Con gái thấy con gì cũng sợ
Sợ con giun, con gián, cả con sâu
Có độc đâu, có tốt đâu
Mà sao khiếp vía thất kinh cắm dầu
Khéo thay nhìn trước ngó sau
Chạy đâu không chạy, chạy vào con... tim
Con trai đáng sợ biết bao
Mà sao con gái cứ lăn xã vào .
811
Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi con. Chắc con rất ngạc nhiên. Con đang xót xa vì thương cha cô đơn, ân hận vì không được ở gần cha để săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao có sự ngược đời. Con hãy bình tĩnh nghe cha nói.
Là con gái lớn cuả một gia đình mất mẹ, con đã chịu bao nỗi thiệt thòi. Mẹ chết khi con mới lên chín và gia đình chỉ gồm một người cha và ba đứa con dại. đâu có còn ai để trông cậy nhờ vả? Thường thì một người nghèo khó nhất cũng có ông hay bà, chú bác hay cô dì cậu mợ, không họ gần thì họ xa, ở kề cận láng giềng. Ðằng này gia đình ta vừa đình cư ở thành phố mới được một năm, chỗ láng giềng qua lại không hơn hai hay ba nhà lân cận.
Cha đi dạy học ở trường tư, lương tính trả theo giờ, nghỉ dạy giờ nào miễn trả giờ ấy. Ðã vậy mà chỗ dạy đâu có gì bảo đảm. Ai củng có thể thay thế cha được bất cứ lúc nào. Nhà trường là một cơ sở của Hội Phật Giáo mà má con và phía ngoại con lại là người Thiên Chúa Giáo. Rồi thằng em của con, mãi lên tám mới được chính thức đi học và phải cho học ở một trường tư thục gần nhà. Lại nhằm một trường cuả Thiên Chuá Giáo. Cha biết có bao nhiêu khó khăn rối rắm cứ tuần tự dệt thành tấm lưới bủa vây cha. Cứ mỗi cuối năm học là chuẩn bị nhận một bức thư "cám ơn" của Ban quản trị nhà trường. Cứ đầu năm học là hồi hộp chờ đợi coi niên khóa này mình được phân phối cho dạy bao nhiêu giờ một tuần. Có những lần phiền muộn, cha lặng lẽ ra ngồi ở cuối sân, lần nhổ những bụi cỏ dại, cho quên đi, cho lắng xuống, cho tan loãng... Cha tránh không dám gặp các con ngay lúc đó, sợ đang cơn bực bội phiền muộn, nếu lở gặp điều trái ý mà không giữ được bình tĩnh.
Vậy mà cái "lỡ" đã xảy ra. Hôm đó cha vừa về, vừa bỏ mũ, vừa tháo nịt thì con chạy lên mét cha nghe cái gì đó. Ðang uất ức vì việc ở trường, con lại gây thêm điều rắc rối nên sẵn cái nịt trên tay cha vụt con một cái. Cha vội vàng dừng lại, nhìn con mở to mắt, mặt nhăn đau đớn... Con ơi, hình ảnh đó cứ theo mãi cha, ám ảnh cha suốt hơn ba mươi năm nay.
Có thể là con đã quên, chắc chắn là con không giận, nhưng mà cha thì cha cứ nhớ. Con có lỗi, bắt nằm xuống đánh năm roi ba roi, cách phạt đó ngó vậy mà vẫn thanh nhã. Vì đánh có kèm lời dạy, có nảy sinh lời hứa. Cái roi bẻ từ một cành cây còn dính đôi lá xanh non vẫn được nhìn như một người bạn chơi của đứa nhỏ phạm lỗi. Chớ cái nịt! nó được chế tạo ra hàng loạt để cột, để siết để bó... nó lạnh lùng, nó vô tri, nó mang dáng vẻ một dụng cụ giảo hình.
Sao cha nỡ có hành động tàn bạo như vậy với con? Mới lên chín, con đã nhận trách nhiệm lo lắng cho gia đình. Con tính tiền chợ, con trả tiền điện, con đưa tiền rác, con ngó chừng em, nhắc chị Hai tắm em, tự tay bôi thuốc vào mụn lở cho em. Rồi cái nhìn đi xa hơn một chút: dọn dẹp cái này cho gọn gàng, xếp đặt cái kia cho tươm tất.
Con đâu có hưởng nhiều êm đềm tuổi thơ với cha? Lúc nhỏ thì con lúc thúc bên gối ông bà. Có lẽ đó là những ngày ngọt ngào nhất của con bởi ông bà thương vồ vập, đòi cái gì cũng có, muốn cái gì cũng cho. Sáu tuởi theo cha mẹ về Ðà Lạt con phải một mình coi chừng em giúp mẹ. Rồi mẹ con bệnh, gia đình bị xé nát, con lại theo ông bà về quê, cha đưa mẹ xuống Sài Gòn chữa bệnh. Ba năm sau mẹ con mất, con biến thành người quản lý của một gia đình.
Chín, mười tuổi là cái tuổi nhớ trước quên sau, cái tuổi miệng hay ăn vặt và hát nghêu ngao, là dàn bày đồ chơi ra rồi bỏ vãi đó không dẹp, là tuổi đi chơi phố có mẹ cầm tay. Con thì không, con phải đứng vững như một thân cây che hai cây nhỏ đứng kề. Không có mẹ nhẹ nhàng vuốt ve và nói lời dịu ngọt, không có kinh nghiệm về cái không khí yêu thương, con phải tự tìm lấy. Ði chợ qua hàng trứng vịt lộn, thấy có cái trứng quá già bị nứt phát ra tiếng kêu chíp chíp từ bên trong, con nài nỉ mua về gỡ con vịt bé xíu ra nuôi. Ngày hè năm đó cha có việc phải đi Quảng Ngãi nửa tháng, nhà vắng cha, con ghé chợ mua về một con heo để nuôi cho vui nhà, săn sóc chơi đùa với heo để quên niềm cô quạnh.
Sao nỡ giận con, trách con mà tàn bạo với con? Ðâu có dễ để xử sự minh bạch, giải quyết rạch ròi ở đời? Thì ngay chính cha: chị Hai cầm cũng số tiền đó đi chợ mà có bữa cho ăn được, có bữa chẳng ra chi, nhưng cha biết nói sao? Con thúc cha nói nhưng cha cứ ngại ngùng, sợ lỡ chị giận, chị bỏ đi nơi khác. Từ khi mẹ con mất, cha thêm rụt rè cam phận, đã có quá nhiều âu lo và bổn phận dành cho cha rồi mà. Thằng em của con mới vừa bị sốt, cha vẫn phải đi dạy cho hết buổi rồi đạp xe hấp tấp về nhà, kêu xích lô chở nó đi bác sĩ. Ðầu năm, con út bị chó nhà bạn cắn nơi đùi, vậy là cha suốt đêm nằm lo lắng, mãi đến khi trở mình mới hay nước mắt đã chảy đầm đìa.
Cha có cảm tưởng là chưa bao giờ con nhận một sự dịu dàng nào từ cha. Một người đàn ông nghiêm trang thật khó biết nên dịu dàng như thế nào. Không thể pha chế giọng nói, "biên tập" câu nói, hoa hòe điều nói. Cha chân tình thường chỉ lo nghĩ đến bổn phận nên nhiều khi quên mất sự dịu dàng. Thương yêu tha thiết trong lòng nhưng khó tìm cách để biểu hiện cho tinh tế, tránh xa công thức, thành ra cha con ta sống âm thầm, cha gắng lo sao cho các con không thiếu thốn về vật chất, được đầy đủ về học vấn. Nhưng còn về tình cảm thì, mất đi một người mẹ là tối sầm hết một nửa bầu trời. Cha cố gắng giữ cho nửa còn lại được sáng bằng cách ở vậy nuôi con. Nếu tục huyền, sợ chỉ còn một phần tư còn sáng. Nhưng giữ cho được một nửa cũng không dễ, bởi bao nhiêu thiếu sót, bao nhiêu khuyết điểm phần cha! Chỉ cần một nét mặt trầm ngâm, một cái nhíu mày u uất là đủ làm tắt đi nụ cười nơi mắt các con. Chỉ lỡ dùng một tiếng la rầy hơi nặng là tiếng đó cứ đè nặng dài ngày trên tâm hồn các con.
Bức thư ân hận của nhà văn Livingstone Larnod đã làm xúc động những người cha. Người cha trong truyện đã rầy con vì cách con lau mặt, mắng con vì giầy không đánh bóng, la con vì trong bữa ăn sáng đã bị đổ sữa, ngồi tì tay lên bàn, nhai không kĩ càng. Khi con chào đi học, cha lại rầy "đi thẳng lưng". Trên đường ở trường về con lại bị rầy vì chơi bi dọc đường để làm rách bí tất. Buổi tối con bước vào phòng, giọng cha còn bất bình hỏi "Cái gì?", và bất ngờ con chạy lại ôm chặt cổ cha, đầy tình thương yêu rồi bỏ chạy lên gác. Người cha bất giác thấy cái tâm hồn đại lượng của con, thấy cái hẹp hòi của mình, - con còn con nít mà cha bắt làm người lớn,- cha ngồi bên giường nhìn con ngủ mà lòng đầy ân hận.
Con ơi, những cái lỗi dồn dập trong một ngày của người cha Larnod vẫn quá nh%
E11230
Em tự ngàn xưa chuyển bước về
Thuyền trao sống mắt dẫn trăng đị
Những dòng chữ lạ buồn không noí,
Nét lưả bay daì giấc ngủ mê,
Em đến, mong manh vóc ngọc chìm,
Tàn canh hồn nhập bóng trăng im.
Ta van từng đoá sao thuỳ lệ,
Nghe ý thơ sâù vút cánh chim.
Mươì ngón tay dâng lửa nguyện câù,
Hơĩ ơi! Hồn chuyển kiêp' về đâu?
Ta xin giữ trọn lòng trinh bạch,
Ngưỡng vọng Em như Nữ Chuá Sâù.
Em đến từ trong giấc hỗn mang,
Lơì ca không mở cưả thiên đường.
Thơì gian bốn phiá nhoà gương mặt,
Aỏ tưởng nghiêng vầng trán khói sương.
Em vơí ta chung một hạn kỳ,
Hoá thân vaò nét chữ cuồng sị
Chiêm bao động gót giâỳ mê hoặc,
Trang giấy bay muì tóc aí phi.
Net chữ hoang sơ hiện dáng ngươì,
Ta ngừng hơi gọi: Diệu Huyền ơi!
Mắt ai tinh lạc xanh vần điệu?
Tuyết gợn làn da bóng nguyệt trôi.
II
Em đến vầng trăng bỗng toả hương,
Quen nhau, ngờ truyện rất hoang đường.
Trang thư xoã tóc cươì e lệ,
Nét chữ thu gâỳ, vóc ngậm sương.
Thăm thẳm chìm sâu cõi mộng naò?
Nưả chiêù huyền hoặc, nửa thần giao,
Mắt xanh Em đến như màu khoí,
Một thoáng hồng nhan ngọn gió traọ
Cặp mắt nhìn nhau có hẹn thề?
Não lòng - ôi khóc ngọc lưu ly!
Baì thơ khát vọng thành mưa gió,
Anh gưỉ vaò trong những giấc mệ
Giấy mực say nồng hương tóc Em,
Thương qua dòng chữ ngón tay mềm.
Vệt son loáng nét môi cuồng vọng,
Lắng tiếng xuân cươì, chết môĩ đêm.
Chết giưã mùa xuân, lạ cuộc đơì,
Tên Em còn đượm ngát vành môị
Lung linh sao rụng, mưa hàng chữ,
Chợt sáng hồn Em đáy mắt tôị
Trăng bỗng u huyền, nắng cô sơ,
Em về, nếp aó rộng hư vộ
Khói sương thạch động xa vầng trán,
Ta lạc vaò trang tiêủ thuyết xưạ
Mây quấn vòng lưng, tóc xoã vai,
Hồn lên thao thức búp tay daì.
Khoá xuân trinh bạch trăng làm gaí,
Em lẩn vaò Thơ, trốn Mộng hoaì.
Gôí rợn mình hoa, ửng má hồng,
Lòng Em - Ôi bí mật thâm cung.
Thịt da hương phấn, ngây dòng mực,
Nét bút đa tình, cánh bướm rung.
Trắng muốt tâm linh vạt aó sâù,
Canh gà chưa rụng đã xa nhaụ
Thương cho xác bướm hai lần mộng,
Đành hẹn baì thơ gưỉ kiếp sau.
Tôi sẽ đi như giấc mộng buồn,
Và đi như vệt nắng cô đơn.
Kinh thành hoang phế, Em ngôì lặng,
Maí tóc còn vương một chút hồn....
Một bóng đen xuất hiện nhô ra, ngay giữa nghĩa địa vào một đêm mùa đông. Người gác cổng nghĩa địa đi tuần giựt nẩy mình khi nhìn thấy một bóng đen đang đứng bất động. Phải chăng đây là ma, hay là một trong những tên thường phá mộ, ăn cắp nữ trang đem về bán lại ? Nếu thật như vậy tại sao tên này có dáng điệu thật tức cười ! Hắn đang mân mê bó hoa bằng nhựa trên tay. Miệng thì thầm như đang nói chuyện với ai !
Người gác cổng hồi hộp,nhẹ nhàng đến sát sau lưng bóng đen.Thình lình bóng đem quay lại, quật người gác cổng xuống đất. A đây là người chứ không phải ma. Nghĩ vậy người gác cổng đưa chân, đá vào bóng đen. Sau một cuộc vật lộn ngắn, người gác cổng kéo ngược, cái bóng kia lên. Bóng đen đứng yên không cựa quậy. Cuối cùng người gác cổng buông hắn ra, hắn ta nằm bệt dưới đất. Hắn ta là một người dơ bẩn, mặc cái áo vết cũ rách bươm, không có sơ mi, để lộ bộ ngực trần ốm o gầy mòn. Cặp mắt điên cuồng, với bộ râu xồm mọc lộn xộn, bụi bặm dính đầy. Người gác cổng hỏi tên anh ta hai ba lần, nhưng miệng anh ta câm như hến.
Không cách gì nói chuyện với hắn được; với mỗi câu hỏi, hắn đều nhìn người gác cổng, như trời sập trên đầu hắn. Thôi đúng rồi ! đây là một tên điên trốn ra khỏi nhà thương điên ! Chả cần gì mà báo cho cảnh sát, mình chỉ đưa hắn lại nhà thương điên là đủ rồi ! Nghĩ vậy người gát nghĩa địa đưa anh ta đến nhà thương điên gần đó .
Ông giám đốc nhà thương điên nói với người gát nghĩa địa : « Thành phố này, có rất nhiều lọai người điên, nhưng người điên này là một ngươi điên dư thừa trong đám người điên kia. Có nghĩa là người điên này không có tên tuổi ». Và ông đang tìm cách để biết người điên này có gốc gác từ đâu ra. Oâng giám đốc hỏi người vô danh : « Anh anh tên gì ? từ đâu đến ? bao nhiêu tuổi ? » Anh chàng điên kia như cái bóng, nhìn ông giám đốc hòan tòan không hiểu gì cả. Rồi anh ta bắt đầu run lên và miệng lắp bắp :« Tôi chả biết…Tôi chả biết …!» Chỉ một câu duy nhất mà hắn ta nói. Ngòai ra không nói câu nào hơn nữa.
Ông giám đốc nghĩ đây là người điên trong trạng thái bị «sốc» nên cũng không mấy nguy hiểm, chỉ cần cho anh ta chút thuốc an thần và nghỉ ngơi, chờ người thân trong gia đình đến rước hắn về là xong. Người ta dành riêng cho hắn một căn phòng. Thế rồi anh chàng điên này lăn ra ngủ. Ngủ đêm rồi ngủ ngày. Tỉnh dậy hắn đòi ăn. Ăn thì ăn như hạm, làm như đói lâu ngày lắm rồi ! Ăn xong hắn lăn ra ngủ như chết. Bất ngờ một hôm giật mình thức dậy, hắn ngơ ngác nhìn chung quanh :« Ơ hay ! các ông là ai ? Tôi đang làm gì ở đây ?» Đây là lần đầu tiên hắn biết đặt câu hỏi. Khi nghe hắn hỏi, người ta nghĩ là hắn bắt đầu tỉnh lại. Hắn tiếp tục hỏi :« Cái nhà này là cái nhà gì vậy ? » Những người làm việc trong nhà thuơng nghĩ hắn chỉ là một người điên, nên hỏi lại tên hắn. Hắn ngơ ngác :«Tên tôi hả ? tôi không biết !» Rồi hắn cố giương đôi mắt nhìn đăm đăm vào cõi hư vô. Mặt hắn nhăn nhó, tay vò đầu bức tóc như cố nhớ lại mình là ai, vì mỗi người đều có tên, ai hỏi tức khắc mình trả lời ngay ; đó là phản xạ tự nhiên. Người vô danh này không nhớ đến tên mình, bao nhiêu tuổi, hơn nữa không biết mình từ đâu tới , và ở trong nghĩa địa khi về đêm ăn cắp hoa giả để làm gì ? Người vô danh, vô danh chính với anh ta nữa .
Ông Giám đốc nhà thương kết luận, anh chàng này đã mất trí và, quyết định đăng hình sơ lược, đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Trước khi đăng hình anh ta lên báo, người ta tắm rửa, cắt tóc và cạo râu anh ta sạch sẽ cho bớt hốc hác xanh xao, vì râu tóc lổm chổm như người rừng của thời tiền sử, nhìn không ra là con người nữa. Sau khi tắm rửa cắt tóc, anh ta đã trở lại con người, nhưng khuôn mặt cũng còn ngơ ngác, với đôi mắt trũng sâu lúc nào cũng nhìn thẳng. Trong đôi mắt đó, nguời ta không thể tìm thấy một kỷ niệm, một lý lịch nào cả. Đôi mắt trống rỗng, của người điên lang thang.
Một tuần lễ sau khi đăng hình người điên trên báo.ŽÔng Giám đốc nhận được một loạt thư gởi đến, có người đã nhận ra con người đi lang thang, không nhà không cửa này, trước đó là một người giàu có sang trọng và rất thông minh, được nể trọng nhất tỉnh. Đó là ông giáo sư nổi tiếng, dạy môn toán học tên Henry Mager dạy ở đại học Paris 6 (Pierre et Marie Curie). Nhưng nghe đâu ông giáo sư này đã chết rồi mà ? Hay đúng hơn ông ta đã mất tích, cách đây 10 năm ? Lúc đó có vụ mặt trận. Ông ta đã đầu quân trong mặt trận đó và ông bị mất tích. Những đồng bạn ông đã kết luận, ông ta đã chết trận, mất tích không tìm thấy xác trong bom đạn.
Ông giám đốc nhà thương điên, ngắm nhìn người đàn ông điên, một cách chú ý đặc biệt. Càng nhìn kỹ ông ta càng thắc mắc tự hỏi : Quái lạ, nhìn người này đâu có vẻ gì là một ông giáo sư đại học, mà cả thượng tầng trong tỉnh đều biết ! mà ông ta làm gì trong nghĩa địa với bó bông nhựa ? cả với cái tên Henryï …Nghĩ rồi ôâng giám đốc đến bên cạnh người điên hỏi dò :« Này anh, cái tên Henry có nhắc đến một kỷ niệm nào không ? » Người đàn ông vẫn thản nhiên lặng thinh, như chưa bao giờ nghe đến tên đó bao giờ. Anh ta mệt mõi, mặt phờ phạc tái xám. Ông giám đốc lại suy nghĩ, không biết anh ta có phải là Henry không ? Thôi tạm cứ để cho hắn ta nghĩ ngơi, thêm một thời gian nữa sẽ hay .
Gã điên lại ngủ li bì, cả ngày lẫn đêm bỏ cả giờ cơm. Anh ta ngủ bù lại những năm tháng, thiếu ngủ thiếu ăn. Anh ta ngủ để quên đi điều gì đó. Hay ngủ để nhớ lại những điều gì đã quên ? Có thể anh ta biết rằng khi ngủ, sẽ quên đi khi anh ta tỉnh dậy !
Những ngày kế tiếp, có một người đàn ông, mặc quân phục đến tại nhà thương điên, xin gặp ông giám đốc. Đó là Thiếu tá Jean Louis . Đi theo sau người đàn ông, là một người đàn bà sang trọng. Mặc quần áo đen, đeo kiến đen. Một màu đen để tang. Ông thiếu tá nhìn hình người điên trong báo, nhớ lại người bạn thân tình đồng ngũ cùng chiến đấu với mình, đó là giáo sư Henry và cũng là người bạn cũ thời còn đi học. Sau đó một người ra nhà binh thành thiếu tá. Một người thành giáo sư đại học. Rồi hai người cùng đi đánh giặc chung.
Hai người bạn gặp lại nhau. Ông thiếu tá chạy đến ôm chầm anh chàng điên kia kêu lên :«Anh bạn Henry của tôi ơi ! » và anh chàng điên kia cũng chạy lại ôm chầm lấy ông thiếu tá. Anh chàng điên này bỗng òa khóc, vui mừng đã gặp lại người bạn thân của thời xa xưa. Ô ! nhưng tất cả không được rõ ràng, trong tâm trí anh ta. Lúc đó ông thiếu tá phải nhắc chuyện này chuyện kia, để g217
Bà tôi sinh tám người con, chết sáu còn hai. "Năm dì Duyên được mười chín tuổi, tôi đầy mười sáu thì bà mất. Bữa ấy trời mưa to, ảm đạm. Cây cối trong vườn xơ xác, lá rụng bời bời vào sân. Bác Nhiên bấm đốt ngón tay, lẩm nhẩm rồi kết luận "bà cụ chết giờ không tốt. Nhưng thiêng lắm. Cô đem miếng xô trắng, treo cao trên bàn thờ thì mọi chuyện sẽ qua".
Cũng năm ấy, cha bỏ mẹ. Với một vài lý do nhập nhằng không giải thích được, Mẹ sống vật vờ, lãnh đạm. Một ngày ngủ dậy, tôi đã thấy trên bàn thờ treo một tấm vai xô trắng toát.
Nhà từ đó u ám khói nhang. Những tờ giấy bìa xanh đỏ dán đầy trên tường như hiệu ăn của dân Ba Tàu. Không khí lúc nào cũng lẳng lặng. Ba người đàn bà như ba cái bóng. Sống và chạy vòng quanh trong những thế giới rất riêng của mình.
Mùa mưa tàn. Trời trong nhưng lạnh lẽo. Cây mận bị sâu đục thân lụi dần, nằm còng queo một góc vườn đầy cỏ dại. Buổi sáng đi học, tôi dắt xe qua, thấy vướng víu khó chịu như bà đang ngồi xếp bằng trên tràng kỷ, nhìn tôi trách móc "Cái cây nó chết kìa cháu" Tôi cúi đầu, tự an ủi "Sống chết là quy luật mà". Bỗng nhiên lại giật mình nghĩ, một ngày nào đó, mình cũng sẽ chết mà chưa kịp làm được gì, như cái cây mận dài này.
*
* *
Dì Duyên càng lớn càng đẹp. Mắt thanh mày ngài. Mặt trắng xanh lấp lửng giữa mớ tóc bụi đời hất ngược về phía sau. Dì đam mê nhiều thứ nhưng cũng gần như dửng dưng với tất cả. Trong cuộc sống của dì có vài vệt đen mờ chen chúc với những vệt đỏ ngang dọc chỉ đợi có dịp là bùng lên thành lửa thiêu rụi mọi thứ. Với dì, tôi là một con chíp hôi. Không hơn không kém. Siêng học, ngớ ngẩn đến buồn cười và tội nghiệp. Với tôi, dì không xa lạ cũng không gần gũi. Lối sống của dì như một người đồng bóng. Cái gì cũng cho quá lên một tí để rồi tự giễu cợt mình. Tôi thấy lạt nhạt. Chỉ có đôi khi bỗng nhiên thèm muốn được như dì. Vứt bỏ mọi thứ về sau. Sống bỏ đời để thanh thản hơn. Nhưng rốt cục, tôi vẫn là đứa con gái ngoan và yếu đuối. Tôi luôn sống trong những sự yêu ghét của tôi cũng nằm trong một quĩ đạo không thay đổi được.
Một vài lần, tôi trèo lên căn gác xép của dì. Căn phòng nhỏ xíu với ô cửa hình vuông trông thẳng lên trời, treo đầy những bức tranh dang dở. Hoặc nếu xong, cũng mờ mịt khó hiểu. Trên kệ sách ám bụi, những cuốn kinh thánh, nghiên cứu đạo Phật nằm lẫn giữa mớ kiếm hiệp Kim Dung, truyện cổ điển đóng gáy dày cộm và vài cuốn coi bói tay. Dì ngồi vắt chân lên bàn, với tay bật cassette. Một thứ âm thành nặng trịch, cuống quýt thoát ra, đong đưa trên những miếng mạng nhện to tướng. Dì nhìn tôi thăm dò "Phê không?" "Cháu không thích lắm. Nghe nhạc êm dịu đỡ hơn" "Còn những bức tranh.
Chúng đẹp phải không? - Dì tỏ vẻ lơ đãng - kỷ vật của vài người bạn " Tôi cười, không gật cũng không lắc. "Ðẹp. Nhưng khó hiểu quá dì ạ" Dì cũng cười, khoé miệng nhếch lên chua chát "Cần gì hiểu. Thấy đẹp đã đủ lắm rồi" Dì đưa mắt nhìn lên ô cửa. Chếch về phía bên trái, chỉ còn lại một ngôi sao le lói sáng. Dì khe khẽ thở dài "Sao nó cô đơn thế". Rồi dì lẩm nhẩm mấy lời nhạc lạc hết cả điệu, mắt vằn vện nước. Lát sau đã thấy dì ngoẹo đầu ngủ, mắt môi khép dài. hệt như tuổi trẻ của mẹ đang bình yên nằm đấy.
*
* *
Dần dần tôi cũng hiểu. Mẹ là một người cô đơn. Mẹ bám vúi vào thần thánh, vào tất cả, trừ tôi với dì. Nhưng mẹ vẫn cô đơn. Nỗi hoài nhớ những ngày cha còn ở bên mẹ đã làm cho mẹ trở nên già nua. Người đàn ông ấy không quay lại. Còn mẹ vẫn chờ đợi và hy vọng "Chị đừng nên khổ sở vì một thằng đàn ông như thế" Dì trách mẹ không thương xót. "Lão có quay lại cũng không mang theo điều tốt lành gì". Mẹ phản đối yếu ớt "thì tao có dằn vặt gì đâu. Nhưng sống phải biết tha thứ". Dì bĩu môi, quay ngoắt mặt ra cửa. Khi ấy chúng tôi đang ngồi trên tràng kỷ. Ngoài kia chiều xuống dần. Như thường lệ, bà trở về, áo lụa trắng, tóc vấn hai vòng trên đầu, đi lang thang ngoài vườn. Bà về thăm kỷ niệm nhưng biết rằng không bao giờ bà đụng được đến chúng nữa. Dì lại hục hặc ho, thông báo "Ngày mai em đi thực tế với mấy thằng bạn. Sống mãi ở thành phố dễ bị stress lắm". Mẹ lắc đầu "Vớ vẩn. Con gái lớn không lo lấy chồng, chỉ ham bay nhảy. Mấy đứa trẻ chúng mày, nông nổi và bộp chộp". Mẹ cau có "Ðàn bà, phải dịu dàng, đảm đang. Chứ như mày...". Dì bướng bỉnh hất mái tóc xoã xượi ra sau "Chị không cho em cũng đi. Dịu dàng, đảm đang như chị, lão ấy có ở lại đâu". Mặt mẹ rũ ra tái ngắt. Tôi nhìn dì im lặng. Nếu là dì, chắc tôi cũng sẽ đi. ít ra cũng có một thay đổi mới mẻ nào đó trên cuộc sống đơn diệu của tôi. Ðể sau này, tôi còn có vài thứ đáng giá được liệt vào bộ kỷ niệm.
*
* *
Hội đến, ngồi thẫn mặt ở phòng khách, giữa những bông thạch thảo loăn xoăn cánh héo. Tôi không thích Hội, cũng không muốn làm Hội buồn. Thấy anh chàng sống thật vô vị. Luẩn quẩn trong sách vở. Nhìn đời qua hai mảnh ve chai lọc bụi trong suốt. Hội lúc nào cũng như trôi lênh phênh trên bề mặt của cuộc sống. Nói như dì, nó là một thằng ngố đáng thương.
Tôi lẩm bẩm "mẹ ra bảo con mệt, không tiếp chuyện được". "Ðừng làm thế. Mình là người lịch sự - mẹ thoăn thoắt xếp lại mớ vàng mã trên giường - ra nói vài câu cho phải phép. Mà tao thấy nó cũng được, chứ có gì đâu". Tôi uể oải nghe lời mẹ, cảm thấy rã rời. Cái mặt nạ trên trên mặt như được khoét bằng đá lạnh lẽo. Dì đứng ở cửa, níu tay tôi lại "Không thích thì đừng hành hạ vừa mình vừa người ta. từ chối cho xong chuyện". Tôi ngó Hội lom lom, nhủ thầm, sao Hội khốn khổ thế. Rồi không biết đến bao giờ tôi cũng sẽ khốn đốn như Hội đang nghệt mặt ngồi đằng kia, dù biết sẽ chẳng được gì. "thôi Hội về đi. Chuyện tình cảm chẳng ai thay đổi được. Tôi có bạn rồi Hội ạ". Tôi tiễn Hội ra cổng. Ðêm trăng, gió thổi tốc lá xuống vườn lạo xạo. Tôi đóng cửa, quay vào nhà, thấy lòng đã nhẹ nhõm hẳn.
*
* *
Dì Duyên đi đã hơn một tháng, không tin tức gì về nhà. Mẹ càng ngày càng lặng lẽ giữa nhang khói, giữa khu vườn tiều tuỵ lá. Ngày ngày, tôi đạp xe đến lớp, giết thì giờ bằng cách chui vào những quán cà phê quen thuộc với dúm bạn quen thuộc hoặc ngồi nghiêm nghị ở thư viện, tay ôm sách mà không nghĩ ngợi gì.
Một ngày, dì viết thư về thông báo nghỉ học. Dì đang thử đi buôn chuyến với một anh chàng người Hà Nội. Giàu có lắm, "sang" lắm. Thời buổi này có tiền nhiều là nhất. Mọi giá trị cuộc sống đều dễ dàng thay đổi. Dì bảo, ở đây hai ngày, năm ngày là vui. Còn tương lai thì
chưa biết sao. Những vẫn hy vọng và chờ đợi. Hạnh phúc là khi có một điều gì đấy để chờ đợi, phải không? Mẹ đọc xong, thẫn thờ "Sao bây giờ chúng khác xưa nhiều thế? Ðến hư hỏng mất thôi". Tôi cãi "Chỉ là việc kiếm sống đơn thuần. Dì hạnh phúc là đủ rồi, mẹ ạ". Tôi trèo lên gác xép. Qua ô cửa, một ngôi sao bé tí như bị đóng đinh trên trời, cô quạnh và buồn da diết. Tôi nghĩ, giờ này ở nơi xa, chắc dì đã không phải buồn và cô đơn như vậy.
*
* *
Dì về. Người đẫy ra, vẫn mắt thanh mày dài lấp liếm giữa mái tóc bụi đời. Dì sang trọng, giàu có hơn những ánh nhìn đã u uất hẳn. Ngay phút đầu nhìn dì, tôi nhận ra, dì không còn là ngày xưa nữa. Thời gian và cuộc sống đã mài nên một dì Duyên già dặn, đầy lo toan.
Dì mân mê tay tôi "Dạo này sống thế nào?". "Cháu vẫn học Ngoại thương. Sắp ra trường". "à, có tương lai đấy. Nhưng đừng thực tế quá". Tôi nhấp nhổm trên ghế. "Dì buồn cười. Ai cũng khuyên đừng mơ mộng quá. Chỉ có dì là hay ngược đời. Nó không tốt thật à?". "Không. Nhưng giàu có chẳng phải là thứ hạnh phúc người ta kiếm được". Dì xia bụng, ngả lưng xuống tràng kỷ "Ðã yêu rồi phải không?". "Cháu không biết. Nhưng bây giờ cháu cảm thấy hạnh phúc".
Buổi tối chúng tôi ngồi quây xung quanh chiếc bàn nhỏ kê ở góc bếp đầy mùi mỡ rán và mùi thức ăn sực nức. Lùa được vào miếng cơm, dì chống đũa mơ màng "Em sắp có con". Tôi và mẹ sững người. Trong thư, bao giơ dì cũng kể về một cuộc sống độc thân đầy đủ và vui sướng. Mẹ lấy khăn lau vội vệt mỡ vừa bắn lên mặt "Chúng mày đám cưới ra sao không báo cho chị. Bố nó đâu rồi?". "Có cưới hỏi gì đâu - Dì nhìn mẹ vừa thách thức vừa đau đớn - Nó biến mất rồi". Môi mẹ run bần bật, Mặt tái ngắt từng mảng như đổ chàm "Nó được bao nhiêu tháng?". "Gần ba tháng". Mẹ cau mày, giọng trở lại lạnh tanh "Thế còn kịp. Ngày mai chị đưa em đến Từ Dũ. ở đó người ta giải quyết nhẹ nhàng, gọn ghẽ lắm". Dì đứng dậy, cười nhạt "cám ơn chị. Việc em làm, em lo, em chịu. Chị không cho em ở đây thì thôi, chứ đừng ép". Mẹ thở dốc, oà ra nức nở. Bảo rằng dì đã làm ô uế gia đình. Chao ôi là nhục nhã. Tôi không biết nói gì, làm gì. CHỉ đứng vơ vẩn và thấy lòng nặng trĩu. Tự hỏi thầm, sao tuổi trẻ chẳng bao giờ hiểu được và tránh được những vết lầy mà tuổi già đã đi qua?
Bữa cơm bỏ dở, thức ăn vương vãi trên bàn. mẹ rời bàn, loạng choạng bỏ vào phòng. Dì lại xoa bụng, mặt vẫn tái xanh. Bất lực và chua chát. Tôi lại gần dì, ấp úng "thôi dì đừng buồn. Mẹ cháu hay khắt khe trong mọi việc, rồi sẽ qua hết thôi. Ðứa bé đâu có tội tình gì". Dì nhìn tôi trân trối, lặng ngắt "Chẳng lẽ dì đã có lỗi". "Cháu không biết. Nhưng theo cháu, tự do không có nghĩa là phá bỏ đi tất cả, dì ạ".
Tôi ôm dì trong tay, thấy mình người lớn hơn, già dặn hơn. Chưa bao giờ tôi thấy dì gần gụi với tôi như vậy. Và thân thương, tội nghiệp đối với tôi như vậy.
Tôi bước ra vườn. Trăng lên, sáng như rọi đèn xuống góc vườn có cây mận héo, lộ rõ vài đám chồi non xanh oặt oẹo. Tôi thở dài khoan khoái. Ðau đớn, dằn vặt nhau thêm nữa làm gì. Cuối cùng thì mùa xuân cũng đã đến thật rồi. và tất cả mọi vật đều đang dần thay đổi đấy thôi?.
Hoài nép mình sau cánh cửa nhìn ra ngoài. Bến tàu hôm nay rộn rịp lạ thường. Các tàu Nam-vang đã về. Tàu Long-xuyên, Cần-thơ cất hàng đi. Mấy hôm trước mặt nước im lặng và bình thản bao nhiêu thì hôm nay rộn rịp bấy nhiêu.
Hoài vẫn có thói quen rảnh việc là nhìn ra bờ sông. Đối với Hoài bờ sông có một sức quyến rũ say sưa lạ lùng. Nhìn giòng nước chảy vô tư, Hoài cũng có thể nảy ra trăm nghìn suy tư. Những hôm có tàu đi về, Hoài lại trông ra bờ sông rất lâu, để ý nhìn và cố đọc những cảm xúc trên nét mặt của kẻ biệt ly, người tái hợp.
Có những người về không ai đón, và cũng có những kẻ đi chẳng ai đưa. Hoài là người đưa và đón họ trong yên lặng.
Mỗi một chuyến tàu đi, Hoài nhìn theo cho đến khi khuất bóng. Mỗi một chuyến tàu về, Hoài nhìn cho đến khi tất cả hành khách, và người thủy thủ cuối cùng lên bờ. Con tàu nằm yên như nghỉ mệt sau một thời gian sóng gió.
11 giờ đêm. Khu vực chiếm đóng trở nên yên tĩnh. Thỉnh thoảng chỉ một ít tiếng giày của toán quân viễn chinh đi tuần, Hoài mở cửa ra hiên nhìn xuống đường: Trăng sáng xanh xanh, dãy núi xa ở bên kia bến mờ mờ trong sương đêm, trông như một bức tranh thủy mạc. Mấy chiếc thuyền đánh cá ban đêm cũng đã vào bến. Đêm yên tĩnh và lạnh lẽo. Bóng những lá cây vẽ lên tường lấp lánh như một bức mành hoa. Đêm nào Hoài cũng nhìn bức tranh bất di bất dịch ấy không hề chán mắt.
Hoài bỗng chợt nhớ đến ban chiều nàng đến thăm chị Mỹ, một cô bạn gái nàng quen từ 5, 6 năm trước ở một tỉnh miền Trung Bắc. Sau một thời gian xa cách hai chị em bỗng gặp lại ở một nơi xa lạ, Hoài mừng rỡ hỏi thăm tin tức bạn bè thân sơ ngày xưa ai còn ai mất.
Chuyện trò một lúc bỗng ở ngoài đi vào một thanh niên, Mỹ giới thiệu là em trai chị. Hoài ngạc nhiên hỏi:
- Sao hồi trước em không biết anh này. Em chỉ còn nhớ anh Hùng thôi vì anh ấy có bộ râu quai hàm ghê quá.
Thạch, chàng thanh niên cười:
- Tôi cũng có râu quai hàm, nhưng cô không biết có lẽ hồi ấy tôi còn bé. Còn bây giờ cô không thấy vì tôi vừa mới cạo xong.
Hoài nhìn Thạch bỗng đâm ra lo sợ vớ vẩn. Thạch có cái vẻ gì làm cho nàng phải lo ngại. Hoài nghĩ thầm:
- Muốn cho yên tĩnh mà học, ta cần phải tránh anh chàng nầy mới được.
Hoài tự dặn mình và nàng đã giữ được gần đúng như thế. Hoài cố gặp chị Mỹ rất ít, và mỗi lần gặp, Thạch mới hỏi vớ vẩn mấy câu, Hoài đã kiếm cớ lẩn đi nơi khác.
Chị Mỹ và Thạch sắp xuống tàu đi Pháp học. Thế là xong Hoài sẽ khỏi phải lo nghĩ không đâu nữa. Thế nhưng chuyện giấy tờ của Mỹ gặp trở ngại, phải nhờ cậu của Hoài giúp và vì thế, sự giao thiệp càng ngày càng gần.
*
Hoài đang đứng ở hiên sau vẫy nước tưới cho một cây con, bỗng giật mình. Thạch bước lên cầu thang tươi cười bảo:
- Cô Hoài, hôm nay tôi đến chào cô và bác đây.
- Có chuyện gì thế anh?
Hoài cười, nhưng thấy như có chút gì ngao ngán và mến tiếc.
Thạch đến cạnh Hoài hỏi:
- Cây gì thế cô? Cây gì mà tôi thấy cô ngày đêm săn sóc mãi. Cái cây nầy làm cho có người phải ao ước.
- Cây Sầu riêng đấy anh ạ.
Thạch tinh quái:
- Cô mà cũng “ sầu riêng” à? Tôi cứ tưởng tim cô bị ướp nước đá từ hàng trăm năm kia đấy. Lúc nào cũng lạnh như băng.
Hoài mỉm cười:
- Anh tưởng thế đấy!
- Cô trồng làm gì thế?
- Nhân có người bạn biếu mấy quả sầu riêng, tôi lựa quả ngon nhứt lấy hột ươm chơi.
Thạch tinh quái:
- Sao họ biếu sớm thế? Tôi thì tôi đợi đến đúng ngày cưới kia.
- Anh cũng biết câu chuyện ấy à?
- Không, câu vừa rồi tôi bịa ra. Chuyện thật thế nào có ly kỳ lắm không?.
- Tôi kể anh nghe nhé. Ngày xưa, à, mà cũng không xưa lắm đâu. Có...
- Vâng, có thể là ngày nay, có thể là hiện tại, giờ nầy, phút nầy và chốn này.
Hoài nhăn mặt:
- Anh lại đùa. Thôi không kể nữa.
- Tôi xin nghiêm, xin lắng tai nghe câu chuyện tình lâm ly bi đát.
- Ngày xưa có hai người yêu nhau lắm.
- Yêu nhau lắm lắm chứ!
- Đấy, anh lại đùa rồi!
Thạch đứng thẳng người, vòng tay lại:
- Thưa bà chúa, tôi xin nghiêm.
- Thế thì được. Ngày xưa có hai người yêu nhau lắm, nhưng không lấy được nhau.
- Vì sao thế cô?
- Vì người con gái bị cha mẹ gả chồng khác. Đến ngày cưới anh chàng đem biếu người yêu mấy quả sầu riêng, để nhắc cho cô nhớ rằng tuy cô vui với tình duyên mới, chàng vẫn nhớ cô, và vẫn ôm mối “ sầu riêng” một mình. Cô dâu đến giờ phút ấy đau khổ quá. Muốn tỏ cho người yêu biết cô chỉ yêu một mình chàng nên cô tự tử. Anh chàng kia không ngờ mình làm cho người yêu chết nên cũng tự tử theo.
- Thế còn chú rể có tự tử không?
Hoài bật cười:
- Không, vì nếu chú rể cũng chết nốt thì rắc rối lắm. Họ sẽ lại tranh nhau ở thế giới bên kia nữa.
- Theo ý cô thì sao? Nếu cô là cô dâu cô có tự tử không?
Hoài ngẫm nghĩ:
- Không, nếu một khi tôi đã yêu và được yêu thì làm gì có cái đám cưới chết người ấy.
- Còn ý anh thế nào?
Thạch cười:
- Tôi ấy à, ý tôi thì anh chàng ấy dốt lắm. Ở địa vị xí hụt ấy tôi sẽ không biếu mấy quả sầu riêng đâu.
- Để chả ai chết cả phải không?
- Không tôi biếu luôn mấy xe vận tải sầu riêng. Tôi mua cả mấy vườn sầu riêng chở đến biếu nàng. Nhà nàng sẽ chất đầy sầu riêng và mùi sầu riêng bay ra sẽ làm cho hai họ phải chạy mất. Đến lúc chú rể cũng chạy nốt thì tôi sẽ thế vào cái chỗ trống ấy. Và nếu cần phải có người chết câu chuyện mới ly kỳ, tôi sẽ cho chú rể tức uất lên mà chết. Chứ người chết nhứt định không phải là cô dâu của tôi.
Hoài cười, Thạch cũng cười. Ngẫm nghĩ một lúc Thạch bảo:
- À quên, tôi sắp xuống tàu, cô chúc gì cho tôi nào?
Hoài lạnh nhạt:
- Chúc anh à, chúc anh bao giờ cây sầu riêng này có trái thì anh thành tài trở về.
Thạch tái mặt:
- Sao cô ác thế! Cô trồng cây trong lon sữa bò thì còn ra trái thế nào được. Nhưng thôi, tôi cũng cám ơn cô, và chào cô, lần này là lần cuối cùng.
Thạch cầm mũ quay lưng đi. Hoài biết mình lỡ lời hốt hoảng gọi:
- Thạch, anh Thạch!
Thạch quay lại đến bên cạnh Hoài, nhìn thẳng vào mắt nàng. Một chốc Thạch sẽ cúi xuống hôn trên đôi mắt rưng rưng lệ.
- Hoài xin lỗi Thạch!
Thạch nắm chặt tay Hoài:
- Em chờ anh 6 năm nhé?
*
Trời chiều vàng một mầu ly biệt, một ít mưa bụi làm mờ mặt nước trong veo. Thạch đã đi rồi ! Bức tường sừng sững trước mặt mờ lẫn trong mưa. Thấy mắt mình ươn ướt và hơi lạnh thấm vào đến ngực. Hoài vội khép chặt cửa sổ.
Tiếng còi tàu Nam Vang thét lên một hồi rùng rợn. Hoài giật mình bịt tai. Bao nhiêu dè dặt của nàng đều hóa ra vô ích cả. Hoài nhớ đến những hôm nàng đã cố làm ra vẻ lạnh lùng với Thạch, tưởng mình chỉ gắng kiên nhẫn một lúc, để tránh những ưu phiền tình cảm vướng bận lâu dài về sau, Hoài thở dài:
- Chạy trời không khỏi nắng. Anh chàng ấy thế mà nguy hiểm thực. Giờ phút cuối cùng cũng còn giăng bẫy được.
Hoài nhớ đến những hôm chủ nhật cùng chị Mỹ đi lễ nhà thờ lớn, Hoài không theo Chúa nhưng chỉ theo Mỹ cho vui. Quì dưới chân Đức Mẹ, chị Mỹ lẩm nhẩm cầu nguyện. Hoài cũng cầu nguyện. Nhưng không phải như những cô nàng mơ mộng “ Em khấn cùng trời Phật. Sao cho em lấy chàng.” Hoài cầu nguyện ngược lại.
Phòng trọ tạm thời cho sinh viên chờ tàu của Mỹ bé nhỏ, chỉ có 2 cái giường xếp vải cho hai chị em. Những lúc Hoài đến thăm buổi trưa vắng Thạch, Hoài thấy sung sướng được nằm trên giường Thạch, gối lên gối Thạch, được ôm lấy mền Thạch đắp, được nhìn ảnh Thạch trên tường mà Thạch không bao giờ biết được.
Và khi Hoài ra về, Thạch nằm lại chỗ của mình, thấy mùi nước hoa của Hoài còn thoang thoảng, vấn vương trên chiếc gối trắng tinh. Thạch lại nhớ đến Hoài. Vì cũng như Hoài, Thạch như đang cố gắng vượt qua một ma lực huyền bí đầy quyến rũ. Những lúc chỉ có hai người Thạch lại càng nghiêm trang hơn, và tránh nhìn thẳng vào mắt nhau. Cả hai cùng có cái cảm tưởng như đang đi trên một con đường dốc trơn, nếu lỡ trượt chân một cái là không còn gượng được nữa. Hoài trang trọng và lạnh lùng, Thạch cũng thản nhiên nghiêm nghị. Thế nhưng cả hai trong thâm tâm cùng cảm thấy một trời giả dối bao trùm..
Thạch sắp xuống tàu đi Pháp. Họ sẽ buồn vì phải xa nhau không biết đến bao giờ, nhưng cả hai cùng mong cho ngày đi chóng đến gần, hình như mong như thế sẽ thấy ngày giờ dài ra một chút. Còn được gần nhau thêm một lúc, mà trong lúc ấy, trái lại họ cũng mong cho chóng xa nhau ngay.
Những ý tưởng trái ngược ấy cứ thi nhau dằn vặt tâm hồn hai người bạn trẻ. Kẻ nọ mong người kia chóng đi cho khuất hẳn, để mình yên thân. Thế nhưng tấn kịch dù có kéo dài đến đâu cũng có lúc phải hạ màn. Hoài nhớ đến hôm tiễn Thạch đi, bàn tay bé nhỏ của nàng nắm chặt tay Thạch, nghe nhắc lại lời hứa hẹn : “6 năm, em nhé!”ù
Tàu từ từ rời bến, bao nhiêu là khăn tay vẫy, nhưng trong tất cả rộn rịp của một chuyến tàu biệt ly, Hoài chỉ nhìn thấy riêng một đôi mắt đăm đăm.
Chiếc Ville d’Amienne đã mang Thạch đi Pháp. Mấy tháng sau, chiếc Trung Quốc cũng mang Hoài đi Hương cảng. Thế là kẻ Đông người Tây. Cậu của Hoài từ lâu đã chuẩn bị cho Hoài học trường Tàu ở Chợ Lớn, chủ ý gởi sang Hongkong học tiếp để tương lai chỉ huy tiệm nhánh của ông ở đó. Đứa cháu và cũng là đứa con nuôi duy nhất mà ông tin cậy thương yêu.
Hương cảng đẹp biết bao nhiêu! Lúc hoàng hôn xuống tàu sang bến Cửu long, nhìn ngược trở lại Hương cảng, những ánh đèn trên các đỉnh núi xa trông lấp lánh rực rỡ như muôn ngàn vì sao từ trên trời rơi xuống. Nhìn thiên hạ dập dìu Hoài cảm thấy bơ vơ một cách lạ! Chưa đến ngày tựu trường Hoài theo mấy nguời bạn vào Quảng châu chơi. Gần một tháng trời ở Quảng châu chiều nào nàng cũng ra vườn hoa sau nhà đi bách bộ, hay ngồi trên tấm ghế đá đọc sách, ngắm cây cảnh.
Cái vườn hoa nầy lúc xưa chắc hẳn đẹp lắm. Những đình, tạ, thư viện, bể cá đều chạm trổ công phu. Những cây đại thọ như từng sống cả trăm năm, hồ sen rộng lớn chèo được thuyền, Ngày xưa phải là nhà của một người giàu có, nhưng nay vật đổi sao dời, tất cả các tác phẩm chạm trỗ đều nức rạn, thân cây chết cứng giữa lòng đất khô nẻ. Cả một nếp phong nhã thời xưa, bây giờ chỉ còn lại dấu vết một ít sườn và gạch đá đổ vụn tiêu điều.
Hoa nhãn rụng xuống đầy cả đầu Hoài, Minh một em bé Tàu độ 6, 7 tuổi chạy đến bên Hoài làm quen. Nó dạy cho Hoài “ Long nhãn” tiếng Tầu gọi là “ Lùng ngạn” Hoài xoa đầu nó bảo:
- Tôi không ăn được nhãn nầy đâu.
Minh nhặt những cánh hoa vương trên vai nàng ngạc nhiên hỏi:
- Cô không có răng sao?
Câu hỏi ngây thơ làm Hoài bật cười. Nó không hiểu ý Hoài nói không ăn được vì sắp về lại Hương cảng.
Hoài chợt nhớ đến cây sầu riêng của nàng. Không biết có ai săn sóc không? Hay vẫn còn ở trong lon, hay đã khô, đã chết?
Còn Thạch, giờ nầy Thạch ở đâu? Thạch đang làm gì? Thạch vào trường nào? Thạch còn nhớ đến Hoài không, hay “ đi là hết”. Hoài không hề nhận được tin tức gì của chị Mỹ. Hoài chỉ biết Mỹ ởï trong một trường Xơ viø từ lâu chị đã có ý muốn thành một nữ tu sĩ.
Nhớ đến Thạch, Hoài lại thấy một cảm giác âm ấm ở ngực, nồng nồng ở cổ và cay cay ở mắt.
Bé Minh nhìn nàng ngạc nhiên:
- Ô kìa, cô không ăn được nhãn nên khóc đấy ư?
Trải qua một thời gian tâm trí xáo trộn, Hoài như đã dịu được những ấm ức không tên, Hoài đã tìm thấy được liều thuốc an thần. Những lời hứa hẹn dù rất chân thành nhưng khi ý chuyển thành lời, lời s ẽ hòa lẫn với không gian rồi tan biến vào hư vô. Vậy thì đừng dùng hứa hẹn làm vật liệu để xây tù ngục cho cuộc đời.
Nhớ ngày cậu Hoài tiễn Hoài xuống tàu căn dặn:
Hoài thương cậu thì hãy nhớ lời cậu, coi như cẩm nang để xử lý việc đời. Đó là
“Đừng để cho bất cứ cái gì làm phiền mình.
Đừng để cho bất cứ ai làm mình phiền.”
Bây giờ Hoài coi thường nhưng một ngày nào đó con sẽ dùng nó làm cái phao …
Nắm được “ cái phao” Hoài cười đùa hồn nhiên vui vẻ như xưa. Nhưng thực ra, mùi “sầu riêng” của mối tình đầu như mớ bùn đã chìm xuống tận đáy. Mặt nước trong veo có vẻ tinh sạch quá chừng. Nhưng hãy để yên, dù có “phao” hay không, nếu động đến là nước lại vẩn đục, lòng lại xao xuyến
Viên thanh tra cảnh sát Maurice Bakoula vừa tóm tắt xong sự kiện. Phản ứng đầu tiên của tôi, một nhà báo, là tìm một tít lớn cho trang một. « Một phụ nữ Việt Nam bị ám sát giữa Paris »: quá thường. « Sự cố rùng rợn nhất từ xưa đến nay trong cộng đồng người Việt » : hơi dài, làm mất chỗ quảng cáo. « Máu Việt Nam đã đổ giữa kinh đô ánh sáng » : nghe như tựa tiểu thuyết rẻ tiền bán ở ga Lyon. « Lực lượng nào có lợi trong cái chết của bà Trần Thị Trầm Thảo ? » : tít mở với đầy ẩn ý chính trị, nhưng sợ chỉ hấp dẫn vài chục lãnh đạo đảng phái, không thu hút đông đảo bà con đi chợ Tàu ở quận 13...
Cách đây mấy ngày, lúc 4 giờ sáng, dưới gầm cầu Iéna nằm giữa Tháp Eiffel và quảng trường Trocadéro, người ta khám phá một bọc rác lớn chứa xác chết một người đàn bà Việt Nam. Nạn nhân bị giết trước đó khoảng 2 tiếng đồng hồ. 7 viên đạn đồng tập trung vào đầu, thân thể bị lột trần và cắt ra từng mảnh. Người chết còn đầy đủ tiền bạc nữ trang, và giấy tờ để nhận diện. Cảnh sát đã xuất hiện nhanh chóng, tại chỗ không ai được quyền làm nhân chứng, báo chí truyền hình tuyệt nhiên không nói gì về vụ này. Nạn nhân không phải là một bà hoàng nước giàu. Trung tâm Paris không phải là bãi chiến trường cho các băng cướp thủ tiêu nhau. Không thể để các đoàn du khách Nhật Bản, Đại Hàn tụ tập nơi một xác chết cùng màu da, quên đứng chụp hình trước cái tháp sắt, biểu tượng của thành phố đẹp nhất thế giới.
Cảnh sát quận 7 chỉ cử 1 nhân viên lo hồ sơ này, là Maurice Bakoula. Hồ sơ không quan trọng. Vả lại, từ hồi các sở cảnh áp dụng Luật Lao động mới, làm việc 35 giờ một tuần, mỗi công chức là một của quý, không thể phí phạm. Người đàn bà bị giết gốc gác ở một nước chậm tiến, Maurice Bakoula gốc Phi châu, thế là được rồi. Viên thanh tra trẻ tuổi thuộc thế hệ sĩ quan an ninh của thế kỷ mới, hiểu biết không hạn chế mấy. Hắn có linh tính cuộc điều tra sẽ không ra ngoài cái cộng đồng người Việt tại Pháp. Bakoula tìm ra liền phương pháp tiến hành điều tra. Hắn không biết gì về giới Việt, vậy thì cần sự cộng tác của một nhà báo nằm trong lòng cộng đồng này. Là người Việt để đồng thời làm thông dịch viên cho hắn.
Tôi được chọn cũng dễ hiểu. Báo chí Việt ở đây ngày một ít đi, cạnh tranh sao được với các video cải lương hài kịch và CD nhạc Việt không dấu. Tờ báo Cộng Đồng Mới, một mình tôi làm, có mặt ở hầu hết các tiệm phở bánh cuốn của cả 3 phố Tàu trong Paris. Tờ báo phát không, nội dung là các trang quảng cáo, mỗi số chỉ cần một hai bài tố cáo tội ác Cộng sản và những bê bối của đảng này phe nọ trong đối lập. Dĩ nhiên không ai dám từ chối cộng tác với cớm. Nhưng phải nói thêm, tôi đâu đã mất hết lý tưởng. Tìm cho ra thủ phạm giết hại người đồng hương là, một mặt hành động cho Công Lý, một mặt trả lời một sự nhục mạ cộng đồng.
Để mở đầu hợp tác giữa Nhà Nước Pháp và media Việt kiều, Maurice Bakoula biết chơi đẹp: cao lâu Quảng Đông sang trọng nhất khu Belleville, món lẩu dê với đầy đủ ngọc dương, bia shintao hết lon này đến lon khác, vân vân... sẽ chấm dứt bằng sake có gái cởi truồng hiện ra ở đáy tách. Tôi không ảo tưởng. Sau này với hắn chỉ còn những bữa Mac Do hay ngậm bánh mì jambon-beurre.
Xin nói rõ, tôi không kỳ thị chủng tộc. Nhưng thằng Bakoula này đen bóng quá, hình như còn có mùi. Nó ăn mặc như trong phim trinh thám Mỹ trên ti-vi, nhưng chắc bố nó trước đây làm công nhân hãng xe Renault.
Tôi hỏi Nhà Nước Pháp:
- Thưa ông thanh tra, không biết ông có tấm hình nào của nạn nhân ?
Sau vài giây do dự, Bakoula lấy ra một xấp hình, nụ cười đểu cáng trên môi. Khủng khiếp !!! Những gì tôi nhìn thấy thật là kinh hoàng ! Một đống thịt bầy nhầy máu đỏ. Máu khắp nơi, máu loang lổ trên những phần thịt rời rạc được chụp từ mọi góc độ. Tôi suýt trả lại hết, nào lẩu dê nào bia lon nào ớt hiểm. Còn cái khuôn mặt nạn nhân nữa ! Thôi thôi, nhất định tôi không tả tiếp ! Mắt tôi hoa lên trước những mảng óc nhơ nhớp, lây láng trên những gì còn lại của một khuôn mặt đã vỡ nát... Thôi !!!
Tiếng cười của Bakoula kéo dài suốt cơn ghê tởm của tôi. Chỉ có giống người nửa khỉ như nó mới có lối đùa thanh nhã như vậy. Rồi nó lấy giọng trìu mến:
- Này chú chệt bé nhỏ của tao, tao giỡn một chút thôi mà. Bây giờ cho mày coi tấm hình của nàng trong thẻ căn cước.
Thằng này mày tao dễ dàng như mọi công an Tây. Tôi lại giựt mình lần nữa. Người đàn bà đẹp tuyệt trần. Tôi không rời được hai con mắt sâu thăm thẳm và đôi môi ướt dày, đậm nét gần một sóng mũi thoáng chút kiêu căng. Phải một lúc sau tôi mới đọc thẻ căn cước. Trần Thị Trầm Thảo, 39 tuổi, sinh tại Sàigòn, quốc tịch Pháp, cao 1m67, cư ngụ ở khu Bastille. Bakoula cho biết thêm: sang Pháp năm 1980, có chồng gốc Việt về Việt Nam từ 4 tháng nay, không con cái. Nghề nghiệp không rõ ràng, khi làm thư ký, khi lo một loại việc giao tiếp trong xí nghiệp. Bố mẹ và cậu em trai cũng sống ở vùng Paris.
Cuối buổi, Maurice Bakoula muốn tạo sự thân mật. Hắn tâm sự thỉnh thoảng nằm mơ thấy một thiếu nữ Tàu da ngà ngọc, mặc áo dài lụa Việt Nam, vừa tẩm quất cho hắn theo kiểu Thái vừa mời hắn từng ngụm trà Nhật. Tôi đề nghị ngay sáng hôm sau đi gặp bố mẹ cô Thảo.
*
* *
1.
Đến trước cửa căn hộ của ông bà Phùng, bố mẹ cô Thảo, hai đứa chúng tôi nghe thấy một loại nhạc kỳ lạ từ trong vọng ra. Chắc chắn không phải nhạc Tây phương. Âm điệu ngân nga nhưng không phải raï1 hay fado 2. Cũng khác các loại nhạc truyền thống Việt Nam: chèo, tuồng, ca trù, tài tử... Gần giống thứ nhạc kinh ở một số chùa hiện đại trong nước, nhưng dùng nhạc cụ điện tử nhiều hơn.
Chúng tôi lại càng ngạc nhiên khi thấy bà Phùng. Bà mặc một loại cà sa bằng giấy bạc màu mè chói lọi, quấn chỗ này chỗ kia những sợi giây thừng cũng đủ màu sắc. Đầu đội một mũ cạc-tông hết sức cầu kỳ. Bước vào phòng khách là lạc vào một không gian dày đặc khói hương, một mê hồn trận làm Bakoula thả ra một trận ho không ngừng. Lúc đó mới thấy nhạc inh ỏi phát ra từ một dàn máy âm thanh nổi. Dàn máy điều khiển luôn một hệ thống đèn màu chớp chớp theo điệu nhạc.
Bà Phùng đang lên đồng một mình, gọi hồn cô con gái vừa mất. Bây giờ tôi mới biết, ở Pháp, lên đồng đã trở thành một sinh hoạt cá nhân, không còn cần đông người. Như vậy đỡ tốn kém, tiền tiết kiệm được có thể đầu tư vào các phương tiện tân kỳ.
Bà mẹ cô Thảo đã nhập hồn từ trước, chỉ rời hồn một lúc để ra mở cửa. Sau đó, đọc một loạt thần chú, cầm bó hương vái 4 hướng, thế là đủ để bà trở lại giọng the thé và thân uốn éo theo điệu nhạc. Bà Phùng, tức là cô Thảo, tiếp tục kể luyên thuyên về mùa đại hạ giá năm nay ở các cửa tiệm Paris.
Bakoula thật chuyên nghiệp, hắn không bỏ lỡ thời cơ. Hắn ngồi xệp xuống đất trước mặt cô Thảo và bà Phùng, bắt đầu ngay cuộc thẩm vấn.
BAKOULA: Thưa bà Trần Thị Trầm Thảo, ai đã giết bà ?
HỒN : ...
BAKOULA: Tôi xin hỏi cách khác. Theo chủ quan của bà, ai có thể là người kết liễu đời bà?
HỒN : ...
BAKOULA : Bỏ mẹ! Hồn không nói tiếng Tây.
HỒN : Si si ! Quand même...3
BAKOULA: Xin lỗi bà. Tôi chắc hồn vía bà chưa trở về hoàn toàn, sự kiện quá khiếp đản. Bà cứ lấy thì giờ để trả lời.
HỒN : ...
BAKOULA: Thử đặt một giả thuyết. Nếu, tôi nói nếu, nếu có người muốn xin bà một tí mật gan, thì bà nghĩ tới ai?
HỒN : Quân tử ố kỳ văn chi trứ.
BAKOULA : Hả?! ...Bà nói tiếng la-tinh?
HỒN : Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền...
Thế là hết. Hồn chỉ còn nói ngoại ngữ. Có vấn đề trình độ văn hoá, mà tôi thì hồi đó chưa học hết trung học.
2.
Trước khi chia tay chúng tôi, bà Phùng thở dài:
- Khổ, con Thảo sống ra sao nào tôi có biết. Nó và tôi không thể trao đổi với nhau điều gì. Nó tâm sự mọi thứ với con Jeanne Tuyết. Con nhỏ mới khoảng 25 tuổi, Thảo nó coi như em gái. Nó thiếu em gái mà lị. Con Tuyết này văn minh lắm. Nhưng hơi kỳ kỳ, mấy ông phải cẩn thận.
Chúng tôi được bà cho số điện thoại di động của cô em, bắt được nàng ở chỗ tập thể dục, hẹn đến nhà nàng ngay sau đó.
Giữa Maurice Bakoula và Jeanne Tuyết xảy ra tiếng sét ái tình. Mới trông thấy chàng thám tử nhà nước, đôi mắt mở to của cô Tuyết đã chạy hết chỗ này qua chỗ kia trên thân thể người đàn ông. Còn Bakoula, hắn như kẻ bất chợt mất thăng bằng, cố gắng khom nửa người phía trên xuống thấp, đẩy phía dưới về đằng sau, như bị chao đảo vì một hiện tượng trong quần. Quả thật cô gái đẹp quá lố ! Người cô như muốn nổ tung ra khỏi lớp vải mỏng mềm. Tấm áo, không khuy nào chịu cài, cho đoán hai vú ở trần, mời mọc mọi tưởng tượng. Chiếc váy cực ngắn, cao đến gần rốn, trải ra một bộ đùi dài vô tận. Môi cô rung rung hướng về môi Bakoula, hé mở từ từ cho đầu lưỡi ló dạng. " Hí anh ! " Câu chào hỏi dành trọn cho viên thanh tra, tôi không hiện hữu trên đời này. Bakoula chỉ còn gầm gừ như một con thú, mép mồm đẫm ướt. Cô Tuyết mở nhẹ hai vạt áo vét, cạ ngực mình vào người đàn ông. Mắt cô đã nhắm lại từ lời đón chào. Hơi thở cô bắt đầu trở thành một tiếng rên khe khẽ.
Từ đó tôi biết cuộc gặp gỡ này không cần thông dịch. Tôi đành nói với phần còn lại của Bakoula:
- Đại ca cố gắng đào thật sâu vấn đề. Đàn em ra ngoài hút thuốc.
Lúc họ chia tay nhau dưới đường, Jeanne Tuyết trách yêu anh cảnh sát bơ phờ:
- Làm gì vội thế ! Anh chẳng kịp hỏi cung em. Thôi đêm nay mình hẹn nhau trên internet vậy. Ở chat room4 của website5 www.Vietvidai.Com. Trong phòng đó em sẽ tiết lộ hết cho anh, về đời chị Thảo.
Nhưng không bao giờ có cuộc tái ngộ của đôi uyên ương trong không gian giả tưởng. Gần tới giờ hẹn, ở một cybercafé nổi tiếng cạnh vườn Luxembourg, một thiếu nữ Việt gục chết trên bàn phím máy vi tính, trước một màn ảnh còn tấm hình tổng hợp 3D, giữa một không khí ồn ào nhạc techno. Chỉ về sau mới biết, có chất xia-nuya trong ly coca cô uống ở tiệm.
3.
Rồi hung tín đến từ xa. Ngày hôm sau, Bakoula chìa cho tôi coi bản sao một bức điện tín. Của Lãnh sự quán Pháp ở Sàigòn gửi thẳng Trung ương cảnh sát tư pháp Paris:
" Ngay khi nhận được điện tín của quý vị, chúng tôi đã tìm mọi cách liên lạc với ông Hoang Ba Phi, công dân Pháp hiện ở Sàigòn, để báo tin về cái chết bi thảm của vợ ông, và đề nghị ông về gấp Paris gặp quý vị. Chưa có kết quả thì hôm nay phía chính quyền Việt Nam cho biết ông vừa tử thương trong một tai nạn giao thông. Chúng tôi biết tai nạn giao thông ngày càng nhiều ở thành phố này..."
Bakoula giằng lại tờ giấy:
- Tai nạn giao thông cái con khỉ khô ! Tao đã điện thoại về Sàigòn hỏi cho ra hết sự thật. Sự thật là thằng cha này bị một chiếc mô-tô cố tình lao vào người, rồi chà đạp lên hắn nhiều lần trước khi bỏ chạy!
Cảnh sát Pháp có đầy đủ chi tiết. Từ mấy năm nay, ông Phi bỏ bê bà vợ, về Việt Nam đều đều, lấy cớ là để chuẩn bị kinh doanh. Thật ra ông ta có một cô nhân tình xấp xỉ 20 tuổi. Ông Phi đã ngoài 50, có hồi xuân cũng không là sớm. Hôm đó, ông và cô nhân tình đứng ở bến xe đò, chờ xe đi tắm biển Vũng Tàu. Nghe nói khi chết, ông còn bám chặt vào một cái ruột bánh xe to tướng và đen xì mang ra biển làm phao nổi. Chiếc mô-tô thuộc loại Dream Turbo S một ngàn năm trăm phân khối. Cô nhân tình chỉ bị sướt móng tay. Một tên lừa vợ, lợi dụng gái tơ, gây oán thù ở người khác, hắn được hai chính quyền đồng ý cho chết vì tai nạn giao thông là may lắm rồi. Cái chết vì xe cán, trong trường hợp này, đúng là sạch sẽ. Nhưng Bakoula tức giận là phải, chúng tôi một lần nữa mất đi một nguồn hiểu biết về cô Thảo.
Bakoula còn nghi ngờ:
- Biết đâu việc thủ tiêu thằng già dê này không dính líu mật thiết với vụ giết vợ nó?
- Mô Mô, chắc mày đang nghĩ tới một tổ chức sát nhân có mạng lưới quốc tế.
Tính lãng mạn của Bakoula lại trở về:
- Kể ra đi An Nam một chuyến cũng thích. Có vịnh Along, có Cap Saint-Jacques, có trường Chasseloup-Laubat, có thịt chó...
4.
Chúng tôi đến gặp ông Phùng, bố cô Thảo, ở Hội Cờ Tướng đường Choisy. Ông ra nơi này giải sầu, ngồi với mấy ông bạn đã về hưu, phần đông là người Hoa trước ở Chợ Lớn. Thời gian ở đây nhảy lùi một phần tư thế kỷ, để từ đó đi về quá khứ. Bakoula bị thấm không khí dư giả thì giờ, kiên nhẫn ngồi chờ ông Phùng nói hết những gì có từ đáy lòng.
Ông bắt đầu nói về cái chết như một khái niệm mới, vượt ra ngoài những nhân sinh quan cổ điển của Á Đông, ông đã nghiên cứu rất kỹ văn minh Tây phương nên tìm ra một triết lý kết hợp Đông và Tây từ cổ xưa đến ngày nay có tính chất vĩnh cửu lấy cái Hồn Việt làm lõi, chết và sống từ đó liên hệ hữu cơ với một vũ trụ muôn vàn kích thước trong đó động và tĩnh chỉ có thể hiểu từ góc độ Hồn Việt, Hồn Việt là một chân lý thật dễ giải thích nếu nhìn thấy rõ rằng bản chất của văn minh dựa trên sự hình thành của một bên là cái mà mọi người thường gọi là Ý một bên là một khám phá của cá nhân ông tạm gọi là Thức nhưng cái hiểu lầm lớn nhất cho tới nay của loài người là tưởng rằng Ý và Thức có thể gặp nhau khiến cho khái niệm thời gian trở thành mâu thuẫn với khái niệm không gian hậu quả ghê gớm là cái chết trở thành một đứt đoạn của đời sống giải pháp duy nhất là xây dựng lại từ đầu cái tư tưởng đẻ ra mọi tư tưởng tức là cái lõi Hồn Việt...
Một tiếng đồng hồ đi qua, Bakoula và tôi say khướt, ngồi gật gù một cách tự động. Mọi suy nghĩ của Bakoula đã bị tràn ngập bởi Hồn Việt. Tôi thì không còn biết xoay xở làm sao với đống khái niệm ngổn ngang trong ý thức. Cái nào đáng lý ra cũng dễ hiểu, cái nào cũng quan trọng dễ sợ, bỏ sót một cái là tiêu đời. Hai chúng tôi cầm tay nhau chệnh chạng ra xe. Đầu óc căng thẳng cực độ, vì Chân Lý lảng vảng đâu đó rất gần. Quên hẳn những câu hỏi về cô con gái ông Phùng.
Mấy ngày sau, giữa chiều, hai tên thanh niên đột nhập vào Hội Cờ Tướng. Mỗi đứa mang một đầu Thằng Bờm phủ kín mặt và một chiếc kiếm dài. Ông Phùng đang thắng thế trong ván cờ trước mặt. Một tên vung kiếm chém ngang cổ ông. Chiếc đầu ông đứt lìa hẳn khỏi thân, tung lên cao mấy phân, đổ xuống bàn cờ tướng, quân cờ tung toé. Ông còn lắc đầu quầy quậy một lúc mới ổn định. Máu chỉ tuôn ra sau đó, nhuộm đỏ dần con mã đen trong tay ông già sắp chiếu tướng. Hai Thằng Bờm không ngừng cười toe toét.
5.
Cảnh sát dĩ nhiên nghiên cứu sổ hẹn của Trần Thị Trầm Thảo. Cuộc hẹn cuối cùng trước án mạng diễn ra chiều hôm trước đó. Ghi rõ: " Gặp Đoàn ở Café La Coupole - Nhớ mang giấy chứng nhận " . Sổ địa chỉ của cô Thảo có tên Nguyễn Văn Đoàn. Tối hôm đó chúng tôi điện thoại, cô con gái ông Đoàn cho biết bố mẹ đi ăn cơm khách. Cô cho luôn tên và địa chỉ chủ nhà.
Ông bà Tiến có một biệt thự lớn ở Sceaux, phía ngoại ô Nam của Paris. Trước cổng nhà chúng tôi nghe rõ tiếng nhạc và tiếng cười nói ồn ào. Bà chủ nhà mới mở cửa đã bị 2 cái sợ: 1) màu đen của Bakoula, ít nhất là phần nhìn thấy trong đêm; 2) thẻ cảnh sát của hắn dí vào mũi bà. Bà nấc lên 3 tiếng rồi chạy vội vào kiếm chồng.
Bác sĩ Tiến đi ra trong bộ đồ khăn đống áo dài. Giọng ông run lẩy bẩy:
- Xin mời quý vị... vào dự... cuộc vui... Mấy ông ạ, tôi thề trên đầu tổ tiên tôi, tôi là người lương thiện... Đúng là có thời kỳ tôi hoạt động chính trị, nhưng đó là cả chục năm nay rồi... Bây giờ vợ chồng tôi chỉ chơi...
Tôi phải giải thích rõ ràng mọi chuyện. Khi hiểu chúng tôi chỉ muốn gặp kỹ sư Đoàn, ông Tiến lấy lại bình tĩnh:
- Anh Đoàn đang chuẩn bị phần hát của mình. Quý vị, nếu có thì giờ, xin chờ cho xong phần đó, như vậy chương trình văn nghệ không bị xáo trộn. Mời quý vị tham gia dạ vũ. Ở đây chỉ toàn là bạn bè bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, thạc sĩ...
Bakoula và tôi bước vào với nụ cười gắn chắc trên môi. Phòng khách rất lớn, cả một đám đông chen chúc nhau nhảy và ăn uống, nhạc đang là một bài tango trữ tình, với giọng khàn khàn của cô ca sĩ đứng giữa một ban nhạc sống. Ông Tiến nói thật, mọi người ở đây đều thuộc giới thượng lưu của cộng đồng người Việt: kim cương hột xoàn, y phục thời trang đắt tiền, những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc, đồ ăn đồ uống khác hẳn những bữa cơm bình dân góc chợ.
Bản tango được tiếp nối bằng một màn ca vũ dân tộc, có tốp nữ và tốp nam. Thật là đẹp ! Các chị mặc áo tứ thân đeo yếm, đầu quấn khăn vải, tay cầm nón ba tầm. Các anh hoặc khăn đống áo dài như ông chủ nhà, hoặc bà ba đen đích thực là nông dân. Những câu hò lời hát đối đáp nhau nhuần nhuyễn. Giữa tốp ca nam và tốp ca nữ, những cái nhìn lẳng lơ và những cái lườm ác liệt làm không khí đậm tình quê hương. Vậy mà đứng gần tôi vẫn có kẻ xấu mồm:
- Gớm cái con mẹ Quế ! Đã bà ngoại rồi mà còn ỏn ẻn như gái còn trinh !
- Nhìn cái thằng Hưng kìa ! Tôi đã bảo bà là nó ngoại tình với con Thu mà. Đấy bà thấy, hai đứa nhìn nhau đắm đuối. Thằng luật sư Hưng này chuyên về các vụ ly dị, nó biết tốn kém ra sao, chẳng đời nào nó bỏ vợ đâu.
Rồi không lâu sau, viên cảnh sát và tên nhà báo chúng tôi trở thành cái đinh của dạ vũ. Đối tượng của mọi cặp mắt và lời xì xào khắp nơi. Tin đồn đại đã loan chuyền nhanh chóng.
- Tao nghi cảnh sát đến chộp một đứa nào đó. Thích quá, mình sẽ được chứng kiến tận mắt một cảnh bắt bớ. Đố biết, trong bọn mình, ai sắp vào tù?
- Đừng đùa ! Chuyện trầm trọng lắm. Chứ như chốn thuế thì tụi nó đâu đến còng tay giữa đêm khuya. Moa không sợ, nhưng không muốn bị bất ngờ.
- Mấy ông nói bậy bạ. Theo tôi, hai thằng này đến bảo vệ một nhân vật chính trị quan trọng. Trong đám chỗ này, tôi không ngạc nhiên nếu có một vị lãnh đạo phong trào đấu tranh cho dân chủ ở nước mình. Nước Pháp là đồng minh của chúng ta, đừng quên điều này.
- Ôi chuyện có gì đâu ! Tây nó thấy tụi mình họp đông như vậy, mà ai cũng giàu có thành công, nên tụi nó đề phòng kẻ ghen tuông tới phá, chỉ thế thôi. Tụi nó cẩn thận cũng có lý.
Bakoula đang điên loạn trong điệu twist khi ông Tiến hớt hơ hớt hải chạy tới hắn. Mặt ông đã thành trắng đen, mặc dù bao nhiêu ánh đèn xanh đỏ bao trùm sàn nhảy. Ông xô viên cảnh sát về phía cầu thang, đẩy hắn lên lầu, mọi người chen lấn nhau phía sau.
Cảnh hãi hùng trong một phòng ngủ: xác chết nằm ngửa, máu tươi tiếp tục lan tràn ra từ ngực, nơi cắm sâu một chiếc dao găm gần lút cán. Kỹ sư Đoàn mắt mở toác. Ông mặc một bộ đồ dân tộc cao nguyên, đầu quấn khăn gắn lông, tay cầm những lời nhạc của bản " Bóng cây Kơ-Nia " . Gần đó có ít nhất là 2 người ngất xỉu và 3 bãi nôn mửa. Những tiếng hét rít lên từ phía cầu thang đã ứ đọng người.
6.
Mặt trời mới mọc khi chúng tôi phóng xe tới chỗ ở của cậu Chiến, em cô Thảo. Lần này Bakoula mang theo khí giới nặng: một khẩu súng lục Magnum 722, trắng bóc, hoả lực tương đương với một chiếc xe tăng thời đệ nhị thế chiến, vũ khí cá nhân tối tân nhất hiện nay.
Ngân hàng dữ liệu của cảnh sát không biết nhiều về cậu Chiến: 31 tuổi, độc thân, nghệ sĩ trong một lãnh vực chưa có định nghĩa chính xác, sống ngoài cộng đồng người Việt. Nhà cậu ta là một chiếc tàu nhỏ đậu trên sông Seine, ở khúc sông có cầu Issy, không xa nội thành Paris.
Chiến đẹp trai, thân hình nhỏ thon trong bộ quần áo bó sát người. Sống với một gã người Đức to lớn, nét mặt thuỳ mị, tên Hans Schroumpf. Nhìn họ, cái đầu óc lỗi thời bảo thủ của tôi bám víu vào một hy vọng cuối cùng: quy chế PACS6 không áp dụng cho những cặp chung sống trên sông, không phải trong đất liền.
Nếu nghe theo cậu em thì Trần Thị Trầm Thảo là một con quỷ, không phải người. Ích kỷ tuyệt đối, ác hiểm, tàn nhẫn, hung dữ, dối trá, tham lam, hèn hạ, vân vân... tất cả những gì có thể có trong một nữ tính. " Tâm xà khẩu cẩu " : cô Thảo được tả như vậy. Trọn tuổi thơ ấu của Chiến đã bị bà chị biến thành một địa ngục, trong đó mọi tự do bị tước đoạt thô bạo, nhân phẩm của cậu ta bị nghiền nát đến cùng. Càng nói cậu Chiến càng giận dữ, nước bọt tung toé. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, thủ phạm đây rồi ! Nhưng Bakoula rõ ràng là dày kinh nghiệm, nét mặt hắn lộ vẻ thất vọng chán nản.
Hắn hỏi cho xong:
- Theo anh, ai có lý do để hận thù chị anh đến độ muốn giết chị ?
- Bất cứ người đàn ông nào trên đời này !
Một câu trả lời rỗng thông tin.
Bakoula và tôi rời tàu đi lên chỗ đậu xe. Linh tính bạn tôi một lần nữa thật nhạy bén. Hắn bất chợt quay phắt người, vụt chạy ngược trở lại. Quả nhiên có 2 gã đàn ông đang tiến về phía chiếc tàu, đội đầu Thằng Bờm, cầm súng tiểu liên. Bakoula vừa lao tới phía chúng, vừa rút Magnum. Tôi lấy hết sức chạy theo. Đến chỗ cách hai tên hung thủ khoảng 20 thước, viên thanh tra ngừng lại cú rụp, lấy thế đứng chắc, hai chân dang rộng, hai tay duỗi thẳng với khẩu súng nắm chắc trong hai bàn tay, đầu súng đi lại đều giữa hai bia người.
Một tiểu liên nả đạn trước tiên, tiếng nổ liên tục, đạn ào ạt bắn về phía Bakoula. Hắn bay xuống đất, lăn mấy vòng, đạn rạch những đường dài sát người hắn. Rồi Magnum bất đầu vào cuộc. Mỗi phát súng nổ như bom, đi đôi với một chớp ánh sáng chói loà. Thằng chủ nhân chiếc tiểu liên khai chiến bị xé xác ra thành nghìn mảnh vụn, như ruốc bông vung vãi tứ phía trong một bán kính gần 10 thước. Tôi nhào về phía thằng còn lại. Quên là mình tay không.
Người tôi đột nhiên đau nhói, khắp thân, thịt ở nhiều chỗ cùng lúc bốc cháy, làm như có hàng loạt cơn đau xuyên thủng người. Tôi hiểu ngay. Không nhớ có chào vĩnh biệt Mô Mô chưa, người bạn tôi đã bắt đầu mến. Người ta thường nói, ở những phút cuối, có cả một chuỗi hình ảnh đi qua đầu, có khi đủ để tóm tắt cả một đời người. Nhưng trong trường hợp tôi, chỉ có một hình ảnh duy nhất. Lạ thay đó là một tờ giấy chứng nhận, không kịp đọc là chứng nhận gì.
*
* *
Tôi ngồi bật dậy. Tim đập như muốn vỡ, hàm răng đụng vào nhau liên hồi, mồ hôi đầm đìa. Mắt từ từ nhận ra mình đang trong giường. Một vài vết nắng trên chăn cho thấy đêm đã qua. Tôi cố gắng thở lại đều, xoa nắn các mạch máu. Nhắc đi nhắc lại cho mình: tất cả chỉ là ác mộng, xong rồi, không có gì là thật...
Mấy ngày hôm nay tôi điên đầu vì vụ ly dị. Thảo tiếp tục đòi hỏi thêm. Tôi vẫn thiếu giấy tờ. Mỗi ngày tôi phải sống với cái sai lầm ngu dốt của mình. Thời vợ chồng hoà thuận, tôi để Thảo lo liệu hoàn toàn mọi giấy tờ: sổ sách về tiền bạc, tài liệu chưởng khế, giấy chứng nhận, biên lai, cuống séc... Bây giờ hồ sơ phía Thảo không thiếu một thứ gì, quan toà khen không ngớt. Hồ sơ tôi thì cứ xẹp lép, luật sư chỉ biết thở dài. Cô ta đòi hết món tiền này đến món tiền khác. Của cải tôi cứ thế mà thành mây khói. Mỗi lần đến văn phòng của luật sư, gần Tháp Eiffel, là một lần ra cửa với đầy ý đồ đen tối
Tính tình của chàng trai mộc mạc ít nói thật xứng đôi với cô gái có tính cách hướng nội. Trước khi thành vợ thành chồng, anh chị cùng làm việc với nhau nhiều năm. Hai bên tuy có ý nhưng không có dũng khí để thổ lộ. Sau đó, nhờ bố trí của đồng nghiệp, họ bắt đầu hò hẹn nhau. Cô gái bẽn lẽn:
- Tại sao mỗi lần bốn mắt chúng ta nhìn nhau, em luôn cảm thấy mắt anh có cái gì đặc biệt.
Chàng trai kinh ngạc:
- Ái chà, sao em biết anh bị bệnh mắt hột? Nhưng cứ yên tâm, bác sĩ nói sắp khỏi hẳn rồi.
1310
Anh có biết bây giờ là tháng mấy ?
Mà sương mù giăng kín cả lối mơ
Để nơi đây có con bé thẫn thờ
Mắt hoen ướt long lanh mong hương nắng
Con bé buồn một mình trong thanh vắng
Lật từng trang , dòng nhật ký - vần thơ
Gió thoảng qua , con bé quên ngày giờ
Nâng cung nhạc , lời ca nghe sầu lắng
Nơi chân Chúa , tay nâng cành hoa trắng
Con bé qùy lặng bên Chúa bình yên
Chợt nhớ anh , dâng lên Chúa lời nguyện
Mong hạnh phúc mỉm cười bên anh nhé
Lời ca vang trong thánh đường khe khẽ
Con bé về trong cuộc sống tạm quên
Bao nhiêu lời âu yếm với dịu êm
Giờ bình lặng cúi đầu nơi chân Chúa !
Bàn tay ngà trên phi'm đàn như múa
Ước dịu hiền như vạn đóa hoa hồng
Chẳng còn thương , chẳng còn đợi , ngóng trông
Linh thiêng lắm , lời cầu xin Thượng Đế
Anh yêu hỡi , con bé nhỏ là thế
Yêu thương ai chỉ nói với Chúa thôi
Để mai đây trên những bước cuộc đời
Còn Thượng Đế luôn hằng đi bên nó
Bao lời kinh con bé cầu xin đó
Xin góp thành những nụ nhỏ ngây thơ
Và dệt đan nên hoà khúc đợi chờ
Một mình lặng , âm thầm luôn khấn nguyện !!!
1495
Tôi đã trải qua mùa hè thứ mười của thời thơ ấu tại một nông trại miền núi thuộc miền Tây Na Uy, nơi mẹ tôi đã sinh ra. Đó là những ngày tháng đáng nhớ nhất của đời tôi. Điều còn đọng lại đậm nét trong trí óc tôi là những lúc tôi và ông tôi ở bên nhau.
Điểm đầu tiên tôi chú ý đến ở ông tôi là hàm ria mép dày, rậm cùng đôi vai rộng. Điểm thứ hai là cách ông làm việc. Tôi đã quan sát ông suốt cả mùa hè. Ông cắt cỏ bằng những nhát hái mạnh và khéo léo, vun tất cả lại rồi đem phơi khô. Ông lại bó củi khô thành từng bó lớn, lần lượt vác về vựa. Ông còn làm thịt một con lợn, bắt cá và đem đi muối, xay lúa mạch trong một cối xay chạy bằng sức nước, trồng và dự trữ khoai tây. Nội trong mùa hè ngắn ngủi, ông phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cho cả gia đình và lũ gia súc qua được mùa đông dài băng giá. Ông chỉ ngơi tay chốc lát để ăn uống và chợp mắt vài phút.
Tuy vậy, ông vẫn tìm được thời gian riêng cho hai chúng tôi. Ngày kia, sau chuyến đi sang làng bên, ông trao cho tôi một con dao nhỏ có vỏ bọc và nói : " Những thứ này cho cháu đấy. Bây giờ cháu xem ông nhé!" .
Ông rút dao ra khỏi vỏ, cắt một nhánh cây tươi nhỏ, ngồi xuống bên cạnh tôi. Với đôi tay đầy vết chai, ông chỉ tôi cách làm ống sáo. Cho đến hôm nay, đã sáu mươi ba năm trôi qua, cứ mỗi lần tôi nghe những âm điệu trong trẻo của những ống sáo, tôi lại nhớ đến tiếng nhạc phát ra từ ống sáo bằng cây tươi của ông tôi. Sống ở một nông trại miền núi hẻo lánh, ông đã phải học cách tạo ra tất cả với những gì mình có trong tay.
Ngày đó, tôi luôn suy nghĩ một cách đơn giản là người ta cần cái gì thì mua cái đó. Tôi không rõ ông có biết điều này không, nhưng hình như ông muốn dạy tôi một điều khác. Một hôm, ông bảo : " Đi với ông, ông có cái này cho cháu" . Tôi theo ông xuống hầm, đến bên một cái bàn thợ mộc gần cửa sổ. " Cháu sẽ có một chiếc thuyền nhỏ. Cháu có thể thả nó ở Storvassdal" , ý chừng ông muốn nói cái hồ nhỏ cách nhà tôi vài dặm.
Tuyệt thật, tôi thầm nghĩ, rồi nhìn quanh tìm chiếc thuyền. Nhưng chẳng thấy đâu. Ông nhặt một khúc gỗ dài độ 18 inch lên." Chiếc tàu ở đây" , ông nói, " Cháu sẽ tự làm ra nó" . Đoạn ông trao cho tôi một lưỡi rìu nhỏ sắc như dao cạo. Tôi không rõ phải làm như thế nào nên ông hướng dẫn tôi. Tôi bắt đầu đẽo phần mũi tàu. Sau đó ông lại chỉ tôi cách sử dụng búa và dùi đục, tôi chuyển sang làm khoang thuyền. Thỉnh thoảng, ông lại xuống tầng hầm, sửa lại vài chỗ vụng về, hoặc mài sắc lại các dụng cụ. Ông trả lời câu hỏi của tôi, gợi ý thêm, nhưng hầu như mọi việc tôi đều làm cả.
" Nó sẽ là một chiếc thuyền tốt. Cháu đã làm nó bằng chính đôi tay của cháu" , ông nói, " Không ai có thể cho cháu những gì cháu tự làm cho bản thân" . Lời của ông vang vang trong đầu tôi lúc tôi làm việc. Cuối cùng, tôi đã hoàn thành phần khoang thuyền. Tôi làm tiếp một cái cột buồm và một cái mái chèo. Chiếc thuyền không có gì đặc sắc, nhưng tôi thấy hãnh diện vì mình đã tạo ra nó.
Rồi với con thuyền nhỏ trong tay, tôi hướng đến Storvassdal. Trèo lên sườn núi dốc đứng, tôi vào rừng và đi theo một lối mòn khá dốc. Tôi băng qua các con suối nhỏ, giẫm lên lớp rêu xanh đẫm nước và đi lên những bậc thang đá trơn trợt - cao hơn, cao hơn nữa cho đến khi tôi ở phía trên hàng cây rừng. Cuối cùng, sau khoảng 4-5 dặm đường, tôi đã đến nơi.
Tôi thả chiếc thuyền xuống nước và bắt đầu mơ mộng. Một làn gió nhẹ đưa chiếc thuyền sang bờ bên kia. Khí trời thật trong lành. Xung quanh im ắng, ngoại trừ tiếng líu lo của một chú chim non.
Tôi trở lại hồ nhiều lần. Ngày nọ, mây đen kéo tới, sấm chớp ầm vang và mưa đổ xuống như trút nước. Tôi co người nấp dưới một tảng đá lớn và cảm thấy hơi ấm trong khe tỏa ra. Nhìn chiếc thuyền nhỏ của tôi ngả nghiêng giữa mặt nước nhấp nhô, tôi liên tưởng đến hình ảnh một chiếc tàu dũng cảm đương đầu với biển cả dậy sóng. Một lúc sau, mặt trời ló ra và tất cả lại như cũ.
Gia đình tôi chuẩn bị quay về Mỹ. " Con không thể mang chiếc tàu về nhà. Chúng ta có quá nhiều hành lý" , mẹ tôi bảo. Tôi van nài mẹ nhưng chỉ hoài công.
Lòng buồn bã, tôi đến Storvassdal lần cuối cùng, tìm tảng đá mòn lớn, đặt chiếc tàu vào khoảng trống bên dưới tảng đá, rồi dùng đá nhỏ chất đống lấp lại, quyết định ngày nào đó tôi sẽ quay lại tìm kho tàng của mình.
Tôi từ biệt ông tôi, không biết rằng đó cũng là lần vĩnh biệt. " Tạm biệt cháu!" , ông nói và siết chặt đôi tay tôi.
Mùa hè năm 1964, tôi đến Na Uy với cha mẹ và vợ con tôi. Một hôm, tôi rời nông trang, đi bộ đến Storvassdal với ý muốn tìm lại tảng đá lớn ngày xưa. Nhưng sao xung quanh nhiều quá! Tôi đã gần bỏ cuộc thì chợt trông thấy một đống đá nhỏ chèn dưới một tảng đá mòn lớn. Chậm rãi, tôi dời các viên đá ra và thò tay vào khoảng trống bên trong. Tay tôi chạm vào một vật gì đó nhúc nhích. Tôi lôi chiếc tàu ra. Ba mươi bốn năm qua nó đã nằm ở nơi đây, chờ đợi tôi quay lại. Khoang tàu và cột buồm bằng gỗ dày hầu như không hề bị suy suyển, riêng có lớp vải buồm đã mục nát.
Tôi sẽ không bao giờ quên giây phút ấy. Khi tôi mân mê con thuyền, tôi cảm thấy như ông tôi đang hiện diện đâu đây. Ba chúng tôi lại được ở bên nhau, và giữa ông tôi, tôi và chiếc thuyền nhỏ thực sự có một mối dây liên kết gắn bó với nhau.
Tôi mang chiếc thuyền về trang trại cho mọi người xem và khắc lên trên mạn thuyền hai con số 1930 và 1964. Có người gợi ý tôi nên mang chiếc thuyền về Mỹ. " Không được" , tôi đáp, " Chỗ của nó là dưới tảng đá mòn ở Storvassdal" . Và tôi vẫn mang nó về ở chỗ cũ.
Tôi trở lại hồ năm 1968, 1971, 1977 và 1988. Mỗi lần như vậy, tôi lại khắc số năm lên mạn thuyền. Ông tôi như gần gũi với tôi hơn. Lần cuối tôi đến Storvassdal vào năm 1991. Lần này, tôi dắt theo hai đứa cháu gái : Catherine, 13 tuổi và Claire, 12 tuổi. Trên đường lên núi, tôi nghĩ đến ông tôi và thầm so sánh cuộc đời ông và cuộc đời của hai đứa bé. Catherine và Claire là mẫu người quyết đoán và độc lập hệt như tổ tiên khi xưa. Có điều không biết chúng có lỡ mất những thú vị thật sự của cuộc sống khi chúng được sinh ra trong hoàn cảnh đầy đủ hay không ?
Bằng thái độ không mệt mỏi trên nông trại hẻo lánh này, ông tôi đã dạy cho tôi rằng chúng ta nên chấp nhận và phải biết ơn những gì ta có, dù ít hay nhiều. Chúng ta phải chịu đựng khó khăn và biết thụ hưởng niềm vui. Điều quan trọng nhất là phải dựa vào sức của bản thân để tiến lên trong cuộc sống.
Cháu tôi tuy cũng lớn lên ở vùng ngoại ô với những nông trại, nông trang, nhưng cuộc sống rất đầy đủ và tiện nghi. Nhưng tôi luôn hi vọng - và tin chắc rằng chúng sẽ có cách riêng của chúng để đương đầu với cuộc sống đầy khó khăn. Mong sao chúng hiểu được bài học ông tôi đã dạy tôi nhiều năm trước - bài học về con thuyền nhỏ cùng bức thông điệp về sự tự lực cánh sinh.
Trên núi cao, tôi ngập ngừng không mở lời như e ngại mình sẽ phá tan sự yên tĩnh. Chợt Claire ngắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Cô bé ngước lên nhìn tôi rồi nhẹ nhàng nói: " Ông ơi, ngày nào đó cháu sẽ quay lại nơi đây" - Một thoáng ngập ngừng - " Cháu sẽ mang theo cả con của cháu nữa" .
Tình đã chôn vùi dưới vực sâu
Huyệt lạnh từ đây chỉ một màu
Trắng tang, tình khép vào đáy mộ
Ngàn năm chẳng lặn vết sầu đau !
Làm sao lành lặn vết thương đau ?
Đã bao năm tháng chôn thật sâu
Ai đành khơi lại chiều hôm ấy
Cho mảnh hồn tôi chất ngất sầu.
Trời đã vào đông, núi bạc đầu
Chừng nào tháng Bảy gặp mưa Ngâu
Cánh chim Ô Thước dường mỏi mệt
Bao giờ trở lại nối nhịp cầu ?!
Một giấc mơ qua mãi ôm sầu
Cho lòng quặn thắt giữa đêm thâu
Làm sao quên được bao dâu bể
Cách nào xoá hết nỗi niềm đau ?!!
Duyên nợ rã tan mùa thu ấy
Tơ lòng đứt đoạn đã từ lâu
Châu về chi nữa thêm vướng khổ
Hợp phố làm gì chất... hận sâu.
Thôi đành hẹn lại kiếp mai sau
Vào một mùa thu lá đổi màu
Dâng hiến trao ai đầy mộng ước
Bù đấp tháng ngày đã khổ đau
Anh ở trên mây cao thật cao
Vui cùng chị Nguyệt với ngàn sao
Để em nhung nhớ lòng quặn thắt
Tim tình rạn nứt mắt lệ trào.
Tình theo lượn sóng chìm đáy sâu
Mộng đã tàn phai trắng bạc màu
Bóng người mờ nhạt trong mây xám
Sao lòng cứ mãi nghe quặn đau !!
Hồn Thiêng - Sông Núi tận tim sâu
Nghĩa ơn ghi khắc chẳng nhạt màu
Chốn cũ mãi nằm trong tiềm thức
Nơi này sầu nhớ dạ xót đau. 880