Đưa tay sửa lại gọng kính cận đang trệ xuống trên sóng mũi, Hoàng Uyên nhìn lên bảng đen, cố đọc những giòng chữ giáo sư Huân vừa viết. Chợt bắt gặp nụ cười nửa như thân thiện, nửa như tinh nghịch trên gương mặt Huân, cô ngượng ngùng chớp mắt, bối rối cúi nhanh xuống trang giấy đang ghi chép dở dang. Dù mặt nóng bừng, cô vẫn cố làm ra vẻ như chẳng hề thấy Huân đã cười làm quen với mình. Nửa giờ còn lại của môn Ngữ Học, Hoàng Uyên khó nhọc tìm cách tránh né tia nhìn đầm ấm của người giảng sư trẻ. Mỗi lần bắt gặp Huân nhìn, tim Uyên như lỗi mất một nhịp, tay chân luống cuống thừa thãi, cô như ngây ngất, như say say.



Người ngồi, kẻ đứng, đông nghẹt không còn cả lối đi trong Giảng Đường II của Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Ngồi thu gọn trong chiếc ghế bìa của dãy ghế đầu tiên, Hoàng Uyên thầm cám ơn người bạn đã chịu khó dậy thật sớm đến giữ chỗ cho cô. Trong lúc sinh viên đang ghi vội lời giảng của cha Thanh Lãng thì Hoàng Uyên ngồi mơ mộng. Dù Văn Chương Quốc Âm là môn cô rất thích, nhưng nụ cười và ánh mắt của Huân cứ ám ảnh cô cả mấy hôm nay. Hoàng Uyên thật sự xúc động khi nhớ lại ánh mắt và nụ cười của giáo sư Huân. Cái nhìn trìu mến, ấm áp nhưng lại có vẻ tinh nghịch cùng với nụ cười đầm ấm nhưng không kém phần phá phách của Huân đã làm cô mềm lòng. Hoàng Uyên không thể chú tâm vào những lời giảng của cha Thanh Lãng được nữa. Hình ảnh của Huân không bao giờ chịu rời cô....



Một dáng dấp quen thuộc lướt qua ngoài hành lang, trong giảng đường, tim Hoàng Uyên đập mạnh. “Vậy là “chàng” có giờ dạy hôm nay ...,” cô thầm nghĩ và mong cho mau hết giờ...



 *



- Hoàng Uyên đến phòng giáo sư một tí được không?

Giật mình khi nghe tiếng nói quen thuộc sau lưng, Hoàng Uyên nắm chặt thành lan can hơn, quay đầu lại, bối rối chớp mắt, rồi gật đầu và đi theo Huân xuống cầu thang.

Hoàng Uyên ngại ngùng nhìn quanh căn phòng giải lao của giáo sư, thầy Trụ đang ngồi đọc sách nơi góc phòng, nghe tiếng động, ngước mắt lên nhìn, cô khoanh tay chào, ông mỉm cười, xong lại cúi xuống trang sách đang đọc dở. Huân lên tiếng trong lúc Hoàng Uyên đang lúng túng:

- Mời Hoàng Uyên ngồi.

- Dạ... đây là bàn ghế của thầy cô ...

- Không sao đâu, hôm nay Hoàng Uyên là khách của tôi mà. Ngồi đi, đứng hoài mỏi chân đó.

Kéo chiếc ghế đối diện với Hoàng Uyên, Huân ngồi xuống, hỏi:

- Bài hôm trước có gì khó hiểu không mà thấy Uyên bối rối vậy ?

Chớp mắt với một chút ngượng ngùng, Hoàng Uyên đáp khẽ:

- Dạ, con hơi thắc mắc một chút xíu.

- Tôi hứa sẽ giải đáp tất cả những thắc mắc của Uyên.

Hoàng Uyên ngập ngừng:

- Thầy bảo; Ngôn Ngữ Việt Nam là độc âm, nhưng con thấy có chữ “Doanh” đọc như là hai âm riêng biệt là “Do” và “Anh” Mình đọc nhanh thành “doanh”

Huân cười tinh nghịch:

- Do Anh! Tức là Tùy Anh, cái gì cũng do anh quyết định. Anh nào mà may mắn vậy?

Hoàng Uyên phụng phịu, cúi đầu không nói. Huân lại cười:

- Đùa với Uyên cho vui thôi, thật ra Uyên nói rất có lý nhưng như thế này nhé: O,A,N,H chỉ là một âm “oanh” thôi, khi có phụ âm D đi trước thì đọc thành Doanh, và nếu cho phụ âm T vào thì đọc thành Toanh, như mới toanh đó.

Nhìn sâu vào mắt Uyên, Huân tiếp:

- Hoàng Uyên còn thắc mắc gì nữa không?

- Dạ không.

Thấy Hoàng Uyên bối rối, ngượng ngùng, Huân rủ:

- Uyên khát nước không ? Mình đi uống nước nhé?

Hoàng Uyên lại ngập ngừng:

- Dạ thôi.

- Thôi là sao?

- Dạ, là không đi uống nước.

- Tại sao?

- Dạ, sợ bạn thấy.

Huân cười lớn, rồi hỏi:

- Uyên mấy tuổi rồi?

Hoàng Uyên ngạc nhiên:

- Thầy hỏi làm gì vậy?

- Hỏi cho có hỏi thôi, chớ tôi biết Hoàng Uyên 19 tuổi rồi.

Tròn mắt, Hoàng Uyên ngạc nhiên:

- Sao thầy biết vậy?

Lắc đầu, làm ra vẻ khó khăn, Huân cười cười:

- Bí mật, bí mật. Hoàng Uyên chịu đi uống nước rồi tôi kể cho nghe.

Hoàng Uyên tinh nghịch hỏi lại:

- Thầy dụ học trò hả?

- Ừ,

- Nhưng Thầy hỏi tuổi của Uyên làm gì vậy?

- Để nhắc cho Hoàng Uyên nhớ là Hoàng Uyên người lớn rồi, không cần phải ngại ngùng, sợ bạn bè bàn tán nữa.

- Mẹ vẫn gọi con là Bé Uyên mà.

- Vậy thì “Thầy” mời “Bé Uyên” đi uống nước.

- Sợ Mẹ mắng quá!

- “Thầy” không mách Mẹ đâu.



*



Kéo cái ví từ trong túi quần ra, Huân mở từ từ rồi đưa ra trước mặt Hoàng Uyên một tấm hình đen trắng, hỏi:

- Hoàng Uyên biết hình ai không?

Giật mình, lúng túng, Hoàng Uyên bối rối:

- Ủa! Hình của con mà. Sao thầy lại có?

Nhìn sâu vào mắt Uyên, Huân cười:

- Hình của người yêu tôi mà.

Hoàng Uyên đỏ mặt:

- Sao ... sao... giống y hình của con vậy?

Huân ngập ngừng:

- Đùa với Hoàng Uyên thôi, hình này tôi xin được đó.

- Thầy xin ở đâu? Ngoài tiệm hình hả?

- Không, tôi xuống văn phòng, xin coi hồ sơ của sinh viên chứng chỉ Ngữ Học. Thấy trong hồ sơ của Uyên có dư tấm hình, tôi lén lấy.

Hoàng Uyên thảng thốt:

- Vậy là Thầy biết hết “tung tích” của con?

- Xin lỗi Hoàng Uyên nha. Tại tôi có cô sinh viên nhỏ nhắn dễ thương quá nên tôi phải “làm bậy”.

Hoàng Uyên năn nỉ:

- Thầy trả lại hình cho con được không?

- Được chứ, nhưng phải với một điều kiện.

- Điều kiện gì?

- Uyên cho tôi tấm hình khác.

Hoàng Uyên phụng phịu:

- Thầy khôn quá!

Huân đưa tay khuấy nhẹ ly chanh đường của Uyên, hối:

- Uyên uống nước đi, đá tan hết rồi.

Nhìn Uyên từ từ uống nước, Huân hát khẽ:

- ... Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt....



*



Dắt Hoàng Uyên chen qua khỏi khu bán Quất, trên Đại lộ Nguyễn Huệ đầy người vào những ngày cận Tết, Huân xiết nhẹ tay nàng, hỏi:

- Uyên thích Mai hay Đào?

- Hoa nào cũng đẹp, Em thích cả hai.

Huân cười, khen:

- Bé Uyên ngoan quá! Chịu bỏ chữ “con” rồi.

Uyên hích nhẹ tay vào bụng chàng. Huân cười lớn hơn rồi tiếp:

- Vậy đi xem Đào trước nhé? Nếu có cành nào đẹp, mình mua về biếu bố em.

Cầm một cành Anh Đào với đầy những nụ hoa tròn xoe nhưng chưa nở, Huân hỏi người bán hàng:

- Cành này nở kịp Tết không?

- Chắc chắn kịp chứ, tôi bảo đảm hoa sẽ nở đúng ngày Mùng Một Tết.

Huân đùa với bà bán hàng:

- Tôi mua cành hoa này để cưới vợ đó. Hoa mà không nở đúng Tết là tôi không được vợ, tôi bắt thường bà đó à nha.

Bà bán hàng quay qua
nhìn Uyên, rồi cười với Huân:

- Anh cưới cô này hả?

- Bà hỏi giùm tôi coi cổ có chịu không?

Uyên đỏ mặt, quay đi nơi khác. Anh kỳ cục, khi không đi nhờ bà bán hàng hỏi. Sao không hỏi thẳng em. Nghĩ vậy, nhưng Uyên không biết nếu Huân hỏi thì nàng sẽ phải trả lời làm sao.



Cơn gió lành lạnh từ bờ sông thổi nhẹ làm Uyên đi sát vào Huân hơn. Huân vòng tay ôm vai nàng, kéo nhẹ Uyên vào lòng. Mùi hương từ mái tóc dài của Uyên làm Huân ngây ngất. Anh muốn hỏi cô có chịu làm vợ anh không, anh muốn hỏi cô có muốn làm Mẹ những đứa con của anh không... Từ lúc mua xong cành Đào, Uyên im lặng chưa nói gì, không biết nàng nghĩ gì về câu nói đùa của mình với bà bán hàng mà im ru như vậy. Huân muốn dành ngạc nhiên cho Uyên, anh định khi đến thăm gia đình Uyên ngày đầu năm, anh sẽ ngỏ lời với Uyên bên cành Đào rộ nở. Với Huân, mùa Xuân là mùa của hạnh phúc, của hy vọng, nên dù quen Uyên được vài tháng nay, anh vẫn chưa đề cập đến chuyện tương lai của hai đứa. Không khí Tết làm Huân nôn nao, anh muốn ngỏ lời ngay với cô nhưng cố kìm lại để chờ cho đến ngày đầu năm.



Phải đợi đến ngày mùng ba Tết, cành đào mới chịu nở rộ trong góc căn phòng khách nhà Uyên. Khi Huân ngỏ lời, Uyên đã luống cuống ngượng ngùng, nhưng hạnh phúc gật đầu và cả hai cùng đồng ý đến mùa Hè, Huân sẽ xin làm đám hỏi.



*



Gởi được chiếc Yamaha, cầm thẻ biên nhận xong, Hoàng Uyên chấm vội vài giọt mồ hôi đang chảy xuống bên má, rồi đi nhanh vào sân trường. Cây phượng đỏ năm nay trổ hoa hơi sớm, chưa đến tháng năm mà xác phượng đã đầy sân. Mọi người tụm năm, tụm bảy bàn chuyện thời cuộc. Quảng Trị thất thủ, Huế sôi động, Đà Nẵng xôn xao ... không ai còn tâm trí lo đến việc học bài cho khóa thi gần kề.



Vừa bước chân lên cầu thang, Uyên đã thấy cô em gái của Huân đứng tựa lưng vào hành lang. Uyên ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, Huyền đi đâu đây?

- Em đi kiếm chị. Anh Huân dặn em sáng nay phải mang gói này đến trường cho chị.

- Uyên tưởng anh Huân có lớp hôm nay mà.

- Có, nhưng anh nhờ thầy Trụ dạy thế. Anh đi Huế hai bữa nay rồi.

Hoàng Uyên sững sờ:

- Đi từ hôm nào? Sao Uyên không biết?

- Anh Huân giấu chị vì sợ chị lo. Anh phải ra Huế đón Me. Anh sợ Huế mất, Me sẽ bị kẹt một mình. Anh dặn em nếu anh không về kịp sinh nhật chị, em phải đem quà đến cho chị đúng ngày.

Chớp nhẹ mắt, Huyền tiếp:

- Em mừng sinh nhật chị.

Đưa tay nhận gói quà, lòng Hoàng Uyên rối bời, nước mắt bỗng dưng lăn dài trên má. Sinh nhật thứ hai mươi! Tưởng năm nay sinh nhật đầu tiên có chàng. Mấy hôm rồi cô dồn hết thì giờ để học bài thi, mong hôm nay rảnh rang chút xíu để dung dăng dung dẻ với chàng ...

Tuần trước Huân đến nhà, bảo em cố học thi đi nha, thời cuộc tuy có rối reng nhưng có lẽ không sao đâu, anh sẽ ít tới chơi để em có thì giờ học thi. Nhớ học môn Ngữ Học đàng hoàng, được nhất lớp, anh sẽ thưởng...



Hoàng Uyên thương yêu!

Chúc em một sinh nhật bình an. Khi anh về sẽ đền em.

Cho anh xin lỗi đã không nói với em về chuyến đi.

Anh sợ em lo quá không học bài được.

Anh đón Me vào rồi tính đến chuyện chúng mình.

Huân




Dòng chữ nghiêng nghiêng của Huân mờ hẳn mỗi lần Uyên cầm tấm thiệp lên đọc lại. Màn ảnh vô tuyến truyền hình đưa tin Huế thất thủ, rồi đến Đà Nẵng cũng đầu hàng. Người người chen nhau tìm đường vào Nam. Máy bay không còn cất cánh, chỉ còn đường bộ, đường thủy... Dân Sàigòn náo loạn, Hoàng Uyên đi ra đi vào như người mất hồn. Huân vẫn bặt tăm...



Những giây phút cuối của tháng Tư, Hoàng Uyên đành phải theo gia đình. Cô không muốn rời khỏi căn nhà vì tin rằng Huân sẽ đến tìm. Làm sao bỏ đi khi tin Huân chưa có? Làm sao dứt được mối tình đầu vừa mới đến? Xin ba mẹ cho ở lại chờ Huân, Mẹ khóc nói nếu Uyên ở lại chờ Huân thì cả nhà cùng chờ...



*



Leo được lên chiếc xe bus đầy người, Hoàng Uyên ngồi xuống chiếc ghế trống gần bác tài xế, cô tháo bớt khăn quàng cổ ra, bao quanh hai bàn tay lạnh ngắt. Nhắm mắt lại, cô nghĩ đến những năm vừa đi học, vừa đi làm giúp bố mẹ nuôi các em nơi thành phố nhỏ này. Nhờ bận rộn, cô bớt suy nghĩ đến chuyện ngày xưa.



Đã sáu năm rồi, tin Huân vẫn biền biệt. Những ngày cô đơn một mình đến trường, đã bao lần Uyên thầm khóc vì nhớ Huân. Nhớ lại lời cầu hôn năm nào của Huân bên cành đào ngày Tết. Nhớ lại những lần cùng chàng đi uống nước rồi được nghe chàng hát “trả lại em yêu.” Những lần cùng Huân, tay trong tay đi dưới những hàng me trên đường Pasteur, nghe chàng hát “con đường tình ta đi”... Nhưng thích nhất, vẫn là khi nhìn Huân khuấy tan đường cho ly nước chanh của cô và tình tứ hát “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt...”



Sáu năm nay, mỗi lần Tết đến, Hoàng Uyên đều nghỉ học vào ngày Mùng Ba. Ở nhà một mình, nàng nhớ Huân quay quắt, không biết bây giờ anh đang ở đâu. Không biết đến bao giờ mình mới lại gặp nhau, không biết anh có còn nhớ tới em không, không biết ..., không biết ...



Cơn bão tuyết đầu tháng hai làm đường xá vắng người qua lại. Tin thời tiết cho biết tối nay sẽ có thêm mười inches tuyết nữa sẽ rơi. Co ro trong chiếc áo khoác rộng thùng, Hoàng Uyên ra mở cửa khi nghe tiếng chuông. Người đưa thư cười tươi với cô, rồi trao cho Uyên một tập thư dầy. Cô đưa tặng ông một bao lì xì màu đỏ. Ông nói cám ơn và chúc cô một năm mới hạnh phúc. Hoàng Uyên cám ơn người đưa thư nhưng thầm nghĩ làm sao mà hạnh phúc được khi bên mình không có Huân.



Nhéo vào chân thật đau, để biết mình đang không nằm mơ, Uyên đọc lại những giòng chữ quen thuộc:



Hoàng Uyên ơi

Anh và Me vừa tới Pháp được mấy tuần nay.

Nhờ hội Hồng Thập Tự anh tìm được địa chỉ của em.

Hơn sáu năm rồi, anh không biết bây giờ em thế nào.

Anh vẫn như ngày xưa. Huyền đã lập gia đình ...

...

Nếu em đã có gia đình thì anh không trách em đâu.

Nếu em vẫn còn chờ anh, thì số điện thoại của anh đây ...

...

Huân




Hoàng Uyên chạy nhanh đến bên chiếc điện thoại, run run, tay cô bấm số...

Mùa Xuân thật sự đã đến, dù bên ngoài tuyết đang rơi ...

1056





Một người đàn ông mù đi trên phố, được con chó dẫn đường. Đến khi cần sang đường, con chó không biết phân biệt đèn đỏ đã dẫn người đàn ông đi lạc giữa dòng xe cộ nườm nượp.

Rất may là có một người đã chạy ra và kéo cả người mù lẫn con chó của anh ta lên hè. Lên đến nơi, người mù thong thả móc chiếc bánh trong túi mình ra và đút cho con chó. Người kia thấy vậy rất ngạc nhiên và hỏi: “Tại sao anh lại thưởng cho con chó sau khi nó đã suýt giết chết anh như thế?"

Người mù liền trả lời: “Trước khi tôi có thể sút vào mông nó thì cần phải xác định được chính xác đầu nó ở đâu chứ”.

2024




Khí hậu Texas cũng di truyền được giòng máu ngang tàng hoang dại của những chàng cao bồi ngổ ngáo miền Tây thuở nào, nên đôi khi đang nắng thiêu đốt, chợt sấm sét nổi vang lừng, rồi thì mưa ồ ạt tràn ngập lụt lội đường xá, cuốn phăng xe cộ, nhà cửa, cầu kỳ… Mưa bão lụt lội Texas gây tai họa hơn cả những cơn động đất dữ dằn tại tiểu bang California, thế nhưng thím Mít lại cảm tình với giông bão chốn nầy. Xuyên qua màn nước trắng xóa, thím mường tượng ra hình ảnh cây dừa, cây cau ngả nghiêng đẩm mình trong cơn mưa đầu mùa tại quê hương yêu dấu. Ngồi trong câu lạc bộ, bao quanh bởi đồng nghiệp Việt, nói nghe tiếng mẹ, quan sát cơn mưa rào, thím cảm thấy mát mẻ, an ổn như đang sống tại quê nhà.

- Chị Mít ạ ! có chuyện gì mà con Sue rối rít chạy theo xin lỗi chị hoài vậy?, Thủy lên tiếng.

- Ơ ! nó giỡn mặt gọi tôi là "banana" chứ !

- Sao chị không " giũa" cho nó một trận !

- Dĩ nhiên là có ! Tôi nổi sùng gây : " Tên tao là Mít, đánh vần là M, I, T. Mít là jackfruit trong ngoài đều vàng lườm cả. Tao là thứ Á đông tự hào về màu da vàng, chớ chẳng phải là hạng mất gốc ham hố màu da trắng đâu ! Đừng giở giọng kỳ thị với tao !. Con Sue xin lỗi, đính chánh mãi là nó chỉ cà rỡn không hậu ý kỳ thị, nhưng ai tin được nó !

Trên nguyên tắc, thì không có vấn đề kỳ thị chủng tộc lộ liễu trong xí nghiệp, nhưng ai ngăn nỗi chuyện ngấm ngầm, nhứt là từ trong đám thiểu số xô bồ nảy sanh ra lắm kẻ " cà chớn" vô nhân cách. Hiện tượng thấy rõ trong giờ giải lao tại câu lạc bộ là dân tộc nào quây quần theo dân tộc nấy : Mỹ trắng tán gẫu với Mỹ trắng, Mỹ đen tụ tập với Mỹ đen, Mễ quấn quít Mễ và Việt Nam cũng xúm xít bên nhau để kháo ba điều bốn chuyện. Dĩ nhiên, gần gũi với người cùng chủng tộc, ai cũng cảm thấy hòa hợp và thoải mái hơn, huống chi sau những giây phút căng thẳng thần kinh, bắt buộc phải nghe, phải nói tiếng nước người rắc rối, nhóm tị nạn tung tăng hội nhập với môi trường tiếng mẹ, sung sướng an lành như được tự do lặn hụp trong giòng nước mát. Trường hợp nàng " Mary Chuối" là một ngoại lệ. Tuy là người Việt chính cống, nhưng nàng chỉ muốn biến hóa thành trắng. Nàng sửa mũi cho cao, lột da mặt cho trắng, nhuộm tóc vàng óng ả, mang kính sát tròng mắt màu xanh… để tạo lốt Mỹ, và do đó, học đòi nói toàn tiếng Mỹ, lắng quắng chạy theo người Mỹ. Nàng lơ là tránh né người đồng hương, nên chẳng mấy ai thích dây dưa với nàng. Bọn Mỹ gán cho nàng biệt danh là " Mary Banana" , tên Mỹ rặt nầy dĩ nhiên thời trang hơn cái tên cúng cơm Vũ Thị Gái khiến nàng tỏ ra vô cùng hãnh diện. Tên " Mary Chuối" phát xuất từ đó, chứ không ai có ác ý gợi đến gánh hàng rong chuối chiên, chuối nấu của nàng tại ngã ba Ông Tạ ngày nào. Chữ " banana" , nguyên là một trong những tiếng lóng (1) mà người Mỹ dành cho dân Á đông : " Chink" và " Nip" vì chúng nhìn bọn da vàng nào cũng thành người Trung Hoa hay Nhật; "Slope" để chỉ chung cho đám mắt xếch; gọi " Guke" để chê bai hạng ngọng nghệu cù lần. Banana là trái chuối màu vàng, lột vỏ trắng tươi, nên gọi là " Banana" nhằm biếm nhẽ thứ da vàng mất gốc đua đòi Mỹ hóa mong lột xác thành trắng. Thấy công khai khinh lờn giỡn mặt mà Mary Chuối vẫn lóc cóc chạy theo, Sue nổi hứng ghẹo đến Mít không ngờ lại bị phản ứng khá mạnh.

Tránh nhắc nhở lại câu chuyện bực mình, Mít hỏi bâng quơ :

- Mưa Texas có nét tương đồng với cơn mưa tầm tã nước mình phải không các chị ?

- Đúng vậy ! thuở ấu thơ mà được mưa to như thế nầy tắm vui biết mấy ! tranh dành được chỗ máng xối, nước đổ ào ào như thác chảy hấp dẫn làm sao ấy !, Thanh lên tiếng.

Thủy góp ý :

- Với em, tiếng mưa rơi là điệp khúc buồn khôn nguôi ! Có lẽ em chịu ảnh hưởng của bà già ! Thấy trời mưa là mẹ rưng rưng nước mắt. Quê ngoại gần xịch, cách có giòng sông Hậu, mà bà cứ than thở "thân phận lấy chồng xa xứ" nhớ nhà, nhớ quê ! Bà thường áo não cất tiếng ru :

Chim đa đa, đậu ở cành đa
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa
Nhỡ sau cha yếu, mẹ già
Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng ?

- Có gì lạ đâu ! thuở xưa đường giao thông trắc trở, chỉ có người đàn ông thỉnh thoảng còn đi đó đi đây, chớ người đàn bà luôn luôn an phận lúc thúc trong nhà. Lấy chồng xa, đã bước ra đi thì coi như vĩnh biệt, chẳng có ngày về !, Mít giải thích.

Tuổi càng lớn càng nhớ quê hương " kịch liệt" , Bác Tám nghe lóm đám đàn bà tán chuyện thấm thía nỗi niềm riêng, bùi ngùi chen vào :

- Ơ ! thân phận tị nạn của chúng mình, đàn ông hay đàn bà gì, thì cũng chẳng khác thân phận người đàn bà lấy chồng xa xứ ngày xưa bao nhiêu ? Khi vượt biên là đã đứt đoạn đường về, đâu còn dịp nhìn lại cha mẹ, họ hàng, xóm làng, bè bạn… nữa. Ôi !…

Bác Tám cất giọng lâm ly như sắp vô sáu câu vọng cổ hoài lang, chợt thắng đứng lại, khi thấy nàng Mary Chuối lừng khừng bước đến. Sự hiện diện của nàng Mỹ lai căng nầy quá đỗi lạ lùng, khiến cả bọn ngạc nhiên nghi ngại, nên ai cũng dè dặt lặng yên chờ đợi.

Mary Chuối xề đến ghế trống cạnh Mít, ngập ngừng lên tiếng :

- Em xin phép ngồi đây góp chuyện với các chị nhé !

" Ối giời" , Mít thầm nghĩ, " Mụ nầy chịu nói tiếng Việt quả là chuyện động trời ! thảo nào mà mưa gió bão bùng ngoài kia ! Hay là mụ ta định dò thám vụ đụng độ của mình với con Sue chớ gì" . Mít hơi khó chịu nhưng vẫn nhỏ nhẹ mời mọc :

- Xin chị cứ tự nhiên !

Trước thái độ lạnh nhạt của mọi người, Mary Chuối khép nép ngồi xuống rồi ngượng ngập mở lời :

- Em có chuyện rối lòng, rất mong được thỉnh ý quý chị !

- Sao không vấn kế các bà Mỹ, nước non chữ nghĩa của họ, họ rành rẽ, chớ bọn nầy khù khờ đâu biết gì !, Thanh mỉa mai.

- Lòng dạ người Mỹ khác người mình mấy chị à ! Họ đâu có thể cảm thông nỗi đau khổ của em ! Số là mấy ngày trước, sau bữa tiệc rộn rịp mừng sanh nhựt thứ mười tám của con gái em, thì nó liền bỏ học, rồi cuốn gói theo thằng bạn trai sống công khai như vợ chồng. Em khuyên răn, năn nỉ, dọa nạt, ngăn cản nó bằng đủ mọi cách đều không hiệu quả, vì nó khăng khăng cho rằng nó đã thành niên nên được tự do định đoạt số phận của nó… Em than thở và nhờ đám bạn Mỹ liệu kế giúp đỡ, mà tụi nó chỉ bàn chuyện ăn trớt gì đâu không hà ! Con Sophia cười hô hố: " Mầy khờ khạo quá ! Nó dọn đi mầy vừa đỡ tốn hao lại được tự do bằng thích mà phàn nàn nỗi gì ! Con tao đúng mười tám tuổi, không ra khỏi nhà tự lo thân thì tao cũng đá đít đuổi đi tức khắc…" . Con Wendy bĩu môi chê : " Đầu óc mầy lạc hậu quá, con nít nó cũng có quyền tự do của nó chớ !" . Con Laura thì ra giọng dạy đời : " Ôi ! đừng thèm nuôi con nít làm gì ! Tụi nó phá phách, đòi hỏi đủ điều, tốn hao phiền muộn cho chúng rồi chúng cũng phản phé bỏ mình đi mất. Bởi vậy tao khoái nuôi chó với mèo, nó ở mãi với mình, trung thành với mình, mà chẳng tốn kém là bao !…" . Các chị cũng có con cái, các chị có kinh nghiệm gì chỉ dẫn em thể thức nhờ Cảnh Sát hay Tòa án đem con em về, chớ để nó sống đói rách với thằng bồ đó em điên mà chết…

Từ lâu, người ngợm Mary Chuối là một hiện tượng quái đản, một mụt nhọt nhức nhối cộng đồng Việt nhỏ bé tại xí nghiệp nầy. Mít thầm khinh khi và xa lánh con người mất gốc đó. Bất ngờ, trong con người tưởng chừng như không còn một chút xíu gì là Việt Nam đó, khi thương con, lo lắng cho con thì cũng tràn trề tình mẹ, như bất cứ người mẹ Việt Nam nào khác. Cảm thông với người mẹ khổ đau, Mít dịu dàng an ủi :

- Chi ạ ! sống ở xứ nầy, chị em mình ai mà chẳng bạc đầu vì con ! Em chỉ có thằng con trai mà cũng điêu đứng nghẹt thở với nó !

Xây qua Thanh và Thủy, Mít tiếp lời :

- Hai chị đều có con gái, đã có kinh nghiệm đầy người, sao không góp ý giúp chị Mary đi !

- Luật lệ nước nầy qui định mười tám tuổi là đã thành niên, tự do chọn nếp sống, nên theo nguyên tắc thì chị không thể ngăn cản con chị ra riêng được. Chị chỉ có phương cách duy nhất là năn nỉ, giải thích cho nó hiểu để nó tự động về nhà mà thôi !, Thanh lên tiếng.

- Ôi ! em đã năn nỉ đủ mọi cách mà nó vẫn cương quyết bỏ học theo thằng đó, hai đứa đi làm bồi bàn sống bữa đói bữa no, thế mới đau xót chớ !

- Theo tôi thì mình phải hướng dẫn, răn dạy chúng từ lúc chúng còn nhỏ kia, chớ đợi đến lúc nầy thì khó lắm !, Thủy góp ý.

- Em cũng muốn dạy bảo chúng nó chớ ! nhưng nói tiếng Việt thì chúng ngẩn ngơ, còn mới sử dụng một câu tiếng Mỹ thì chúng đã ào ào viện dẫn đủ mọi lý lẽ, em không hiểu nỗi thì còn tranh cãi gì với chúng được ! Có một lần bố chúng nổi nóng, vừa dợm cầm roi thì chúng đã chụp điện thoại đe sẽ gọi cảnh sát 911, nên đâu còn dám hó hé gì nữa !

Bác Tám già lại chen vào bàn chuyện với đám đàn bà :

- Thật ra, mình phải thấy cái nguyên nhân sâu xa kìa ! Lũ con cháu chúng mình, phải sử dụng hơn hai phần ba thời giờ, sống trong môi trường Mỹ, học hành, sinh hoạt, tiếp xúc thầy bạn… Mỹ, nên đương nhiên chúng phải tiếp nhận nền văn hóa xứ người; đó là việc không tránh được ! Vấn đề của chúng mình là làm sao vạch rõ chúng thấy văn hóa Việt Nam mình có những điểm cao quý như tình gia đình, lễ nghĩa, hiếu kính… phải gìn giữ, và ngoài ra, tuy cũng cần hội nhập văn hóa xứ người, nhưng phải biết tránh tiêm nhiễm thói hư tật xấu của họ…

Mỗi người nói một câu, tuy không ai trực tiếp giải quyết điều gì, nhưng được mọi người quan tâm chia xẻ nên Mary có lẽ cũng nguôi ngoai nỗi niềm đau. Giờ giải lao chấm dứt, thợ thuyền kéo nhau trở lại cơ xưởng làm việc. Mít đi sát bên Mary, khẽ an ủi :

- Cháu nó đi bụi đời một thời gian, nếm chút đau khổ thì mới biết thương mái ấm gia đình, chừng đó, cháu sẽ quay về với chị, chị đừng buồn lo lắm ! Mà ở xứ nầy, đâu ai coi chuyện trinh tiết là quan trọng ! Chị thương yêu chăm sóc thì cháu sẽ làm lại cuộc đời tốt đẹp chớ chẳng có điều gì nguy hại lắm đâu !


*
* *

Tan sở ra về, trời tiếp tục mưa to, nhưng Mít vẫn cương quyết lái xe đi xa hằng mươi dậm đến chợ Việt Nam mua vài món gia vị đặc biệt, chuẩn bị những bữa cơm đón đứa con trai học Đại Học Austin, về nhà sum họp trong mấy ngày lễ Tạ Ơn. Suốt ngày làm việc cực nhọc, lại lái xe đường xa, thời tiết cực kỳ nguy hiểm, nên khi về đến nhà Mít đã mệt nhoài. Tuy nhiên, vừa tưởng tượng đến vẻ mặt thích thú của thằng con khi thưởng thức món ăn khoái khẩu, lòng Mít rộn ràng sung sướng, thím tung tăng xách giỏ thực phẩm nặng trĩu vào nhà, tíu tít hỏi han chồng để che dấu nỗi mỏi mệt, rồi phóng ngay vào bếp, lăng xăng nấu nướng. Mít vẫn trung thành với truyền thống của người mẹ Việt Nam ngàn đời, là luôn luôn gói ghém tình thương ngọt ngào của mình cho chồng con qua việc tận tình chăm sóc những bữa ăn tươm tất. Thằng bé lớn lên xứ người, nhưng Mít vẫn cố gắng dạy con sống theo nề nếp dân Việt, nói tiếng Việt, cũng như tập cho con ghiền thức ăn thuần túy Việt. Ghiền món ăn của mẹ, thì dẫu già đời, đứa con cũng thích quay về nhà, nếm hương vị ngày xưa, chớ không xa lìa biền biệt như con cái xứ người. Chính vì vậy, Mít đã đón con bằng một nồi " mắm sặc và rau" , một món ăn quê mùa rẻ rề xứ mình nhưng lại cầu kỳ rắc rối tại xứ người.

Cơm nước chuẩn bị sắp xong vẫn chưa thấy con về, thím Mít bồn chồn trông ngóng. Thím luống cuống hỏi chồng :

- Anh Năm ơi ! Sao đến giờ nầy mà thằng Sơn chưa về ?

- Ơ ! có gì đáng lo lắng đâu ! thời tiết xấu nên nó về trễ một chút vậy thôi !

Mít chợt nghe đau nhói ở ngực, ngột ngạt xuýt khuỵu xuống, khi nghĩ đến điều gỡ có thể xảy đến cho con trên xa lộ hiểm nghèo. Cơn đau của thím vụt tan biến, khi có tiếng chân bước rầm rập, rồi thằng bé phóng vào mang theo niềm vui rộn rịp cho cả nhà. Thằng bé reo vang khi nghe mùi vị mắm quen thuộc. Sơn tíu tít kể chuyện, vừa phụ giúp mẹ dọn bàn. Thế rồi, cha con chồng vợ, sau mấy tháng mới có dịp kề cận bên nhau trò chuyện, vừa thưởng thức bữa cơm gia đình ấm cúng và tràn đầy hạnh phúc. Nhìn cảnh hai cha con tận tình chiếu cố món ăn khoái khẩu, mà người nội trợ mát lòng mát dạ. Cùng ngồi ăn, nhưng thím chỉ nhai và nuốt. Bao nhiêu tâm trí thím đều đổ dồn cho con, thím say sưa thưởng thức con, như một người nghệ sĩ thưởng thức danh tác của họ. Tác phẩm của thím toàn bích, từ dung mạo cho đến tánh tình, từ chuyện học hành đến chuyện chơi đùa… chuyện gì cũng khiến thím hỉ hả hãnh diện trong lòng.

- Má ơi ! má !…, thằng bé đã đớt gọi mẹ.

Mít vẫn thích thú được con nhỏng nhẻo, dẫu cho đến ngày đứa con biến thành cụ già. Thím xây qua bẹo càm con, ngọt ngào lên tiếng :

- Gì đó con trai cưng !

- Ơ ! con Pat nó muốn đến nhà mình chơi ngày mai !

Mít giật nẩy người như đĩa chạm phải vôi. Thím hơi sẵng giọng :

Con Pat nào ? Phải con tóc vàng, miệng rộng… đến nhà chào má một cái, rồi phóng tuốt vào phòng con đóng cửa kín mít phải không ?

Sơn bẻn lẻn :

- Dạ !… con gái xứ nầy mà má. Đứa nào cũng tự nhiên, bạo dạn như vậy cả. Mấy đứa Việt Nam như Lyly, Mimi… đến nhà mình cũng chui vào phòng con kia mà !

Dĩ nhiên Mít dư biết điều đó, nhưng linh tính đàn bà báo cho thím biết nguy cơ ngấm ngầm bắt nguồn từ cô gái Mỹ nầy, nên thím đã phải lưu ý từng chi tiết.

- Ừa ! đến chơi thì đến ! mà việc gì phải xin phép ba má !

- Ơ ! tụi con thương nhau…, tính chuyện thiệt tình, nên nó muốn con giới thiệu ba má…

Viễn ảnh về một cô dâu Mỹ từ lâu vẫn ám ảnh Mít, nhưng thím đâu ngờ thảm trạng ghê gớm đó xảy ra đột ngột đến thế. Sau một thoáng sững sở chết lặng, thím run rẩy gắt gỏng hét :

- Má không đồng ý ! không có vụ giới thiệu giới thiết gì hết ! Má không muốn thấy mặt con đó đến nhà nầy !

Thấy thằng bé buồn hiu, xụi lơ… và có lẽ cũng tự biết phản ứng của mình quá quyết liệt, Mít dịu giọng :

- Con còn nhỏ lắm ! nghĩ đến chuyện bồ bịch làm cái gì ?

- Con đâu còn nhỏ nhít nữa. Con đã lớn khôn, đối đáp với người ngoài con đâu có thua sút ai đâu ?

- Ý má là con phải chuyên tâm học hành, chớ bày đặt dính líu tới con gái thì tương lai lỡ dở đi !

- Vậy miễn là con học giỏi thì má cho con tự do luyến ái hén !… Nè, xin má xem bản kết quả học vấn của con đây ! môn nào con cũng được A cả mà !…

Nhận thấy đứa con vốn ngoan ngoãn vâng lời mình, nay mới dính líu tới đứa con gái Mỹ đã cù cưa đối đáp, Mít giận dỗi hét vang :

- Giao thiệp với ai cũng được ! mà tuyệt đối cấm liên hệ với con đó. Thứ con gái gì trơ trẽn, không chút lễ độ, ưa hổng vô… Mà tại sao đám con gái Việt, con bà Thanh và bà Thủy đứa nào cũng ngoan ngoãn dễ thương sao con không chọn…

- Má kỳ thị người Mỹ ai mà chẳng biết ! Đám bạn con đến nhà : gái Việt thì má vồn vã, gái Mỹ thì má lạnh lùng, má không cho người ta có cơ hội thân thiện thì làm sao đánh giá người ta được !

Tiếng Sơn nói càng lúc càng lớn, lộ vẻ uất ức nhưng không đến nỗi hỗn hào :

- Con nói thiệt, con thương má con nghe lời má mọi chuyện nhưng chuyện yêu đương của con thì con sẽ làm theo ý con. Má không thể ép con được đâu ! Con cưới vợ cho con chớ đâu phải cưới vợ cho má, mà má muốn chọn lựa người đúng theo ý má…

Mít uất ức khổ đau vô hạn, thím không ngờ đứa con mà cả đời thím hi sinh, thương yêu dạy dỗ, nay lại có thể đôi co cãi lý với thím. Trong một thoáng chán chường, thím bỗng có ý nghĩ chết quách cho rồi, hoặc trốn đi biền biệt hay vĩnh viễn từ con, coi như không hề sanh ra nó.

- Sơn con ! - chú Năm bỗng nhiên lên tiếng, giọng chú chậm nhưng nghiêm nghị - dĩ nhiên trong việc hôn nhân, con được tự do chọn lựa người con thương, dù đó là người Việt hay ngoại quốc…

Mít sa sầm nét mặt thầm trách ông chồng lè phè không chịu dạy con, giờ nầy mới lên tiếng thì lại "bắt dàn cho nó leo" . Thím phiền ông xã bao nhiêu thì thằng con hí hửng khoái " ông già" bấy nhiêu.

Chú Năm ngọt ngào nói tiếp :

- Tuy nhiên hôn nhân là việc quan trọng, ảnh hưởng đến suốt đời con, nên ba má phải lưu ý một chút, mà nếu má con có quan tâm hơi nhiều, chẳng qua vì bả thương con quá sức, lo sợ con bị lầm lạc đau khổ vậy thôi. Dù sao, ba cũng xác nhận ba má chỉ góp ý, còn con mới chính là người quyết định chuyện hôn nhân của con, con đồng ý không ?

- Dạ !

- Vấn đề trước mắt là chuyện học của con, đó là ưu tiên hàng đầu mà cả đời ba má lo lắng cho con. Năm qua con học khá, nhưng con còn đến ba năm nữa mới ra trường, mà ba không muốn chuyện tình ái ảnh hưởng đến việc học của con. Vậy ba quyết định như thế nầy : Bây giờ con có thể giao thiệp, nhưng không yêu đương sâu đậm, không hứa hẹn, không chung sống…, đợi đến khi ra trường thì con tự do chọn ai kết hôn cũng được, ba má không ngăn cản gì hết… Con đồng ý không?

- Dạ !

Thấy thằng bé tuy đồng ý mà có vẻ gượng gạo, chú Năm tiếp tục thuyết phục :

- Ba biết rằng con tự tin con đủ khôn ngoan để đương đầu đủ mọi vấn đề rồi! Điều đó dĩ nhiên chẳng có gì sai quấy, vì đúng ra, ba còn có thể xác nhận là con khôn và hiểu biết về nước Mỹ hơn ba nhiều. Nhưng chắc con đồng ý với ba điểm nầy : so với năm qua, mức độ khôn ngoan của con năm nay tiến xa vượt bực phải không ?

- Dạ ! quả thật như vậy !

- Đó ! cứ mỗi năm con sẽ khôn hơn một bực, ba năm nữa ra trường rồi, con sẽ khôn ngoan, hiểu biết hơn năm nay nhiều lắm. Chừng đó, con muốn yêu ai, kết hôn với ai, ba má cũng tán đồng tất cả. Chớ bây giờ con lậm tình quá sớm, học hành chểnh mảng, thì làm sao có nghề nghiệp vững chắc nuôi vợ nuôi con. Con có tin chắc rằng con Pat vẫn thương con, nếu con là kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp chăng ?

Ngưng một chút để cho con suy tư, chú Năm mới tiếp tục, giọng nghiêm trang quyết liệt :

- Tóm lại, nếu con thương ba má, biết vâng lời ba má, thì con hãy chấm dứt chuyện yêu đương lẩm cẩm: không hứa hôn, không chung sống… với ai trong lúc nầy. Con hẹn với con Pat ba năm nữa, nếu nó vẫn thương con như bây giờ thì ba rất vui lòng, còn má con dẫu không vui nhưng rồi cũng sẽ chấp nhận tác thành hai đứa…

Tuy không tin chắc đứa con hoàn toàn nghe lời mình, nhưng thấy vẻ mặt nó hòa hoãn, không còn lộ nét bất mãn nữa, chú Năm tạm yên lòng. Chú nghĩ, chuyện dạy con cần phải uyển chuyển, từ từ giảng giải mới mong thấm sâu, nên chú đổi đề tài sang hướng khác. Chú cười vui vẻ rồi cất tiếng :

- Nè ! con nên nhớ nằm lòng rằng má con là thứ "Mít" chánh cống, tuy sinh sống ở nước ngoài mà lòng dạ, tư tưởng của bả vẫn rặc ròng là "Mít" ! Ơ ! mà con có hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của chữ " Mít" chưa ? Chuyện dài dòng xa xưa lắm, thuở mới xâm lăng nước ta người Pháp gán dân Việt là " An nam mít" , tiếng lóng gọi tắt là " dân Mít" , danh xưng nầy là một sự mạ lỵ nhắc nhở tủi nhục của thời lệ thuộc Trung Quốc khiến người Việt yêu nước phẫn uất chống đối. Tuy nhiên, sau một thời gian tranh đấu không xóa bỏ được chữ nầy, người xưa nghĩ đến giải pháp là hiên ngang tự nhận mình là dân " Mít" với tất cả niềm tự hào dân tộc. Điều nầy cũng tương tợ như chuyện gần đây, có những người bị gọi sỉ nhục là " ngụy" , bèn ưỡn ngực chấp nhận mình là " ngụy" với sự hãnh diện trong lòng. Ông cố ngoại con là nhà nho yêu nước khi bôn ba xứ người cảm thấy thương nhớ gốc mít đậm đà : Mít là dân Việt và cũng là hình dáng quê hương gầy guộc qua gốc xoài, gốc mít. Ông cố ngoại đặt tên má con là Mít chính vì lẽ nầy…

Chú Năm vỗ vai con cười hề hà :

- Nè con ! Ba má đâu thể giữ con trong vòng tay ba má mãi được, rồi đây, có ngày con sẽ xa ba má, như con chim đủ lông đủ cánh vươn mình bay cao. Niềm ước mơ của ba má là mong con giữ chút đạo đức gia phong và đừng bao giờ chối bỏ gốc " mít" của mình, vậy thôi !…


*
* *


Mít thất vọng chán chường. Bao nhiêu tình thương và tin tưởng thím đặt trọn vào đứa con trai cưng. Thím hi sinh tất cả cho con, dẫu phải tan xương nát thịt để chăm sóc cho con, thím chẳng hề ngần ngại. Ước mơ đơn giản của thím là được gần gũi con cháu, một nhà vui vầy vậy thôi. Thế nhưng coi bộ chuyện đó có vẻ gay go mù mịt lắm ! Ôi, dâu Mỹ làm sao thấu hiểu tình gia đình quấn quít, đâu dễ gì cảm thông tình mẫu tử thả lỏng chồng về thăm nom cha mẹ. Con quên mẹ nhưng mẹ làm sao quên con được ! Rủi ro thím nhớ con, lò dò đi thăm nó cũng đâu phải chuyện dễ dàng : con dâu nó dám viện cớ không có hẹn trước, bận rộn, thiếu chuẩn bị… cấm cửa không cho vào nhà thì lại bẽ bàng ! Thím lại nghĩ đến đám cháu nội tương lai mà lo lắng chẳng biết bà nội có quyền bồng ẳm, tưng tiu chăng? Và dù giận con, nghĩ đến chuyện ăn uống của nó thím lại bồn chồn rối rắm : thằng nhỏ quen được chiều chuộng, chăm sóc…, thế mà sẽ bị đày đọa, cho " dộng" toàn bộ đồ hộp ngán ngẩm thì chịu đời sao thấu ?

Chú Năm ái ngại nhìn dáng dấp thiểu não của vợ, ân cần an ủi :

- Em à ! chuyện đâu còn đó ! rầu rĩ làm gì cho nhọc xác !



- Nè em ! thằng con mình tương đối cũng ngoan ! thủng thẳng dạy dỗ rồi nó cũng nghe lời mình mà !

Vỗ về đôi phen, mà mụ vợ vẫn bùng thụng hờn dỗi, chú Năm bèn trổi giọng cười cợt trêu ghẹo :

- Chà ! coi bộ người ta sắp có con dâu Mỹ nên làm tàng quá hén ! Nè ! tui báo cáo cho bà biết : bọn Mỹ yêu cuồng sống vội, đâu đứa nào chịu hẹn hò ! vài tháng chờ đợi là nó đã kiếm thằng khác rồi. Bà dễ dầu gì có được dâu Mỹ đâu mà lộ vẻ đắc chí quá sớm như vậy ?

Té ra ông chồng chỉ dùng kế " hoãn binh" chớ không hùa theo phe với thằng con, hiểu ra. Mít thấm ý tủm tỉm cười :

- Rủi như ba năm nữa, mà con đó vẫn còn thương thằng Sơn thì ông quyết định ra sao ? Mít vẫn còn lo lắng.

- Trường hợp đó hiếm hoi a ! Ơ… mà rủi ro hai đứa nó thương nhau chân tình, ba bốn năm chẳng đổi thay thì cũng đáng khen, thôi thì mình cũng nên tác hợp cho chúng nó.

Đang hớn hở Mít bỗng tiu nghĩu, rồi chắt lưỡi thở than :

- Ôi ! Con cái thời buổi nầy chỉ toàn gây phiền não cho cha mẹ mà thôi !

- Em ạ ! thật ra ở thời đại nào giữa con cái và cha mẹ cũng có những điểm cách biệt. Đòi hỏi của con cái bao giờ cũng bị coi là quá trớn, là nguyên nhân gây khổ đau cho cha mẹ cả ! Uốn tốc quăn, mặc quần trắng, áo eo, quần ống túm ống xòe, mang guốc cao gót… ngày nay là việc bình thường nhưng có thời cũng bị lên án là đua đòi chuyện động trời động đất !… Thôi em ạ ! bỏ qua chuyện thằng nhỏ đi ! Thông cảm nó như ba má đã bao dung, tha thứ biết bao hành động lỗi lầm sai trái của mình ngày xưa. Mình cũng làm cho ba má điêu đứng " y chang" như ngày nay thằng con gây ra cho mình ! Không nói dông dài, chỉ riêng chuyện chúng mình lẹo tẹo với nhau cũng đã làm cho ổng bả nhức đầu nhức óc lắm rồi !

Chuyện tình của Mít lâm ly, gay cấn từng hồi, Mít ghi nhớ không sót một chi tiết nhỏ. Bà già vốn mơ ước con rể là một giáo sư đạo mạo, hiền lành, lại hiểu rõ xuôi gia… chớ đâu chấp nhận bản mặt " du côn" , đi sĩ quan Biệt Động hiểm nghèo như " cái ngữ" đó. Điều éo le là Mít lại mê cái bản mặt " ba gai" ngang tàng của chàng quân nhân Biệt Động, nên nhất quyết sống chết vì tình, dọa bỏ nhà bỏ cửa, bỏ học, tự tử…, để cuối cùng biết không thể khuyên lơn cấm cản được ổng bả đã phải nhượng bộ cô con gái. Từ chuyện nầy dắt dây qua chuyện khác, thím hồi tưởng cả quãng đời niên thiếu, thực sự quán sát mình, để bàng hoàng khám phá rằng mình cũng là đứa con tội lỗi ngập trời, chớ không phải là người con hoàn toàn hiếu thuận, ngoan ngoãn như từ trước đến nay thím từng yên trí.

Ôi ! không biết thời bú mớm Mít đã đày đọa mẹ thế nào, nhưng thời bé thơ còn nhớ được, Mít là đứa con cưng được nuông chiều, nên nhỏng nhẻo và bướng bỉnh ngoại hạng. Đòi hỏi nào của con bé cũng có giá trị như mệnh lệnh để mẹ phải cuống quít hầu hạ. Mẹ mà chậm chạp một chút, thì bé giận dỗi, bỏ ăn bỏ uống cho mẹ phải năn nỉ ỉ ôi. Ăn uống mẹ phải đích thân đút, ngủ mẹ phải ru, phải quạt…, thế mà, bé vẫn thường dẫy nẫy khóc la làm tình làm tội mẹ. Bé yếu đau nhẹ nặng gì cũng có mẹ âu yếm chăm sóc chẳng rời, đã vậy, bé còn cố ý rên to, cho bà cuống cuồng sợ hãi.

Lớn lên, tánh nào tật nấy, mình cũng ham hố ganh đua với bè bạn, đòi hỏi cho được áo quần, giày dép, xe gắn máy thời trang, để cha mẹ phải sói đầu quần quật kiếm tiền cung phụng. Đã vậy, tuổi dậy thì tâm tính biến đổi kỳ hoặc, chợt vui, chợt buồn, chợt lầm lỳ quạu quọ. Nhưng vui là vui với bè bạn, chớ về nhà chỉ biết câu mâu, nhăn nhó, đày ải mẹ, thế mà mẹ vẫn vui vẻ xum xoe bên con để cưng yêu chiều chuộng và cũng để chầm chập kiểm soát giữ gìn. Mẹ kềm kẹp kể ra khá nghiêm nhặt : mẹ cấm đoán giao du, kiểm soát giờ giấc, lục lọi thơ tín, mà lại còn ron ren dò xét cả chuyện kinh nguyệt trồi sụt nữa. Thời đó, Mít bực bội, oán giận bà, lên án bà cổ hủ, vô lý, bất công…, nhưng giờ đây, có con lớn, từng nơm nớp sợ con sa vào băng du đảng, vướng xì ke ma túy, bệng Aids nan y… Mít mới thấu hiểu được nỗi phập phòng âu lo canh cánh của mẹ đối với đứa con gái thơ ngây hơ hớ trước bẫy rập của cuộc đời. Cũng nhờ nhớ lại tâm trạng mình khi tiễn con đi học đại học xa nhà, đường liên lạc thuận tiện, mà đã đờ đẫn như chết nửa thân người, thì Mít mới hình dung được nỗi đớn đau ruột gan quặn thắt của mẹ, khi bà phải gượng gạo dối lòng cắn răng khuyên con vượt biên chọn con đường sống.


Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con, thím mới " thực chứng" được tình cha mẹ cao sâu diệu vợi như thế nào.

Ngày xưa, mỗi khi ru con cháu, mẹ thường rưng rưng lệ, thiết tha cất tiếng đong đưa "

à ơi....

Cha mẹ ơi, sanh con là gái
Biết chừng nào trả ngãi mẹ cha !
Chừng nào cho cá hóa rồng
Đền ơn cha mẹ, ẫm bồng thuở xưa !

Thuở đó, Mít ngạc nhiên chẳng hiểu câu ca dao tầm thường, vần điệu lệch lạc đó đâu có hay ho gì sao lại gây xúc động nơi bà. Té ra, tâm trạng bà như tâm trạng Mít hôm nay. Nuôi con mới thấu rõ được ân nghĩa cao sâu của cha mẹ, để bất chợt khám phá rằng chuyện trả ơn cha mẹ chỉ là chuyện không tưởng xa vời như chuyện cá hóa rồng mà thôi. Và, do đó, thương nhớ cha mẹ ngập tràn mà chỉ biết ngậm ngùi thở than…

Không cất tiếng ru, mà Mít cũng rưng rưng nước mắt, thím thầm thì :

- Ba má ơi ! công ơn của cha mẹ vô biên không ngằn mé, thân con dẫu băm vằm cũng chưa chuộc nỗi lỗi lầm huống chi viễn vông nghĩ đến chuyện báo đền ân nghĩa. Con chỉ có một ước mơ nhỏ nhoi, mơ một lần gần gũi ba má, được nghe, được nhìn, được rờ… được ấp ủ trong vòng tay gầy gò của ba má như thuở ấu thời. Rồi con sẽ hôn ba má và thưa rằng " Con thương ba má lắm ! ba má ơi !" . Thế nhưng ước mơ của con mong manh quá, đời con vô phần bạc phước có lẽ chỉ có thể vô vọng trách than thân phận mình, thân phận kẻ lấy chồng phương xa :


" Than ôi ! cha yếu mẹ già !
Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng !?"


- Vừa nhắc tới ba má thì bà lại " mít ướt" (2) nữa rồi !, chú Năm ái ngại hỏi han vợ.

Sụt sùi một lúc lâu, Mít ngập ngừng cất tiếng :

- Anh Năm à ! có bao giờ cá hóa thành rồng không anh ?

- Chà ! điển tích ngư hóa long tui không mấy rành đa ! Chỉ biết trong thiền viện, chuyện con cá chép lội ngược giòng, vượt qua bậc tam cấp để thành rồng được so sánh như người hành giả lội ngược giòng đời, vượt qua ba ải tham, sân, si… thành bậc chánh đẳng chánh giác. Thành Phật thì cha mẹ đời đời kiếp kiếp cũng cứu độ được, ân nghĩa thâm sâu thế nào cũng đền đáp vẹn toàn phải không em ?

- Ôi ! anh đề cập chi chuyện không tưởng đó ! mình là con người tội lỗi, tham sân si mờ mịt làm sao dám ước mơ thành Phật ?

- Sao bà bi quan như vậy ? Theo lời Phật dạy thì bà là Phật sẽ thành (3) kia mà. Còn nói theo ngôn ngữ bộc trực của chư thiền sư thì bà đã là Phật sờ sờ (4) ra đó, tại bà chưa nhận chân ra được mà thôi !…

Rồi chú cất tiếng ngâm nga :



" Là cá hóa long tự thuở giờ !
Mê mờ nước đục dập dờ nổi trôi !"


Huỳnh Trung Chánh
Mùa Vu Lan 1992





Ghi chú :



1. Tiếng lóng mỗi nơi mỗi khác. Những chữ ghi trong truyện nầy xuất hiện tại Houston và Dallas (Texas). Tác giả không rõ tại tiểu bang khác, những tiếng lóng nầy có thông dụng không ?


2. Mít ướt là loại mít múi mỏng cơm và nhão, được sử dụng theo nghĩa bóng để chỉ những kẻ mềm lòng, mau nước mắt…


3. Đức Phật dạy : " Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"


4. Giai thoại về câu hỏi " Phật là ai" có rất nhiều trong thiền sử. Xin đơn cử vài trường hợp điển hình :

a. Linh Huấn, đệ tử của Tri Thường, một hôm hỏi thầy :

- Phật là ai ?

- Ta sẽ nói cho ngươi, nhưng ngươi có tin không ?

- Dĩ nhiên là con tin.

- Phật chính là ngươi đó !

b. Một tăng sĩ hỏi Đại Long Tri Hồng :

- Phật là ai ?

- Phật là ngươi !

- Làm sao con hiểu ?

- Ngươi sợ bình bát không có quai à ?

c. Huệ Siêu hỏi Pháp Nhãn :

- Phật là ai ?

- Chính ngươi ! tức là Huệ Siêu đó !

Tuyết Đậu thiền sư, tác giả Bích Nham Lục, có bài tụng luận bàn như sau :

Giang Quốc xuân phong xuy bất khởi
Chả cô đề tại thâm hoa lý
Tam cấp lãng cao ngư hóa long
Si nhân do đậu dạ đường thủy.



Việt dịch của hòa thượng Mãn Giác :

Giang Quốc gió xuân thổi không lên,
Chim sáo hót trong bụi hoa sâu.
Ba bực sóng cao cá hóa rồng,
Kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.

(trích Bích Nham Lục)


Tác giả cũng xin phỏng dịch :

Gió xuân lặng tại xứ Giang
Thâm sâu hoa lý, hót vang sáo nhồng
Vượt sóng cao, cá hóa rồng
Người ngu lẩn thẩn tát sông tìm cầu !

Tác giả cũng xin góp chút thiển ý : Cá hóa long mà chưa nhận chân được mình là rồng, thì đâu thể lồng lộng bay cao, chỉ lúc thúc cam phận cá chui rúc trong giòng nước đục nổi trôi :

Là cá hóa long tự thuở giờ
Mê mờ nước đục, dập dờ nổi trôi…



2090




Chuyện tình của mỗi người


      Tôi run rẩy ngồi xuống bên anh, xa xa một tí. Nín thở. Lần đầu tiên trong đời đi chơi với người con trai. Anh bảo đến Vườn Địa Đàng hay lắm. Ở đó có gì? Anh chỉ mỉm cười. Ví như lúc nãy mình hỏi anh vì sao ai cũng im lặng dưới gốc cây mà không nói gì thì anh cũng mỉm cười bí hiểm như thế.

Hình như là đêm giữa tháng, trăng treo lơ lửng giữa trời. Trời cao đến choáng ngợp. Những đêm như thế này, hai mẹ con thường ngồi trước bậc thềm nhìn hun hút ra dãy núi mờ sương trăng. Quê tôi đầy những con dốc. Mỗi độ chiều về, gió mải miết, cuốn tung vầng bụi đỏ. Cho trâu ăn rồi cùng tụi bạn ngồi trên đỉnh đồi thi nhau hát, thả cho gió âm vang cả buổi chiều.

Mấy tháng trước, tôi từ giã những thửa ruộng bậc thang - nơi lầm lũi dáng mẹ bước thấp bước cao - xuống thành phố học. Tạm biệt những cụm hoa mua sắc tím. Đêm đó trăng cũng sáng, gió về khe khẽ mang theo mùi hoa dủ dẻ, cả tiếng tĩnh mịch của xóm núi. Hai mẹ con nói chuyện đến khuya. Mẹ bảo thân con gái mười hai bến nước. Cả đời mẹ là quãng chờ đợi và thất vọng. Đừng tin con trai. Tôi không nói gì. Mẹ bó gối nhìn những con dốc chập chùng dưới trăng, nghèo nàn, cô độc. Dáng ngồi và cái nhìn của mẹ thật bơ vơ...

Trong phòng, tụi nó gọi tôi là con nai trên núi chạy xuống đây. Chỉ còn mình tôi chưa có người yêu. Những tối thứ bảy quẩn quanh rồi lấy sách ra đọc. Căn phòng vốn chật chội bỗng buồn tênh. Nội trú có ai cùng cảnh mình mà hát tình ca nghêu ngao. Khuya, tụi nó về. Sau những hẹn hò, đứa vui, đứa cáu kỉnh. Con Lan tuyên bố sẽ làm mai cho tôi một người.

Quả thật, ba ngày sau, anh ngập ngừng trước phòng.

Những ngày sau đó tôi quên mất mẹ với bến đục bến trong. Những ngày sau đó, tôi thấy nhớ anh. Nhớ lắm. Nhà không có đàn ông, chưa bao giờ tôi gần gũi cái mùi mồ hôi kỳ lạ. Và, nhất là bàn tay ấm nóng của anh.

Nhưng tôi không nghĩ mình đã yêu. Tôi không định hình được tình yêu. Bây giờ thì tôi ngồi đây, bên anh. Anh hứa vào đây sẽ nói những gì nhưng chẳng nói. Vườn Địa Đàng là gì? Sao ai vào Vườn Địa Đàng cũng loay hoay mà không nói? Anh mỉm cười nhẹ nhàng kéo tôi sát lại. Vẫn cái hơi ấm của bàn tay anh...

Anh cúi xuống... Tôi chết lặng. Hóa ra thế. Chắc là thứ tình yêu truy lĩnh như bọn nó nói đây. Những bài học luân lý của mẹ chập chờn rồi nhạt nhòa hẳn. Tôi nhắm mắt nhưng thấy mình đi trên mây với anh. Tôi nhìn xuống mỗi gốc cây, những đôi yêu nhau câm lặng. Tôi thấy cả xóm núi bạt ngàn hoa mua, mẹ đang làm gì đó. Nghe nhột nhạt ở ngực. Một luồng lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi lại thấy mẹ với mười hai bến nước. Cảm giác nhột nhạt ở ngực lan dần. “Không!”. Tôi hét lên và đẩy anh ra. Cả hai nhìn nhau sững sờ. Vườn Địa Đàng xôn xao như mùa trái rụng. Những đôi mắt lườm nguýt, rồi lại chìm vào nốt lặng. Anh thì thầm: “Đừng sợ. Đôi mắt anh lúc nào cũng có lửa, lúc này lửa đang nghi ngút. Tôi khóc. Sao anh không nói với tôi lời yêu thương, dù anh ít nói. Tôi gạt anh ra, miệng khóc ư ư. Chạy khỏi Vườn Địa Đàng.

2. Một tháng sau.

Tôi chống cằm nhìn hai đứa trẻ trước mặt. Hai đứa học lớp hai, một đứa lưu ban. Chúng đều rất sợ những con số. Cảm giác tội nghiệp tụi nó trong tôi đã mất, tình thương dành cho nó tôi không hiểu được, thênh thang như gió núi ngọt ngào hương dủ dẻ. Buổi dạy đầu tiên, hai đứa đứng nhìn tôi chòng chọc, con bé lớn có cái nhìn sâu hút. “Ba đâu cháu?”. “Ba đi làm tối về”. “Mẹ đâu?”. “Mẹ bỏ đi rồi”. Có tiếng vỡ ngân lên đâu đây. “Thôi vô học đi. Cô được ba...”. Con bé cắt ngang: “Biết rồi. Ba dặn cô dạy xong, ăn cơm rồi về”. Tôi thành gia sư.

Sau đêm bỏ chạy đó, anh không đến nữa. Tôi ốm ba ngày. Chuyện của mình được tụi trong phòng thưởng cho mấy trận cười nghiêng ngả. Tôi lại khóc. Sao lời anh không ấm nóng như bàn tay? Sao anh chỉ mỉm cười mà không nói? Sao mắt anh là lửa mà không phải là nước để tôi vùng vẫy, đắm mình trong đó?

Tụi nó diễn lại cảnh tôi bỏ chạy, rồi ôm mặt cười rũ. Rồi con Lan chẳng thèm hỏi tôi nửa câu. Rồi nó tuyên bố anh đã có con bé khác, chẳng “hâm” như tôi. Tôi cắn môi, thấy sự vô nghĩa đến tận cùng. Hương hoa trong gió có người ngửi thấy, có người không. Nhưng ai mà nhìn thấy được. Trong tôi vẫn còn hơi ấm nơi bàn tay anh. Lúc gượng dậy thì nhận được thư mẹ. Tôi lại rũ xuống giường. Cái nghèo lâu nay kìm nén, bây giờ nổ tung. Mẹ đau mà chẳng thể nhập viện, nhưng mẹ bảo đừng về, chẳng giải quyết được gì cả. Tôi không về. Tôi nhớ hoa mua, mảnh mai thế mà cũng tím ngát được trên sỏi đá. Ba của hai đứa trẻ cho tôi tạm ứng tháng đầu gởi về cho mẹ. “Em ở đây nấu ăn trưa. Chiều, cô cháu đi học. Tối anh mới về”. “Dạ”. Tôi khép nép nhìn anh. Gương mặt cương nghị. Mái tóc chớm tai phủ màu nắng gió. Duy đôi mắt là không phải của anh. Nó u buồn, sâu thẳm của đôi mắt ấy là sự mất mát, đớn đau.

3. Tôi mệt mỏi ngồi tiếp anh - người có bàn tay ấm nóng. Một ngày vừa làm gia sư kiêm bảo mẫu, vừa làm sinh viên khiến tôi rã rượi. Anh đang nhảy múa bằng lời trước mặt. Cố kìm cái ngáp bất lịch sự. Bất ngờ anh nắm lấy tay tôi. Bàn tay lạnh ngắt - giống như sự dối trá. Tôi rụt tay lại: “Anh đừng đến đây nữa”. “Em yêu anh ta rồi, phải không?”. “Ai?”. “Anh chàng đã có hai con”. Tự dưng tôi thấy đời vô nghĩa. “Anh đừng đến đây nữa”. Đóng “sầm” cửa lại, tôi vùi mặt vào gối. Chẳng trách tụi trong phòng mấy hôm nay xì xầm giống như anh nói. Một lần nữa khẳng định cái “hâm” của tôi. Tôi cười khinh bỉ, nhận ra cái nhìn hẹp hòi của thế gian. Nhưng sau đó lại giật mình, thấy đôi mắt anh cứ ám ảnh mình trong giấc ngủ. Anh bốc vác ở cảng cả ngày, tối mịt mới về. Có khi tôi giặt quần áo cho anh nữa. Tôi làm mà không hiểu nổi mình. Khi chiều tắt, anh tất tả đạp xe về để tôi về ký túc xá. Những lúc như thế, mấy đứa con anh đã ngồi vào bàn học, tôi cũng ngồi đọc cuốn sách gì đấy. Anh đứng lặng không nói gì. Cơm canh đã chờ sẵn trên bàn. Anh vẫn nhìn tôi với đôi mắt tôi luôn nhớ và không bao giờ hiểu nổi. Tôi chỉ biết lí nhí: “Em về”. Tôi nhất định không ăn bữa tối nhà anh. Anh theo tôi ra cổng, tôi im lặng đạp xe. Dù không ngoảnh lại cũng biết anh đứng nhìn theo xa lắc...

Có một dịp nào đó, tôi ở lại ăn cơm cùng anh. “Em có người yêu chưa?”. Lúc còn hai người ngồi ăn, anh hỏi. “Dạ... chưa”. “Có bao giờ em nghĩ đến không?”. “Dạ... không”. Anh và tôi rơi vào khoảng trống. Ngoài trời rì rào một cơn mưa, căn phòng chật chội như dịu lại. “Anh mang ơn em nhiều lắm”. “Anh đừng nói thế”. Tôi cố không nghĩ đến bản hợp đồng mưu sinh giữa tôi và anh. “Hay là em đừng đến đây làm nữa”. Hình như tôi hỏi anh vì sao, nghe như giọng của ai vọng lại. “Em khổ quá. Em có thấy vô lý không?”. Im lặng. “Em đã nói với anh rồi... Nhưng mà tháng sau anh đừng trả thêm tiền cho em...”. Anh cắt ngang: “Bỏ đi. Những ngày qua đối với anh, tiền nào mua được”. Im lặng. Cả hai đều như muốn nói: Chúng mình vứt nỗi buồn ra ngoài mưa đi nhé!

Em thấy anh già chưa?”. “Đâu có”. Tôi cố cười cho không khí khác đi. Anh nhìn tôi: “Em có biết, nhờ em mà mắt anh bớt sâu không?”. Câu nói cắt ngang tiếng cười của tôi. Cả hai lại rơi vào khoảng trống mênh mông. Tôi cúi xuống chén cơm. Anh lỡ lời hay sao mà bâng quơ nhìn ra cửa sổ. Cửa sổ khóc, từng sợi mưa.

4. “Sáng nay ba đi làm mang theo xách áo quần. Ba khóc, bảo con ở nhà nghe lời cô, vài bữa ba về. Hồi tối ba cũng khóc”. Con bé lớn chùi nước mắt rồi đưa tôi mảnh giấy. Có điều gì như cơn bão qua tôi. Tôi biết mình không chịu nổi những xót xa.

Em!

Anh có lỗi vì đi mà không nói trước. Thời gian ngắn thôi. Anh vào Sài Gòn để gặp mẹ hai đứa. Ngược xuôi mãi rồi mới biết cái mình cần. Cuộc sống nhọc nhằn quá, không thể u buồn hay hận thù mãi được. Không hình dung được những ngày tới không có em, anh sẽ thế nào. Nhưng yêu em là có tội... Hy vọng vài ngày nữa, anh lại đưa mẹ hai đứa trẻ về. Em chăm sóc hai đứa cho anh. Tiền ăn và tiền lương trong tủ”.

Tôi buông mình xuống ghế. Ngoài hiên nắng đã lên. Có gì vui mà nhảy nhót trên từng phiến lá? Sao tĩnh lặng đến ghê người? Con chim gì sao sáng này không hót? Tôi không khóc nhưng nước mắt tôi chảy dài. Phải vui mừng cho anh ấy chứ. Tôi ngồi bất động, thấy đất dưới chân mình nứt ra, tôi rơi xuống cái vùng tối đen tối thẫm. Đất lấp lại. Đất nén chặt quá. Tôi nghẹt thở. Tôi cảm giác mình sắp chết. Đâu đây văng vẳäng tiếng chuông lễ nhà thờ. Đúng rồi, sáng nay chủ nhật. Tôi cố vùng vẫy và hét lên: “Không!”.

Tiếng mình lạc đi, lẫn trong tiếng chuông ngân nga đồng vọng.

Tôi thấy nước mắt mình chảy thành dòng sông. Tôi cố chèo chống chiếc thuyền chở hai đứa bé ngược dòng sông đó. Sông vẫn chảy...

Sông đỏ màu phù sa cuồn cuộn. Xa xa, ở một bến nước, hình như bóng mẹ lặng lờ...



Tác Giả: Tăng Văn Chung

8




Sau một thời gian làm mõ, Xiển lại phải làm đầy tớ hầu điếu tráp cho lão chánh tổng. Một lần, lão chánh tổng đi chơi xa, Xiển theo hầu.

Khi đến làng nọ thấy có một cái trống mặt to bằng cái nong, hai thầy trò lấy làm lạ quá, vào xem. Có tới mười người khách qua đường cũng đang bàn tán về cái trống đó, trên tang trống có đè mấy chữ: "trống cấm", nên chả ai dám lại gần. Bỗng Xiển lớn tiếng:

- Có ai dám đố tôi đánh cái trống cấm này không nào?

Một người cười:

- Ðến cố tổ nhà anh sống lại cũng không dám đụng đến nữa là anh.

Xiển một hai cam đoan là đánh được, không sợ gì cả. Trong số đó có một người buôn bán giàu có, trong túi sẵn tiền, cho là Xiển khoác lác, ngứa tai lắm, bảo:

- Anh đánh được đủ ba hồi chín tiếng tôi sẽ cho anh năm chục quan tiền!

Xiển nói:

- Năm chục chả bõ, ít ra cũng phải một trăm.

Người kia bằng lòng, bảo:

- Ðược, anh không làm được đúng như lời nói, thì phải ở cơm không cho tôi mười năm.

Hai bên làm giấy giao kè, có một người đứng tên làm chứng.

Xiển bắc thang, vác dùi trèo lên, dang thẳng cánh nện đủ ba hồi chín tiếng. Trống kêu, vang cả tai, nhức cả óc. Vài ba người nhút nhát, sợ liên lụy, vội tháo lui. Chiếu theo giao kèo, Xiển bắt người kia phải giao đủ số tiền.

Nghe trống đánh bất thình lình, dân làng kinh ngạc, lũ lượt kéo nhau ra đông như hội. Lý trưởng, tay cầm hèo, len qua đám đông, khệnh khạng bước vào đền quát tháo ầm ĩ. Xiển ra trước mặt lý trưởng vái chào rồi gãi đầu gãi tai nói:

- Dạ trình ông, tôi là khách qua đường, thấy cảnh làng ta trù phú, thấy đền ta linh thiêng, nên có năm chục quan tiền trước để hầu thánh sau hầu làng. Nhưng vì không biết làm thế nào gặp ông cùng tất cả dân làng được, buộc lòng phải đánh vài hồi trống, xin các ông đánh chữ đại xá cho.

Thấy có món tiền lớn, lý trưởng cùng hội đồng chức sắc thích quá, bàn nhau hãy trích ngày ra mười quan làm bữa chén đãi ông khách hảo tâm.2697




Giờ kiểm tra.

A (thì thào): Văn hào vĩ đại Victor Hugo đã từng nói: "Lương tâm của con người, chính là sự nghĩ đến đồng loại".

B: Thì sao?

A: Còn sao nữa? Bộ mày không có lương tâm à? Chép cho tao câu 3, nhanh lên!



o O o


Trung và Huỳnh vừa gọi hai tô mì gói trong căngtin thì đến giờ thi. Trung lật đật vào phòng thi, bỏ cả tô mì. Huỳnh ung dung “quất” cả hai và vào thi trễ 10 phút.

Kết quả là Trung điểm 4 và Huỳnh điểm 8!

Trung hỏi Huỳnh bí quyết, Huỳnh cười: tớ ứng dụng bài học vật chất quyết định, có thực mới vực được đạo, còn cậu thì ngược lại! Tớ ăn gấp đôi thì điểm gấp đôi!

Đúng là ăn như thế nào thì điểm như thế ấy!
1158




Trong lúc làm rào cản một quả trực tiếp, John bị quả bóng trúng ngay vào chỗ hiểm. Đau quá, John ngã lăn ra bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, John thấy mình nằm trong một bệnh viện. Nén đau, John liền hỏi bác sĩ đang đứng gần đó:

- Bác sĩ! Vết thương không quá nặng chứ? Tôi có thể tiếp tục chơi bóng chứ?

- Được! Nhưng chắc sẽ có một vài thay đổi nhỏ! - Bác sĩ nói.

- Hay quá! Nhưng có thay đổi gì vậy?

- Anh... sẽ không được tiếp tục chơi cho đội bóng đá nam mà phải chuyển sang bóng đá nữ!1919




Bác sĩ khoa tâm thần quyết định thử các bệnh nhân của mình. Ông vẽ một cánh cửa trên tường và bảo họ mở ra mà đi về nhà. Các bệnh nhân đổ xô vào bức tường để cố gắng mở cái cửa "ảo", trừ một người đứng ở đằng xa đang cười ngất. Thấy người này có vẻ đã bình phục, bác sĩ hỏi:
- Tại sao anh cười?
- Bọn họ điên quá!
- Tại sao? Người này cầm một cái xẻng, giơ lên:
- Bởi vì tôi đang giữ chìa khóa cửa!
1709





Một bác sĩ đã theo học chuyên khoa điều trị bệnh ngoài da. Một người bạn hỏi anh ta là tại sao anh lại chọn ngành đó.

Anh ta trả lời:

Có ba lý do không thể chê vào đâu được: Người bệnh không bao giờ kéo tôi ra khỏi giường vào ban đêm, họ không bao giờ chết và họ cũng chẳng bao giờ khỏi.

2739



Powered by Blogger.