Chiếc xe buýt chợt thắng gấp. Một cụ già không gượng được nên chúi mũi tới trước dẫm lên chân chàng trai nọ. Cậu này buột miệng chửi ngay:
- Đồ súc sinh, không có mắt à?
Ông già lạnh lùng nhìn chàng trai ấy từ đầu đến chân rồi lẩm bẩm:
- Xin lỗi con nhé!
Ngày cuối tuần, các thang máy trong cửa hàng bách hóa chen chúc người. Một ông gầy gò đứng trước mặt một phụ nữ béo phì. Ông ta cứ bị xô đẩy tới trước luôn thật khó chịu, bèn quay lại nói với bà ta:
- Xin bà đừng đẩy tôi nữa có được không ạ?
- Tôi có đẩy ông đâu - Bà béo bực dọc đáp - Tôi chỉ đang thở thôi mà.
1969
Ðời xưa, có một vị đại quốc vương tên là Tu Lâu Ðà, thống trị rất nhiều chư hầu nhỏ. Oai đức của nhà vua rất to, nhưng Ngài cũng chưa mãn ý. Một hôm Ngài nghĩ: "Ta có một khuyết điểm lớn.
Mặc dù ta dùng đức trị dân, đem tài lực để giúp người, song đó chỉ là nuôi sống phần vật chất không được vĩnh cửu. Cần phải có một nền đạo giáo để trị muôn dân tu tỉnh. Ta phải tìm làm sao cho ra "Pháp tài chân thật" để cho mọi người cùng nhờ đó mà giải thoát được mọi sự khổ não ở đời. Ðược như thế ta mới khỏi ân hận".
Nhà vua liền truyền rao khắp trong xứ: Ai có phép giải thoát đem truyền trao cho nhà vua, sẽ được gia thưởng như ý muốn. Qua một thời gian khá lâu, không thấy ai đáp lại lời kêu gọi của nhà vua. Ngài đâm lo nghĩ, buồn rầu khổ sở, ăn không ngon, ngủ không yên. Người ngoài cuộc, ai trông thấy cũng phải cảm động và thương hại cho Ngài.
Lúc ấy, có một vị Tỳ sa môn Thiên Vương, rõ được tâm trạng của Tu Lâu Ðà, bèn hóa hiện làm thân một con quỷ Dạ xoa hình sắc ai thấy cũng phải kinh tởm: hai con mắt lồi to và đỏ như huyết, nanh vuốt nhọn bén, tóc tai bờm xờm, lửa đầy miệng. Quỉ đến chỗ vua, hô to lên rằng: "Ai muốn nghe pháp ta sẽ nói cho".
Nhà vua nghe thấy mừng lắm, vội đến nghênh tiếp, mời ngồi tòa cao, làm lễ đúng pháp để cầu nghe quên cả sợ hãi.
- Xin Ngài vui lòng bố thí cho chúng tôi một pháp tài để cứu khổ cho nhơn sanh, ơn trọng vô cùng.
- Thân người khó được, chánh pháp khó gặp, đâu phải qua những nghi lễ tầm thường kém vẻ tôn trọng như vậy mà có thể nghe được.
- Tôi xin sẵn sàng làm theo ý Ngài muốn, chỉ cốt hầu được nghe pháp, dù phải tan thân mất mạng cũng không sao.
- Quý lắm, nhà vua hãy đem Hoàng hậu và Hoàng Thái tử đến cho ta xơi, xong rồi ta sẽ nói pháp cho nghe.
- Ðược tôi sẽ trân trọng làm theo ý Ngài muốn.
Trong khi ấy, tất cả triều thần đều nhao nhao phản đối: "Bệ hạ làm thế nhẫn tâm lắm, chúng tôi không tán thành! Bệ hạ giết chúng tôi trước, rồi sẽ thi hành cái cử chỉ thảm não ấy".
Nhà vua vẫn bình tĩnh, thản nhiên an ủi quần thần: "Các khanh yên lòng, ta cũng biết thế là đau xót lắm, nhưng trong đời, hễ có hợp rồi sẽ tan, không có gì là đáng quí cả, chỉ có chánh pháp mới là đáng quí, vậy dù đổi tánh mạng ta, ta quyết cũng không từ".
Trong khi quỷ Dạ xoa ăn thịt Hoàng hậu và Hoàng Thái tử, tất cả triều thần cùng cung phi mỹ nữ trong tam cung lục viện đều kêu gào, than khóc vô cùng thảm não. Tiếng kêu than náo động cả kinh thành, mong làm chuyển được lòng cương quyết của nhà vua, để Ngài xóa bỏ ý định. Nhưng nhà vua vẫn điềm tĩnh như thường, chỉ một mực chăm chờ nghe pháp.
Quỷ Dạ xoa sau khi ăn xong Hoàng hậu và Hoàng Thái tử liền vì vua mà nói bài kệ rằng:
"Tất cả các hành đều là vô thường,
Có sanh đều có khổ,
Năm ấm không thật tướng,
Không ngã và ngã sở". [1]
Nhà vua nghe xong bài kệ vui mừng vô cùng, lòng không chút hối hận, liền truyền thần dân biên chép bài kệ ban khắp trong nhân gian, bắt phải đọc tụng, nhờ đó mà rất nhiều người được tỏ ngộ.
Lúc ấy, vị Tỳ sa môn Thiên Vương hiện lại nguyên hình và không tiếc lời khen ngợi:
- Quí hóa thay! Cao cả thay, tâm trọng pháp của nhà vua không ai sánh bằng. Hoàng hậu và Thái tử xin hoàn lại vẫn không sao cả. Chẳng qua là chỉ để thư lòng nhà vua mà thôi, thật không phải tôi đã ăn nuốt đi đâu.
Tôi mong ngày sau Ngài sẽ đạt đạo Bồ đề độ muôn loài hàm thức.
Làm đau thương không gì hơn buồn. Bắn tên độc không gì hơn ngu si. Không thể lấy sức mạnh gì trừ diệt được hai nỗi khổ ấy. Chỉ có học nhiều mới có thể trừ diệt được. Người mù sẽ nhờ học mà có mắt, người tối sẽ nhờ học mà sáng suốt. Nhờ học mới có thể chỉ đường cho mọi người. Có học như đem mắt cho người mù. Vậy phải rời bỏ ngục ngu si, xả lòng kiêu mạn và sự an hưởng giàu có, chuộng học nghe nhiều mới gọi là nhóm họp công đức.
Một nhà văn lớn tuổi và rất nổi tiếng đã khuyên tôi: Cậu hãy cố gắng viết một đề tài gì cho sâu sắc, cứ viết mãi truyện về tuổi mới lớn, cậu sẽ không thể trở thành nhà văn lớn được.
Tôi đã bóp trán suy nghĩ nhiều đêm và cuối cùng viết được truyện này. Tôi không biết nó có sâu sắc không nhưng đọc lại tôi thấy nó lạ lẫm với phong cách thường viết của mình. Tôi hơi buồn nhưng rồi tự an ủi: Đối với thần chết, ai mà chẳng lạ lẫm. Nếu đã thân quen với ông ta, bạn sẽ chẳng còn có cơ hội để viết nữa.
Năm tôi 14 tuổi tôi bị bệnh thương hàn rất nặng. Ba tôi nói lần ấy cả nhà đều tưởng tôi sẽ không sống qua khỏi cơn bệnh. Tôi đã nằm liệt giường gần nửa tháng và thường mê man bất tỉnh khi cơn sốt lên đến 40 độ.
Một buổi sáng tự nhiên tôi thức dậy với đầu óc tỉnh táo khác thường và nhận ra ba tôi đã ngồi ở bên giường từ lúc nào. Ông hỏi tôi có đỡ mệt không? Tôi gật đầu và ông đỡ tôi ngồi dậy cho uống một viên thuốc màu trắng. Uống thuốc xong, tôi lại nằm xuống giường và đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Ánh nắng nhấp nháy trên những tàn cây trong vườn khiến tôi chóa mắt một lúc rồi tôi nhìn thấy một người đàn ông đang đứng tựa tay trên thành cửa sổ. Người ông ốm và cao, bộ quần áo màu đen ông mặc bó sát, làm nổi bật khuôn mặt trắng nhợt. Vì tưởng ông ta là một bác sĩ được ba tôi mời đến khám bệnh nên tôi nhắm mắt nằm im chờ đợi. Tôi đã chán nhìn mặt các bác sĩ. Ông nào cũng mạnh khỏe tươi cười, nói những lời dịu ngọt trấn an làm tôi thêm bực mình cho sức khỏe yếu đuối của tôi.
Ba tôi nói gì đó, tôi không nghe được rõ ràng và mãi khi nghe tiếng đóng cửa lại, một lúc lâu vẫn không có ai đụng chạm đến mình, tôi mở mắt nhìn quanh. Căn phòng vắng lặng chẳng có bóng dáng ai, ngay cả người đàn ông cũng không còn đứng ngoài cửa sổ. Tôi nghĩ vậy ông ta là một người bạn của ba tôi đến thăm, chứ không phải là bác sĩ đến khám bệnh và giờ này chắc ông đang ngồi nói chuyện với ba tôi ở phòng khách. Tôi bình thản nhắm mắt lại.
- Cháu khỏe chứ?
Tôi giật mình nhận ra người đàn ông lúc nãy đang đứng cạnh giường. Tôi không hiểu ông ta vào phòng từ lúc nào mà tôi không nghe có tiếng cửa mở cũng như tiếng giày đi trên nền nhà lát gạch bông. Ông hơi cúi người nhìn tôi, đôi mắt ông sâu hoắm nằm giữa hai lưỡng quyền cao và cái trán rộng có nhiều nếp nhăn. Tôi ngửi thấy mùi hương thơm ngát từ người ông tỏa ra. Đây không phải là mùi nước hoa. Nó như là mùi hương của nhiều loại hoa tươi trộn lẫn với mùi trầm và tôi nhận ra rõ nhất là mùi thơn của hoa huệ, một loại hoa thường được má tôi mua về cúng vào những ngày rằm và mùng một.
Ngay đối với những người thân trong gia đình, tôi vẫn thường giấu những cơn đau không cho họ biết để khỏi phải lo lắng quá nhiều cho bệnh trạng của tôi. Nên khi nghe người đàn ông hỏi thăm, mặc dù đang mệt nhoài, tôi cũng gắng gượng trả lời:
- Cám ơn ông, cháu đã thấy đỡ nhiều.
Người đàn ông đặt tay lên trán tôi, bàn tay ông lạnh băng như được ngâm trong nước đá khiến tôi rùng mình. Ông ta nói bằng giọng khàn khàn như có cái gì đang vướng trong cổ.
- Cháu không khỏe lắm đâu, cơn bệnh chỉ tạm rút lui và chẳng bao lâu sẽ trở lại trầm trọng hơn.
Tôi hỏi:
- Ông là bác sĩ mà ba cháu mời đến?
Người đàn ông lắc đầu:
- Không. Tôi là người bạn thân của gia đình cháu.
- Cháu chưa thấy ông đến thăm ba má cháu lần nào?
- Tôi quen ba má cháu từ khi cháu chưa ra đời, vì quá bận việc nên tôi chưa có dịp đến thăm.
- Ông gặp ba cháu chưa? Ba cháu mới ở phòng này bước ra.
- Tôi chưa cần gặp ông ấy vội, tôi muốn đến thăm cháu trước. Cháu có muốn khỏi bệnh ngay bây giờ không?
- Ông đã nói ông không phải là bác sĩ mà.
- Tôi có cách chữa bệnh riêng của tôi. Đi theo tôi rồi cháu sẽ biết.
- Cháu đang bệnh mà, đi đâu được.
- Tôi sẽ dìu cháu đi. Không xa lắm đâu, ngay chỗ kia kìa. Đến đó cháu sẽ hết bệnh ngay.
Người đàn ông chỉ tay ra phía cửa sổ, tôi ngẩng đầu nhìn theo. Tôi chẳng còn nhận ra khu vườn hằng ngày của gia đình tôi. Khu vườn có những cây nhãn cành lá xum xuê tôi vẫn thường leo trèo bắn chim và hái trái vào mùa nhãn chín. Gần giếng nước uống có cây trúc đào trổ hoa bốn mùa và dọc theo bờ tường có những bụi hoa lài rậm rạp, ba tôi trồng để lấy hoa ướp trà uống thay bữa ăn điểm tâm trước khi đến sở làm. Ngoài cửa sổ bây giờ tôi chỉ thấy một lớp sương trắng mờ đục phủ kín mặt đất. Có những bóng người qua lại chậm rãi, vật vờ như những người di chuyển trong một đoạn phim quay chậm mà tôi đã được xem. Tôi không nghe có tiếng động nào dù đôi lúc có những chiếc xe lớn chạy ngang sát thành cửa sổ và những con chim sẻ đùa giỡn với nhau, bay vụt vào phòng rồi biến mất ngay.
Tôi quay lại hỏi người đàn ông:
- Sao cháu không thấy có nhà thương ở đó?
Người đàn ông mỉm cười:
- Nơi đó không cần nhà thương vì chẳng có ai đau ốm. Đến đó mọi người đều hết bệnh và sẽ khỏe mạnh mãi mãi.
- Nhưng nơi đó có vẻ buồn quá.
- Nơi đó không nhộn nhịp. Đấy là một nơi chốn thanh thản.
- Cháu không thích sống thanh thản, cháu chỉ thích cuộc sống nhộn nhịp.
Người đàn ông chép miệng:
- Tuổi trẻ ai cũng vậy, chỉ thích sự nhộn nhịp vô ích. Thôi chúng ta đã mất nhiều thì giờ rồi. Cháu hãy đi theo tôi.
- Cháu sẽ phải ở lại nơi đó bao lâu để chữa bệnh?
- Cháu không cần phải trở về đây nữa.
- Đâu được, cháu không muốn sống xa ba má và các em cháu.
- Đừng lo, chẳng bao lâu cháu sẽ gặp họ đầy đủ ở nơi đó.
- Còn bạn bè cháu?
- Không trước thì sau chúng cũng phải đến đó như cháu. Nào chúng ta đi.
Tự nhiên tôi nghĩ người đàn ông đây có thể là "mẹ mìn", chuyên đi dụ dỗ con nít bắt đem bán, nên tôi nắm chặt lấy thành giường và lắc đầu.
- Không. Cháu không thích đi với ông.
Người đàn ông có vẻ bực tức, gắt:
- Không đi cũng phải đi. Mất nhiều thì giờ rồi.
Ông đến nắm tay tôi, kéo tôi nhổm dậy khỏi giường. Tôi hốt hoảng la lên:
- Ba ơi! Ba ơi!
- La hét cũng vô ích. Chẳng ai giúp được đâu.
Bị người đàn ông lôi kéo, tôi trở nên bướng bỉnh, cứng đầu như những khi bị thầy giáo phạt oan hay bị bọn học trò lớp lớn ăn hiếp, tôi hung dữ chống cự lại. Hai chân tôi đạp liên hồi vào người ông và tôi cúi xuống cắn vào bàn tay ông đang nắm chặt tay tôi. Người đàn1256
Gã hành khất co ro trong manh vải Dòng người đi đông không sao đếm xuê? Còn đâu nữa trời xanh màu biên biếc Hỡi nhân gian ta muôn lần ta thán
Xé không gian, xé nát cả trời chiều
Mây ngừng trôi, gió u uất đìu hiu
Chim kêu thét như tiếng lòng sợ hãi
Cố che thân trong bão tố cuồng phong
Vài cô nhi bên thiếu phụ khóc chồng
Chiến tranh hỡi loạn ly nào hơn thế?
Tiếng gào than chất ngất giữa đất trời
Sóng gầm gừ như thở chẳng ra hơi
Từng bờ bãi cuốn đi không thương tiếc
Nụ cười son thơ ấu lịm tắt dần
Khách du hành ngao ngán những bước chân
Xa lánh hết, chỉ còn niềm ai oán
Đừng dấy lên dù chút lửa chiến tranh
Mãnh đất kia xin được sống yên lành
Cho kiếp sống muôn ngàn sau còn mãi!!!
Cô gái kể cho bạn nghe về chuyến đi chơi cuối tuần:
- Tối qua, chàng đưa tao vào một khu rừng vắng vẻ thơ mộng, cây cối um tùm, bãi cỏ mượt mà, vằng vặc ánh trăng đẹp kinh khủng, nhưng cũng vì thế mà hơi chán...
- Chắc là trăng sáng quá làm cho bọn mày e ngại?
- Không phải thế, mà là vì anh ấy chỉ mãi đọc thơ tình dưới trăng!
2251
Lòng Thương Của Một Vị Hoàng Tử
Hoàng đế La Xà có hai Hoàng tử, Hoàng tử Thiện Hữu, thật là bạn hiền của mọi người, Hoàng tử Ác Hữu trái lại, độc ác để khiêu khích anh.
Hoàng tử khi đến cái tuổi biết nhìn cuộc đời trắng trợn bày trước mắt chàng: đây người sập chim, bẫy cá, kia người làm thịt chọc huyết, chim sáo mỗ bọ ngựa, bọ ngựa bắt chuồn chuồn.
Sự sống không loài nào không tự bảo trọng cả. Nhưng cả đây cũng như ở nơi kia, ở đâu sự sống cũng xây trên sự sống. Thấy vậy Hoàng tử Thiện Hữu xin vua cho tất cả kho tàng để giúp dân chúng. Kho tàng hết, chàng mạo hiểm vào bể tìm ngọc giữa sự lo sợ của cha mẹ. Nghe anh đi tìm ngọc, Hoàng tử Ác Hữu nghĩ:
- Không ác việc không thành được.
Rồi xin theo Thiện Hữu, nhưng Thiện Hữu ngăn lại:
- Thân là trọng, em không nên mạo hiểm theo anh.
Ác Hữu quyết đi theo:
- Sống không thỏa nguyện thì vô ích.
Thế là anh em theo nhau, và nhờ chí nguyện vĩ đại, tấm lòng thương người, Hoàng tử Thiện Hữu vượt bao nhiêu gian lao nguy hiểm, tìm được ngọc Như ý. Khi về đến bờ bể, Hoàng tử bảo em:
- Giờ trên đường về, anh ngũ thì em giữ, em ngũ thì anh giữ. Ðời sống no đủ của muôn dân ở nơi viên ngọc nầy. Em nhớ nhé.
Nhưng một hôm anh em ngủ trên một quảng đường hiểm. Ác Hữu bèn tìm hai cây nhọn đâm thủng mắt anh. Ðau quá, Thiện Hữu vùng dậy la rên gọi em.
Nhưng Ác Hữu điềm nhiên mang ngọc đi thẳng. Vừa rên, Thiện Hữu vừa đưa tay quờ quạng tìm em. Chàng cứ nghĩ rằng chàng bị đâm mắt chứ Á Hữu mang ngọc thì chắc bị kẻ cướp giết rồi. Nhưng quờ quạng một lát, chàng nghĩ ra: em ta hại ta chứ không ai đâu khác. Chàng đau đớn thở dài:
- Người tánh tình vẫn vậy...
Thiện Hữu đau lắm không thể nhổ hai cây nhọn ra được. Bỗng một đàn trâu rầm rộ đi qua. Thiện Hữu biết nhưng đành ngồi, không thấy gì mà tránh nữa. Nhưng lạ lùng thay, chàng biết mình đang ngồi dưới bụng một con trâu. Con trâu ấy che chở và thân mến liếm mắt chàng, trong khi đàn trâu rầm rộ đi qua. Tiếng chân đàn trâu vừa hết thì tiếng nói một người vừa đến:
- Ai đây? Sao mắt bị đâm vậy?
Con trâu bây giờ đáng dang ra và nhìn chủ nó như cầu khẩn. Còn Hoàng tử Thiện Hữu nghe lời hỏi thì mừng gặp được người, nhưng lòng càng đau đớn. Chàng nghĩ thôi đành nói dối vậy.
- Tôi là kẻ ăn mày. Tôi đang ngủ, không biết ai nó hại tôi thế này.
Giọng Thiện Hữu làm cho người ấy không nỡ hỏi lại, nhưng thấy kính mến dị thường. Người ấy bèn nhổ cây đặt thuốc - ông ta là người rành việc này - và đưa về nhà cung phụng nuôi dưỡng một cách không suy nghĩ. Càng lâu người chủ càng kính mến, nhưng Hoàng tử Thiện Hữu không yên tâm. Chàng bèn xin người chủ cho chàng tự tìm cách nuôi sống. Người chủ nói trong bụng câu đã tự nói với mình mấy lần:
- Thật là người hiền.
Và trả lời:
- Không! Người cứ ở đây với gia đình tôi. Ðói no với nhau. Tôi không nỡ xa người.
- Xin ông thương tôi. Tôi không dám làm phiền nhiều.
Nói mấy cũng không được, người chủ hỏi:
- Thế giờ người định nuôi sống bằng gì?
- Ông cho tôi xin một cây đàn hay.
- Ðược! Nhưng xin người phải để tôi được làm cái việc ngày ngày đưa người ra chỗ đông, rồi tối đưa về nhà tôi ngủ.
Thiện Hữu lắc đầu:
- Thế lại phiền ông lắm! Cho tôi ngủ ở chợ hay dưới gốc cây.
Người chủ năn nỉ:
- Người có bằng lòng như thế, tôi mới để người đi kiếm ăn.
Thiện Hữu thở dài:
- Cũng được.
- Nhưng biết đàn à?
- Sơ sài vậy thôi! Người chủ ngạc nhiên. Và hôm sau đầu chợ, Thiện Hữu đã ngồi đấy, lên những tiếng đàn thanh toát ra những khúc nhạc lòng. Chàng đàn lên những tấm lòng của chàng, những chí nguyện của chàng. Chàng say mê quên cả mục đích kiếm ăn của mình, nhưng quần chúng cảm mến chàng. Chàng nuôi sống được cả nhà chủ chăn trâu.
Một hôm, tiếng đàn của Thiện Hữu làm chấn động lòng một người đẹp. Người ấy khi tiếng lòng của mình do ai gảy lên đã im rồi, mới tỉnh hỏi:
- Ông là ai?
- Người là ai?
- Tôi sẽ nói. Nhưng ông là ai xin cho biết đã?
- Người tự trả lời cho mình cũng đủ: tôi một kẻ ăn mày đang xin thiên hạ bố thí bằng tiếng đàn, người không thấy sao!
Và Thiện Hữu thở dài:
- Kể ra tôi cũng quá đáng đối với cây đàn đây! Nhưng ngoài việc kiếm ăn, nhờ nó, tôi đã thở ra được những gì của lòng tài!
- Người là ai vậy?
- Tôi là một công chúa.
Người đẹp nói nhanh và dò xét thần sắc của Thiện Hữu.
Nhưng chàng vẫn bình thản:
- Của?
- Của vua Sư Bạc.
Thiện Hữu bất giờ mới biết mình lâu nay sống trên đất của một chư hầu, và đang ngồi trước vị hôn thê chưa thấy mặt của mình. Nhưng chàng chỉ lặng thinh. Người đẹp đưa cho chàng một lượng vàng rồi từ biệt.
- Mai em sẽ đến mải với ông.
Thiện Hữu không để ý câu nói ấy.
Chàng bình thản về nhà ngụ.
Công chúa vua Sư Bạc thì lòng đã nhất định nàng không thể xa tiếng đàn ấy. Nàng tính rụt rè, nhưng hôm nay nàng mạnh dạn. Sau bữa cơm tối, nàng trịnh trọng thưa với phụ vương và mẫu hậu rõ ý định của mình. Nghe xong, Hoàng đế Sư Bạc giận lắm:
- Mày điên đấy à? Mày quên mày là vị hôn thê của Thái tử Thiện Hữu?
- Con xin cha mẹ thương con.
Hoàng đế Sư Bạc không thèm nghe nữa.
Nhưng sáng hôm sau, nàng thu xếp đồ dùng của mình và ra đi. Nàng đến vào lúc tiếng đàn lòng nàng đang lên với ánh sáng thanh bình của vũ trụ. Nàng say sưa nghe, thu hút vào lòng tất cả âm ba tiếng đàn đã tỏa ra không gian. Bản đàn dừng, nàng bảo chàng:
- Anh cho em nói chuyện đã.
- Ai đấy?
- Em đây, Công chúa vua Sư Bạc đây.
- Công chúa muốn nói gì?
Nàng chân thành và tha thiết quên hết cả dè dặt. Nàng bất chấp người chung quanh:
- Em nguyện theo anh.
- Công chúa theo tôi? Theo thế nào được! Và, Công chúa theo chi một người ăn mày?
- Em quyết định rồi, vua cha em không cấm em được nữa là!
Ðồng thời hai người nói chuyện thì trong kia hoàng cung, Hoàng đế Sư Bạc tức giận lắm. Ông muốn hạ lệnh bắt chém ngay người ăn mày có tiếng đàn cảm động lòng con ông. Nhưng ông nghĩ:
- Ta vi hành xem nó thế nào mà con ta cảm được. Làm to chuyện chỉ bây tiếng.
Lẫn lộn vào đám người nghe đàn, ông nhìn rõ, bỗng giựt mình:
- Sao giống Hoàng tử Thiện Hữu?
Quái lạ! Không lẽ. Nhưng khuôn mặt kia?...
Ông nghĩ ngay một kế. Về gọi một vị sứ giả trung thành ông bảo:
- Nhà ngươi vì ta qua vấn an Hoàng đế La Xà, và hỏi thăm Hoàng tử Thiện Hữu.
Ngay ngày hôm ấy, sứ giả lên đường. Sư Bạc nằm chờ.
Trời đã về chiều, Hoàng hậu bảo:
- Hoàng đế cho người ra bắt con về chứ sao để vậy?
- Bắt về làm gì? Xem như nó không còn nữa!
- Nhưng tai tiếng?
- Thì làm sao được? Bắt nó về thì hết tai tiếng à?
Vợ chồng Hoàng đế Sư Bạc cho rằng đó là việc xấu. Phong tục và quần chúng bảo đó là tiếng xấu, nhưng một điều lạ là những người nào nghe được tiếng đàn và thấy được hình dung Thiện Hữu - họ chỉ biết cái thật ấy, họ làm gì biết cái danh Hoàng tử của chàng - họ đều cảm mến đức hiền của chàng. Ở chàng đã tỏa ra một cái gì bao bọc mọi người. Họ biết và có kẻ hôm nay thấy tận mắt Công chúa vua họ theo Thiện Hữu.
Nhưng họ cho là chuyện phúc. Họ trái tất cả tập quán và không suy nghĩ, không phân tích, không lý do. Thì ra đức hiền của người có khi đảo lộn cả tập tục, đúng hơn cả một quan niệm xã hội.
Chính họ khuyên Thái tử, khi chàng từ chối Công chúa.
- Người bằng lòng đi. Người đỡ lận đận cho chúng tôi mừng. Cho tiếng đàn người còn mãi mãi với chúng tôi.
- Nhưng phiền cho Công chúa và cho tôi lắm. Tôi biết... Uy quyền của một ông vua, khi ông bất bình. Tôi, kẻ ăn mày thì sợ gì ai, nhưng thân công chúa! Nói gì công chúa cũng không nghe. Nàng về với chàng trong sự hoan hỷ của những người mục kích đang thân mến nhìn theo.
Thiện Hữu tuy được vợ hiền, nhưng chàng không thay đổi. Tiếng đàn chàng đêm khuya vẫn trỗi dậy. Tiếng đàn bi thảm biểu diễn nỗi khổ vô biên của kiếp người, tiếng đàn cao hùng bộc lộ chí cao, cái hạnh cả muốn giúp người, cứu khổ cho người, tiếng đàn dũng mãnh toát hết cái chí hiên ngang của đấng đại trượng phu. Có khi tiếng đàn như tung không gian mà lên, có lúc như dấn mình xuống lao khổ... Có đêm điệu đàn bỗng lạc điệu: một điệu buồn thảm của kẻ nhớ cha, nhớ mẹ. Ðiệu đàn nghe chết cả lòng.
Công chúa sống cạnh chàng, lòng lên xuống đúng tiếng đàn của chàng. Nàng lấy làm lạ: Người ấy, tiếng đàn ấy, Công chúa nghĩ:
- Khả nghi lắm!
Nàng khóc:
- Anh giấu em!
- Quái lạ, anh giấu gì?
- Anh không phải là kẻ ăn mày!
- Thế là gì đây?
- Em khổ lắm! Anh giấu tông tích của anh! Anh, Anh nói rõ cho em. Tiếng lòng ta không đứt sao ta giấu nhau?
- Em nghĩ rằng một kẻ ăn mày, không thể đàn những tiếng đàn tuyệt đích?
- Nhưng em nghe ra: Tiếng đàn anh, lòng anh, nhất định không như tông tích anh nói! Anh nói cho em rõ đi.
Thiện Hữu buồn rầu:
- Anh giấu em làm gì? Nhưng nói em cũng chẳng tin được! Ðời tin người mù mắt là kẻ ăn mày là dễ, Chứ tin thế nào được người mù là hoàng tử con vua!
- Thế anh là một Hoàng tử?
- Em không tin? Phải. Nhưng nói thật em biết anh, Hoàng tử Thiện Hữu đây!
Công chúa giật mình:
- Anh không biết em là vị hôn thê của Hoàng tử Thiện Hữu đấy chứ?
- Anh không muốn em tin rằng anh là một Hoàng tử, chứ đừng nói là Hoàng tử Thiện Hữu anh không phủ nhận, nhưng chí anh không phải là một ông Hoàng, hay một Hoàng đế.
- Em cũng muốn như vậy. Em muốn rằng anh là một người nào như tiếng đàn cao vút của anh kia!
- Nhưng anh nhớ phụ hoàng và mẫu hậu lắm. Lòng anh thương người đến lắm lúc anh nghĩ sống làm chi khi mọi người đau khổ, nữa là với cha mẹ!
- Thế anh quả là Hoàng tử Thiện Hữu?
- Nếu anh không dối, thì nguyện bảy hôm nữa anh được tin cha mẹ anh...
Hoàng tử Ác Hữu khi đâm mắt anh xong, chàng về ra mắt cha mẹ, đưa viên ngọc Như Ý ra:
- Tâu phụ hoàng và mẫu hậu! Anh con mất rồi!...
Vợ chồng Hoàng đế La Xà chỉ nghe có thể đã ngất đi. Hai vợ chồng khóc mù mắt rồi, ánh sáng không còn nữa, mà tin con ngày càng im bặt.
Hoàng đế La Xà không dám tin rằng con chết, nên càng buồn, càng khóc.
Con nhạn của Hoàng tử Thiện Hữu nuôi, con nhạn khôn ngoan mà hai vợ chồng Hoàng đế buộc tin và cho nó đi kiếm Hoàng tử, cũng bay đi đâu biền biệt.
Vợ chồng Hoàng đế La Xà sống trong sầu khổ cho tới hôm nay, có tin sứ giả Sư Bạc đến...
- Công chúa hạ thần kính dâng lên đại Hoàng đế lời vấn an cầu chúc.
- Có thế thôi?
- Và vấn an Hoàng tử Thiện Hữu.
Hoàng đế La Xà lại ngất đi. Sứ giả biết có điều lạ. Tìm dịp kín đáo, sứ giả gặp La Xà hỏi rõ những điều Sư Bạc dặn. Ông kết luận thầm kín:
- Nếu vậy thì chắc chắn người ấy là Hoàng tử Thiện Hữu rồi. Và có thể Ác Hữu đã hại anh mà lấy ngọc đem về.
- Ta cũng nghi như vậy?
Và La Xà hạ ngục ngay Hoàng tử Ác Hữu và cất kỹ viên ngọc Như Ý. Hôm sau cho người hoàng gia lên đường với sứ giả Sư Bạc.
Hoàng tử Ác Hữu khi bị bắt hạ ngục, chàng chỉ cười thầm:
- Việc thành rồi vậy!
Và mấy hôm nữa, dân chúng hoan hỷ tưng bừng đón rước Thiện Hữu như đón rước một ân nhân, hơn nữa, một người bạn.
Hoàng tử Thiện Hữu về với vợ giữa sự hoan lạc của dân chúng, sau ngày được tin cha mẹ, đúng vào ngày thứ bảy chàng nguyện với vợ. Dân chúng cảm động ứa nước mắt, thấy Hoàng tử đui mù vì mình. Thương tâm hơn nữa, khi họ thấy Hoàng tử vịn vay vợ đến ôm lấy cha mẹ, ba người mù khóc với nhau trong một lòng thương.
Và quay lại dân chúng theo vợ chỉ dẫn, chàng cầm nước mắt nói:
- Tôi không ngờ gặp lại được cha mẹ và bà con. Chí nguyện tôi đã đạt. Bà con sẽ no đủ. Chỉ tiếc rằng tôi không được cùng bà con sống trong ánh sáng. Nhưng tôi hoan hỷ. Lòng thương không cần ánh sáng mới gặp nhau. Bà con tạm về. Trong đời sống an lạc ngày mai, mong bà con gắng thương nhau và làm điều thiện.
Lời nói Hoàng tử, đúng hơn là lòng thương của Hoàng tử, lúc ấy đối với dân chúng, quả là đã cho họ mỗi người một viên ngọc Như Ý vậy.
Ðức Thế Tôn tự kể tiền thân của mình rồi bảo đại chúng:
- Các con! Ác Hữu là ai các con có biết không? Là Ðề Bà Ðạt Ða vậy. Nhưng các con đừng tưởng Ðề Bà Ðạt Ða là người ác. Ðời đời kiếp kiếp, ta nhờ thiện tri thức Ðề Bà, mà ngày nay thành Phật Ðà. Ðề Bà dùng nhiều phương tiện vi diệu, khiêu khích và tác thành cho ta phát bồ đề tâm, tu bồ tát hạnh và thành vô thượng giác. Này A Nan! Con hãy thay ta xuống địa ngục thăm Ðề Bà.
A Nan Tôn giả vâng lời, khi gặp ngài Ðề Bà, Tôn giả cung kính thưa:
- Ðức Thế Tôn kính lời thăm Ngài.
- Ðức Thế Tôn giáo hóa có dễ dàng không? Chúng sanh giác ngộ có nhiều không?
- Nhiều và rất dễ dàng.
- Thế là ta mãn nguyện.
- Ngài ở địa ngục có khổ lắm không?
- Người nhập Tam thiền có vui không?
- Vui nhất thế gian, một thứ vui thanh tịnh từ trong đến ngoài.
- Ta ở địa ngục như ở Tam thiền.
Phật dạy:
- Bồ tát đại sĩ dẫn tiến chúng sanh bằng đại phương tiện chịu đủ khổ sở lớn mà không thấy gì là khổ vui.
Và kết luận:
- Các con! Nhờ Thiện tri thức mà ta biết ân báo ân cha mẹ và chúng sanh, nhờ thiện tri thức mà ta độ chúng sanh thành Phật Ðà. Vậy các con phải biết ân báo ân của các vị thiện tri thức.
Chỉ có lòng thương chân chính.
Và rộng rãi mới cảm hóa được quần chúng.
Năm nay hai cô đã ngoài ba mươi tuổi. Chồng con chưa có. Tình yêu thì dang vỡ vài lần. Hiện tại cả hai đều làm thơ ký cho hãng thầu... gần phi trường Orly. Hai nàng mướn một căn "appartement" hai phòng gần Porte d’Italie khoảng ba ngàn quan (3.000 frs) một tháng. Tiền lương mỗi người cỡ bảy tám ngàn quan. Có chiếc xe Renault 5 cũ để làm chân. Cuộc sống hai cô tạm đủ.
Chiều nay giữa mùa Giáng Sinh, thời tiết bên ngoài buốt lạnh, tuyết rơi liên tiếp đã ba bốn ngày mà vẫn chưa ngừng. Phương đang dọn dẹp và lo cơm chiều dưới bếp. Loan hỏi :
- Phương ơi ! Đi ra khu Opéra với tao không ?
- Chi vậy ?
- Shoping !
- Thôi tốn tiền lắm ! Hơn nữa, tao không ưa đi trên tuyết. Mầy đi một mình đi. €, hay là mầy rủ chị Trang đi với mầy cho đỡ buồn.
Loan nguýt Phương một cái thật sắt bén, và nói :
- Tao muốn mầy đi với tao. Chớ tao đâu có muốn chị Trang đi.
- Tại sao vậy ?
- Chị ấy kỳ cục lắm ! Đi đâu chỉ cũng thử quần áo lung tung rồi liệng đầy tiệm người ta. Làm mấy cô bán hàng không ưa chút nào. Đi với chỉ tao mắc cỡ lắm mầy ơi !
- Thây kệ chỉ, người ta ghét chỉ chớ ai mà ghét mầy đâu mà mầy sợ.
- Chỉ còn làm cái kiểu nầy nữa chớ.
- Kiểu gì ?
- Nhiều khi mua đồ vài ba trăm quan, chỉ móc ra một cộc giấy 500, cỡ ba bốn ngàn. Tao thấy người ta nhìn chỉ một cách chẳng nể nang gì hết.
- ž, tại tánh chỉ khoe tiền, cho người ta tưởng chỉ giàu có. Mà có lẽ chị Trang giàu thiệt.
- Thôi, dẹp chuyện chị Trang đi. Nè, chắc chắn mầy không đi với tao hén ?
- Thôi mầy ơi ! Tao ngán tuyết quá.
- Đi xe hơi mà làm biếng, con nhỏ nầy thiệt à ! Mầy không đi thì tao đi một mình. Nhưng tao lấy mê-trô cho khỏi kẹt xe.
- Khôn đấy em ! Tao nấu cơm sẵn, chờ mầy về ăn luôn nha !
Loan cười cười, rồi nói :
- Nếu mầy thấy tao về trễ, thì mầy đừng đợi cơm... Ý, mà tối nay thứ bảy, tụi mình lại quán Cúc-Lan nghe nhạc và ăn ở đó luôn.
- ž, vậy thì tao dẹp đồ vô tủ lạnh. Mầy nhắc tao mới nhớ, nếu không thì tao quên lửng rồi. Quang và Minh có hẹn tao ở đó. Thôi mầy đi shoping lẹ đi rồi về sửa soạn đến đó chơi.
- Cha chả ! Hai khứa đó. Theo tao thấy anh Quang ưa mầy à.
- Con khỉ mốc ! Hắn ưa mầy là trúng hơn.
- Còn anh Minh ? Mầy ưa ảnh hả ?
- Hai anh, anh nào cũng hiền, mình làm bạn được. Hình nhưng anh Minh có chuyện gì với cô đào già của ảnh. Thôi, mầy đi đi, nói chuyện hoài trễ rồi đó.
- Được rồi ! OK. Tao đi nha.
Sau khi Loan đi rồi, Phương lo đi gội đầu cuốn tóc và trang điểm son phấn. Nàng lấy bộ Âu phục màu đỏ choét máng lên thành ghế, lấy đôi giày đen chùi sạch bóng. Thò tay bấm máy casette nghe nhạc Việt. Miệng nhái theo ca sĩ Sơn-Tuyền ca bài ‘’Ơn Nghĩa Sinh Thành’’. Nét mặt Phương vui tươi và rất lạc quan.
Đã hơn bảy giờ tối rồi mà Loan chưa về, Phương nghĩ : Con nhỏ nầy chắc mua hết khu Opéra sao mà về trễ vậy cà ?
Phương vừa nghĩ xong là Loan mở cửa vào. Phương hỏi :
- Mua được gì không mà xách hai ba xách vậy cô Nương ?
- Tao mua hai cái áo kim tuyến rẻ lắm. Nè, mầy một cái, tao một cái để đêm Noẽl và Tết Tây mặc chơi.
Loan mở ra đưa cho Phương, nàng nói :
- Thử cho tao coi có vừa không ?
Phương lấy mặc thử, nàng cười :
- Vừa quá. Cha, zézé dữ à ! Còn áo của mầy ra sao ?
- Giống hệt !
- Trời đất ơi ! Mầy muốn thành hai trẻ mồ côi hả ?
- Thì tụi mình mồ côi rồi ! Tao muốn hai đứa mình là hai chị em song thai.
Phương cười, và lắc đầu :
- Song thai ! Song thai, mà đứa trắng, đứa đen. Hi hi !
- Kệ, ai nghĩ sao cũng được ! Thôi, tao đi tắm và gội đầu nha !
- Lẹ đi chị Hai ơi !
- Có trễ thì cho mấy anh đợi chớ có gì mà mầy lo.
Loan và Phương sửa soạn và mặc đồ xong, rồi lấy xe phóng tới quán Cúc-Lan. Hai nàng vừa bước vô thì thấy Quang và Minh ngồi cái bàn bên trong và cả chục thực khách xung quanh đó. Mé ngoài, gần comptoire, có chị Tư Tâm ngồi một mình với cái ly và chai rượu vin Bordeaux. Loan và Phương ghẹo qua hỏi chào :
- Dạ, thưa chị Tư, chị khỏe chứ ?
Chị Tư Tâm bưng ly rượu lên hớp một ngụm nuốt cái ực rồi đưa ly lên, chị tươi cười và trả lời :
- Cám ơn hai em. Chị nhờ thứ này nên vẫn khỏe !
Phương hỏi :
- Chị có hẹn với ai không ?
- Không. Tụi em biết chị mà. Thường thường thì chị đi một mình.
Loan nhanh miệng :
- Vậy thì chị đến bàn của... tụi em trong kia.
- Trong kia ! Mà bàn nào ?
Loan tiếp :
- Bàn... anh Quang và anh Minh...
- Tụi em có hẹn với các cậu ấy, thì tụi em vô đó đi. Còn chị thì chị thích ngồi đây.
Tánh tình Phương điềm đạm hơn Loan, nàng nói với Loan :
- Chị Tâm thích ngồi ngoài này, vậy tụi mình ngồi chung với chỉ cho vui.
Loan hơi khựng...nhưng nàng gật đầu :
- OK. cũng được. Nè, mầy gọi anh Quang và anh Minh ra đây luôn đi Phương.
Ở bên trong Quang và Minh lắng tai nghe. Nên Loan vừa dứt lời, thì hai cậu bưng ly chai tới bàn. Hai cậu gật đầu chào chị Tư Tâm. Minh nhẹ giọng nói :
- Dạ, chào chị Tư ! Tụi em thấy chị ngồi một mình, tưởng chị chờ ai. Ai dè là hai cô này.
Chị Tư Tâm rút điếu thuốc... ghim vào đôi môi. Minh ga-lăn liền lấy hột quẹt châm lửa. Tư Tâm hít một hơi, phì khói ra và cười nói :
- Chị nào có hẹn ai đâu !
Quang hồn nhiên nói :
- Không hẹn mà họp lại như vầy là vui quá phải không chị ?
Cậu bồi đem hai cái ly ra để trên bàn, rồi hỏi :
- Hai cô uống Cognac hay Bordeaux ?
Vì Quang và Minh đang uống Cognac. Phương và Loan đều chỉ chai Cognac. Quang khoác tay bảo cậu bồi :
- Được rồi. Em để anh lo cho mấy chị...
Quang cảnh nhà hàng rất rộn rịp. Phía trong góc tiếng nhạc do nữ ca-nhạc-sĩ Tú-Anh vừa đệm đàn, vừa hát trổi lên làm áp tiếng nói chuyện của thực khách. Nhưng bàn của chị Tư Tâm ở ngoài, nên họ nói chuyện nghe rõ.
Đồ ăn hai bàn nhập lại. Cậu bồi bưng ra toàn là những món nhậu, nào là ếch muối tiêu, cua rang me, gỏi bò tái chanh, sò xào lá quế v.v... Những dĩa đồ ăn nóng bốc khói bay ra mùi thơm phức. Họ đang ăn nhậu, trò chuyện vui vẻ, thì bà Trang bước vô. Trang nhìn thấy Quang, Minh, Phương, Loan và chị Tư Tâm. Nhưng nàng giả đò như không thấy. Bèn đi thẳng phía bên trong kéo ghế ngồi cái bàn nhỏ, mà mắt nàng liếc ra bàn của chị Tư Tâm. Loan chợt nhìn thấy bà ta, Loan khều Phương và nói nhỏ :
- Ê, Phương ! Chị Trang kìa !
Minh đã thấy Trang, nhưng khi nghe Loan nói nho nhỏ với Phương cậu làm bộ hỏi :
- Bà Trang đâu. Vô mà sao anh không thấy ?
Chị Tư Tâm bưng ly ực một cái, rồi nói :
- Bộ điệu của bà ấy, coi như đang sùng ai bàn này đây chớ gì ! Chị thấy bà ta đi ngang liếc thật là sắt bén một cái rồi vô tuốt bên trong luôn.
Quang mỉm cười và nói :
- Sùng thằng Minh chớ ai.
Phương vọt miệng :
- A ha, th2009
Một vị bác sĩ, sau khi khám bệnh xong cho một em bé, nói với người nhà:
Bệnh tình của cháu nặng lắm!
Người bố sửng sốt kêu lên:
Ôi! Cháu mới bảy tuổi, đã biết yêu đương gì đâu mà mắc "Bệnh tình" hở bác sĩ!
Một vị tướng 4 sao hồi hưu tái ngộ với người cần vụ đã từng theo ông nhiều năm, nay cũng đã về vườn. Sau mục thăm hỏi, vị tướng đề nghị người cần vụ cũ đến làm việc tiếp cho mình:
- Công việc của cậu vẫn giống như khi còn ở sư đoàn thôi, không có gì thay đổi cả. Người lính cũ nhận lời. Bắt đầu ngày làm việc đầu tiên, đúng 8 giờ, anh lính già vào phòng ông tướng, mở toang cửa sổ, lay gọi thủ trưởng dậy. Sau đó thản nhiên vòng qua phía bên kia giường, vỗ mạnh vào mông bà tướng và nói:
- Sáng rồi cưng, dậy sửa soạn rồi rút lẹ đi, hôm khác lại tới.
2270
Một ông sống độc thân đến năm 55 tuổi mới cưới vợ. Bạn bè hỏi tại sao ông lại để lâu đến vậy, ông đáp:
- Tôi lấy vợ muộn là có lý do của nó. Nếu chẳng may vợ tôi là con người khó chịu thì tôi sẽ không phải chung sống lâu. Còn nếu nàng là người dễ thương thì công tôi chờ đợi bao nhiêu năm cũng... đáng đấy chứ!
1583