫn lòng lấy để mua một chiếc xe cho riêng mình thì làm sao ai dám tin tưởng đây?
Lần cuối cùng, anh Linh thất nghiệp lâu! Hoàn cảnh trông tội nghiệp lắm! Nhưng tật cũ khó bỏ, anh hút thuốc liên tù tì và uống bia thay nước. Khang mấy lần gặp anh nói anh bớt hút đi một chút cho đỡ hại phổi và tránh khỏi ung thư nhưng vô hiệu. Bé Ly-Ly cũng vừa mừng sinh nhật tròn sáu tuổi. Anh Linh đã sửa nhà xong, trông cũng gọn gàng. Phòng tắm có bồn Jacuzzi, nước phun đấm bóp thân thể, đèn điện sáng choang, rộng rãi, gạch bông, kiếng gắn bốn bề, đi vào trông như đi dạ hội. Ui chao, tưởng tượng mà xem, lúc mình tắm, như có 4 người khác nữa tắm chung. Trong tiệc sinh nhật, lúc chỉ còn các ông, các anh, khi không còn đàn bà con gái hay con nít đứng quanh, bạn bè xúm lại chọc anh Linh:
-- Cái nhà anh này ghê quá! Trong nhà bây giờ lại có cả dâm bồn, tha hồ anh chị hí hửng tù ti tú tí với nhau nhé!
-- Đã lỡ làm thì làm cho ra trò chứ! Mai mốt bán cũng có giá!
Nhà anh ở khu Downtown, chung quanh cũng lụp xụp rồi. Nhìn qua là biết nhà anh sang nhất trong khu phố tồi tàn này. Những người mua bán nhà cửa hay người kinh nghiệm thường nói nên mua căn nhà tương đối trong một khu đắt giá dễ bán và có lợi hơn là mua một ngôi nhà tốt nhất, đẹp nhất trong một khu xoàng xoàng. Anh Linh hình như bất chấp luật kinh tế, anh thích chi là làm nấy, bốc đồng chuyên làm theo ý mình chứ chẳng thèm bàn với vợ hay bất cứ ai!
Đâu một tuần sau bữa tiệc sinh nhật bé Ly-Ly thì Khang nhận được điện thoại báo anh đã được xe cứu cấp đưa đến bệnh viện. Khang vội vàng vào thăm, anh Linh nằm trong trạng thái hôn mê chẳng biết gì. Hỏi ra thì anh uống rượu say đêm đó rồi đi vào nhà tắm trượt chân ngã đập đầu vào thành bồn tắm hay bị tim giật. Chị Hiền và bé Ly-Ly cứ ngồi tỉ tê khóc, kể lể.
Bệnh viện để anh ở phòng cứu cấp chừng mười hôm thì anh tỉnh nhưng đã bị liệt gần toàn thân, mọi sự đều do máy gắn vào thân thể để cung cấp dưỡng khí, nuôi dưỡng và tiêu hoá. Anh được ở lại bệnh viện chừng một tháng rồi phải chuyển qua Nhà Điều Dưỡng. Tiền bảo hiểm đã cạn. Phòng Xã Hội tiểu bang cũng như các cơ quan từ thiện cũng giúp đỡ phần nào, nhưng chị Hiền phải bán nhà ra ở thuê, để có tiền chi phí lo cho anh Linh.
Khang tới thăm anh Linh ở Nhà Điều Dưỡng hằng tuần trong suốt hơn một năm, có lúc gặp chị Hiền, có lúc không, có khi anh Linh tỉnh, có khi mê man. Nhiều lần chỉ hỏi qua loa, chứ chẳng biết nói gì! Nhìn chị Hiền và bé Ly-Ly mà thương cho hoàn cảnh của chị. Tưởng như gia đình chị Hiền đã tới hồi khánh kiệt thì anh Linh thở hơi thở cuối cùng. Anh ra đi một cách nhẹ nhàng, bất ngờ sau cả năm nằm liệt mặc dù vẫn có người tập thể dục, xoa bóp anh hằng ngày.
Sống dở chết thiêng! Nhiều đêm chị Hiền thấy hoặc mơ thấy anh về trăn trối ủi an. Nhiều người đàn ông muốn kết bạn với chị, nhưng anh Linh cứ hiện về cản trở. Cho đến người cuối cùng thì anh gật đầu, cho đến bây giờ thì chị Hiền đã sáu năm hạnh phúc! Bé Ly-Ly bây giờ cũng đang ở năm cuối bậc trung học, chuẩn bị vào đại học. Người chồng sau của chị Hiền thương bé Ly-Ly lắm, nên chỉ vài tháng sau khi thành hôn, đã chính thức nhận bé Ly-Ly làm con mình. Mọi sự, người ta nói, đều có số cả.
Tuần rồi, gia đình chị Hiền mời gia đình Khang tới dự lễ giỗ mười hai năm của anh, ngay sau lễ Tạ Ơn. Khang đi dự tiệc về chợt ngẫm nghĩ phải chăng mỗi người có duyên nợ, chị Hiền đã đã lo cho anh Linh trọn vẹn trong những ngày cuối đời, đã trả nợ cho anh suốt quãng đời chung sống, nên bây giờ được người chồng sau tận tình yêu thương và chẳng hề ghen ghét hay buồn chi khi chị làm lễ cúng giỗ cho người cha quá cố của bé Ly-Ly. Căn nhà cũ đã chẳng còn, chiếc bồn tắm trong phòng tắm gắn kiếng bốn bề cũng mờ phai trong trí nhớ, chỉ còn chút tình thương yêu, chút nghĩa thâm sâu trong những năm tháng vợ chồng, những ngày cuối đời trong bệnh viện hay nhà điều dưỡng. Những thứ đó, thứ tình người lặng lờ âm ỉ, cả mười hai năm qua ai biết được khó mà quên.
Ðời tổng hợp bởi muôn vàn mặt phẳng
Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ưóc, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của tình thương,
Định lý đảo, tìm ra vì giao hoán.
Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm
Mà tình yêu là quỹ tích của không gian
Kiếp nhân sinh những hàm số tuần hoàn
Quanh quẩn chỉ một đường lượng giác
Em không muốn cuộc đời toàn không số
Sống kiếp tròn công thức cộng, nhân, chia
Cạnh góc ôi phức tạp vô cùng
Mà hạnh phúc chính là đường biểu diễn
Sống tình yêu chờ vòng đời định tiến
Ðâu phải nghiệm số của đời trai
Em muốn bên anh tận cực của thiên tài
Ðể đo bán kính trần gian vũ trụ
Nếu giòng đời toàn là thông số
Bài toán tình thành vô nghiệm anh ơi!
Tình đầu là tam thức bậc hai
Ðể có thể ngồi yên xét dấu
Mà hai ta là kẻ chứng minh
Ðừng bao giờ đảo vế một phương trình
Tìm đạo hàm ngồi yên suy nghĩ kỹ
Sẽ thấy dần hệ số góc tình yêu
Ðừng vội vàng định hướng một hai chiều
Vì tình ái có muôn ngàn hệ luận
Lượng cuộc đời bằng ánh sáng lập phương
Trung tuyến đây kẻ lấy một đường
Trong mặt phẳng tương giao hai khóe mắt
Anh chịu khó kẻ thêm đường thẳng góc
Ðể tim em mãi mãi phụ kề anh
Môi nở hoa ôi công thức trung thành
Mặc thế sự vòng tròn ngoại tiếp
Em sung sướng nhận ra đường tiếp diễn
Của cuộc đời ta một hằng điểm điều hoà
Em sung sướng vội đóng khung đáp số.
Tình Toán Học
Tôi yêu em với tình yêu"Cố Định"
Hiến dâng em hai nghiệm số "Âm Dương"
Tìm chu kỳ của "Hàm Số"tuần hoàn,
Để im lặng một"Đường Cong" biểu diển
Dùng"Định Lý" thay người câu ước hẹn
Lấy"Lũy Thừa" làm dáng lá thư duyên
Giải"Đạo Hàm" mong tiếp xúc cùng em
Tìm "Tọa Độ" của"Phương Trình Toán Học"
Tôi yêu em đôi mắt buồn"Lưu Động"
Mũi dọc dừa"Thẳng Góc" với môi son
Hàm răng đều như"Bậc Nghiệm Phương Trình"
Đôi mày liễu như"Chiều Cong Định Hướng"
Tôi "Khai Triển" người yêu lý tưởng
"So Sánh" rồi ghi chú nơi đây
Tình yêu này là"Phương Trình Bậc Nhất"
"Chứng Minh" rằng tôi hết dạ yêu em
Quán nằm chỗ bến sông dựng bằng lá tranh ẩm mốc. Sau lưng là con đường nhỏ dẫn về làng um tùm cây dại. Trước mặt là con sông không thấy bờ, nước lăn tăn như bạc vụn. Những hôm thuyền rời bến, nước đục lên một tí rồi lắng lại, trong leo lẻo, thấy từng viên sỏi nhỏ óng ánh dưới đáy nước. Trên bờ những cây gỗ mục nằm chất đống, chen lấn giữa đám cỏ gà cao nhồng.
Chủ nhân của quán cũng nhỏ bé và cô độc hơn giữa mênh mông trời đất. Nhiên có đôi mắt một mí buồn rượi, da thịt trắng xanh như bước ra từ liêu trai. Mái tóc dài để xõa che khuất gương mặt tròn và nụ cười buồn đầy quyến rũ. Mỗi buổi chiều thu dọn ghế xong ngồi tựa cửa, tranh thủ thêu những chiếc khăn lụa nhỏ có hình chim bay lượn bên nhau để kịp gửi xuống chợ bán. Nhiên đẹp như tranh Tố Nữ. Nắng vàng cuối chiều trườn nhẹ trên bờ cỏ, hắt lên má Nhiên mầu hồng ấm áp. Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng..." Tiếng hát kéo dài qua những rặng cây ướt đẫm nước, rồi tan ra trước khi rơi xuống con sông đang chuyển dần sang mầu xám sẫm.
Khách của quán đa phần là dân chài da nâu bóng như hun đồng, tóc bám bụi từng mảng lớn, vô tư và ồn ã. Thảng hoặc mới có người trên huyện ghé tạt qua vì tiếng đồn cô chủ quán xinh đẹp, quán có vẻ gì rất xưa cũ hơn là dừng chân uống nước. Họ đến từng người một nhưng ngồi lẫn trong đám dân chài, trầm ngâm nhìn Nhiên, xì xào bàn tán nhỏ to. Mắt họ vẩn mây đục. Họ nhấp môi vài chén nước thấy đắng chát, tay chân rã rời mà không ngỏ được một lời nào. Họ đến rồi đi như lá bay, tuần tự, lũ lượt không để lại dấu ấn gì, cũng không trách móc gì. Như xem một bức tranh, nó đẹp quá nhưng không thể nào của riêng mình được. Vậy thì ngắm nghía đã được thỏa thích rồi.
Còn Nhiên, càng ngày càng thấy buồn, thấy quán thêm lạnh lẽo. Mỗi lúc nhìn thấy vợ con của những người thuyền chài ra đón chồng, lòng Nhiên lại chùng xuống. Có gì đâm nhoi nhói trong tim, ứa lên mắt những giọt nước trong suốt.
Tôi bảo: "Nhiên ơi, lấy chồng đi cho nó đỡ cô quạnh". Nhiên cười buồn bã "Lấy ai bây giờ. Bọn họ tầm thường lắm". Những ngón tay Nhiên đan vào nhau mảnh dẻ và bắt đầu ửng đỏ. "Họ có yêu mình đâu, chỉ toàn yêu vẻ ngoài của mình thôi". Tóc Nhiên xõa dài xuống bờ vai tròn lẳn. "Hồng nhan truân chuyên lắm Nhiên ạ!". Nhiên cũng nhủ, ừ hồng nhan lúc nào phận cũng bạc.
Người đó tọc tạch đi trên chiếc xe đạp rỉ sét, bàn đạp cứ rên lên ken két, sau lưng chằng buộc một hộp đồ lớn, đi từ hướng thị trấn về đến chỗ quán của Nhiên thì dừng lại, ngó quanh vài giây rồi chậm rãi bước vào. Hôm ấy trời lạnh, quán vắng khách. Người khách quỳ xuống bên bếp lửa. Ánh vàng hắt lên mặt anh lộ rõ đôi mắt sáng, vầng trán phẳng như tạc bằng đá và đôi môi mím chặt cương nghị. Cả người anh toát lên vẻ mạnh mẽ lẫn yếu đuối giữa những đường nét đối chọi nhau trên gương mặt. Anh quay lại bảo "Chị làm ơn cho tôi chén chè nóng". Anh không giật mình, không sững sờ, thậm chí không để ý đến vẻ đẹp của Nhiên. Ðiều đó làm Nhiên xúc động. Cô đặt trước mặt anh ấm chè và vài phong bánh, nhỏ nhẹ "Anh về làng chơi?". "Không, tôi không có người quen ở đây. Tôi đến vẽ bến sông này. Chị biết ở đây có ai cho thuê nhà?". "Tôi không biết. - Nhiên ngập ngừng. - Thôi anh cứ ở tạm quán tôi. Bến sông ngay dưới kia, anh tha hồ vẽ". "Ðược thế thì tốt quá". Anh bước thẳng xuống bến, không một lời cảm ơn. Nhiên không thấy buồn, thấy giận chỉ cảm giác người mình chòng chành, từng đợt sóng nhẹ nhàng trào dâng trong lòng. Nhiên bước ra cửa, mắt dõi xa xa. Bóng anh in nghiêng trên nền trời xám bạc, một lát đã lẫn vào làn sương mỏng tỏa trên mặt nước. Một vì sao đột nhiên vụt sáng cuối chân trời rồi cũng bay đi mất hút.
Buổi tối anh dặn dò kỹ lưỡng "Chị Nhiên ạ, sáng mai nhớ gọi tôi dậy sớm. Tôi chỉ có vài ngày ở đây, phải vẽ cho bằng được bình minh trên bến sông. Nó đẹp lắm phải không chị?". "Tôi thì thấy đẹp nhưng ở đây ai cũng bảo thường". Nhiên quay lại thấy anh đã nghẹo đầu ngủ ngon lành.
Nhiên nằm im lặng, lòng xốn xang không ngủ được. Nhiên bước ra ngoài. Ðêm lạnh. Bến sông mờ mịt tối, in những bóng thuyền lờ nhờ như những chiếc lá khô nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Tiếng gió rền rĩ như tiếng thở than của những người đàn bà. Nhiên hỏi "Các chị buồn ư. Hãy về đây nói chuyện với em. Ðêm nay em khó ngủ quá". Nhiên gục mặt vào hai bàn tay, lòng tự nhiên bâng khuâng.
Mặt trời đã lên cao. Sương đã tan và những con thuyền đã rời bến. Nhiên nhìn anh ngủ, không muốn đánh thức dậy. Cô lặng lẽ làm mọi việc, gắng không gây tiếng động. Nhiên cảm thấy thương anh kỳ lạ.
Khoảng mười giờ anh bừng tỉnh hốt hoảng nhảy xuống giường. "Ðã sáng rồi hả chị?". Nhiên cười "Ðã trưa rồi". Anh vò đầu bứt tai "Trời ơi sao chị không gọi tôi. Thật là...". Nhiên phân trần "Em thấy tội anh quá - Giọng Nhiên hơi nghẹn lại vì tự ái - Em xin lỗi". Anh xua tay "Thôi không sao, không sao!". Anh xách đồ nghề ra bến sông, ở suốt dưới đó cho đến tối mịt. Anh luôn miệng nhắc "Tôi chỉ có vài ngày làm việc ở đây, sợ không kịp mất". Vô tình anh làm Nhiên đâm sợ hãi thời gian.
Một buổi sớm thức giấc. Nhiên thấy đầu giường mình có hoa dại. Những bông hoa cánh mỏng tang phết mầu mật ong óng mượt. Vài giọt sương còn đậu trên cánh hoa, lóng lánh như ngọc. Nhiên hớt hải chạy ra bến sông "Anh ơi..." Tiếng cô lạc vào trong gió. Gió lùa vào cô lạnh buốt. Nhiên rũ xuống. Mặt sông cuộn lên như muốn dìm Nhiên mãi.
"Nhiên!". Nhiên ngẩng phắt dậy. Anh đứng trước mặt nhìn Nhiên cười hiền lành, hai gò má tái nhợt vì lạnh. Nhiên nhào đến anh, bật khóc "Em tưởng anh đi rồi. Em nghĩ là anh đã đi rồi". "Anh làm sao đi được - Anh vuốt tóc Nhiên, dìu cô về nhà - Anh còn phải vẽ em nữa kia mà". "Em ư?". "Phải, bé yêu". Anh đặt Nhiên nằm xuống giường, hôn cô âu yếm. Sóng trong người Nhiên trào lên cuồn cuộn rồi sôi chảy êm ái. Ðến một lúc nó tan ra ngọt lừ. Nhiên thiếp đi miệng nở nụ cười sung sướng.
Mấy ngày sau quán vẫn mở nhưng tự nhiên chẳng ai đến. Bến nước thành ra buồn tênh. Nhiên ngồi cho anh vẽ, đắm chìm trong niềm hạnh phúc bất ngờ mình đang có trong tay, mắt đẫm nước. Nắng như tấm voan bằng vàng phủ lên tóc Nhiên, lên người Nhiên chạy thành một đường diềm trên ô cửa mở rộng. Anh luôn miệng xuýt xoa "Chao ôi, Nhiên ơi, đẹp quá đi mất. Em này, bến sông này, còn gì hơn nữa". Bức tranh hoàn thành vào buổi chiều cuối thu. Mưa phùn giăng kín ô cửa. Nhiên nhìn mình trong tranh, thốt lên ngạc nhiên "Em đẹp thế này sao?". "Còn hơn thế nữa. Nhưng anh khôn
g tả hết được. Thật khó lòng mà tả hết được em". Nhiên xấu hổ, dụi đầu vào ngực anh. Tiếng anh thì thầm "Một tháng rồi Nhiên nhỉ? Vậy mà anh chẳng muốn đi đâu hết".
Nhiên tỉnh dậy, nhìn quanh không thấy anh. Nhiên nghĩ chắc anh lại ra bến sông vẽ nên dọn hàng xong mới ra gọi anh. Nhiên gọi mãi, không thấy anh trả lời. Cô chạy dọc theo bến sông. Mưa bay tới tấp vào mặt. Bến sông lặng ngắt. Cây cỏ dúi vào nhau ướt sũng. Nhiên ráng gượng đứng lên quay về nhà. Cô hiểu thế là anh đã đi thật rồi. Ðã đi xa khỏi cô thật rồi, không một lời từ biệt. Ðáng lẽ thì không nên thế. Nếu anh phải đi thì cũng nên nói với cô một lời... Nhiên đưa tay vuốt khuôn mặt ướt đẫm nước mưa và nước mắt.
Nhiên lặng lẽ ngồi xuống giường. Dưới gối có một tờ giấy nhỏ, chữ viết vội vàng "Nhiên yêu quý, rồi cũng phải đến ngày hôm nay. Anh rất yêu em nhưng công việc của anh bắt anh phải đi. Em thông cảm chờ anh. Hãy chờ anh nhé, bé yêu, hôn em!"
Nhiên gục xuống. Cô không khóc. Chỉ thấy mắt bỏng rát. Nước mắt chảy ngược hết vào trong như muối xát. Nhiên không còn khóc được nữa.
Thời gian thấm thoắt trôi qua. Những lùm cỏ dại bên sông ngày càng um tùm lút mất tầm mắt nhìn về bến. Ðến mùa xuân, hoa dại lại nở vàng óng như những cánh bướm. Quán lại đông khách. Dân chài lẫn với người thị trấn lại đến uống nước vì trong quán có cô chủ quán xinh đẹp như thần tiên. Nhất là sau dạo mùa đông, nét đẹp ấy càng đằm lại, hanh hao như sương khói, như thể lúc nào cũng chực như tan biến mất.
Chiều khách vãn dần. Cô chủ quán lại ra ngồi tựa cửa, mắt dõi nhìn xuống bến sông, tay âu yếm xoa bụng. Tôi giục "Sao không lấy chồng đi cho đỡ cô quạnh?". Cô cười vô tư lự "Mình phải đợi anh ấy về". Cô cúi xuống, tiếp tục cặm cụi thêu những con chim nhỏ trên khăn lụa kịp buổi chợ ngày mai, và hát "Ơi chàng ơi, chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em gối chiếc chăn đơn đợi chàng...".
Cũng dạo ấy, trên những tờ báo lớn đều đưa tin "Lần đầu tiên Việt Nam đoạt giải lớn Mỹ thuật quốc tế". Bức tranh Bến đợi chồng được đánh giá rất cao về mặt nghệ thuật. Kỹ thuật ánh sáng, đường nét hài hòa, chắt lọc. Mầu sắc lung linh. Nhìn vào, người ta có thể thấy những cảm xúc về tình yêu, hạnh phúc đã từng một lần trôi qua đời mà ít người nắm bắt được. Bên cạnh tấm ảnh chụp tác giả bức tranh đang tươi cười đứng bên người vợ tương lai, con một họa sĩ lão thành tiếng tăm và bức tranh Bến đợi chồng. Cô gái ngồi tựa cửa, thấp thoáng phía xa con sông rắc bạc vụn. Những chiếc thuyền đánh cá nâu sẫm nằm phơi lưng lên trời chen giữa đám gỗ mục và cỏ gà. Nắng viền đường diềm lên ô cửa, thả tấm voan khắp người cô. Tác giả của bài viết về bức tranh Bến đợi chồng kết luận: "Ðôi mắt của cô ấy đẫm nước, lúc nào cũng như thầm thì "Em ở đây. Em đang đợi anh đây...". Thật hạnh phúc cho người đàn ông nào được cô ấy yêu thương và chờ đợi".200
Trận bóng đang căng thẳng, cậu thủ dự bị nói với huấn luyện viên:
- Sếp cho em xin điếu thuốc nữa, hồi hộp quá!
- Cậu cột giày khởi động vào thế người đi.
- Nhưng chân em còn đau quá!
- Chứ ngồi ngoài phá thuốc hoài ai mà chịu nổi!
Bóng đá là sự di chuyển bóng bằng chân trong một khoảng không gian và thời gian hạn định.
Ước mơ của huấn luyện viên bóng đá là được làm việc cho một câu lạc bộ giàu có, ước mơ của các câu lạc bộ là tạo được một siêu sao còn ước mơ của các cổ động viên là được xem một trận đấu hay. Nhưng nếu tất cả những ước mơ đó không thành thì bạn sẽ được xem một vở kịch hay...
Làm dỏm
Sau mấy trận thua liên tiếp, trong một buổi họp, huấn luyện viên sau khi phê bình các cầu thủ kết luận:
- Cả cái sân rộng lớn như vậy các anh đều bao quát hết được. Thậm chí chỗ nào đặt máy quay của truyền hình, máy chụp ảnh của nhà báo, các anh đều biết để tạo dáng lên tivi cho đẹp mặt. Vậy mà chỉ có mỗi cầu môn đối phương nằm ở đâu mà không ai trong các anh xác định được chính xác là thế nào?
Ở tai tôi đây này
Trên khán đài, những người hâm mộ cổ vũ hò hét không ngừng. Lúc kết thúc trận đá bóng, một người nói với người bên cạnh giọng khàn khàn :
- Hình như tôi mất giọng...!
- Anh hãy tìm lại giọng nói ở trong tai tôi đây!2491
Trong làng nọ có một đứa con gái khật khùng, bạ gì nói nấy, không ai ngăn cấm được, nhưng không ai rầy cấm nó và cho là một điều vui.
Có lần một đoàn hát cải lương đến trình diễn, anh kép mùi quen tánh dê tán tỉnh cô nọ. Tối lại, vừa bước ra sân khấu vỗ ngực xưng tên thì cô gái đứng xem gần hàng ghế thượng hạng vụt nói to lên:
Đó, anh đó chọc tao. Anh đó hun tao hồi trưa.
Khán giả cười ầm ĩ. Anh kép hoảng hồn chạy vô buồng nói với ông bầu xin nghỉ, không lãnh tiền. Ông thầy tuồng nói:
Đêm mai mày nghỉ không sao, bây giờ mày phải diễn.
2884
Hai vận động viên leo núi đang vượt qua một cái vực thì một người bị trượt chân rơi xuống. Người kia ngoái lại hỏi:
- Anh có làm sao kh...ô...ô...ng?
- Chưa b...i...ế...t...!,
- ở dưới trả lời
- vẫn đang r...ơ...i...i...
1433
Cô giáo dặn dò học sinh lớp một:
- Ngày mai là chủ nhật, mỗi em hãy làm một việc tốt giúp đỡ gia đình để cha mẹ vui lòng nhé.
Ngày thứ hai, cô giáo hỏi một bé:
- Hôm qua, em đã làm được việc tốt gì để cha mẹ vui lòng nào?
- Thưa cô, hôm qua em làm được hai việc tốt. Buổi sáng, em đến chơi nhà cô em, mẹ em rất vui mừng. Buổi chiều, em về nhà với mẹ làm cô em cũng rất mừng ạ.1168
Hai anh bạn gặp nhau sau một thời gian xa cách khá lâu. Anh Xoài thấy anh Ổi mặt mày xuôi xị, quần áo bèo nhèo thì hỏi rằng:
Sao anh thiểu não quá vậy?
Anh Ổi đáp:
Thật là kinh khủng, tôi có một người yêu hiền hậu, vui tánh, xinh đẹp dễ thương...
Anh Xoài ngạc nhiên:
Chị ấy bỏ rơi anh à?
Anh Ổi lắc đầu:
Chính tôi phải cưới nàng mới ra nông nỗi này chứ!
2898
Viên cai ngục đến xưởng giày trong nhà giam, nơi Jimmy Valentine đang cần mẫn khâu mũi giày, để đưa anh ta lên phòng giám đốc. ở đấy, viên giám đốc nhà giam giao cho Jimmy tờ lệnh được tha vừa được ngài Thống đốc Tiểu bang phê chuẩn sáng nay. Jimmy thờ ơ cầm lấy tờ giấy, không nói gì. Anh bị kêu án bốn năm và đã ở đây được mười tháng. Đối với một người quen biết rộng như Jimmy thì cái án ấy chả bõ bèn gì, " xoay" một cái là ra ngay ! Ông Giám đốc nhà giam nói :
- Thế nào, anh Valentine ? Sáng mai anh được ra rồi đấy. Hãy tự răn mình và tỏ ra là một người đàn ông chân chính. Tôi biết tự thâm tâm anh không phải là người xấu. Hãy thôi đừng trộm két sắt nữa và cố sống cho nghiêm chỉnh xem nào.
- Thưa ngài, tôi ư ? Tôi trộm két sắt ư ?
- Jimmy trố mắt, ngạc nhiên hỏi. Ông Giám đốc cười :
- Thôi đi ! Hừ, không với chả có. Thế cái vụ ở Springfield ai làm ? Tại sao anh phải vào đây ? Anh thì chạy tội là giỏi nhất !
Jimmy vẫn tỉnh bơ chối :
- Ái chà ! Không đâu, thưa ngài. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới Springfield cả.
Ông Giám đốc nhà giam dễ dãi cười, quay sang bảo người cai ngục :
- Cronin, anh đưa cậu ta về phòng. Báo chuẩn bị đồ đạc phóng thích cho cậu ta và bảy giờ sáng mai đưa cậu ta đến đây. Valentine ! Hãy nhớ lời tôi nhé !
Bảy giờ mười lăm phút sáng hôm sau. Valentine đứng trước cửa nhà giam. Anh mặc một bộ complet cắt thật vụng về, chân mang đôi giày cứng nhắc thường phát cho những người tù được phóng thích.
Hồi nãy, viên thư ký nhà giam đưa cho anh một vé tàu và năm đô- la với hi vọng của nhà nước rằng với số tiền ân huệ ấy, anh sẽ có thể làm lại cuộc đời trở nên một công dân lương thiện. Ông Giám đốc nhà giam mời anh điếu xì gà rồi bắt tay thật chặt.
Valentine, người tù số 9762, được vào sổ như sau : " Lệnh tha của Thống đốc".
Thế là Jimmy Valentine đường hoàng trở về với những con đường đầy ánh nắng.
Chẳng màng đến tiếng chim hót líu lo, đến cành lá xanh tươi đang vẫy gọi bên đường, đến hương hoa thơm ngát từ khu vườn gần đấy, Valentine đi một mạch đến quán ăn. Tại đây, anh tận hưởng hương vị tuyệt vời của tự do bằng cách chén sạch nguyên con gà quay vàng rộm, uống cạn chai vang trắng, rồi khoan khoái phì phà điếu xì gà
đắt tiền, đắt hơn nhiều so với điếu của viên Giám đốc nhà giam vừa tặng. No nê, thỏa mãn, anh nhàn tản đi đến nhà ga, điệu nghệ búng đồng xu con vào chiếc nón của người hành khất mù
đứng trước sân ga, rồi nhanh nhẹn lên tàu. Ba tiếng đồng hồ sau đó, anh xuống tàu ở một ga nhỏ hiu quạnh, nằm gần ranh giới tiểu bang. Dừng chân ở quán cà phê mang tên Mike Dolan, Jimmy bước vào thân mật tay bắt mặt mừng ông chủ quán đang đứng sau quày. Ông chủ quán nói :
- Xin lỗi cậu, Jimmy, tớ không thể xoay sở sớm hơn được. Có ý kiến phản đối việc tha cậu ở Springfield nên tay Thống đốc Tiểu bang rét quá suýt nữa hắn thôi không giải quyết đấy. Thế nào, khỏe chứ ? Jimmy cười :
- Khoẻ. Có chìa khóa cho tôi không đấy ?
Cầm lấy chìa khóa, Jimmy lên lầu, ra mãi căn phòng nhỏ phía sau. Đồ vật trong phòng vẫn y nguyên. Trên sàn nhà vẫn còn hột nút áo của ông Chánh thanh tra Ben Price, lúc ông ấy cùng đám cảnh sát dưới quyền ập vào túm lấy anh.
Hạ chiếc giường xếp xuống, Jimmy mở ngăn bí mật trong vách, lấy ra chiếc vali bám bụi. Anh thận trọng đặt lên bàn, mở nắp, rồi đứng im, khoan khoái ngắm bộ đồ nghề mở két sắt độc nhất vô nhị của anh, bộ đồ nghề mở két hữu hiệu nhất miền Đông nước Mỹ. Nó đầy đủ các cơ phận, làm bằng loại thép cứng nhất, thiết kế theo mẫu mới nhất. Nào khoan, nào đục, nào kẹp, nào kềm, có một số bộ phận do đích thân Jimmy vẽ kiểu. Anh rất tự hào về bộ đồ nghề này. Anh đã phải trả hết 900 đô để đặt làm theo ý riêng của mình ở một chỗ chuyên làm dụng cụ cho giới giang hồ.
Nửa giờ sau, Jimmy xuống lầu, ra cửa. Giờ đây, anh mặc bộ complet vừa vặn, kiểu mới, tay xách chiếc vali. Người chủ quán nháy mắt, hỏi :
- Đi làm sớm thế ?
- Làm gì ?
- Jimmy ra bộ ngơ ngác
- Ờ hay, cái cậu này. Tôi chỉ là một nhân viên công ty bánh ngọt và chế biến lương thực New York đấy, nhớ chưa ?
Người chủ quán gật lia lịa, rối rít mời Jimmy uống rượu, nhưng anh từ chối, Jimmy không bao giờ uống rượu. Một tuần sau ngày Valentine, người tù số 9762, được phóng thích, một vụ trộm lớn được tiến hành rất khéo ở Richmond, bang Indiana. Không một dấu vết để lại. Hai tuần sau, lại thêm một vụ khác. Lần này chiếc két bị trộm là loại hiện đại nhất, có gắn cả thiết bị báo động chống trộm, thế mà cánh cửa dày cộm của nó vẫn bị mở toang như người ta mở cửa sổ đón gió hè. Vụ trộm này xảy ra ở Logansport, số của cải bị mất trộm trị giá khoảng 1500 đô, trong tủ còn có nhiều hối phiếu và tiền xu lẻ nhưng không hề bị tên trộm mó tay vào. Cảnh sát bắt đầu quan tâm, nhưng mãi đến vụ trộm ở ngân hàng Jefferson City, số thất thoát lên cao, thì ông Chánh thanh tra Ben Price mới chịu xuất quân. So sánh dấu vết tại hiện trường, ông phát hiện ngay một nét tương tự về phong cách thực hiện của các vụ án. Ông tuyên bố :
- Chính thằng Jimmy Valentine chứ không ai khác ! Hắn lại giở trò rồi đấy. Xem cái núm khóa kia kìa - nó bị kéo tung ra cứ như người ta nhổ củ cải vào tháng mưa ấy. Kiểu ấy thì chỉ có cái kích hiện đại của thằng Valentine mới làm nổi thôi. Lại xem mấy thanh ngang kia kìa, chỉ khoan có một lỗ là bung ngay thế kia thì ngoài thằng Valentine ra chẳng có ai làm nổi !
Ông Ben Price đã thuộc lòng tính nết Jimmy. Ông nắm cả những thói quen nhỏ nhất của tên trộm tài hoa này qua những lần điều tra vụ cướp ở Springfield vừa qua. Jimmy thường đánh theo lối nhảy cóc. Đánh nhanh, rút lẹ, lẩn đi thật xa, rồi lại ra tay tiếp, lần sau táo bạo hơn lần trước. Hắn không cần phụ tá. Giới chủ ngân hàng phần nào nhẹ nhõm khi nghe tin ông Ben Price lại lên đường lần theo dấu vết tên trộm quỷ quái ấy.
Một chiều nọ, Jimmy Valentine tay xách vali, xuống xe tại một thị trấn nhỏ, tên là Elmore. Đấy là một thị trấn hẻo lánh, cách đường xe lửa xuyên Mỹ trên năm dậm, thuộc bang Arkansas. Trông anh ta như một sinh viên năm cuối bậc đại học, thích thể thao, đang trên đường về quê thăm nhà. Bước chậm rãi trên lề đường lót ván, anh dừng chân ở khách sạn.
Bỗng một thiếu nữ băng qua đường, đi ngang trước mặt anh, rồi rẽ vào căn nhà có treo tấm biển " Ngân hàng Elmore" . Tình cờ cô liếc mắt nhìn anh. Thế là tâm hồn anh như choáng ngợp bởi ánh mắt diệu kỳ ấy, đầu óc bay bổng tận đâu đâu. Anh như đã biến thành một người nào khác. Cô thiếu nữ thẹn thùng cúi gầm mặt, hai má ửng hồng. Chả lẽ ở Elmore này, ăn vận như thế, ... đẹp trai như thế, hiếm lắm !
Jimmy vội túm ngay lấy một cậu bé con đang ngồi chơi trên bậc thềm gần đấy, giả vờ đang có ý muốn mua cổ phiếu của ngân hàng ở đây, nên phải hỏi để nắm tình hình. Cứ mỗi câu hỏi, anh ta lại giúi vào tay cậu bé đồng mười xu. Một lúc sau, cô gái đi ra, lần này không thèm để mắt đến chàng trai tay xách vali vẫn còn đứng đấy. Jimmy nháy mắt, hỏi cậu bé :
- Hình như là cô Polly Simpson đấy phải không?
- Không đâu, chính là cô Annabel Adams đấy chứ. Bố cô ấy là chủ ngân hàng này.
Jimmy đến khách sạn gần đấy, đăng ký mướn phòng với tên Ralph Spencer. Anh nhẩn nha ở quày tiếp tân, gợi chuyện với anh nhân viên khách sạn, nói cho anh ta hay rằng mình muốn ở lại thị trấn Elmore này để làm ăn bằng việc kinh doanh giày, liệu có sống nổi không ?
Người nhân viên tiếp tân nhìn vẻ bên ngoài bảnh bao của Jimmy ra dáng kính nể. Anh ta nhiệt tình cho biết : - Vâng, mở hàng giày ở đây sống lắm ! Hiện ở đây chưa có nơi nào kinh doanh giày cả. Trước nay mặt hàng này chỉ được bày bán ở cửa hàng tạp hóa và vật tư ở đằng kia. Việc kinh doanh buôn bán tại đây đang có chiều hướng phát triển khá. Hi vọng rằng sau khi cân nhắc thiệt hơn, ông sẽ quyết định lập nghiệp ở đây. Dân cư nơi đây hiền và hiếu khách lắm !
Jimmy cười :
- Vâng. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ ở lại vài ngày xem sao. ồ, không cần gọi bồi làm gì, tự tôi xách lấy được rồi. Thế là Ralph Spencer, con phượng hoàng thoát xác cất cánh lên cao từ đống tro tàn của người tù Valentine - đống tro tàn phát xuất từ ngọn lửa tình nồng cháy qua lần đầu gặp gỡ. Jimmy quyết định lập nghiệp ở thị trấn nhỏ tên Elmore này. Hiệu giày của anh hoạt động tốt, có lãi.
Về mặt quan hệ xã hội, Jimmy cũng thành công không kém, anh quen biết nhiều, và hơn cả, sở nguyện của anh cũng đã thành. Annabel Adams nay là bạn anh và tình cảm của anh dành cho nàng ngày càng say đắm. Đến cuối năm ấy, có thể tóm tắt hoàn cảnh sống của chủ hiệu giày Ralph Spencer như sau : anh được hầu hết cư dân trong thị trấn tin yêu, cửa hàng giày của anh ngày càng thịnh vượng. Trên tất cả, anh vừa đính hôn với cô Annabel Adams và đám cưới sẽ cử hành trong hai tuần nữa. Ông Adams, chủ ngân hàng Elmore, bố vợ tương lai của anh, rất hài lòng với chàng rể quý. Phần Annabel, cô yêu anh bao nhiêu thì quý trọng anh chừng ấy. Lúc này, Ralph Spencer gần như là thành viên chính thức của gia đình Adams. Ngày nào anh cũng đến chơi nhà bố vợ và nhà cô chị của Annabel.
Một hôm, Jimmy ngồi viết thư cho một người bạn ở St. Louis :
Billy thân mến,
Tớ muốn tối thứ tư tới đây, lúc chín giờ, cậu đến quán Sullivan ở Little Rock gặp tớ. Nhờ cậu giúp cho một việc. Ngoài ra, tớ muốn tặng cậu bộ đồ nghề của tớ. Tớ biết cậu khoái muốn chết khi có được một bộ như thế, làm bộ khác phải mất hơn nghìn đô- la là cái chắc. Billy ạ, tớ đã bỏ nghề rồi - được hơn năm nay. Hiện tớ đang có một cửa hàng, một cuộc sống lương thiện và hai tuần nữa tớ sẽ làm đám cưới với một cô gái tuyệt diệu nhất trên đời này. Cậu biết không ? Tớ đã nhận thức rằng chỉ lương thiện mới sống đời được, và tớ đã nhất quyết từ nay sẽ không tơ hào của ai một đồng xu nhỏ. Cưới vợ xong, tớ sẽ bán tất rồi dọn về miền Tây sinh sống, chỉ ở đấy mới hi vọng tớ sẽ không bị quấy rầy vì những tai tiếng cũ của mình. Tớ nói thật đấy ! Vợ tớ đúng là một nàng tiên. Nàng tin ở tớ hết lòng và chính vì thế tớ sẽ cố hết sức không làm một điều gì để phụ lòng tin ấy. Nhớ đến quán Sully'' s nhé. Tớ cần cậu lắm, và tớ sẽ đem bộ đồ nghề đến cho cậu.
Bạn cậu, Jimmy Vào tối thứ hai ấy. lúc Jimmy đang ngồi viết những dòng cuối cùng gởi cho bạn, thì Ben Price ngồi lắc lẻo trên chiếc xe ngựa thồ chạy đến Elmore. Đến nơi, ông lặng thinh, kín đáo rảo quanh một vòng để nắm tình hình qua chiếc gương trong cửa hàng tạp hóa nằm đối diện với tiệm giày của Ralph Spencer. Ông chăm chú quan sát thật kỹ dung mạo và dáng điệu của ông chủ trẻ. Ben Price thích thú cười :
- Thế đấy, Jimmy, chú mày lại sắp đi cưới con gái chủ ngân hàng cơ đấy !
Sáng hôm sau, Jimmy đến dùng điểm tâm bên nhà vợ. Hôm nay, anh định đi Little Rock để sắm sửa mấy món đồ chuẩn bị cho đám cưới và mua một món quà thật đáng giá cho Annabel. Kể từ lúc định cư ở Elmore đến nay, đây là lần đầu tiên anh rời thị trấn đi xa. Có lẽ không hề gì, vì tính từ vụ " làm ăn" cuối cùng đến nay đã ngót một năm rồi. Điểm tâm xong, cả nhà Annabel đều kéo nhau đi tiễn chân Spencer - ông Adams, Annabel, cả cô chị của Annabel cùng hai cô gái nhỏ mới lên năm và lên chín. Họ đến khách sạn nơi Jimmy ở để anh lấy hành lý - chiếc vali dạo ấy. Rồi tất cả kéo nhau đến ngân hàng. ở đấy, xe ngựa đang chờ Jimmy cùng với người xà ích tên Dolph Gibson để đưa anh ra ga. Ông Adams mời chàng rể quý vào ngân hàng chơi chốc lát, ông muốn khoe mọi người chiếc tủ sắt hiện đại ông vừa cho lắp đặt xong dưới tầng hầm. Đám nhân viên ngân hàng cúi chào anh răm rắp.
Đấy là một két sắt khá lớn được gắn chìm vào vách. Cửa tủ rất chắc chắn, mỗi lần quay tay nắm là ba thanh thép lớn đâm sâu, gắn chặt vào vách tủ. Trên cửa còn có cả núm khóa hẹn giờ tự động. Ông Adams phổng mũi giải thích những tính năng hiện đại của chiếc két sắt cho chàng rể quý, nhưng anh ta tỏ ra không quan tâm lắm. Hai bé gái, cháu May và Agatha, con gái của người chị Annabel, tỏ vẻ thích thú lắm. Chúng trố mắt nhìn lớp thép bóng loáng, mấy núm điều khiển tròn xoe trên cửa.
Trong khi mọi người đang lắng nghe ông Adams giải thích về cách đóng mở cửa, Ben Price từ từ bước vào, ông ta tì tay lên mặt quày bình thản nhìn quanh. Cô nhân viên đến hỏi, ông đáp đang chờ người quen.
Bỗng có tiếng phụ nữ la thất thanh, không khí hoảng hốt bao trùm lấy khu hầm để tủ sắt. Nhân lúc người lớn đang ham chuyện, cô bé May, chín tuổi, đùa nghịch đẩy Agatha vào trong tủ rồi đóng sập cửa lại. Cô bé còn bắt chước ông ngoại, kéo tay khóa rồi vặn mấy núm điều khiển trên cửa.
Ông Adams vội nhào đến chụp lấy tay nắm lay mạnh, nhưng muộn rồi. Ông hốt hoảng kêu lên :
- Chết rồi ! Không tài nào mở được. Lại chưa kịp chỉnh số hẹn giờ mới chết!
Người mẹ thất đảm hét hớn. Ông Adams run rẩy trấn an con gái :
- Giữ bình tĩnh đi nào ! Agatha cháu ơi !
- Ông cố gọi thật lớn
- Cháu nghe ông nói không ?
Trong bầu không khí im lặng đến nghẹt thở, mọi người nghe rõ tiếng khóc la của cô bé đang bị nhốt trong hầm tối. Người mẹ khóc nức nở, cuống quýt lên :
- Ôi, phải làm gì kia chứ! Hãy phá cửa ra ngay !
Ông Adams thất vọng, lắc đầu :
- Con ơi, phải đến mãi Little mới có người mở được loại cửa này. Ông Ralph Spencer, ta phải làm sao đây ? Con bé đến chết mất ! Trong ấy ngộp lắm và đầy bóng tối nữa, con bé đến chết vì khiếp sợ thôi !
Người mẹ lúc này như phát cuồng lên, chị đập mạnh đôi tay yếu ớt vào cánh cửa thép nặng nề dầy cộm như muốn phá tung nó ra để cứu con mình. Có người hoảng quá, định lấy cốt mìn phá cửa. Nhưng làm như vậy thì còn gì cháu bé bên trong. Annabel ngước mắt nhìn Jimmy, ánh mắt khẩn khoản đầy hi vọng. Hi vọng, vì đối với nàng, người yêu của nàng có thể làm được tất cả, ngay cả những điều kỳ diệu nhất.
- Anh Ralph, hãy giúp chị ấy đi anh.
Jimmy nhìn sâu vào mắt nàng, miệng nở một nụ cười khó hiểu. Đối với anh, yêu cầu của nàng chính là mệnh lệnh của trái tim anh. Anh nói :
- Annabel, em hãy cho anh đoá hồng trên áo em. Cô bỡ ngỡ, không tin vào tai mình, nhưng vẫn đưa tay gỡ lấy cánh hồng trên áo, trao cho người yêu. Jimmy cẩn thận cài cánh hồng vào túi, rồi bắt đầu xắn tay áo. Chính qua hành động xắn áo ấy, nhân vật Ralph Spencer đã chết, và tên trộm tài danh Jimmy Valentine đã trỗi dậy từ đống tro tàn quá khứ.
Anh nói ngắn, gọn :
- Mọi người tránh ra hết đi !
Anh mở toác chiếc vali mang theo. Và từ lúc ấy đối với anh, chung quanh như không có ai. Bằng những hành động rất chính xác, nhanh gọn, anh lấy đồ nghề ra, sắp xếp theo thứ tự sử dụng, vừa làm vừa huýt sáo nho nhỏ. Đấy là một thói quen cố hữu của anh lúc đang " hành sự" . Mọi người nhìn anh trân trối.
Chỉ một phút sau, mũi khoan nhỏ của Jimmy ăn thật ngọt vào cánh cửa thép. Mười phút sau, cánh của mở toang. Anh đã phá cả kỷ lục chính anh lập nên qua các lần mở trước.
Cô bé Agatha té xỉu trong vòng tay mẹ. Không việc gì.
Jimmy Valentine cầm lấy áo khoác vắt trên ghế đi nhanh ra cửa. Anh nghe có tiếng kêu " Anh Ralph !" thật thân thương nhưng xa vắng làm sao. Anh vội bước đi.
Bỗng có người chắn lối anh đi.
Jimmy cười, vẫn nụ cười khó hiểu ấy :
- A, xin chào ông Ben. Ông đã đến đấy ư ? Thôi ta đi nào, đến mãi bây giờ tôi mới thấy được rằng cuộc sống thật phù du vô ích.
Nhưng ông Ben Price cứ đứng yên. Ông ta nói :
- Ông Ralph Spencer, ông nhầm rồi đấy ! Tôi không hề quen ông. Hình như xe đang chờ ông ngoài ấy ?
Nói xong, ông quay lưng đi thẳng.