Ðọc truyện kiều đến câu:
"Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Ðạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy"
Em liền thắc mắc hỏi anh:
- Anh ơi, thế... còn một đạo nữa đi đâu?
Anh giải thích:
- Sao mà ngốc thế, đọc thơ phải hiểu là "thi tại ngôn ngoại" - thơ ở ngoài lời. Còn một đạo quân nữa đi nấu cơm, không thì hai đạo quân kia đi đánh trận về nhịn đói hay sao?1905
Anh ông dân nọ đứng trong vườn cùng đàn lợn của mình, tay ôm một con lợn to, nâng lên cho nó ăn táo trên cây, rồi lại làm như thế với con thứ hai, thứ ba... Thấy lạ, một người qua đường lại gần anh chàng và hỏi:
- Tại sao anh không rung cây cho táo rơi xuống để đàn lợn ăn, như thế có phải đỡ tốn thời gian hơn không? Người nông dân ngạc nhiên:
- Thời gian à? Thời gian thì có ý nghĩa gì với một con lợn chứ?
1712
Hai ông bạn già vui chuyện, nói giỡn nhau. Một ông bảo:
Bát cửu!
Nếu giọng Bắc thì có nghĩa là "8, 9", nhưng theo giọng Nam Bộ thì hơi giống giọng "Bác cẩu", có nghĩa là "Bác chó".
Ông bạn kia không kém phần mẫn tiệp, liền đối lại bằng tiếng Pháp:
Ong đui!
"Ong đui" là onze, douze (11, 12) lại có nghĩa là "ông mù mắt"!
Đúng là bạn già tri kỷ!
2741
Trường nàng ở cạnh trường tôi
Cách con đường nhưạ, cách đôi quán hàng
Giờ ra chơi, rất nhẹ nhàng
Từng con bướm trắng ... "đậu" sang bên này .
Bún rêu , chả cuốn lượn đầy
Có con bướm "xốp" (ăn) thịt cầy như điên !
Mắt nàng đăm đắm trông lên ...
Thực đơn, bảng giá ghi trên vách tường .
Hôm nay, nhân buổi bãi trường
Nghìn "con bướm trắng " ... tăng cường sang chơi .
Các nàng chỉ "xốp" (ăn) cầm hơi
Bao anh chới với như ... bơi giữa dòng
Chỉ vì muốn bướm hài lòng
Mà anh đút cổ vô tròng "ga lăng"
Bướm ơi ! cứ "dứt" (xài) thiệt hăng
Để cho khối kẻ nhăn răng .. chi tiền !
1538
Chẳng may, vợ anh ta nghe tiếng, chạy ra, trợn mắt hỏi dồn: - Phải tay ông thì ông làm gì hở? Ông làm gì hở? Anh ta luống cuống: - Phải tay ông thì ông... cất trước lúc trời mưa, chứ còn làm gì nữa!
Có hai anh sợ vợ cùng láng giềng với nhau. Một hôm vợ anh nọ đi vắng, ở nhà trời mua, áo quần phơi ngoài sân quên lấy vào, ướt cả. Khi vợ về, chị ta mắng cho một trận. Anh nhà bên cạnh thấy thế mới lẩm bẩm: "Mẹ kiếp! Chẳng phải tay ông!"
- Khanh có chuyện gì buồn thế? - Tâu bệ hạ! Bệ hạ thật là tài tình! Bệ hạ biết được cả trong lòng hạ thần! Tâu bệ hạ, tuy lâu nay bệ hạ đối đãi với thần rất đại lượng, nhưng hôm nay hạ thần chẳng dám nhờ hồng ân nữa, cho nên hạ thần buồn. Số là hồi sáng có một chú Chệt vào trong thành, đem theo nhiều bảo vật mà hạ thần chả có đủ tiền để mua. - Chỉ có thế thôi mà khanh cũng buồn! Nhà vua mỉm cười. Khanh bảo thằng Chệt ấy đến đây. Khanh muốn gì ta mua đấy và bao nhiêu tiền ta trả cho cả. Bằng Tô thích chí quá, cảm ơn rối rít. Một võ quan đi tìm khắp thành phố dẫn chú Chệt vào. Nhà vua bảo: - Có cái gì trong tráp thì mở cả ra xem. Vừa hỏi vua vừa để ý nhận xét chú Chệt: thân mình hắn cũng nhỏ bé, dễ thương, song đôi mắt rất tinh lanh; hắn ăn mặc rách rưới, tiều tụy. Chú Chệt lạy xong, mở tráp ra. Nhà vua kêu lên: - Trời ơi! đẹp quá! - Thật vậy, trong tráp có rất nhiều đồ trang sức ngọc ngà, chạm trổ tuyệt đẹp, nhẫn ngọc kim cương lóng la lóng lánh. Bằng Tô tâu vua: - Tâu bệ hạ! Như thế có đẹp không? Nhà vua gật đầu: - Ðẹp lắm! Chú Chệt nghe vua khen, mỉm cười và rút trong đáy ra một cái hộp nhỏ màu đen, dâng lên đức vua: - Tâu bệ hạ, hắn vừa nói vừa cúi đầu thấp xuống để cho nhà vua khỏi thấy hắn đang tái mặt - đây mới thật là của quý. Hạ thần mua được tận bên Mếch Di Cô kia ạ. Nó quí cho đến nỗi hạ thần dám chắc rằng tất cả các kho tàng trên thế giới họp lại mà cũng không đáng giá bằng. Hạ thần đã mua nó bằng một giá đắt lắm và theo lời người bán, hạ thần chưa hề mở ra lần nào. Hạ thần chắc rằng trong này có một bảo vật quý giá có một không hai trên trái đất. Nhà vua và Bằng Tô nghe nói cúi đầu vào xem. Trong hộp mở ra, chỉ có một ít hột đen đen rất mịn, trên mặt có một mảnh giấy rất mỏng gất tư, trên mảnh giấy có những hàng chữ rất là kỳ quái. - Lạ thật! Lạ thật! Nhà vua lẩm bẩm. Cái gì thế này? Chú Chệt run run: - Hạ thần cũng không được rõ, chỉ biết là quý lắm mà thôi. - Trẫm không biết đọc mấy chữ này, Bằng Tô, người có đọc được thì đọc cho trẫm nghe. - Tâu bệ hạ, hạ thần cũng chịu, chả hiểu được chữ gì. Ðể hạ thần cho mời quan Thế Lâm vào, chắc ông ta đọc được. Một lát, quan Thế Lâm vào. Nhà vua bảo: - Này Thế Lâm, cầm lấy miếng giấy này, đọc đi. Ðọc được, trẫm sẽ ban thưởng cho. Nếu đọc không được thì giữ hồn, trẫm cho hai chục hèo đấy. Quan Thế Lâm run sợ, nhưng khi nhìn đến tờ giấy thì liền vui mừng: - Tâu bệ hạ, đây là chữ La Tinh đấy! Hạ thần xin đọc để bệ hạ nghe: "Ai gặp bảo vật này là người sung sướng nhất đời. Phải cám ơn Trời Phật ban phúc lành cho mới được. "Chỉ cần một dúm hột nho nhỏ này thôi mà cũng đủ sung sướng bằng ngàn kẻ sung sương! "Chỉ cần hít một chút xiú bột này vào trong mũi và đọc lên rằng: MUY TA BO" là có thể tự mình biến ra một loài vật theo như mình ước muốn và có thể nói, nghe được tiếng nói của loài vật ấy. "Khi cần hiện lại nguyên hình mình, thì chỉ phải quay mặt về phương Tây nghiêng mình đọc ba lần: "MUY TA BO" thì tức khắc trở lại thân người. "Nhưng hãy cẩn thận; nếu trong khi biến thành loài vật mà cười lên một tiếng thì sẽ quên mất ba chữ thần bí ấy và không bao giờ hiện trở lại nguyên hình được, cứ thế mà sống mãi suốt đời." Nhà vua nghe đọc xong, sung sướng quá: - Này Thế Lâm, trẫm cấm ngươi không được cho ai biết một tí gì về việc này. Nếu ngươi nói lộ chuyện này ra, ta sẽ chém đầu ngươi. Ði tìm quan giữ kho vào đây cho ta. Bảo nó nhét cho ngươi hai bọc vàng đầy. Và quay lại Bằng Tô, nhà vua mỉm cười. - Ta phải thí nghiệm mới được khanh ạ. Bằng Tô hấp tấp trả lời: - Tâu bệ hạ, phải đấy. Chúng ta phải thí nghiệm ngay, Bệ hạ chỉ hóa thành loài vật một lát thôi, ai mà biết được! - Ai mà hiểu được! Nhà vua nhún vai, Trẫm chả cần ngươi khuyên. Theo ta mau. Chúng ta ra vườn thượng uyển chơi. Ở đây chắc có một vài loài vật. Một giờ sau, nhà vua và Bằng Tô đã đi vào vườn không có tên lính nào hầu cả. Ðức vua nhìn quanh nhìn quất bảo Bằng Tô: - Chả có thấy một con chim nào. Chúng ta phải đi đến chuồng ngựa hay sao? Nhưng không. Nhà vua không cần ra chuồng ngựa. Bên kia, là hồ sen, sen nở đầy hồ ngát hương. Ba con cò trắng đang chăm chú tìm mồi. Một con thứ tư ưỡn ngực bước một cách mạnh dạn trên hai cẳng dài lêu khêu, đi tìm ếch nhái. - Ấy đấy! Tâu bệ hạ! Xem cách đi của tụi cò ấy và cái nhìn của chúng, chắc câu chuyện của chúng nó hẳn là vui lắm! Nhà vua vui vẻ: - Hay lắm! Này Bằng Tô! Hay lắm! Ngươi thật là một kẻ hầu cận trung thành vậy. Biến thành hai con cò! Trời ơi! Vui biết bao nhiêu! Nhưng hãy nhớ Bằng Tô nhé, nhớ học thuộc cái phương pháp hiện lại nguyên hình chứ, nếu mà quên thì khốn đấy nhé. Cứ việc ngoảnh về phía Tây nghiêng mình đọc ba lần "MUY TA BO" là hiện nguyên hình được, tâu bệ hạ. - Ngươi nói đúng lắm! Có khó gì mà không nhớ được! Ðồ trẻ con đấy mà! Nhà vua Mỹ Tuấn rút trong túi ra cái hộp đầy bột, lấy một chút đưa cho Bằng Tô và lấy một chút cho mình, khi hít bột vào mũi, hai người đọc lên ba chữ mầu nhiệm. Bỗng chốc, một sự thay đổi mau chóng và bất ngờ: Hai chân dài và hai cánh rộng. Có lông hẳn hòi đấy nhé - thay cho hai chân hai tay và mặt của hai ngườI cứ dài dần ra cho đến khi trở thành hai cái mỏ thật dài. Nhà vua và Bằng Tô đã hoàn toàn biến thành cò trắng! Ðức vua vui sướng khôn xiết. - Này Bằng Tô, ngươi nhìn xem ta có đẹp không? Chà! Cái mỏ của ngươi dài quá, dài như bộ râu của ngươi hồi trước vậy. Bằng Tô nghiêng mình, lấy mỏ rỉa lông. - Thật bệ hạ có phước tướng! Làm vua cũng thế mà làm cò cũng vậy, bao giờ dáng dấp của bệ hạ cũng uy nghiêm vô cùng. Hạ thần chắc rằng bây giờ mấy con cò kia chả thèm sợ chúng ta nữa, vì chúng ta đã là đồng loại của chúng rồi k - Mau, chúng ta hãy đến gần chúng, vì trẫm đang khao khát không biết rằng có thể nghe được tiếng nói của loài cò chăng. Ðức vua Cò và đại thần Cò chỉ cần bước vài bước trên cặp chân cao lêu khêu là tới gần được hồ sen. Lạ chưa! Tiếng nhắp nơi mỏ của lũ cò bỗng trở thành một tiếng nói mà hai vua tôi đều nghe rõ được, nhờ có lỗ tai cò. Một con cò bảo: - Này! Chị Dài cẳng ạ! nước hồ hôm nay mới trong làm sao! Tụi cóc nhái cũng nhiều lạ! Này! Chị hãy nếm một chút này, ngon lắm. Chị Dài Cẳng là một chị còn trẻ măng, lông trắng như tuyết, nàng ta quẹt mỏ hai bên cánh và đáp: - Em chả cần ăn uống gì cả chị ạ. Em chỉ đến đây để tắm mát mà thôi. Má em bảo ngày mai có giỗ tổ, em phải sửa soạn sạch sẽ để mai khiêu vũ mừng quan khách đến chơi, chị ạ! Này chị! Em biết một điệu múa hay lắm, gọi là Vũ khúc hoa sen. Này nhé! Em múa thử chị xem. Nàng ta nhỏng nhẽo nhảy múa. Lúc thì hụp xuống, lúc thì trồi lên, hai cánh vỗ có nhịp và uốn eó cái cổ dài một cách dễ cười, đến nỗi cả hai thầy trò nhà vua nhịn cười không được, phá lên cười như vỡ. Tiếng cười bất ngờ quá làm cho các chị cò ta hoảng hốt, thốt nhiên vỗ cánh bay mất. - A! A! A! Nhà vua nhảy cỡn lên vì sung sướng. Này Bằng Tô! Trẫm chưa hề thấy gì vui hơn thế! Tiếc quá, nếu chúng ta đừng cười lớn thì có lẽ bây giờ lại được nghe chúng nói chuyện thêm, vui biết bao nhiêu! Nhưng chàng cò Bằng Tô bỗng hốt hoảng: - Chết! Chết rồi! Tâu bệ hạ: Ngài có nhớ ba chữ nhiệm mầu ấy không? Ba chữ mà hễ khi nào muốn hiện lại nguyên hình phải đọc ba lần ấy mà! Hạ thần ngẫm nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra. Chết mất! Theo trong lời dặn thì trong khi biến hình, chả được cười lên một tiếng, nếu không sẽ quên mất ba chữ ấy! Tâu bệ hạ! Mà hạ thần đã... quên mất! Ðức vua run rẩy: - Chết rồi! Trẫm cũng đã quên mất ba chữ ấy! Này, khanh hãy nhớ lại xem. Muốn... muốn hiện lại nguyên hình thì phải xoay về... về hướng Tây nghiêng mình và đọc... - Và đọc... đọc ba lần chứ... muy... ma... mơ, chữ mi ... mô... mơ... Bằng Tô tìm kiếm một cách thất vọng. - Muy.. ma... mô... mi... mô. - Mơ... mi... mô... chết thật rồi bệ hạ! Hai người cố lục lọi hơn một giờ đồng hồ trong trí óc ba chữ cứu tinh kia, nhưng không tài nào nhớ được. Cứ giờ này đến giờ khác, hai chú cò cứ ngoảnh mặt về phía mặt trời lặn, ngừng cổ tìm tòi một cách thất vọng, cho đến khi kiệt sức, hai chàng mỏi quá, nằm phịch xuống đất. - Chúng ta chết mất! Bằng Tô lắc đầu, rên rỉ và khóc. Nhà vua bỗng trở nên mạnh dạn và làm chủ được mình: - Im đi, Bằng Tô! Than van, khóc lóc là yếu hèn! Hãy chịu đựng sự hình phạt một cách can đảm. Chúng ta bị khổ thế này chắn hẳn chúng ta đã gây nhân xấu từ lâu. Than khóc vô ích. Bây giờ chỉ có nước an vui với số phận. Ta là cò thế cũng còn sung sướng chán. Cò, với hai cánh rộng, ta có thể bay tự do trên trời xanh, trong khi bay, ta cũng có cảm tưởng như ta trị vì vậy! Chúng ta hãy đi tìm chỗ nghỉ, vì trời đã sắp tối. Ngày mai, chúng ta bay liệng trên thành phố để xem tình trạng của dân chúng ra sao khi họ nghe tin ta mất tích. Bằng Tô bước từng bước một, lặng lẽ theo sau đức Vua cò, thở dài não ruột. Ðêm xuống lặng lẽ và buồn bã, buồn lặng với hai con cò. Ngày mai, hai thầy trò bay liệng trên thành phố My Lăng và kêu lên những tiếng ai oán đau thương. Người qua đường nghe kêu, chỉ nhau và bảo: - Ðấy, điềm dữ đấy, điềm không lành cho xứ sở đấy. Chiều đến, Vua cò và Bằng Tô biết được rằng tin vua mất tích đã tràn xa khắp nước. Ðã nhiều phen, hai vua tôi bay đến đậu trên nóc hoàng cung, cố ý làm cho các quan và dân chúng biết rằng "đây ta là vua các người". Song, ai mà có thể tin được lời chim? Chỉ có một cách duy nhất: làm thế nào nhớ ba chữ thần diệu để hiện lại nguyên hình. Hai vua tôi nhà cò đói quá, mới tìm trái cây để ăn và vụi mỏ xuống hồ nước để uống. Tối về ngủ trên cành cây. Họ chả dám ăn thằn lằn, ăn ếch nhái, ăn sao được! - như lũ cò khác, lũ này ăn ếch nhái một cách ngon lành. Hơn một tuần lễ, hai con cò sống một cách sầm thảm như thế, thì một hôm, quang cảnh thành My Lăng bỗng nhộn nhịp khác thường. Ðường sá đều được cắm cờ, các nghinh môn được dựng lên khắp nơi... Một đám rước vĩ đại diễn qua trong thành phố: quân lính gươm giáo đi hàng tư và trống kèn inh ỏi. Giữa đám rước, một người trai trẻ ngồi trên lưng ngựa, chung quanh các võ quan hộ giá uy nghiêm nhiệt liệt. Nhà vua Mỹ Tuấn uất người thét lên: - Ðấy là con của kẻ thù ta! Ðấy chính là thằng Cách Nô đấy, con của thằng Mai Gia trước đây đem binh qua xâm lăng nước ta, bị ta đánh cho bại trận. Chính nó đã thề sẽ trả thù ta. Nó đã lập mưu đánh lừa ta để qua chiếm đoạt ngôi ta! Quân tiểu nhân! Nhà vua nức lên, uất ức. Bằng Tô gật gù: - Chính nó! Thằng Chệt, chính là một đứa của tụi nó trá hình đến lừa ta! Quân gớm thật. Nhà vua buồn bã: - Thôi ta đi! Hỡi Bằng Tô! Xứ My Lăng không còn là xứ của ta nữa, tụi nó đã chiếm mất rồi! Ta đi! Ta đi đến xứ Mếch Di Cô. Ta đi đến đó, họa may được đỡ khổ đôi phần. Có lẽ ta gặp được các ông phù thủy giải ách được cho ta. Thế là hai thầy trò từ giã thành My Lăng, vỗ cánh bay về Mếch Di Cô. Họ bay chưa quen nên mới vài đồng hồ mà hai cánh đã mỏi rã rời. - Bệ hạ cho hạ thần nghĩ cánh chút đã. Bệ hạ bay mau quá! Chiều cũng đã xuống. Vậy thì vua tôi ta hãy nghỉ lại đây đêm nay. Ta đi tìm một chỗ trú ẩn. - Phải. Trên đồi kia có một cái tháp cổ đã tiêu tàn. Ta lên đậu trên đó ngủ cho qua đêm. Hai vua tôi, bay lên tháp. Trong tháp, có một gian phòng ẩm thấp, tối tăm. Bỗng nhiên, Bằng Tô cản nhà vua lại: - Bệ hạ có nghe gì chăng? Bằng Tô nói nhỏ: Hình như có tiếng ai khóc nức nở. Nhà vua chổng tai lên nghe: - Có tiếng ai khóc! Lạ thật! Ta vào xem. - Bệ hạ đừng liều lĩnh, tâu bệ hạ! Chỗ này chắc không yên, ta đi tìm chỗ khác trú ẩn vậy. Nhưng nhà vua không nghe, tiến tới. Bằng Tô vội vã lấy mõ kéo cánh nhà vua lại, nhưng nhà vua đã đi tới, vài cái lông dính nơi miệng Bằng Tô. - Ái chà đau! Ngươi đừng nhổ lông ta chứ! Bên trong tối mịt. Tiếng khóc than càng rõ rệt giống như tiếng người! Nhìn cho kỹ, vua chỉ thấy một con cú thật lớn ở bên trong mà thôi. Bạo dạn vua hỏi: - Ai khóc ở trong ấy? Con cú bỗng nhiên giật mình đánh thót một cái và khi trông thấy hai con cò, thì kêu lên: - Hai con cò! Hai con cò! Trời ơi! Tôi được cứu thoát! Vua cò ngạc nhiên vô cùng, bởi vì con cú nói giọng người, mà lại nói một cách rõ ràng. Mỹ Tuấn hỏi: - Sao? Tại sao nhà ngươi khóc, mà nhà ngươi lại nói được tiếng người, hỡi con cú? Ta tin rằng ngươi cũng đồng một số phận với chúng ta,. Có phải ngươi đã dại dột đến nỗi thành hình cú chăng, nói mau cho ta rõ. Con cú chùi nước mắt bằng hai cách màu sậm, úi đầu chào và trả lời: - Em chả biết ông là ai, ông cò ạ, song nghe giọng nói của ông, em biết ông là một trong những kẻ đau khổ. Và người ta đã nói với em rằng một ngày kia nếu có hạnh phúc trở thành người lại thì hạnh phúc ấy cũng do nơi một ông cò đem đến. Bởi thế thấy hai ông, em thốt nhiên được vui mừng ngay. - Trời hỡi, ta chả giúp gì được cho ngươi đâu! Và khi ngươi nghe ta kể chuyện chúng ta, ngươi sẽ thấy rằng nỗi đau của chúng ta là một nỗi đau khổ vô biên, đến nổi chúng ta không còn gì tặng cho ngươi hơn là một lòng thương hại. Nhà vua bèn kể chuyện mình và Bằng Tô cho cú nghe. Nghe xong con cú thở dài. - Em thấy giữa số phận chúng ta có cái tương quan giống nhau. Nếu như bệ hạ là vua, thì em đây là công chúa Phương Châu, con gái độc nhất của vua Ấn Ðộ. Thằng Cách Nô mà nó ám hại bệ hạ ấy, vốn nó đã đến hỏi em làm vợ. Nhưng phụ hoàng em cho nó là đồ tồi tệ, bèn đuổi nó ra khỏi cửa. Bị nhục, nó tìm cách giả trang để vào làm tôi tớ trong cung và tìm cách đưa cái hộp ma quỷ ấy để lừa em. Thế là em bị mắc lừa, biến thành con cú và trong khi thị nữ đi tìm em khắp chốn, nó xách cổ em lên cái tháp này, tống em vào đây rồi bảo: "Mi phải ở đây cho đến khi một kẻ nào đến đây và bằng lòng hỏi mi làm vợ. Chỉ có cách đó là mi có thể hiện lại nguyên hình. Nhưng tao thì tao giấu chả cho ai biết có mi ở đây. Mi cứ ở đây cho đến trọn đời, già đi và chết đi như những con cú khác. Thế cho bỏ ghét thằng cha mi". Nói xong, hắn bỏ đi. Em ở đây chẳng đi đâu được, vì bị cột lỏng chân. Ðã hơn ba tháng nay, em phải âm thầm sống ở đây, không có nhìn thấy trời đất. Ăn thì ăn dơi chuột, rêu đá. Và bệ hạ ơi, số kiếp của em còn khổ sở hơn số kiếp của bệ hạ nhiều. Bệ hạ còn có bạn, còn bay đi khắp chốn được, chứ em thì phải trọn đời ở nơi đây. - Lạ thật, nhà vua lẩm bẩm. Số phận của chúng ta đồng nhau. Hẳn có liên quan gì đây. - Chắc thế, tâu bệ hạ. Em bị quả báo thế này, bởi vì trước kia em có hỗn với mẫu hoàng em một lần. Em chắc thế. Còn bệ hạ có lỗi gì đâu? Thế bây giờ bệ hạ đi đâu? - Chúng tôi đi Mếch Di Cô để cầu cứu. Cón cú lắc đầu, rồi bỗng nhiên hai mắt sáng rỡ phi thường: - Em tưởng rằng bệ hạ và quan lớn chả phải đến Mếch Di Cô làm gì nữa. Em đã có cách để cứu được bệ hạ và quan lớn và luôn dịp cứu được cả em nữa. Nhà vua hấp tấp: - Làm thế nào? Làm thế nào? Bằng Tô cũng hấp tấp: - Làm thế nào? Làm thế nào? Mỗi tháng bọn bộ hạ của Cách Nô đều nhóm họp gần ở đây, ở lâu đài bên kia đồi. Chúng nó tiệc tùng và kể chuyện vui chơi mà chúng đã làm trong một tháng. Có lẽ trong khi kể, chúng sẽ nhắc đến ba chữ thần bí kia mà bệ hạ đã quên. Mà nếu em còn nhớ, thì tối nay là tối chúng nhóm họp. Vua Mỹ Tuấn vui mừng nhảy lên: - Công chúa! Công chúa! Hay biết bao nhiêu! Nàng là kẻ cứu mạng chúng ta! Mau mau, nàng hãy chỉ cho ta đường lối sang lâu đài. Bằng Tô, hãy mổ đứt sợi dây cột chân nàng cho ta. Công chúa, nàng hãy vui lòng chỉ đường cho ta với. Hai chàng cò khẩn khoản. Nhưng công chúa nghiêm nét mặt: - Em cứu hai chàng, nhưng em phải ra một điều kiện. Nếu hai chàng tuân theo thì em mới đi. Vua hấp tấp: - Ðiều kiện gì ta cũng chịu cả. Nàng cần gì? - Em muốn rằng bệ hạ sẽ giúp em trở lại nguyên hình. Em thưa rằng chỉ khi nào có kẻ muốn nhận em làm vợ, em mới thoát khỏi cái lớp áo cú xấu xa này. Vậy thì, tâu bệ hạ, nếu bệ hạ hoặc là quan lớn hứa làm chồng em. - Này Bằng Tô, bây giờ chính là lúc ngươi tỏ lòng trung thành với ta. Ngươi sẽ cưới công chúa làm vợ. Bằng Tô giẫy nẩy và run lập cập: - Tâu bệ hạ! Bệ hạ muốn cho khi thần về vợ hạ thần sẽ móc cặp mắt của hạ thần đi hay sao. Nó dữ lắm. Nếu nó thấy hạ thần đem công chúa về thì chết với nó. Bệ hạ nên nhớ rằng thần đã có vợ con. Hơn nữa thần đã già. Bệ hạ còn trẻ, chưa có vợ và đáng cưới công chúa hơn hạ thần. Công chúa thì trẻ đẹp... mà hạ thần thì già nua, râu dài chấm đất... - Ai bảo ngươi công chúa còn trẻ và đẹp đấy! Chưa chắc! Nhà vua buồn rầu vuốt lông cánh, nghĩ ngợi mơ màng. Chả có gì chắc rằng nàng trẻ và đẹp! chắc phen này thì mua mèo trong bị đấy! - Tâu bệ hạ, Bằng Tô đáp một cách lễ độ nhưng cương quyết, hạ thần chỉ có thể nói rằng: thà rằng chịu kiếp cò suốt đời còn hơn là rước vợ lẽ về để vợ hạ thần nó hành hạ thần khổ lắm, nếu bệ hạ biết được tính nết của con vợ hạ thần... Hai thầy trò còn cãi vã một hồi nữa và cuối cùng nhà vua phải đành lòng nhận chị cú làm vợ. Nghe nói nhà vua thuận nhận, công chúa Phương Châu rất vui mừng: - Chúng ta sẽ được hiện nguyên hình không lâu. Chính hôm nay Cách Nô đãi tiệc. Giờ này chắc chúng đã bắt đầu nhập tiệc. Chúng ta hãy đi mau mau. Nói xong nàng cú đi trước, bay nặng nề nhưng nhanh chóng. Hai chàng cò hấp tấp theo sau. Ðến lâu đài, công chúa lấy mỏ trỏ một cánh cửa con để hai chàng cò có thể bay lên đậu và nhìn vào tận bên trong phòng tiệc. Mỹ Tuấn và Bằng Tô nhẹ nhàng bay đậu lên cửa, chống tai chống mắt mà nhìn mà nghe. Trong gian phòng, một quanh cảnh tươi đẹp. Ðèn nến sáng trưng, bàn ăn khói lên nghi ngút. Chung quanh bàn, bọn chúng nó đến hơn sáu chục đứa. Trong bọn, nhà vua cò thấy có cả tên Chệt hôm xưa. Tên Chệt này đang kể chuyện Bằng Tô và Mỹ Tuấn. - Chúng ta đến thật là vừa lúc, vua Mỹ Tuấn vừa nghĩ vừa rùng mình. Nếu chậm một chút thì còn gì là đời! Lạy Phật! Xin nhớ ơn Ngài! Và hai thầy trò lắng hết cả bốn tai. Tiếng cười trong phòng dội ra khi nghe tiếng kể chuyện của thằng Chệt bắt đầu lên giọng khôi hài. Một đứa trong bọn hỏi: - Hay quá! Hay quá! Thế anh làm thế nào vào cung được và mấy chữ ấy là chữ gì mà thần bí đến thế? (Ngoài này nhà vua và Bằng Tô lắng yên không dám động một máy lông). - Chữ gì ư? Một chữ la tinh khó nhớ lắm mà tụi chúng một khi quên đi thì không thể nhớ lại được. Ấy là chữ "MUY TA BO" ấy mà! Nghe đến đây, hai chàng cò chả thèm nghe nữa, vội vã đáp xuống thật mau, đến nỗi con cú phải bay gấp lắm mới theo kịp. - Công chúa ạ, nhà vua mừng rỡ nói, may mắn quá. Vậy trước khi hiện lại nguyên hình, ta xin nhắc lại lời hứa: ta sẽ nhận công chúa làm vợ để trả cái ơn muôn kiếp không quên này! Nói xong nhà vua quay mặt về hướng Tây, nghiêng mình đọc ba lần "MUY TA MO". Bằng Tô cũng bắt chước vua. Phút chốc hai người hiện lại nguyên hình. Mỹ Tuấn, một nhà vua đẹp trai và Bằng Tô một cận thần râu dài chí đất. Hai người nhìn nhau mừng rỡ và cảm động quá, thầy trò ôm chầm lấy nhau khóc. Khóc xong, nhà vua chợt nhớ đến chị cú. Nhưng, sung sướng biết bao! Khi quay lại nhìn, nhà vua chả thấy cú đâu mà chỉ thấy một nàng công chúa đẹp như tiên, một nàng công chúa đẹp nhất trên đời mà người ta không có thể tưởng tượng. Nàng mặc xiêm y lộng lẫy và nụ cười trên môi nàng đối với nhà vua còn tươi hơn cả những đồ trang sức đẹp nhất của nàng. Công chúa Phương Châu quỳ xuống: - Tâu bệ hạ! Bệ hạ có còn sợ mua mèo trong bị nữa chăng? Nhà vua xấu hổ vì hồi nãy đã nói hơi to để cho công chúa nghe được. Nhưng chàng sung sướng, đỡ công chúa dậy và hôn tay nàng: - Nếu sau này nhắc đến một cảnh ngộ vui mừng nhất của đời trẫm, trẫm sẽ nói rằng đó là cảnh ngộ mà trẫm bị biến thành kiếp cò trắng! Không còn chậm trễ, vua và công chúa Phương Châu cùng Bằng Tô lên đường. Bán bớt một cái áo choàng, nhà vua mua ba con ngựa, sắm một đoàn tuỳ tùng cho đáng vẻ vương giả và cả ba lên ngựa về thành My Lăng. Nhà vua được đón tiếp với tất cả những bồng bột nồng nhiệt của dân chúng. Cách Nô tiếm vị đã tuyên truyền nhà vua chết, nay thấy nhà vua về, toàn dân đều vui mừng thiếu một đường điên dại lên. Cách Nô bị bắt, kẻ tiếm vị bị xử án: một là tự tử, hai là phải chịu kiếp cò. Thế là Cách Nô phải hít một chút bột ma quỷ vào mũi và quay sang phía Tây: "MUY TA BO!". Hắn biến thành cò, sống trọn đời trong vườn thượng uyển giữ kiếp cò trắng. Nghiệp quả của hắn đã gây, bây giờ hắn ráng chịu không ai phàn nàn. Nhà vua lại lên ngôi, nhân dân lại được thái bình. Quần chúng mở tiệc ăn mừng luôn trong bảy ngày. Vua truyền lệnh tha cho các tội nhân và làm lễ thành hôn với công chúa Phương Châu. Một hôm nhà vua nhớ lại chuyện cũ, cười bảo Bằng Tô: - Khanh có nhớ không, nhớ đến kiếp cò của chúng ta không? Trẫm không nhịn được cười khi thấy khanh nghiểnh cổ về phía tây lắp bắp: "Muy ma... no... mô...". Trông dáng điệu của khanh lúc bấy giờ thật là thiểu não lắm! Bằng Tô cười nhẹ, ghé tai nhà vua nói nhỏ: - Bệ hạ đừng nhạo hạ thần quá, nếu không, hạ thần sẽ nói toạc câu chuyện tranh luận giữa hạ thần và bệ hạ ở trên tòa tháp hôm nọ... Hoàng hậu mà biết bệ hạ ấy Hoàng hậu về phía hạ thần vừa xấu, vừa già, vừa dài râu, thì Hoàng hậu sẽ buồn bệ hạ lắm đấy. Nhà vua vội vã:
Ðời xưa, có một ông vua tên là Mỹ Tuấn, còn trẻ, cai trị một nước phồn thịnh gọi là xứ My Lăng. Nhà vua xem dân như con, tính tình thật là dễ chịu. Vua có một cận thần rất trung thành tên là Bằng Tô. Bằng Tô có một bộ râu dài gần sát đất. Bằng Tô thường hầu cận bên vua không khi nào rời. Vua mến ông ta lắm.
Một hôm, sau buổi cơm trưa, vua Mỹ Tuấn nhận thấy Bằng Tô không vui, vì một lát hắn ta lại thở dài một cái. Nhà vua hỏi:
ia mà! Ðức vua nóng nảy:
Nhà vua kéo Bằng Tô ra xa nói nhỏ:
Một ông khách ngồi mơ màng bên ly rượu thình lình vụt cười dài, chốc lại đưa tay lên, rồi để xuống, lắc đầu, không cười.
Người hầu bàn ngạc nhiên:
Thưa ông, ông làm gì thế?
Khách đáp:
Ờ! Ta kể chuyện ta nghe.
Nhưng thỉnh thoảng ông đưa tay lên và không cười là tại sao?
Vì chuyện đó ta biết rồi, không cần kể nữa.
2881
Một hôm, nhà bác học Anhxtanh bước lên xe buýt nhưng lỡ làm rơi mắt kiếng, ông đang khom người sờ soạng tìm dưới sàn xe thì cô bé đứng đối diện nhặt kiếng lên dúi vào tay ông.
"Cảm ơn bé, cháu tên gì nhỉ?"
"Clara-Anhxtanh, bố ạ!"2484
Vẫn còn tiếng lụp cụp rộn ràng của mấy cây dao chặt vào mặt thớt mù u. Vẫn tiếng nói cười xao động từng chòm nhóm của các chị, các dì trong nhà bếp. Tiếng máy đèn chạy tạch tè. Đằng trước rạp, nhóm ca cải lương dạo đờn lửng ta lửng tửng rồi ai đó vô câu vọng cổ ngọt xớt. Không biết vô tình hay cố ý, anh chàng nọ kê micro gần miệng mà uống rượu. Nghe đánh cái chóc giòn thiệt giòn rồi khà ra tuồng như cay đắng lắm, chua xót lắm, bắt thèm.
Huệ với Điềm ngồi xếp quần áo trong buồng. Điềm bò lại cửa sổ mở chốt, đẩy hai cánh cửa lá sách sơn xanh ra, trời khuya sâu hun hút, nó la lên :
- Trời, gió mát ghê hen.
Huệ gật đầu, ừ, mát, gió chạy nghe thông thống trong lòng. Nghe rõ ràng mùi xoài cát trái mùa chín son ngoài song cửa. Tự dưng Huệ thấy nhớ nhà ghê lắm. Ngồi ngay ở nhà mà cũng nhớ thiếu điều rớt nước mắt cái độp xuống mặt chiếu bông. Lúc nảy, ăn cháo khuya xong, ba Huệ biểu cả nhà ra đằng trước, ông đốt nhang khấn trước bàn thờ làm lễ xuất giá cho con gái út. Chưa đủ lễ thì má Huệ đã khóc òa. Mấy chế, mấy dì ở nhà dưới chạy lên, bắt khóc theo, nước mắt nước mũi lòng thòng. Thành ra ai cũng xúm lại khóc nên không có màn dặn dò như mấy những lễ xuất giá khác. Huệ nghĩ vậy mà tốt, nó đỡbuồn tủi. Điềm dặn, "Bây giờ mầy khóc cho đã đi, để mai lúc rước dâu thì ráng nhịn, cô dâu mà khóc, son phấn trôi tèm lem, thấy rầu lắm". Trời đất, buồn thương ở trong lòng, lúc nào tràn đầy thì phải khóc cho vơi chứ có phải rót nước ra từ cái ấm, lúc nào muốn rót thì rót, lúc nào không muốn thì thôi. Con gái lấy chồng, hỏi ai không tủi ?
- Hồi sáng này, lúc đi chợ mua đồ về tao thấy ông Thi đi ngang nhà mình.
Điềm rũ cái áo bà ba hường làm cái đèn chao ngọn, nó lên tiếng. Huệ ra bộ dửng dưng :
- Ừ !
- Thấy cái mặt ổng buồn, đứt ruột lắm.
- Ừ !
Điềm trở giọng quạu quọ :
- Ừ, ừ hoài. Phải chuyện mầy với ổng mà thành, đám nầy vui biết bao nhiêu không.
Huệ cười, biểu Điềm nói nho nhỏ thôi rồi cái giọng lại nửa dửng dưng nửa phân trần :
- Thành gì mà thành, người ta đã nói là không có tiền sắm trầu cau.
- Sạo, trầu cau rẻ rề, mà, sao lại có tiền đi cưới người khác.
Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi. Mà, sao bữa nay gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu. Cái vali da mới màu vôi đã đầy quần áo. Đồ của Huệ không có bao nhiêu, cũ hết rồi, đồ bên chồng cho mới nhiều, tới mười hai bộ. Điềm nhắc :
- Còn tập chép bài ca, mầy đem theo không ?
- Ừ, đem theo, chút nữa tao quên rồi.
Mà, đem theo chắc cũng không làm gì hết. Về bên nhà chồng không biết còn rảnh rỗi vừa đưa võng vừa ngêu ngao hát. Nhà Thuấn vườn rộng, ruộng cũng nhiều, công chuyện chắc vô số. Thuấn kể, chỉ tính bẹ dừa khô rụng xuống, má Thuấn đã đi chặt mãn một năm còn chưa giáp vườn. "Nhưng em đừng sợ, về bển, ba má với anh không cho em làm gì nặng nề đâu", Thuấn nói thêm. Huệ cười, cực khổ nó không sợ, chỉ sợ không được vui. Nghĩ lại, có chồng vừa hiền vừa giỏi như Thuấn, lại thương mình như vậy làm gì mà không vui.
Huệ lại chỗ đầu nằm, giở gối lên, nâng niu ấp trong tay tập chép bài ca đã cũ. Nhắm mắt, nó vẫn lật ra ngay cái trang có nét chữ nắn nót của Thi, dưới bài hát "Nhẫn cỏ", Thi ghi thêm hai câu thơ "Trăm năm ai chớ bỏ ai. Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim". Con Điềm thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó.
- Tao tội nghiệp ông Thi quá, mà tao cũng tội nghiệp mầy nữa. - Điềm vừa nằm xuống, vừa thở dài cái thượt. Huệ kêu Điềm ngủ đi rồi lụi hụi xuống giường, nó nói nó còn quên sợi dây nịt. Điềm xì một cái, "mầy có tật tiếc đồ cũ". Huệ gắt, "Kệ tao. Ngủ đi". Huệ bò lại chỗ cửa sổ và ngồi đó, đưa mắt nhìn xa thẳm màu đêm. Huệ ngồi đó thật lâu, đến má ghé vô buồng biểu Huệ nhắm mắt một chút đi, ngày mai rước dâu mệt lắm. Huệ dạ, thổi phù cho tắt đèn. Con Điềm vốn mê ngủ, đặt lưng xuống chưa bao lâu đã thở sâu. Huệ lại thắp đèn coi bây giờ là mấy giờ rồi giở vali ra, nói thầm trong bụng : "Không biết mình có quên gì không ta ?"
Nó làm như lỡ quên món gì sau này không có dịp về lấy nữa. Mà, từ Đất Cháy qua nhà Thuấn có bao xa, chạy xuồng băng tắt qua Đầm, rẽ theo kinh Thợ Rèn chừng mười lăm phút là tới. Nhưng với đứa con gái theo chồng, quãng đường đó cũng chở thương, chở nhớ. Chế Lê, chế thứ ba của Huệ lấy chồng sát bên nhà, chỉ cách một hào ranh mà còn khóc lu bù. Hồi đó, Huệ cười, chế cú cái cóc lên đầu nó," Sau này có chồng rồi biết, cưng ". Huệ không tin, nó biết mình rắn rỏi lắm, sức mấy mới khóc. Té ra không phải vậy, nó cũng là một đứa lạc lòng. Sáng mai thôi nó sẽ xuống vỏ rồi về ở miết nhà người ta. Nhớ cái cối xây bột dựa hàng kệ đựng tiêu tỏi, dầu ăn, nước mắm... Con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy cái võng giăng quây quần quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, người đi ra đi vô đã mòn mấy hòn tròn tròn trọc lóc. Lối này đổ ra con đường xóm xáng múc hôn hang chạy dài tới Vịnh Dừa. Đi chút nữa là tới đám trâm bầu, chỗ con đập vào xóm Kinh Cụt, bẹ dừa kéo xuồng nằm vảnh cổ, có bẹ đã khô quắt, có bẹ còn tươi thơm. Xóm kinh ăn sâu vô đồng. từ vườn nhà Huệ dòm xéo về phía tây, bỏ cánh đồng lúa lơ thơ gốc rạ là một vệt xanh rờn của dừa, của chuối.
Và nhà Thi ở đó. Huệ với Thi quen nhau hồi nhỏ. Thi có tật khoái đi tắt đường đồng đâm thẳng vô vườn nhà Huệ để đến trường. Tan học về, nó có thể nhẩn nha, lang thang đồng khơi thả diều cho tới chạng vạng. Có bữa tan trường, Thi về cùng Huệ, Thi hỏi, "tao thấy con gà mái nhà mầy đẻ bậy đống rơm sau hè, sao mầy không làm ổ ?" Huệ xụ mặt xuống, môi trề ra "Gà nhà tao, kệ tao." Thi mất hứng, càu nhàu :"Con gái gì... vô duyên".
Đó là chuyện hồi nhỏ, chớ khi hai đứa lớn lên, Thi nhận ra Huệ có duyên, đã có duyên mà còn đẹp nữa. Thi học lớp trung cấp sư phạm xong về dạy trường cấp II Ấp Chín. Thi dạy lớp sáu, ngay lớp con bé Mén con anh Hai Mận học. Huệ đi họp phụ huynh hoài. Vô đó, không phát biểu gì, thẹn thò ngồi cuối dãy bàn, cũng không để ý coi Thi nói gì, chỉ nhìn Thi cười. Trời đất quỷ thần ơi, người gì cười hiền thấy thương quá. Hồi xưa, lúc còn con nít đứa nào cũng hôi nắng, cũng lùi bùn sình, đâu phải như bây giờ. Ở chợ hay ở quê gì rồi người ta cũng lớn lên.
Ở xóm này, người biết tụi nó thương nhau đầu tiên là con Điềm, nhỏ bạn thân nhất của Huệ, người thứ nhì, thứ ba biết là chú thím Mười Ba. Chú Mười Ba bán quán cà phê cặp bờ kinh xáng. Quán chú buổi sáng toàn đàn ông, buổi trưa của mấy thím đàn bà, ôm đứa con nẹo một bên vú nói chuyện làng trên xóm dưới. Buổi chiều, tụi con nít tụ lại quán chạy lòng vòng trong sân chơi. Riêng buổi tối, quán chạy máy đèn chiếu phim bộ Hồng Kông phục vụ cho đám thanh niên. Có lần coi bộ phim kiếm hiệp "Thiên Long Bát Bộ", tới đoạn A Châu chết, con Huệ nước mắt rịn rịn, chắc lưỡi như nói với con Điềm: "Ước gì trên đời này có ai thương tao như ông Kiều Phong thương A Châu, chắc tao sướng tới chết luôn quá". Con Điềm cười, ngó ra sau lưng, nói xa xôi, "Có chớ, sao mà không?". Thi ở đằng sau, kế dãy ghế Huệ ngồi, hít đầm đìa hương tóc thơm của cô bạn gái, mỉm cười. Ra về, Thi thả chầm chậm theo tới chỗ quẹo vô nhà Huệ, Thi mới níu tay Huệ lại, Thi nói rằng:"Ông Kiều Phong đó mà nhằm gì, có người còn thương Huệ hơn..." Tay Huệ ấp vào giữa tay Thi líu ríu. Sáng ra Bà Hai, má Huệ nói với thím Mười Ba :" Làm gì hồi đầu hôm nầy mấy con chó nhà tôi sủa ong ỏng hoài vậy không biết ?" Thím cười, chó sủa chuyện vui.
Rồi con Điềm làm nhân chứng cho mối tình của Huệ. Gặp Thi ở đâu, Thi nói cái gì Huệ đều kể cho Điềm nghe. Nhiều lúc Điềm phải nạt, " Trời ơi, mầy kể cho tao nghe hoài, tao phát ghen luôn đây nè". Mai mốt đây, hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì làm gì ?), Điềm ước gì mình gặp được một người tử tế, hiền hậu, có học thức như Thi, lấy được người chồng mà tự mình tìm hiểu, yêu thương như Huệ. Huệ cười, chưa gì hết mà chồng chồng vợ vợ, nghe kỳ. Nói vậy, nhưng lòng Huệ nghe ấm ran, nó mơ tới một mái nhà sớm chiều khói tỏa, buổi sáng nó rang cơm cho Thi lót lòng đi dạy, trưa đón Thi về chăm chút nồi canh chua bông súng ăn với cá sặc kho khô.
Thương thì thương vậy, nhưng nhắc chuyện cưới, thấy không gấp gáp được. Nhà Thi đã nghèo mà anh em lại đông. Má Thi giao, đứa nào nấy làm để cưới vợ riêng. Lương Thi thì ít lắm, dư dả bao nhiêu. Vì vậy mà Thi xin đổi ra Rạch Ráng dạy trường huyện. Thi tính, ra ngoài đó Thi dạy thêm giờ, chắc lương lên được hai trăm mấy, để dành không bao lâu nữa đủ tiền lễ để cưới Huệ rồi. Huệ cười, cưới vợ chớ đâu phải mua vợ đâu mà phải tốn nhiều tiền. Thi bảo, không cần rình rang nhưng cũng phải có năm sáu bộ đồ, đôi bông, sợi dây chuyền cho Huệ không phải tủi chứ. Những lúc nhớ Thi, Huệ ngồi mơ về đám cưới, bữa đó, chắc là vui lắm. Hết học kỳ đầu, tự nhiên bặt cả tháng Thi không về, có về cũng chui nhủi trong nhà, ốm như ma đói. Huệ hỏi hoài, nhưng Thi cúi đầu, tìm được ánh mắt Thi đã khó, mong gì Thi nói ra.
Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trưa ngồi quán chú Mười Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại với con gái trưởng phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cưới. Đâu nè, thầy Thi đâu có tệ như vậy. Ừ, nhưng nghe nói thầy Thi bị "gài" như trong Lan và Điệp. Tội nghiệp. Tội nghiệp ai?
Thì Thi chớ ai, ở đời ngược ngạo vậy đó. Thi cưới vợ xong rồi nhưng vẫn thường tha thểu về ở lì trong này. Huệ gặp Thi giữa đường muốn cười nhưng Thi lầm lũi cúi mặt. Huệ lấy chồng. Thím Mười Ba chép miệng, giọng không biết khen hay chê:"Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái "rụp". Huệ cười, thấy đâu có chê Thuấn được cái gì, Thuấn biết Huệ từng thương Thi mà anh cũng bước tới. Huệ bây giờ, còn chờ ai nữa ?
Huệ chuẩn bị cho đám gả mình từ mấy tháng trước. Suốt ngày nó cặm cụi ngoài vườn. Lá dừa khô bó láng vo, tề đầu tề đít chất đầy giàn bếp, dựng qua tới bồ lúa. Củi phơi từ lúc chớm hết mưa, lổn nhổn ngoài sân. Mớ cọng dừa đã róc lá dựng ngoài giàn, chưa khô hẳn thì đám bìm bìm đã leo xanh rờn, nó cũng dỡ xuống, chặt phơi. Chuyện gì nó cũng giành làm một mình, làm từ sáng sớm tới chạng vạng, không đi coi phim nữa mà tối tối nằm nhà nghe cải lương hoặc đưa võng cò kẹt, hát "Thương nhớ nhớ mãi không thôi. Chàng mới ra về chị em tôi thương nhớ...". Điềm tới chơi thường, như giữ Huệ, sợ Huệ vì Thi mà làm chuyện dại. Sợ vậy thôi, chớ Huệ vẫn roi rói, người ta thấy nó không thèm rớt một giọt nước mắt nào như nó với Thi chưa từng có duyên dẻ gì nhau. Điềm hỏi "Sao tao không thấy mầy buồn gì hết ?". Huệ cười, "Tao quên ông Thi mất tiêu rồi, tệ quá, nhớ làm chi ?" Hồi đám cưới Thi, Huệ chép miệng tiếc, phải chi Thi mời... Không được mời nên mới nằm nhà, gió đưa tiếng hát ngang qua đồng lúc gần. lúc xa thăm thẳm.
Hôm gần đám, Thuấn chạy xuồng qua chở Huệ đi chợ. Hai đứa mua nhiều thứ, cuối cùng dắt nhau tới tiệm tạp hóa lựa bốn trái tim bằng giấy đỏ lớn bằng cái thúng để Huệ dán bên nhà hai trái, buồng cưới nhà Thuấn hai trái. Lúc Huệ giở mấy trái tim coi kỷ coi có thủng lổ không thì thấy Thi đằng cuối chợ đứng nhìn. Huệ cười ráo hoảnh. Tưởng Huệ không thấy, Thuấn quay qua, nhắc nhỏ, "Thi kìa, em ! ". Huệ cười, ừ, Thi đó, Thi chớ ai, rồi biểu người bán hàng lựa thêm cho hai chữ Song Hỷ. Lúc đó Thi mới lại gần chào, Huệ biểu, "Thi đừng có nhìn tui trân trối vậy, tui cũng phải lấy chồng chớ, phải hôn. Mà anh nhớ đối xử với người ta tốt như đối xử với tui vậy nghen". Thi gượng gạo cười rồi cắn môi quay đi. Thuấn nhìn theo, nắm tay Huệ, nắm rất chặt, nửa như để an ủi, nửa lại giống như rịt lấy, như sợ Huệ bỏ chạy đi mất. Huệ mắc cười, đó là lần đầu tiên từ lúc xuống mối, tới ăn trầu uống rượu rồi chuẩn bị cưới Thuấn mới nắm tay cô. Thì phải vậy thôi, mai mốt là vợ chồng rồi...
... Huệ ngồi chỗ cửa sổ cho tới lúc gà gáy rộ. Bà Hai lủi thủi đốt cây đèn cóc ngồi lột tỏi, không biết có phải tỏi nồng hay không mà mũi bà sụt sịt, nước mắt kèm nhèm. Bà con cô bác cũng trở dậy râm ran. Thức ăn đãi buổi mai đã làm sẵn từ hôm qua một mớ nhưng thịt kho tàu vẫn chưa thấm lắm, lớp mỡ chưa trong. Than bắt lửa cháy lép bép. Huệ kêu Điềm dậy, sửa soạn ra chợ xã đánh tóc, làm mặt. Điềm ngồi dậy, tay lò mò kiếm cây kẹp tóc, giọng tỉnh queo nhưng hơi bàng hoàng :
- Trời ! Sáng rồi sao ? Mau vậy ?
Đám thanh niên đằng trước quét qua nền rạp, xếp bàn ghế ra. Nhóm ca cải lương đã mỏi mòn ngoẹo vào nhau ngủ mê mệt, thay vô đó là băng nhạc đám cưới xập xình "Ô vui quá xá là vui..."
Xuống xuồng, Huệ giành lái máy. Điềm ngồi co ro đằng trước mũi, than lạnh quá chừng đi. Gió này mà không lạnh sao được. Một tháng mười ba ngày nữa là Tết rồi còn gì. Và sau tết nầy, mấy thím ngồi quán trưa bảo nhau, "Vợ chồng con Huệ có về". Trong tiếng máy Koler 4 nổ lùng bùng, tự dưng Huệ bảo :
- Ừ,lạnh quá, Điềm ha ?
Xuồng từ từ chạy tới đập nhỏ đầu xóm Kinh Cụt. Đám trâm bầu đứng im lặng, xơ rơ. Huệ bất ngờ xuống máy chạy chậm, chiếc xuồng khật khừng. Nó ngơ ngẩn ngó lên bờ, trong lòng chao chát một nỗi thèm muốn. Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng nó hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt.
Nhưng nói để làm gì, ta ?
A: "Nghe nói anh đã lấy cô gái đó. Chúc mừng anh vớ được cô vợ tốt"
B: "Sao lại là vớ? Không đúng, không đúng!"
A: "Sao không đúng?"
B: "Thực tế như thế này. Lần đầu gặp gỡ tôi mời cô ấy đến nhà tôi chơi, cả nhà tôi nhiệt tình tiếp đãi, nào đưa khăn nóng lên lau mặt, sau đó dọn lên ê hề bia, bánh kẹo, thức ăn..."
A: "Chà!"
B: "Tiếp đó đến các món đặc sản, toàn những thứ ngon lành mua ở nhà hàng cả."
A: "Rồi sao thế nào?"
B: "Sau đó sắp ra về, cô ta nghĩ về tay không như thế không tiện nên mới đồng ý
***
Vợ chồng Hoàng mừng tiệc tân gia thật linh đình. Các bạn bè có chức vị nâng cốc vui mừng cho vợ chồng Hoàng vừa bước lên một ngôi cao, riêng với Hoàng, sự hạnh phúc nhất đời là đã xây được một "lâu đài tình ái" cho vợ mình và đó cũng chính là một tổ ấm mà vợ chồng Hoàng tạo dựng nên cho đứa con trai đầu lòng vừa tròn sáu tuổi. Hai vợ chồng sống với nhau trong một căn nhà quá rộng thênh như vậy có lúc cũng cảm thấy trống trải làm sao. Ngoài hai phòng riêng dành cho vợ chồng Hoàng và cậu con trai. Tám phòng ngủ còn lại rất lạnh vì thiếu hơi ấm của người. Hoàng cùng với vợ vẫn phải miệt mài với công việc cơm áo, còn đứa con trai thì phải gửi vào trường. Căn nhà bỏ lạnh cả ngày, chỉ có bác chăm sóc vườn hoa và dọn dẹp nhà cửa trong ngày. Tối đến, hai vợ chồng súm sít cùng con quanh bàn ăn cho xong một bữa cơm tối, rồi tụ nhau xem ti vi và ai về phòng nấy mà ngủ vì còn một ngày dài sẽ gánh nặng trên vai.
Ở trong căn nhà rộng lớn này đã hơn một tháng, có những lúc về khuya khi vợ và con đã ngủ say. Hoàng vào phòng là nơi riêng dành để làm việc cố tâm mà soạn thảo cho xong các văn bản thương mại của công ty. Hoàng chăm chú vào máy vi tính in ra những lời biên soạn cho buổi thuyết trình vào sáng mai. Hoàng ngồi trong phòng giấy, chờ cho máy in từng tờ văn bản. Không gian thật im lắng, bỗng Hoàng nghe như có tiếng người nói cười, tiếng nước chảy, âm thanh như thể có ai đó đang rửa chén úp vào trong sống dưới nhà bếp. Hoàng chỉ nghe tiếng động và nghĩ đó là một dư âm nên chẳng hề để ý thêm. Hoàng tiếp tục chú tâm vào máy vi tính, làm cho xong nốt công việc của mình. Ðồng hồ đã điểm đúng 0 giờ. Hoàng ngáp dài và cố nấn ná thêm vài phút cho xong công việc. Cái phòng làm việc của Hoàng cách phòng ngủ của hai vợ chồng là hai căn phòng trống. Hoàng chọn cái phòng này là nơi làm việc vì nó thoáng mát, rộng rãi, có những kệ sách đã đóng sẵn cùng các ngăn tủ cho Hoàng xếp đặt hồ sơ. Hoàng ngồi trong văn phòng mình làm việc trong đêm khuya, ngó ra ngoài trời tối như mực, căn nhà bao quanh với những hàng thông cao, nghẽo nghiêng vì vài ngọn gió đầu đông. Hoàng đang gấp giấy tờ vừa in ra từ cái máy in cho theo thứ tự từng trang, rồi để vào cái cặp da . Bỗng Hoàng nghe như có tiếng nước chảy của phòng tắm bên cạnh, rồi tiếp theo là tiếng khạt nhỗ như có ai đang sút miệng, một tiếng nước dội cầu tiêu nghe thật rõ tai làm Hoàng nghi ngờ vì trong phòng ngủ của vợ chồng Hoàng đã có phòng tắm riêng, lẽ nào vợ Hoàng lại sang phòng bên cạnh mà dùng? Hoàng cũng mệt mỏi lắm rồi, nên tắt đèn về phòng riêng tìm vào giấc ngủ. Thấy vợ mình đang ngủ say, chàng lẽn nhẹ nằm kế bên, kéo chăn đắp ngang người, cố xua đuỗi đi những ý tưởng trong đầu mà tự mình ru lấy một giấ
c ngủ ngon...
Vài hôm sau, Hoàng lại phải làm việc vào đêm trong văn phòng. Hoàng vẫn nghe dưới bếp nhà có ai đó đang rửa chén úp vào sống, có tiếng chân người bước đi trên nền gỗ. Hoàng không tin ở tai mình, mà bước chân lần xuống dọc theo cầu thang vào nhà ngay nhà bếp. Hoàng thấy phòng ăn im tĩnh, ánh đèn trên trần nhà còn sáng. Hoàng tự tin vì mình hay vợ đã quên tắt đèn trong nhà trước khi đi ngủ, nên gặt tắt đèn và trở gót quay về phòng làm việc. Hoàng mới ngồi vào ghế, hai bàn tay vừa đặt lên bàn phím của máy vi tính thì lại nghe tiếng động như có ai kéo ghế ngồi dưới phòng ăn. Tiếng kéo ghế nghe thật rõ, như có hai người kéo ghế ra và nhích ghế vào cùng ngồi lại nhau cạnh bàn ăn. Hoàng im tiếng một hồi để lắng nghe tiếng động ở dưới bếp và nhẹ chân bước xuống xem động tĩnh. Ðèn trong phòng ăn Hoàng vừa mới tắt lại rực sáng, hai cái ghế ngồi đặt ở đầu và cuối bàn ăn lại kéo ra, không ở vị trí sát bàn như vợ chồng Hoàng đã dọn lại sau khi ăn tối. Hoàng kéo ghế lại, rồi tắt đèn một lần nữa và quay lưng bước đi lên lầu trên trở lại văn phòng làm việc. Hoàng nghĩ ngợi trong óc, chắc là cái công tắc đèn bị hư nên đèn tự bật sáng, mà mấy chiếc ghế quanh bàn ăn cơm thì khác. Vì Hoàng ngồi ngay đầu bàn, và vợ Hoàng ngồi ngay bên cạnh với đứa con trai ăn tối. Sao cái ghế ở cuối bàn đâu có ai ngồi mà sao lại kéo ra? Hoàng nhớ rất kỹ là ghế ngồi đã được đẫy sát lại vào cạnh bàn ăn sau bữa tối? Hoàng chả tin vào mình nữa, chắc có lẽ quên. Hoàng xong việc ở bàn giấy, rồi về phòng yên nghĩ...
Vừa mới đặt lưng xuống, Hoàng chưa kịp chợp mắt thì lại nghe có tiếng ai đó đóng cửa phòng bên cạnh. Một căn phòng trống mà vợ chồng Hoàng dùng nơi đó cho các khách thăm viếng ở lại đêm như những phòng trống khác. Hoàng nghe tiếng đóng cửa mạnh và dường như có bước chân người nên Hoàng chồm ngồi dậy, nhón nhè nhẹ bước kẽo đánh thức vợ sang phòng kế bên xem. Hoàng không thấy gì cả, rồi sang phòng đối diện mở cửa nhìn thằng bé Út đang ngủ say. Hoàng yên tâm hơn vì sợ trộm vào nhà, rồi quay lại giường khẽ đặt lưng xuống mà ngái ngủ...
Hoàng nghĩ vấn vơ trong đầu vì những tiếng động mà Hoàng thường nghe lúc về đêm khi trong nhà ai cũng đã đi ngủ, chỉ có mình Hoàng thức khuya hơn làm việc trong phòng. Ðôi lúc Hoàng muốn nói cho vợ nghe nhưng lại thôi vì Hoàng không muốn cho vợ mình sợ sệt và có ý nghĩ mông lung như thế. Tính Hoàng vốn đã không tin vào những chuyện hồn ma bóng uế như bao câu chuyện đã kể lại. Ðến khi vợ Hoàng nhắc nhỡ chàng là nên nhớ tắt đèn đóm, hay đóng cửa cái tủ lạnh hoặc đậy nấp cái nồi cơm điện trong bếp nếu lỡ lúc Hoàng làm việc khuya đói bụng tìm xuống bếp. Nghe vợ dặn thế và có ý như cằn nhằn vì sáng nào vợ Hoàng cũng thấy đèn trong bếp không tắt, hay nắp nồi cơm không đóng lại. Hoàng ngồi im trong buổi ăn sáng nghe những lời của vợ và đâm ra nghi ngại. Hoàng tự nhủ trong lòng: "không lẽ căn nhà này có ma?"
Ý nghĩ của Hoàng tan biến trong phút chốc vì một ngày bận biệu với công việc còn chờ đợi Hoàng. Sau bữa ăn trưa họp hội cùng với các nhà thương gia, Hoàng muốn trở về nhà thoải mái nghỉ ngơi rồi sửa soạn một buổi ăn tối cùng với vợ con, chúc mừng cho một sự thành công trong doanh trường thương mãi của Hoàng. Vẫn con đường đó, ngay lối ngã quẹo vào gia trang của Hoàng, Hoàng trông thấy bóng dáng của người đàn bà đẫy chiếc xe nôi hôm nào. Hoàng vừa lái xe và vẫy tay chào bà ấy. Hình bóng người đàn bà đẫy xe nôi không sao mất dạng nhanh như vậy vì Hoàng lái xe chậm và nhìn sau kiếng hậu, Hoàng không trông thấy một bóng dáng ai...
Hoàng vào đến nhà thay đồ ra cho thoãi mái, nằm lên ghế trường kỹ xem ti vi. Hoàng lim dim mắt chập chờn muốn đánh một giấc trưa, mắt lờ đờ nhìn vào màn ảnh muốn xem nốt một cuốn phim hay...Hoàng buồn ngủ chợp mắt đi một tí, nửa mơ nửa tĩnh hay chăng? Hoàng thấy có một bóng ai đó đang ngồi dưới chân chàng và nhe răng cười, mắt nhìn chăm về hướng mình. Hoàng chập chờn trong trong giấc thiếp, không biết là mình đang mơ hay đang tĩnh. Cái bóng hiện rỏ ngồi đó như bóng của một người đàn bà đang lay động vào chân Hoàng như muốn đánh thức Hoàng dậy, rồi đứng lên đi vào hướng nhà bếp. Hoàng tĩnh hẳn người ngồi dậy như có ai kêu chàng thức giấc say nồng. Hoàng nghe có tiếng chuông ngoài ngõ nên vội tung cái chăn bước gần đến cái security monitor nhìn ra xem ai rung chuông ngoài cổng trước khi mở cửa. Trong cái màn ảnh nhỏ, quay phim video trực tiếp từ cái cổng sắt bên ngoài, Hoàng trông thấy người đàn bà quen thuộc mà Hoàng hay gặp lúc lái xe trở về nhà. Hoàng chỉ nghĩ rằng, người đàn bà ấy là hàng xóm, mỗi ngày hay đẫy xe đưa con đi dạo quanh khu vực này, hôm nay bà ấy muốn có dịp làm quen với vợ chồng Hoàng hay chăng? Hoàng vội bước ra mở cổng chính, muốn chào đón bà ta. Nhưng khi ra đến nơi thì không một ai ngoài cổng rào cả. Hoàng nhìn quanh thì chỉ toàn là rừng thông, ngó ra lối ngõ, con đường trải sỏi dẫn vào cổng nhà không một bóng xe hay người qua lại. Hoàng khép cổng lại, đi vào nhà tính tìm lại một giấc ngủ trưa, rồi sẽ cho vợ con mình một bữa cơm tối ấm cúng. Hoàng khoá cửa cẩn thận, vào nằm lại trên chiếc sofa thì thấy ti vi đã tắt. Hoàng chỉ nghĩ là Hoàng đã tắt tivi trước khi ngủ, nhưng sao cái remote lại nằm ở phía chân và Hoàng vẫn nhớ rõ là kênh tuyến Hoàng đang xem lúc nãy là 550, sao bây giờ lại là kênh số 3? Hoàng tin ở mình, dù có lim dim chập chờn, nhưng Hoàng không thể ngủ như chết hay quên mình tự đổi kênh số trong lúc phim truyện đang diễn ra quá hay? Phân vân với mình một lúc, Hoàng chả thèm tìm giấc trưa nữa, mà đi rửa mặt cho mát tĩnh, rồi bắt tay vào việc bếp núc, mong vợ con sớm về cùng với Hoàng chung vui một bữa ăn thịnh soạn...
Trên bàn cơm vợ chồng Hoàng đang sum vầy bên nhau, nhưng nét mặt của vợ Hoàng tái sậm, Hoàng không thấy vợ mình nói một câu nào cho gẫy gọn từ khi đón con về cho đến giờ. Miệng Hoàng thì ríu rít kể về cuộc họp và những hợp đồng mới giao ước hôm nay và bận rộn gấp thức ăn cho vợ và con. Vợ Hoàng như kẽ mất hồn, ngồi im lặng không hé miệng, tay chân bũn cả ra không cầm lấy được đôi đũa. Vợ Hoàng cố gắng lắm thoát ra những lời kể lại cho Hoàng nghe những gì nàng đã chứng kiến tận mắt, và chính nàng đã tiếp xúc với một hồn ma. Môi vợ Hoàng tím lạnh như một xác chết làm cho Hoàng rợn lạnh khắp người, tay buông cả đũa ngồi khép vế lạnh xuống cả hai bàn chân mà nghe vợ chàng thuật lại chuyện...
Cũng như mọi hôm, khi vợ Hoàng rời khỏi văn phòng nha khoa, đi đón con ở nhà mẹ Hoàng và lái xe leo dốc núi về nhà. Hôm nay lại khác, khi nàng lái xe vào lưng chừng dốc núi, nàng trông thấy người đàn bà đẫy xe nôi với đứa con như mọi hôm, có điều ngạc nhiên là sao hôm nay bà ấy lại ở dưới chân núi, nàng đang nghĩ thầm trong bụng, phân vân vì một khoãng đường rất xa, không lẽ nào bà ấy có sức đi bộ xa hằn dặm đưòng như thế... Trông thấy bóng dáng bà ấy đang đứng ngay gốc cây tùng, tay ra dấu như có ý muốn đi nhờ xe. Vợ Hoàng quen mặt bà ta từ khi hỏi thăm đường vào căn nhà mới và thường khi vẫy tay chào trước khi quẹo vào cổng nhà nên tấp xe vào cho bà ấy cùng đứa con quá vận đường. Vợ Hoàng vẫn ngồi trong xe, cạnh đứa con trai ngồi bên ghế trước. Bà ta xếp cái nôi lại, đặt đứa con vào phía ghế sau của người lái và bà ngồi kế cạnh bên, đóng cửa xe lại cho vợ Hoàng tiếp tục lái xe. Vợ Hoàng không có dịp trò chuyện với bà ấy nhiều, vì bà ta rất im lặng ngồi phía sau và chỉ hướng cho vợ Hoàng lái về phía nơi bà cư ngụ. Vợ Hoàng chăm chú lái xe, có lúc nhìn vào kiếng hậu, vẫn thấy mặt người đàn bà phúc hậu ấy đang ôm con vào lòng, bà hé miệng cười với vợ Hoàng qua tấm kiếng. Vợ Hoàng lái xe đến gần ngã quẹo vào nhà mình, nàng chậm xe lại, lên tiếng hỏi rằng nhà bà ở đâu, để vợ Hoàng đưa về tới nơi. Khi vợ Hoàng ngừng xe hẳn ngay cua quẹo, vì nàng thấy lạnh cả da người lên tới óc vì vợ Hoàng không thấy bà ấy và đứa con còn ngồi trong xe mình nữa...Vợ Hoàng như điếng người, sợ đến nỗi đái tiện trong quần vì sự tình rợn óc mới xãy ra...Chân nàng như yếu hẳn đi, không có sức để đạp vào cái pedal cho xe chạy vào tới cổng nhà...
Bữa cơm tối im lẵng và rất lạnh lùng. Không một ai lên tiếng, vợ chồng Hoàng mặt lạnh như đồng bạc cắc, hai vợ chồng sống rất hạnh phúc không bao giờ cãi vả nhau trên bàn cơm, nhưng hôm nay thì khác, cái không khí im bặt tiếng nói cười như xua tan đi sự ấm cúng trong gia đình hơn bao giờ hết. Thằng con nhỏ ngây ngơ ngồi ăn vội cho xong bữa tối rồi chạy về phòng lo ham chơi trò chơi điện tử, thằng nhóc chả để ý gì về ba mẹ nó. Vợ Hoàng ngồi yên như một xác chết. Nàng chưa thể nào hoàng hồn trở lại với những gì mà nàng đã chứng kiến trong đời, dù nàng sợ ma, yếu bóng vía thật, nhưng không thể nào tin được ở cõi đời này lại có ma. Hoàng hoang mang một lúc khi nghe xong câu chuyện mà vợ Hoàng vừa kể lại. Hoàng nhớ lại cái lúc hình ảnh người đàn bà ấy đã bấm chuông kêu cửa đôi lần rồi không thấy bóng dáng bà ta đâu cả, Hoàng tạm tin hơn về hồn ma, nhưng Hoàng cố gắng lấy lại bình tĩnh và khuyên vợ hãy xua đuỗi những ảo tưởng trong đầu. Nhưng với riêng Hoàng, lòng thầm nghĩ có một điều gì đó mà Hoàng chưa có câu giải thích.
Tuy khuyên vợ cho nàng đừng sợ vì lúc nào cũng có Hoàng bên cạnh. Thậm chí Hoàng phải đi theo cạnh vợ mỗi lúc nàng muốn đi tiểu, hay trong bếp lo nấu ăn vì vợ Hoàng có ý tưởng tượng như ai đang đứng sau lưng nàng. Từ khi sự việc ấy xãy ra, vợ Hoàng không bao giờ lái xe về nhà một mình nữa, Hoàng phải thu xếp thì giờ để đón đưa vợ và con vào mỗi buổi chiều. Ngày qua tháng đoạn, vợ chồng Hoàng mỗi lúc lại bình tâm hơn vì không còn thấy người đàn bà "huyền bí" ấy đẫy con trong chiếc nôi đi xuống triền núi nữa. Họ yên tâm hơn, và tự tin rằng những lời khấn vái trong tâm, nên hồn ma không trêu chọc và nhát gia đình Hoàng nữa.
Sự thực là: vợ chồng Hoàng đã tìm đến một ngôi chùa và duyên phước của thí chủ nên gặp được một đức thầy tu luyện đến bậc Ðại Ðức Cao Tăng. Ngài nghe qua câu chuyện và truyền dạy cho hai vợ chồng Hoàng những mật niệm mà chư tăng thường niệm để ma quỷ lánh xa. Ngài còn làm lễ chư Phật rất trang nghiêm và làm dấu ấn vẽ bằng hai ngón tay rồi đặt lên trán của hai vợ chồng cùng đứa con. Vợ chồng Hoàng càng an tâm tịnh xác hơn vì không sợ những oan hồn ma quỷ sẽ quấy rầy mình nữa. Trước khi lạy tạ đức ân sư để quay gót trở về nhà, vợ chồng Hoàng còn đặng phước báu tứ hồng ân từ vị Cao Tăng trong chùa trao tặng hai cuốn băng cassette. Cuốn băng này là những lời niệm mật chú, mentra, để hai vợ chồng Hoàng nghe trong lúc lái xe. Ý ngài là cho nhân sinh được tịnh tâm niệm chú Phật, khi tâm có Phật ngự trong lòng thì mọi thứ sẽ đặng bình an.
Ðiều đó quả thật đúng, lời nói của vị sư kết hợp với lòng thành tín của vợ chồng Hoàng tạo nên một niềm tin như núi cao không sợ sụp đỗ, cây cao không sợ gió bấc. Hoàng rất vui trong lòng khi thấy vợ mình trở lại một người bình thường, không còn sợ hãi, hoang mang vì hồn ma bóng quế nữa, vì vợ Hoàng không còn nhớ đến cái cảnh tượng ma quái hiện hình như lúc trước. Ðối với Hoàng, chàng tin tưởng và kín trọng trong lòng ở một thế giới hư không mà người đời không chứng minh được một cách trọn vẹn, duy chỉ mình phải giáp mặt với hiện thực. Có đôi khi, Hoàng ớn lạnh cả dọc xương sống trong lúc lái xe lên núi để về tận nhà vì Hoàng nghĩ lại bóng người đàn ấy từ lúc ban đầu tìm đường đến căn nhà mà mình đang ngã giá...Hoàng nghĩ thoáng qua, nhưng vội xua đuổi ý nghĩ tà ma ấy đi, Hoàng lại lái xe và mở ngay cuốn băng có tiếng tụng kinh thật êm theo từng tiếng nhịp của chuông mõ trong chùa: "Nam Mô A Di Ðà Phật".
Một thời gian rất ngắn khi Hoàng cố tâm không nghĩ đến những sự kiện lạ lùng xãy ra quanh mình và không thể nào chứng minh là mình gặp ma, bị ma nhát hay vớ vẫn hơn là những tiếng động mà Hoàng thường nghe thấy trong căn nhà. Tạo cho mình một niềm tin tựa trên những lời khấn niệm, nhưng tai Hoàng vẫn nghe tuy rằng mắt thấy quanh nhà vẫn có những việc không giải thoát trong ý tưởng nghi nghi ngờ ngờ rằng trong nhà có ma. Biết vợ mình đã an tịnh trong tâm vì lời kinh niệm Phật, Hoàng chưa bao giờ muốn kể cho vợ nghe những gì Hoàng nghe thấy những cái lạ lùng xãy ra trong nhà. Sau một thời gian tiếng nước chảy trong bồn, tiếng kéo ghế dưới phòng ăn, tiếng chân bước trên cầu thang, tiếng ai đó đang rửa chén úp vào sóng chén mà Hoàng nghe thấy được. Vợ chồng Hoàng chỉ an tâm nhất là không còn thấy bóng dáng của người đàn bà với chiếc nôi đẫy con mình dọc theo bên vệ đường mà thôi. Ðêm nay lúc Hoàng làm việc trong phòng giấy, Hoàng lại ngửi thấy mùi hưong của cà phê thật thơm, như ai đó vừa pha một tách cà phê thơm ngát. Hoàng nghe rỏ như có tiếng động ở dưới bếp, Hoàng cảm giác thật rỏ ràng như tiếng lộp cộp của tách đĩa chạm vào nhau, rồi tiếng cà phê chảy vắt từng giọt một từ cái máy "Coffee Maker". Hoàng ngừng tay trên bàn phím vi tính, định chạy xuống bếp xem việc gì xãy ra, thì vợ Hoàng cũng vừa choàng mình thức giấc vì mùi cafe bốc lên đến tận vào phòng ngủ. Vợ Hoàng tưởng là Hoàng đang pha café để uống vì thức đêm làm việc. Nhưng đó là một việc rất lạ vì nàng biết thói quen của chồng không lúc nào uống cà phê. Chỉ có nàng thích uống cà phê vào mỗi buổi sáng. Hoàng không muốn làm cho vợ thêm hoang sợ, chỉ trấn an nàng là nàng chắc có lẽ mơ mộng. Hoàng ngưng làm việc và lên giường nằm chờ vợ mình trở lại từ phòng tắm để cùng nhau ân ái và ru nhau vào giấc mơ tình.
***
Hôm nay là ngày Thứ Sáu, hai vợ chồng Hoàng muốn dành trọn một ngày cho riêng họ. Hoàng đi gửi thằng con cho bà nội, rồi sẵn tiện ghé chợ tìm mua một chai rượu thật ngon vị để cùng với vợ mình tìm phút lãng mạn. Hoàng vui nhộn trong lòng lái xe về đến nhà. Miệng chàng đang huýt sáo, tay cầm chai rượu ung dung bước vào phòng ăn và véo von tiếng yêu đời cất lời kêu vợ mình:
-Honey, I am home! Má nó đâu rồi?
Hoàng vừa gọi vang, vừa chạy lên phòng ngủ để tìm bà xã. Hoàng mở cánh cửa phòng nhìn quanh chả thấy vợ mình đâu cả. Hoàng nghe tiếng lộp cộp như có tiếng đánh máy trong phòng làm việc, Hoàng nghĩ là vợ mình đang làm việc trên computer. Hoàng vẫn huýt sáo, tay đẫy cửa phòng bưóc vào, chàng chả thấy ai cả, mà cái máy vi tính thì đã tắt im. Hoàng vô tư nghĩ là vợ mình đang đùa, nàng đã hết sợ ma nên bây giờ muốn chọc nhát lại chàng hay sao? Hoàng mạnh bước tiến vào phòng làm việc, vì Hoàng thấy có bóng ai đang núp lén, quay mặt vào tường đứng giữa kẽ của kệ sách và cái tủ bàn đặt máy vi tính. Hoàng vẫn tin là vợ chàng đang giỡn, muốn hù chàng một cái thật "hú hồn". Hoàng thấy rỏ cái hình bóng vẫn úp mặt và dường như đang khúc khích cười, nên Hoàng ập tới định ôm chầm lấy vợ có ý nhát ma mình. Nhưng Hoàng vừa chụp tay định vồ lấy bóng vợ mình đang núp, thì cái bóng người đã biến mất đâu. Hoàng rợn cả da gà, gáy óc lạnh lên vì bóng người trước mắt quá rỏ rệt giữa ban ngày. Chàng mất cả vía, hai chân yếu ớt như muốn quỵ xuống nền nhà. Hoàng bình tâm, niệm chú trong bụng để lấy lại bình tĩnh, và chạy vọt ào ra sân. Chàng tính cất tiếng kêu la vì sợ hãi, thì Hoàng bỗng thấy bóng dáng vợ mình đang cầm mấy nhánh hoa mà nàng vừa cắt ở vườn nhà khoan thai từng bước chậm tiến về phía chàng. Lần đầu tiên trong đời mà Hoàng trông thấy một bóng ma rõ rệt trước mặt mình. Bóng ma ẩn nấp trong phòng làm việc với trang phục y hệt như vợ chàng đang mặc. Hoàng khô cả cuốn họng không nói được gì, nhưng tâm chàng tin chắc một điều rằng: "trong nhà này có ma". Một oan hồn chua được siêu thoát, và ẩn hiện cho người trần gian thấy, và hãy tin vào một thế giới bên kia.
Sau lần thấy bóng ma đó, Hoàng có cảm giác rất lạnh ở xương sống mỗi khi Hoàng làm việc một mình trong phòng. Cả vợ chàng cũng tin rằng trong nhà có ma, qua những việc không sao giải thích được. Hai vợi chồng Hoàng trở lại ngôi linh tự để bạch sư ông. Hai vợ chồng họ chỉ mong cầu được sự thanh tịnh bình tâm trong căn nhà ấy. Sư ông nghe qua lời trình bạch của vợ chồng Hoàng và tiến hành một giải pháp "siêu sanh tịnh độ". Ðức sư ông phái truyền một pháp sư đến tận nhà của gia chủ xem qua sự việc. Người pháp sư là đồ đệ của đức thầy đến nhà xem qua bốn phương tám hướng của ngôi dinh thự. Ông ta bày lễ cúng chư vị thần hoàng thổ trạch như xin phép để được giáng đồng cho hồn oan khuất bóng được giáng hạ ngôn từ qua bàn Cầu Cơ. Vị pháp sư đèn nhang chỉnh tề, khấn vái với mâm bánh trái cung kính vong linh trong vòng địa thổ xong, trên chiếc bàn Cơ có ba chân, mặt bàn ván gõ có vẽ đủ tất cả các vần A B C cùng một miếng ván có hình trái tim đặt ở giữa. Theo lời khấn niệm của vị pháp sư, miếng gỗ tự động di chuyển từ tâm điểm và lần đi một mình nó qua các vần chữ trên mặt bàn ghép lại thành một câu văn: "I live here, this is my house". Miếng ván tự động ngừng lại. Vị pháp sự lại khấn, và muốn gia chủ đặt câu hỏi một cách thành tâm. Hai vợ chồng Hoàng chưa bao giờ chứng kiến một sự việc lạ thường như vậy. Phản với khoa học, một miếng ván lại tự động di chuyển trên mặt bàn gỗ ráp thành văn tự, quả là một điều không tin được. Vị pháp sư trong chiếc áo tràng phan màu xám tro vẫn xếp bằng ngôi yên đó, tay bấm ấn như muốn đối thoại với vong linh đang nhập vào miếng ván Cơ. Hoàng không nói ra lời, nhưng trong bụng chàng cất lên một câu hỏi: "Can you prove your spirit?". Sau lời khấn trong tim của Hoàng, miếng ván Cơ ráp thành câu như sau: "I live here, this is my house, you can find my picture right underneath the wine cellar". Chỉ có vài câu vấn đáp với cõi âm và dương. Miếng ván Cơ không còn di chuyển nữa, miếng ván tự mình di về chữ "Thăng". Hồn ma ra hiệu cho người trần biết rằng hồn họ đã xuất ra khỏi miếng ván Cơ. Một điều chứng minh cho vợ chồng Hoàng rằng trong nhà có một oan hồn ngự trú. Oan hồn này chỉ báo cho chủ gia biết rằng vong linh vẫn còn phưởng phất quanh đây. Chứng minh điều ấy, vợ chồng Hoàng cùng vị pháp sư xuống tận cái hầm chứa rượu trong nhà. Kể từ lúc vợ chồng Hoàng dọn vào căn dinh thự này, hai người chưa có thì giờ dọn dẹp một căn hầm u ám đầy mạng nhện này. Ba người theo lời chỉ hướng của vong hồn đi xuống căn hầm dưới lòng đất của căn dinh thự. Hầm rượu thật tối âm, chỉ có một ánh đèn pin soi sáng. Trong hầm rượu ẩm thấp ấy, cả ba người soi đèn nhìn quanh, đó là những cái kệ được đóng bằng cây rất cũ kỹ. Cuối góc hầm, họ tìm thấy một cái tủ có vài ngăn kéo bị bụi bám theo thời gian. Trong ngăn kéo đầu tiên mà Hoàng vừa kéo ra, cả sáu con mắt đều trông thấy một tấm ảnh của người đàn bà đứng tuổi đang bế con miệng cười tươi đứng ngay ở cổng nhà. Hai vợ chồng Hoàng nhận ra người đàn bà này đã từng đẫy xe nôi từ lúc họ tìm đến căn dinh thự mà họ muốn tạo nên một tổ ấm.
Thế rồi, hư thật đã được an bày. Theo lời vị pháp sư, vợ chồng Hoàng nên lập đàng cầu siêu cho vong hồn được siêu thoát. Pháp sư khấn niệm và vẽ dấu ấn chấn an tứ phía dưới căn hầm "wine cellar" một lần nữa. Bỗng dưng, cái đèn pha pin mà Hoàng cầm trong tay lìm mờ và tắt đi. Trong bóng tối dưới căn hầm, cả ba người chứng kiến một việc thật lạ lùng, vì hồn ma muốn chứng minh cho tỏ tường một việc là "linh hồn ma còn ở tại chốn này". Cây đèn pin đã tắt, nhưng trong hầm vẫn soi sáng một ánh sáng lạ lùng trên trần. Một ánh sáng hiện rõ một cái đầu của người với mái tóc dài, cái đầu sáng như ánh đèn soi, đi vòng quanh bốn góc hầm, rồi biến mất. Không ai tin được đó là sự thật ngoài ba người ấy trông tận mắt. Họ cùng nhau khấn vái, và trở lại lên nhà trên để tiến việc bày đàng "Siêu Linh Oan Tử".
Hai vợ chồng Hoàng đã thành tâm cung kính mời vị sư có đức độ cao siêu đến nhà để "Thỉnh Phật Tuyên Kinh, Cung Nghinh Chư Thánh", rồi cùng vị pháp sư ếm chướng trong nhà. Ðức Thầy tụng niệm, và ban phép vào một cái lư nhang như yểm tâm cho linh hồn ngự nhập vào đó để có nơi có chốn như người trần gian có nhà có cửa. Ngài cho linh vong nhập vào bát nhang và cùng vị pháp sư đọc kinh siêu thoát. Ðức sư ông chứng chỉ một niềm tin cho vợ chồng Hoàng thấy rằng vong hồn đã được siêu linh về với Phật Giới. Vợ chồng Hoàng thắp ba nén nhang rồi cắm vào lư hương sạ nhiệt. Hương linh như muốn gửi gấm một lời gì đó, nên quả mâm bánh cúng vong mềm rụi nghe ra tiếng như có ai cắn ăn nghe dòn rụm. Và nén nhang tự phực đỏ than hồng...
Bát nhang đã được quý thầy đưa về chùa, ngự cùng trong một cung của các vong linh tử nạn hãy còn oan ức với những gì chưa kịp trăn trối ở cõi đời. Tấm ảnh cũng được đốt hoá đi như siêu thoát một linh hồn về với cõi Thập Phương Chư Phật.