Hai thanh niên đi dạo phố bỗng thấy từ xa, một cô gái tay dắt một đứa bé. Một chàng hỏi chàng kia:
- Cậu có thấy cô gái kia đẹp không?
- Đẹp.
- Cậu thấy chiếc áo dài cô ta mặc không?
- Thấy.
- Chiếc áo của tớ tặng đó. Còn cái xắc tay màu nâu, cậu thấy chứ?
- Thấy.
- Loại xịn tớ tặng trong dịp sinh nhật nàng.
- Thế còn đứa bé đi cạnh nàng, chắc không phải của cậu chứ?
- Đúng vậy, sao cậu biết?
- Vì nó là của... tớ.
2283




Cô giáo dạy lớp mẫu giáo, thỉnh thoảng có bạn trai đến lớp thăm, sợ các học trò nhỏ vô tư nói năng "mất lịch sự", cô bèn dặn các cháu:

- Hễ khi nào cô đang nói chuyện với người lớn, cháu nào muốn xin đi ra ngoài tiểu hay đại tiện thì phải nói: "Thưa cô, cho cháu đi hát" nghe không?

Thế là học trò nhí tuân theo lời cô dạy. Lâu dần thành thói quen, có khách đến là các trò chạy ra: "Thưa cô, cho cháu đi hát...".

Có cu Tí học lớp cô giáo, chủ nhật nghỉ ở nhà với bố, nửa đêm cu Tí gọi bố dậy, quen mồm nói:

- Bố ơi, con muốn đi hát!

Bố giật mình, nhưng cũng nghiêng tai vào miệng cu Tí và bảo:

- Hát hả? Con hát nhỏ nhỏ vào lỗ tai của bố thôi nha, khuya rồi, cho mẹ con ngủ.

1145




Trời đã xế chiều anh đi đâủ
Không gian mờ mịt áng mây sầu
Âm u sương lạnh buồn giăng lối
Trước cửa lạc loài một khiếp đaụ

Trời sắp tối rồi anh đi đâủ
Ngoài kia mưa gió lắm giải dầu
Một thân cô quạnh đời lữ thứ
Anh sẽ dừng đâu suốt đêm thâụ

Trời đã tối rồi anh đến đâủ
Quanh anh vạn vật có u sầủ
Tiếc thương một kiếp đời lưu lạc
Một cuộc hồng trần , một bể dâụ

Trời đã khuya rôì anh đến đâủ
Màn đêm bao phủ khúc nhạc sầu
Tha hương ly xứ buồn câm nín
Ôm mối buồn lòng , lê bước đâụ

Trời sắp sáng rồi anh đến đâủ??

1517




Xưa, có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời "Xấu hay làm tốt, dốt hay chơi chữ", đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ. Một hôm, dạy sách Tam thiên tự, sau chữ "tước" là chim sẻ, đến chữ "kê" là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều: "Dủ dỉ là con dù dì". Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ, tuy vậy, trong lòng thầy vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ thổ công, thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương để xem chữ ấy có phải thật là "dù dì" không. Thổ công cho ba đài được cả ba.

Thấy vậy, thấy lấy làm sắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào:

- Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì...

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng học, ngạc nhiên bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy:

- Chết chửa! Chữ "kê" là gà, sao thầy lại dạy ra "dủ dỉ" là con "dù dì"?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: "Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa", nhưng nhanh trí thầy vội nói gỡ:

- Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ "kê" mà "kê" nghĩa là "gà" nhưng tôi dạy cháu thế là dạy cho cháu nó biết tận tam đại con gà kia.

Chủ nhà càng không hiểu, hỏi:

- Tam đại con gà là nghĩa ra làm sao?

- Thế này nhé! Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.1192





Cô gái đến cơ quan với đôi mắt hoe đỏ. Đồng nghiệp hỏi tại sao cô lại khóc, cô thổn thức:
- Sáng nay, tôi mới nhận được một cú điện thoại của bố, báo mẹ tôi đã qua đời. Mọi người xúm vào an ủi và cô gái đã nguôi ngoai đi được một chút. Thế nhưng, sau khi trả lời một cú điện thoại khác, cô lại bắt đầu nức nở và thông báo:
- Hôm nay thật là một ngày khủng khiếp! Chị ruột tôi lại vừa mới gọi điện thoại báo rằng mẹ chị ấy cũng mất rồi!
1700




Hai đứa bé đang đọc cuốn sách "Cuộc sống của các loài vật". Đột nhiên cả hai nhảy ra khỏi ghế và chạy đến gặp bà nội:


- Bà nội, bà nội ơi, bà có thể sinh em bé được không ạ?

- Ồ, các cháu yêu quý, dĩ nhiên là bây giờ thì bà không thể sinh con được nữa rồi!

Nghe xong, cậu anh đắc ý quay sang nói với em:

- Thấy chưa, anh đã bảo với em bà là giống đực mà!

1568




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Cầu Nước Trường Sinh


Đêm ấy, bốn thầy trò Tam Tạng đang yên giấc thì bỗng vào khoảng canh hai, có tiếng chiêng mõ vọng lại inh ỏi.

Tôn Hành Giả lén ngồi dậy, mặc áo, nhảy lên mây trông xuống, thấy bên mé Nam đèn đuốc sáng lòa, có một đạo sĩ đang đứng lễ bái trên điện Tam Thanh.

Ba vị tiên ông đang mặc áo bát quái đứng độc thần chú. Hai bên bảy tám tên đồ đệ đánh trống và dâng hương.

Tôn Hành Giả tức cười muốn hiện xuống tìm cách phá chơi cho bõ ghét. Nhưng một mình e làm không nên việc, liền vội trở về rủ Bát Giới, Sa Tăng.

Tôn Hành Giả lén vỗ Sa Tăng dậy nói nhỏ:

- Ngộ Tịnh! Mau thức dậy, ta có chuyện này hay lắm!

- Sư huynh không ngủ sao!

Tôn Hành Giả nói:

- Mau ngồi dậy lén cùng ta đi dự tiệc.

Sa Tăng hỏi:

- Tiệc gì lúc canh ba này?

Tôn Hành Giả nói:

- Tại miếu Tam Thanh, đạo sĩ đang lập đàn làm chay cúng tế. Trên bàn thờ có hơn bảy chục cân bánh in, còn bánh bao thì nhiều lắm. Đó là chưa kể đến các thứ trái cây bày la liệt! Sư đệ hãy cùng ta đến đó hưởng cho mau, kẻo chúng cúng xong, dọn hết.

Bát Giới nghe bàn, vụt ngồi dậy nói:

- Sao không kêu tôi đi với?

Tôn Hành Giả nói nhỏ:

- Đừng có om sòm mà thầy thức dậy. Muốn ăn thì lén đi theo ta.

Ba người bò ra khỏi phương trượng, đằng vân đến miếu Tam Thanh.

Bát Giới thấy bánh trái để trên bàn cúng nhiều quá muốn xáp vào làm hỗn. Tôn Hành Giả nắm lại, bảo rằng:

- Đừng có ham ăn làm liều hỏng cuộc! Cứ để cho nó tan lễ rồi sẽ tính.

Dứt lời bắt ấn, niệm chú, hớp một hơi gió bên hướng Tốn thổi ngay vào. Tức thì gió ầm ầm nổi lên làm tắt đèn, bay tượng hết.

Các đạo sĩ thất kinh hồn vía. Hổ Lực đại tiên nói:

- Trận cuồng phong to quá, làm đổ cả cỗ bàn. Thôi chúng ta đi nghỉ, ngày mai sẽ tụng kinh bổ khuyết.

Các để tử tuân lệnh, để cả đồ đạc y nguyên kéo nhau đi ngủ.

Tôn Hành Giả cười khúc khích, nắm tay Sa Tăng và Bát Giới kéo lại nói nhỏ:

- Bây giờ thì cứ tha hồ mà xơi!

Ba người nhảy phóc lên bàn, mò trúng món gì thỉnh món ấy.

Bát Giới lăng xăng chạy bên này, nhảy bên kia, Tôn Hành Giả nói:

- Đừng có bốc hốt như con nít, hãy ngồi ăn cho tề chỉnh.

Bát Giới nói:

- Đã ra thân ăn vụng mà còn nói gì đến lễ nghi. Ăn ngốn ngấu cho xong, chúng nó hay được, mất ăn cả lũ.

Tôn Hành Giả hỏi:

- Ba cái cốt Tam Thanh ở đâu?

Bát Giới đưa tay đỡ mấy pho tượng lên, nhìn mặt, rồi nói:

- Đây là cốt ông Nguyên Thủy, chúng ta đặt ngồi giữa, đây là cốt ông Thái Thượng Lão Quân chúng ta đặt ngồi bên hữu, còn đây là cốt ông Linh Bửu Thiên Tôn, chúng ta đặt ngồi bên tả.

Tôn Hành Giả nói:

- Chúng ta phải giấu ba cốt tượng này, rồi hiện hình ba vị Tam Thanh thì ngồi ăn mới yên ổn.

Bát Giới nghe nói đắc ý nhảy lên lấy mỏ ủi ngã cốt ông Thái Thượng xuống và mỉa mai nói:

- Thôi! Ông ngồi đã mãn tiệc rồi, xin tránh chỗ cho tôi làm ba miếng.

Sa Tăng cũng bắt chước Bát Giới xô ngã tượng Linh Bửu, rồi hiện hình ngồi trên đài.

Tôn Hành Giả nói:

- Không xong! Đừng làm biếng. Hãy giấu mấy cốt tượng kia đã, kẻo chúng thấy thì bể chuyện.

Bát Giới nói:

- Ba cái cốt to thế kia biết chỗ nào mà giấu?

Tôn Hành Giả nói:

- Ta thấy mạn bên trái gần đây có cái ao, đưa cả xuống tiện lắm.

Bát Giới nhảy xuống, hai tay rinh ba cốt tượng đem thả ùm xuống ao, rồi bôn ba trở về ngồi vào chỗ mình.

Tôn Hành Giả chỉ ăn toàn trái cây. Sa Tăng, Bát Giới thì món nào cũng hảo cả. Ba người làm một hơi, cỗ bàn sạch bách.

Giữa lúc đó, bất ngờ có tên tiểu đạo sĩ, vì bỏ quên cái đẩu trên bàn nên ra đó mà kiếm.

Vừa bước lên đàn, chợt nghe có hơi thở như hơi người và có tiếng chép miệng, tên tiểu kinh hoàng quay lưng lại, thì vừa giậm phải vỏ chuối trợt té chổng giò.

Bát Giới không nhịn được cười, phá lên cười ha hả.

Tên tiểu đạo sĩ hoảng vía, vừa chạy vừa la.

Ba vị đạo sĩ còn thức, nghe la, bước ra hỏi:

- Việc gì thế?

Tiểu đạo sĩ thưa:

- Thầy ôi! Không xong. Đệ tử bỏ quên cái đẩu trên đàn nên ra kiếm, nghe có tiếng người thở và tiếng cười sằng sặc ở trên bàn.

Ba đạo sĩ nổi giận, hét:

- Hãy thắp đèn lên, tà ma ở đâu dám lộng hành như vậy!

Trông thấy ánh đèn lấp loáng, Tôn Hành Giả đưa tay nắm lấy Sa Tăng, Bát Giới giữ lại.

Hai người hiểu ý, ngồi im không dám hành động.

Các đạo sĩ gọi đèn khắp nơi, tìm không thấy gì cả. Lộc Lực Đại Tiên nói:

- Không thấy người nào đến đây, cớ sao cỗ bàn đếu mất hết.

Hổ Lực Đại Tiên tức giận, rọi đèn khắp nơi, thấy vỏ trái cây lột bỏ ê hề, còn bánh bao chỉ còn mấy cái, lẩm bẩm:

- Lạ lắm! Ít ra thì cũng có kẻ nào lẻn vào đây ăn mới có dấu vết này chứ!

Dương Lực Đại Tiên nói:

- Sư huynh đừng nghi ngại. Có lẽ vì chúng ta lòng thành nên Tam Thanh tổ sư gián hạ nhậm lễ, sẵn dịp ngài còn đây, chúng ta lạy xin tiên đơn dâng cho trào đình, kẻo lâu nay ao ước.

Hổ Lực Đại Tiên khen phải, liền khiến các đệ tử gióng trống lên để cầu đảo.

Hổ Lực Đại Tiên quỳ trước bàn thờ van vái:

- Vua Xa Trì lâu nay ao ước được kim đơn, xin tổ sư ban ơn huệ.

Bát Giới bấm tay Tôn Hành Giả nói nhỏ:

- Biết như vầy lúc nãy đừng ăn ráng, cứ ra về cho sớm có hơn không. Ăn thêm một chút ít không thắm vào đâu mà mang họa!

Tôn Hành Giả bấm tay Bát Giới bảo im lặng, rồi lên giọng:

- Các tiểu tiên đừng lạy nữa. Chúng tôi vừa dự yến ở nơi bàn đào về đây không có đem theo linh đơn được. Dịp khác sẽ cho.

Các đạo sĩ nghe tượng Tam Thanh trỗi giọng sợ run lập cập. Nhưng khi nghe hết câu, mừng rỡ quỳ lại và nói:

- Thiên Tôn ít khi giáng lâm khó có dịp đệ tử được hầu, xin Thiên Tôn thương tình đệ tử.

Hổ Lực Đại Tiên quỳ lại, nói tiếp:

- Đệ tử hằng mong ước được vài giọt nước kim đơn uống để cho sống lâu, Thiên Tôn đã giáng lâm, lẽ nào không thương tưởng!

Sa Tăng bấm Tôn Hành Giả nói nhỏ:

- Bọn này có lẽ thích nước tiên đơn lắm, nên cầu xin mãi. Chúng ta tiếc gì mà không cho.

Tôn Hành Giả hiểu ý, cất giọng nói:

- Chư đệ tử đã thành tâm, lập đài
cầu nguyện. Thôi ta cũng vui lòng đ%E 1?? lại đây một ít cho chư đệ tử dùng.

Các đạo sĩ đồng quỳ lạy tạ ơn, và nói:

- Thiên Tôn rủ lòng thương như vậy, từ nay triều đình tất trọng đạo ta!

Tôn Hành Giả nói:

- Các ngươi hãy đem đồ đựng lạy đây!

Ba vị Tiên ông liền đứng dậy khiêng một cái ché lớn để trước bàn tượng, còn bọn đệ tử đứa thì bưng chậu, đứa thì rút bông lấy chân lạc bình để phụ vào.

Tôn Hành Giả nói:

- Các ngươi di tản hết, để ta dùng phép trao nước linh đơn. Nếu kẻ nào rình xem sẽ bị đui mắt.

Các đạo sĩ vâng lời lánh mặt nơi khác.

Tôn Hành Giả đứng dậy, với lấy chân lạc bình vén quần đái vào đấy đầy nhóc.

Bát Giới nói:

- Tôi cũng thốn bụng, cho tôi đái với, được chăng?

Tôn Hành Giả chỉ cái ché cho Bát Giới. Bát Giới xổ một hơi hơn nữa ché. Sa Tăng cũng phụ vào.

Xong, Tôn Hành Giả gọi các đạo sĩ đến lãnh "nước linh đơn".

Các đạo sĩ lật đật chạy đến cuối đầu lạy tạ, rồi bưng chậu, ché, và chân lục bình xuống dưới đàn.

Hổ Lực bảo đệ tử đem chén chung lại, rót uống một hớp.

Vừa nuốt khỏi cổ, Hổ Lực vừa chùi miệng và nhăn mặt.

Lộc Lực lấy làm lạ, hỏi:

- Kim đơn là thuốc tiên, uống ngon lắm, cớ sao lại cau mày?

Hổ Lực đáp:

- Không ngon! Hơi khai!

Lộc Lực không tin, lấy chén múc vào chậu uống một hớp, rồi cũng nhăn mặt, nói:

- Có hơi nước đái heo!

Tôn Hành Giả nghe nói biết đã bại lộ, liền hiện nguyên hình, nạt lớn rằng:

- Chúng bây là những đứa ngu muội. Đó là nước đái của ta, đâu phải kim đơn mà uống?

Ba vị tiên ông thất kinh, hét:

- Mày là ai lại đến đây vô lễ đến thế?

Tôn Hành Giả cười ha hả, nói:

- Ta là Tề Thiên, theo thầy ta đến Tây Phương thỉnh kinh, nhân qua đây thấy các ngươi thết tiệc, ghé vào ăn uống cho vui. Bởi vì các người khẩn khoản cầu xin kim đơn, nên ta mới cho một ít nước tiểu làm kỷ niệm.

Các đạo sĩ nổi giận, kẻ xách chổi đập, người vác gạch ngói liệng. Ba anh em Tôn Hành Giả vội vã đằng vân bay về.

Lời bàn:

Câu chuyện "Cầu thuốc trường" trên đây trong Tây Du Ký quả là một câu chuyện có tính cách u mặc thượng thừa có công dụng lập tức.

Tây Du Ký "cười" tất cả, không đề cao bất cứ thứ gì, Phật tổ cũng không tha, Đạo gia cũng bất kể. Trong nền văn học u mặc của Trung Hoa, riêng tôi cho nó là một kỳ quan hiếm có. Phải tinh thông Tam Giáo, uyên bác Tam Huyền mới có thể hiểu được những nghĩa sâu kín chứa đựng trong bộ truyện phi thường này.

Nhiều nhà phê bình của ta luận về tác phẩm này đã nhìn bằng cặp mắt thật thà của các nhà luân lý, như chê rằng Phật tổ mà còn nói láo v.v... họ làm gì hiểu nổi phần u mặc thượng thừa của Tây Du Ký. Thật đáng tiếc.
564




Trong khi tìm giấy tờ, ông chồng nhìn thấy chiếc hộp nhỏ bên trong đựng 3 hạt đậu và 3 tờ giấy 500 franc, anh ta hỏi vợ về chiếc hộp và được trả lời:


- Anh yêu, anh hãy độ lượng nhé... Từ hồi chúng ta lấy nhau, em đã gặp nhiều người đàn ông trong những lần đi chợ và thật lòng cũng có đôi lần em không chung thuỷ với anh. Để lưu lại dấu vết những lần ấy, em quyết định cứ mỗi lần lừa dối anh là lại bỏ một hạt đậu vào chiếc hộp này.


Anh chồng lại thắc mắc:


- Này... mấy hạt đậu thì anh hiểu rồi, nhưng sao trong hộp còn có 1.500 franc?


- Người vợ đáp:


- À, hồi nọ, hạt đậu được giá, những 500 franc một cân, em đã đem bán và được số tiền ấy.

438




Hai người đàn ông đang trò chuyện bên một vại bia trong một quán rượu. Người thứ nhất bảo:

- Thế là chúng mình lại lẫn trốn cuộc sống khổ ải ở gia đình mà tìm đến nơi này với nhau. Mình nghĩ cậu lại đã có một cuộc xô xát với vợ cậu hồi tối hôm qua nữa chứ gì?

- Phải đấy! - Người bạn anh ta nói.

- Thế kết cuộc ra sao? - Người đàn ông thứ nhất hỏi.

- Rốt cuộc thì bà xã của mình đến và bò dưới chân mình.

Người đàn ông thứ nhất ngạc nhiên hỏi:

- Bà ấy đã làm thế ư? Thế bà ấy nói gì?

- Bà ấy bảo hãy chui ra khỏi gầm giường đi thôi đồ ươn hèn, và hãy chiến đấu như một người đàn ông!

1050




Quỳnh khi còn bé độ bảy tám tuổi, chơi nghịch đã khác người, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng, Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong làng mắc lừa luôn.

Một hôm trời tháng tám, sáng trăng, Quỳnh chơi với lũ trẻ ở sân, bỗng Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiêu tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người đầu to bằng cái bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiêu rước Quỳnh đi bảy, tám vòng quanh sân, mệt thở không ra hơi. Quỳnh thấy thế bảo:
- Đứng đợi đây, tao đi châm lửa soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám xem, chỉ những đứa lớn ở lại . Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo lũ trẻ:
- Kìa! Trông vào vách kia kìa! Ông to đầu đã ra đấy !
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiêu đơn. Quỳnh chạy vào trong buồng đóng kín cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
2643




Đỏ Và Đen (Le Rouge Et Le Noir)



Vài dòng về Stendhal
STENDHAL tên thật là Marie Henry Beyle sinh năm 1783 ở Pháp. Ông là nhà văn có cuộc sống đầy thăng trầm. Ông từng đi lính, đi buôn và làm công chức. Trong bảy năm từ 1814 đến 1821, ông sống tại Milan, quen với Byron và Mme de Steel. Năm 1831 ông được cử làm lãnh sự tại Trieste và Civitavechia.

Mặc dù Stendhal cộng tác thường xuyên với các tập san Anh và Pháp, ông không được người cùng thời coi là nhà văn đáng kể, trừ Honoré de Balzac. Tuy nhiên ông được nhiều người biết đến nhờ các mối tình cuồng loạn mà ông ghi trong cuốn De L'Amour (Về Tình Yêu – 1822). Mãi tới năm 1880 (ba mươi tám năm sau khi ông chết), một số tác phẩm của ông mới được xuất bản và đưa ông lên hàng văn hào Pháp. Trong khoảng thời gian từ 1927 đến 1937, toàn bộ các tác phẩm của ông được in bằng tiếng Pháp gồm tất cả bảy mươi chín cuốn, và năm 1953 cuốn Private Diaries (Nhật Ký Của Đời Tôi) được xuất bản bằng tiếng Anh.

Tác giả của Le Rouge et Le Noir (1830) luôn coi việc viết văn là một thú tiêu khiển, nhưng thực tế ông đã dành rất nhiều nỗ lực cho việc sáng tạo các tác phẩm văn chương dưới nhiều hình thức khác nhau.

Tác phẩm đầu tiên ông viết tại Milan là một công trình biên khảo: Tiểu Sử Của Haydn, Mozart và Metastasio (1814). Ba năm sau, cuốn Lịch Sử Hội Họa Ý Đại Lợi được in thành hai tập đồng thời với cuốn Rome, Naples và Florence . Năm 1827, cuốn tiểu thuyết của ông ra đời, đó là cuốn Armance . Cuốn Mémoire d'Un Tourist (Bút Ký Của Một Du Khách – 1838) thường được coi là tác phẩm đặc sắc của ông. Hai cuốn khác, Laniel và Lucien Lenowen, cũng được xuất bản sau khi ông chết .

Ông mất năm 1842.

O-O
Đỏ Và Đen
Vũ Dzũng biên soạn

Năm 1815, ông De Rênal, chủ một hãng đinh lớn lên làm Thị trưởng của thành phố trù phú Verrières thuộc Franche Comté . Ông xuất thân từ một gia đình quý phái nhưng rất thông thạo việc kinh doanh . Ông quan niệm rằng việc mướn một thầy giáo về nhà dạy cho ba đứa con của ông sẽ là một mối đầu tư rất có lợi cho uy thế của ông đối với các địch thủ về mặt chính trị cũng như xã hội, kể cả ông Valenod, giám đốc viện tế bần . Bà De Rênal vốn là người không bao giờ thắc mắc về các ý kiến của chồng cũng đồng ý với ông điểm này. Tuy nhiên bà thầm lo ngại rằng ông thầy tương lai có thể sẽ là một tu sĩ quần áo lôi thôi, người ngợm cáu ghét, tới để đánh đập con bà . Nhưng rồi nỗi lo ngại tiêu tan khi bà trông thấy anh thầy giáo trắng trẻo hiền l`nh mà chồng bà đã chọn được .

Tên chàng là Julien Sorel . Chàng xuất thân từ đám nhà quê nhưng có chút vốn liếng La tinh do cha xứ tại địa phương chàng truyền dạy .Chàng là một thanh niên mảnh khảnh với những nét sắc sảo, cặp mắt to đen, tóc màu hạt dẻ, và dáng điệu của một người mang đầy nhiệt huyết . Chàng rất tán thành việc lưu lại tòa lâu đài đẹp đẽ của ông De Rênal vì chàng không ưa đám anh em ruột khỏe như vâm và lối làm việc hùng hục như trâu bò của họ tại trại cưa của cha chàng (một người cha khắc nghiệt), nhưng chàng cũng không muốn gia đình ông De Rênal coi chàng như một người đầy tớ . Chàng quyết tâm lập nên sự nghiệp để từ bỏ nếp sống của một người nhà quê. Trước kia chàng rất hâm mộ Napoleon, nhưng giờ đây thời thế đã thay đổi, binh nghiệp không còn đắt giá nữa, làm mục sư mới là nghề nhiều tiền, và chàng quyết định trở thành một mục sư.

Mấy đứa con của bà De Rênal rất quý mến Julien nhưng chàng chẳng buồn để ý đến chúng . Chàng cảm thấy ghê sợ và khinh bỉ thế giới thượng lưu mà chàng đã bước chân vào . Nhiều lần chàng đã ra mặt nhờm gớm đám bạn bè giàu có của ông De Rênal vì họ làm giàu trên xương máu của đám dân nghèo. Chàng thích những cử chỉ của bà De Rênal nhưng lại ghét vẻ đẹp đài các của bà, và hết sức tránh tiếp xúc với bà .

Ngược lại, bà De Rênal rất để ý đến chàng . Bà chưa hề thật tâm yêu người chồng thô lỗ, và giờ đây bà cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự dịu dàng và vẻ lãnh đạm của Julien . Bà cho chàng tiền để may quần áo, nhưng chàng tức giận vì cho rằng đây là cách các người giàu làm nhục người nghèo . Tuy chàng chưa nhận ra mối tình thầm kín của bà đối với mình, chàng vẫn cảm thấy bổn phận mình nên tiến gần tới bà hơn vì dù sao chàng cũng muốn xoa dịu nỗi hiềm khích giữa kẻ giàu và người nghèo . Thế rồi một buổi chiều mùa hạ kia, trong khi ông De Rênal đang mải bàn cãi sôi nổi về chính trị với mấy người bạn, Julien và bà De Rênal gặp nhau ngòi vườn, chàng nắm tay bà và đặt lên đó những nụ hôn say đắm . Vài ngày sau, chàng mạnh dạn báo cho bà biết chàng sẽ tới phòng bà sau nửa đêm . Vừa nói chàng vừa run lên vì sợ hãi . Đối với chàng, dụ dỗ người khác là một điều đáng khinh . Tuy nhiên, đêm hôm đó chàng giữ đúng hẹn để tỏ ra mình không yếu đuối . Cuộc gặp gỡ đầu tiên là một chiến thắng đối với chàng tuy nó không thật sự đem khoái cảm đến cho chàng . Trong đêm thứ nhì, mặc cảm tội lỗi không còn mãnh liệt như đêm đầu, và chàng cảm thấy yêu bà cuồng nhiệt . Nhưng tình yêu này vần chỉ là một tìnhyêu xây dựng trên tham vọng: đối với một người thấp hèn, bạc phước như chàng, việc chiếm hữu được một người đàn bà quý phái đẹp lộng lẫy là một điều thích thú .

Nhưng thú vui bồng bột kia không qua mắt được đớ tớ gái của bà De Rênal . Ả đã từng tỏ tình với Julien và bị chàng cự tuyệt một cách khinh bỉ, và ả đem lòng oán hận từ lâu . Đây là cơ hội cho ả trả thù . Ả đem hết chuyện lén lút giữa bà chủ và Julien kể hết vơi ông Valenod, đối thủ chính trị lợi hại nhất của ông De Rênal . Những bức thư nặc danh tới tấp bay tới tay ông De Rênal và chẳng bao lâu cả thành phố đều xôn xao bàn tán về vụ lem nhem này . Khi vị cha xứ biết chuyện, ông lập tức buộc Julien phải rời Verrièses ngay và cho chọn hoặc ia nhập một chủng viện tại Besancon hoặc đi buôn gỗ với một thương gia tên là Fouqué tại một làng xa xôi . Với hy vọng sẽ có một địa vị khá hơn trong tương lai, Julien chọn giải pháp thứ nhất .

Tuy nhiên Julien không co 'khiếu đi tu, và chàng quan niệm rằng thời gian lưu lại trong chủng viện chỉ là một chuỗi ngày sám hối không thể tránh được . Chàng tự cho mình là một người đạo đức giả nhất trên đời, nhưng thực ra chàng đang sống giữa một đám người đạo đức giả hơn chàng gấp bội vì họ toàn là bọn xuất thân từ đám nhà quê với tâm nguyện duy nhất là làm sao được ăn ngon,mặc đẹp . Họ đố kỵ Julien vì chàng có tài ăn nói và thông minh quá . Người bạn tốt duy nhất của Julien là vị trưởng giáo khắc khổ Abbé Pirard . Khi ông n`y được hầu tước De La Mole triệu về Paris, ông đãdàn xếp để Julien làm bí thư cho hầu tước . Julien rất hài lòng với nhiệm vụ mới và chàng sửa soạn đi Paris . Trên đường đi, chàng không quên ghe 'lại Verrières và hưởng hai đêm thần tiên với bà De Rênal .

Hầu tước De La Mole rát hài lòng vì khả năng làm việc, sự chăm chỉ, cẩn thận và thông minh của Julien . Dần dần ông giao cho chàng những việc tối quan trọng . TRong khi đó Mathilde De La Mole, con gái hầu tước, càng ngày c`ng ghét cảnh lễ mạo giả dối của Paris và cảm thấy thích thú trước vẻ quyến rũ đặc biệt của chàng trai tỉnh lẻ lầm lì nhưng thông minh kia . Nàng bắt đầu tìm cách tống tình chàng . Nhưng nàng càng tấn công, chàng càng né tránh vì nghĩ rằng nàng chỉ đùa cợt cho vui, đem mình ra làm trò cười, nên chàng càng tỏ ra nghiêm trang cung kính .

Nhưng một hôm, chàng đánh liều leo ua cửa sổ vào phòng nàng . Thấy chàng bất ngờ xuất hiện, tiểu thư Mathilde không tự chủ được nữa, trống ngực đập liên hồi, nàng sợ hãi muốn đuổi chàng ra, nhưng rồi lại cứ để cho chàng ái ân . Sau đó thì nàng lại hối hận, nghĩ rằng ch`ng sẽ coi thường mình . Vì thế sau khi cho chàng ái ân, nàng giữ vẻ lạnh lùng hết ng`y này qua ngày khác, khiến Julien thẫn thờ như kẻ mất hồn . Ý tưởng tự sát đã chập chờn trong óc chàng, nhưng rồi thất vọng quá hóa liều, chàng lại tiếp tục leo qua cửa sổ phòng nàng . Bây giờ thì nàng biết rằng chàng đã thực lòng yêu mình . Nàng rất cảm động và sung sướng, rồi nàng cắt một mớ tóc và tặng chàng để thay lời vàng đá . Nhưng chưa đầy hai ngày sau, sự ân hận và lòng tự tôn một lần nữa bắt nàngrút lại mối nhiệt tình, và nàng nói thẳng vào mặt Julien:

-Tôi không yêu anh nữa . Óc tưởng tượng qua 'trớn của tôi đã làm tôi mù quáng .

Theo lời khuyên c?a một người bạn, Julien bắt đầu chú ý tới một thiếu phụ thường tới chơi nhà vị hầu tước . Mathilde lồng lên vì ghen tức, và cuối cùng nàng quỳ xuống chân chàng, nức nở :

-Anh khinh em cũng được, nhưng phải yêu em .

Rồi nàng ngất xỉu .

Julien điên lên vì sung sướng nhưng ngoài mặt chàng vẫn làm ra vẻ lãnh đạm . Sự lãnh đạm này dĩ nhiên không kéo dài được mãi . Một hôm Mathidle khám phá ra mình đã có thai .

Hầu tước nổi trận lôi đình và nhất quyết không cho con gái lấy anh thày dòng quèn như Julien . Nàng nhất quyết chống lại cha . Ông nghĩ ra một cách: ông tặng Julien một số tiền lớn cộng thêm một gia sản đáng kể, phong cho chàng làm sĩ quan trong một đơn vị kỵ binh, đặt cho chàng một cái tên quý phái, và như vậy chàng đủ tư cách làm con rể ông . Nhưng đúng lúc cao vọng của Julien sắp trở th`nh sự thật, thì hầu tước nhận được một lá thư của bà De Rênal cực lực tố cáo Julien và phản đối đám cưới của chàng . Để trả thù, Julien đi Verrières tìm bà . Chàng gặp bà tại nhà thờ và bắn bà ngã gục .

Tuy bị bắt giam và bi .lên án tử hình, Julien vẫn thản nhiên vì chàng đang bị dày vò bởi những nỗi ân hận về cái chết của bà De Rênal . Chàng rất ngạc nhiên và mừng rỡ khi được tin vết thương của bà không đến nỗi trí mạng . Mặt khác, chàng cũng cảm thấy không xứng đáng với sự tận tụy của Mathilde dành cho chàng . Nàng lần mò vào tận nhà giam, đút lót tiền bạc cho các nhân viên hữu trách để chàng được tha bổng . Mọi sắp dặt kể như xong .

Nhưng khi ra trước tòa, tự chàng làm hại chàng . Chàng gạt bỏ mọi co vọng, thẳng thắn lên án sự giả trá và suy đồi của thời đại và gián tiếp khiêu khích đám quan tòa . Không những chàng tự nhận mình phạm tôi mưu sát mà còn tuyên bố rằng dù tội chàng co 'nhẹ hơn như vậy, chàng cũng xin tòa ghép chàng vào tội một tên nhà quê cố ngoi lên khỏi địa vị hèn kém của mình – “Đó là tội trạng của tôi, thưa quý tòa” . Lập tức chàng bị xử có tội .

Julien nghe tuyên án một cách bình tĩnh . Bà De Rênal tới năn nỉ chàng kháng cáo . Chàng cảm thấy vô cùng sung sướng vì chàng vừa khám phá ra rằng chính bà De Rênal mới là người yêu chàng tha thiết . Chàng nghe bà và kháng cáo . Sự ghen tức làm Mathilde điên loạn, nhưng Julien không biết xử trí ra sao .

Việc kháng cáo không thành và Julien bước lên đoạn đầu đài một cách ung dung, bình thản . Mathilde nhất định đòi thủ cấp chàng để tự mình đem chôn . Bà De Rênal không tìm cách tranh giành với Mathild nhưng ba ngày sau ngươi ta thấy bà trút hơi thở cuối cùng trong khi ôm hôn các đứa con thơ .

(Vũ Dzũng biên soạn )


2202


Powered by Blogger.