Ba tháng hè, khoảng thời gian mơ ước của bất cứ giáo viên nào vì sẽ được cuộc sống thảnh thơi. Không phải lo soạn giáo án. Không phải lo đi dạy đúng giờ giấc. Như một ngôi nhà từ lâu bị đóng kín vì chủ nhân bị đau ốm hay đi vắng, bây giờ những cánh cửa được mở tung đón chủ nhân trở về, đón ánh nắng ban mai rực rỡ, đón những ngọn gió đêm tươi mát thổi vào. Trong ba tháng hè, tâm hồn và hành vi của giáo viên cũng được mở tung sau chín tháng bị đóng cửa.
Tất cả những người bạn giáo viên của Kha đã được sống thảnh thơi trong mùa hè. Họ đã được trở về quê nhà hay đi đến một thành phố khác để nghỉ xả hơi, để được sống tự do không bị những đôi mắt dòm ngó, phê phán của học sinh và các phụ huynh. Tưởng tượng sống ở một nơi không bị những đôi mắt đó theo dõi, thật sung sướng biết bao. Nhưng Kha đã không được sung sướng biết bao. Không được sống thảnh thơi như các bạn trong ba tháng hè tại thị trấn này.
Kha phải ở lại để dạy các lớp hè hai buổi sáng và dạy thêm lớp toán ban đêm. Chàng muốn dành dụm một số tiền để lo đám hỏi người yêu của chàng ở quê nhà vào dịp cuối năm nay. Không có nàng chắc chàng đã theo thằng bạn dạy văn đi rong chơi. Dù cho bao tử có đói, chàng tin cũng sẽ được sống một thời gian thảnh thơi và thích thú. Nhưng vì nàng, vì những đòi hỏi của gia đình nàng. Kha đã phải tiếp tục đóng kín những cửa sổ tâm hồn trong ba tháng hè.
Những lớp toán ban đêm, Kha dạy ngay ở căn phòng trọ. Chàng đã phải khó nhọc giảng giải những bài toán cho học sinh hiểu. Không phải những bài toán đó quá khó hay học sinh chậm hiểu mà vì Kha biết chính chàng cũng không thích giải những bài toán đó một tí nào. Đấy không phải là thời gian để giải những bài toán hình học, đại số, hóa học. Đấy là thời gian phải được dành cho nàng. Cùng nàng đi dạo chơi dọc theo bờ sông Hương trong đ
êm hè nóng bức. Cùng nhau vào trong thành nội có những cây nhãn lá mướt xanh và hương hoa sen tỏa ra thơm ngát. Cùng nàng vào ngồi một quán nước có âm nhạc dịu dàng và ăn những ly chè hạt sen ngọt lịm...
Nhưng ở lại chốn này, Kha chỉ biết cùng học trò cặm cụi giải những bài toán khô khan, chán ngắt. Khi nghe những cậu học trò hỏi : "Ba tháng hè, thầy không về thăm nhà hả thầy ? Dạy nhiều vậy thầy không sợ bể phổi sao thầy ?" Kha đã phải bóp vụn cục phấn trong tay, để khỏi bạt tai chúng và môi chàng đã mím chặt để khỏi cau có. Chúng đâu có biết gì, chúng còn vô tư. Chàng nghĩ vậy để xoa dịu cơn giận dữ.
Còn nàng có biết gì không ? Hay nàng cũng vô tư ? Thắc mắc này đã khiến Kha nổi điên đập vỡ mấy ly bia khi chàng ngồi uống một mình trong căn phòng trọ vắng lặng sau những buổi dạy đêm.
Thật ra Kha không sống cô độc khi phải ở lại đây ba tháng hè vì chàng đã có những người bạn chân tình ở địa phương này. Nhưng họ chẳng giúp được gì cho chàng. Những chai bia cũng chẳng giúp gì được cho chàng. Tất cả đều biết chuyện tình của chàng và nàng nhưng tất cả đều không hiểu tình yêu của chàng dành cho nàng.
Ngay cả thằng bạn dạy văn ở cùng phòng (nay đã đi xa) cũng không hiểu tình yêu đó. Hắn đâu đã yêu một cô gái nào bao giờ đâu mà hiểu chàng. Hắn chỉ yêu cây trúc đào sau vườn và say sưa nhìn ngắm những nụ hoa đỏ hồng lóng lánh sương đ
êm hé nở mỗi sáng như say sưa nhìn ngắm đôi môi người tình mỉm cười. Thấy dáng vẻ si mê
điên khùng của hắn, đã có lần chàng nổi điên cầm dao định đốn cây trúc đ
ào nếu hắn không đứng ôm chặt gốc cây che chở cho những nụ hoa.
Chàng không yêu đương lãng mạn lẩm cẩm như thằng bạn kỳ cục đó. Tuy sinh ra ở một thành phố thơ mộng nhưng Kha không yêu những đóa hoa vớ vẩn, chàng yêu một cô gái cùng quê hương và dự định phải kết hôn bằng được với nàng. "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở." Cái "đẹp đó chàng xin dành cho thằng bạn dạy văn."
Gia đình nàng rất giàu, có gian hàng lớn buôn bán đủ thứ ở phố chính. Còn gia đinh chàng ở miền quê sống nhờ những vườn cau trổ trái bốn mùa. Đám hỏi và đám cưới của chàng khỏi phải lo vụ trầu cau vì đã có sẵn "cây nhà lá vườn" đủ biếu cho ngàn người. Chàng chỉ còn lo mấy thứ lỉnh kỉnh : rượu, trà, bánh su sê, vòng, nhẫn, áo cưới, xe hoa... Mấy thứ đó tuy lỉnh kỉnh nhưng cũng làm chàng điên cái đầu.
Cả hai gia đình đều sẵn sàng giúp đỡ chàng mấy thứ lỉnh kỉnh, sẵn sàng đùm bọc đời sống vợ chồng chàng, nhưng Kha từ chối sự giúp đỡ và
đ
ùm bọc đó. Bài học đầu tiên chàng học được ở Đại học Sư phạm không phải là phương pháp dạy dỗ học sinh mau hiểu mà là ý thức tự lập. Chàng muốn một gia đình do chính tay chàng tạo ra.
Cưới nàng xong chàng sẽ thuê nhà cho hai người ở rồi dành dụm tiền mua nhà, rồi dành dụm tiền cho những đứa con, rồi dành dụm tiền cho đủ thứ. Nhưng trước tiên chàng phải dành dụm cho đám hỏi nàng vì vậy chàng đã ở lại thị trấn để dạy hè.
Kha không nhận được lá thư nào của nàng trong suốt ba tháng hè. Ở đây, chàng chỉ có một địa chỉ duy nhất là ngôi trường chàng dạy. Ba tháng hè trường đóng cửa những giấy tờ công văn đều được trực tiếp chuyển bằng tay từ Phòng Giáo dục đến trường, còn những thư từ riêng chẳng thể gửi đến vì không có người đi nhận. Kha có thể mượn địa chỉ của một người bạn địa phương để cho nàng gửi thư nhưng chàng sợ những lá thư của nàng gửi cho chàng trong dịp hè sẽ khiến chàng không còn can đảm ở lại đây. Nhìn những con dấu bưu điện mang tên quê hương mến yêu và đọc những dòng chữ mảnh mai nàng viết, Kha dám có quyết định trở về quê nhà gặp nàng ngay cho bớt nhớ nhung. Trở về quê nhà, bỏ dạy cours làm sao chàng còn có thể dành dụm đủ tiền đi hỏi nàng ? Mùa hè
đã chấm dứt. Kha nôn nóng chời đợi ngày khai giảng niên học mới để được nhân thư nàng. Cách một tuần trước ngày khai giảng. Kha đã gửi cho nàng một lá thư bảo đảm để nàng biết dự tính của chàng đã thành. Chàng đã dành đủ tiền cho đám hỏi. Nàng hãy gửi thư trả lời cho chàng biết ý kiến gấp qua địa chỉ nhà trường. Ngày khai giảng đến, Kha vội vã đến trường nhưng chàng chẳng nhận được lá thư nào. Nhìn các cô cậu học sinh vui vẻ cười đ
ùa với bạn bè sau những ngày hè tạm biệt, Kha đã buồn cho hoàn cảnh của mình ! Điều chàng nôn nóng đợi chờ ở niên học mới đã không đến.
Chàng tự hỏi phải chăng nàng đã đi lấy chồng trong mùa hè vừa qua ?
Ôi, đâu có chuyện lạ lùng đó được. Nàng phải chờ mình chứ. Mình đã trung thành với nàng vậy nàng bắt buộc cũng phải trung thành với mình. Hay nàng đã bị bệnh cúm nên chẳng thể viết thư trả lời ? Giả thuyết này có thể tin được vì ở quê hương chàng mùa này mưa nắng bất thường và ai cũng có thể mắc bệnh cúm, chàng lẩm bẩm, chứ nàng đừng mắc bệnh nôn nóng lấy chồng.
Nửa tháng sau ngày khai giảng đã trôi qua. Kha đã gửi cho nàng hai lá thư bảo đảm nhưng vẫn không thấy hồi âm. Bố khỉ người yêu ! Chàng lẩm bẩm khi ngồi một mình trong phòng giáo viên đợi giờ dạy. Đột nhiên Kha bật cười, chàng nghĩ chàng đã thốt ra hai tiếng "Bố khỉ" kỳ quặc một cách vô thức và chẳng hiểu chúng có nghĩa gì ? Thằng bạn dạy văn luôn miệng thốt ra hai tiếng đó và chàng không ngờ chúng đã xâm nhập vào đầu óc chàng lúc nào không hay. Bố khỉ đầu óc ! Kha lẩm bẩm khi quẹt diêm châm một điếu thuốc.
Hai giờ đầu buổi sáng nay thật nản. Kha chẳng dạy được gì, có một bài toán nhỏ mà chàng giải ba lần vẫn sai khiến cả lớp cười ồ. Đầu óc chàng bay bổng đâu đâu và chàng đã chờ đợi tiếng kẻng báo hiệu giờ ra chơi ngay khi mới bước chân vào lớp. Rồi tiếng kẻng chờ đợi đã vang lên. Kha bẻ đôi cục phấn đang viết ném xuống bục gỗ như người trút khỏi gánh nặng trên vai. Chàng cố nở một nụ cười chào học sinh và định nói vài lời xin lỗi nhưng chẳng thể hé môi, chàng đ
ành lắc đầu bước ra khỏi lớp. Mong các em sẽ hiểu và thông cảm cho tôi. Mong các em sẽ hiểu khi các em cũng nôn nóng chờ đợi một cái gì...
Phòng giáo viên đã có mặt những cô giáo mặc áo dài đủ màu ngồi nói chuyện "thiên trời địa đất" với các ông giáo. Kha rót ly nước trà uống một hơi rồi kéo ghế ngồi dựa lưng vào tường. Chàng muốn ngủ một giấc ngắn - chỉ năm phút thôi, cũng đủ giúp chàng khỏe khoắn dạy những giờ kế tiếp. Khổ nỗi những tiếng trò chuyện cười đùa của các vị đồng nghiệp vang lên như bầy kiến lầm lì bò vào tai, khiến Kha không chợp mắt được. "Thầy có thư."
Kha tỉnh người, ngồi thẳng dậy nói cám ơn bác bảo vệ khi đưa tay nhận lá thư. Chắc là thư của nàng rồi, ít ra nàng cũng đủ thông minh để hiểu rằng mình đang nôn nóng đợi thư của nàng chứ. Chẳng thấy tên người gửi đề ngoài bì thư, nhưng nhìn nét chữ Kha cũng biết đây không phải là thư của nàng. Chàng thở dài, vậy mình đã mừng hụt. Không phải thư của nàng thì thư của ai đi nữa chàng cũng muốn quăng vào sọt rác.
Nhìn kỹ nét chữ Kha nhận ra thư của thằng bạn dạy văn. Chàng không muốn đọc thư của thằng bạn kỳ cục làm gì, chàng chỉ muốn ngủ nhưng những tiếng cười đùa vẫn tiếp tục vang lên. Thôi thì đọc thư xem hắn viết gì. Hắn là giáo viên dạy văn biết đâu văn của hắn sẽ giúp mình ngủ được.
"Kha, Mày nói với Ông Hiệu trưởng tao chưa thể đến trường ngay được. Vì bị xe đụng gãy chân, còn đang bó bột. Như thế, tao chưa thể tiếp tục đi dạy được, dù lúc này rất muốn đi dạy sau ba tháng hè rong chơi. Hãy chịu khó thay tao tưới nước, bắt sâu ở cây trúc đào mỗi ngày. Hãy chịu khó quét dọn phòng sạch sẽ. Hãy chịu khó giữ vững niềm tin thế nào rồi tao cũng sẽ trở về.
TH."
Bố khỉ thằng bạn văn ! Kha rủa thầm và xé lá thư ném vào sọt rác. Viết văn như thế không hiểu sao hắn lại được người ta xuất bản cho một tập truyện ngắn! Văn chương gì chỉ khiến mình mất ngủ.
Chẳng còn kiên nhẫn đợi thư của nàng, đêm nay Kha đã đem hết số tiền dành dụm được nhờ dạy thêm ba tháng hè ra đãi bạn bè nhậu. Một bữa tiệc linh đình mừng người hết lo đợi chờ : gà quay, chim cu quay, heo quay, vịt quay, đủ thứ quay cộng thêm những chai rượu Johnny "đi bộ" đã giúp Kha có những trận cười ha ha.
Bữa tiệc tàn, bạn bè ra về hết, Kha vẫn còn ngồi nhâm nhi một đùi gà quay với ly rượu vàng óng ánh trong căn phòng trọ vắng lặng và bề bộn những đồ nhậu trên nền xi măng. Chàng đã dạy học trò tỉ trọng của rượu là 0,8 gram nhưng không hiểu sao nó lại làm đầu chàng nặng chình chịch. Phải chăng tỉ trọng đích thực của rượu là một tấn ? Kha lắc lắc cái đầu muốn nó văng ra khỏi cổ cho nhẹ người, nhưng cái đầu vẫn bám chặt vào cổ chàng. Chẳng biết gì hơn Kha đứng dậy tìm giấy viết thư. Phải viết cho nàng một lá thư nữa, chàng nghĩ - không biết đây là lá thư thứ mấy mình gửi cho nàng mà nàng không thèm trả lời nhưng thây kệ hãy viết thêm cho nàng một lá thư cuối cùng nữa. Kha bóc một tờ lịch và viết ở phía sau để khỏi mất công ghi ngày tháng. Dù say khướt nhưng chàng vẫn đủ tỉnh táo để quẹt diêm châm một điếu thuốc và viết :
"Này người anh yêu.
Chắc em nghĩ em là mẹ anh nên anh có bổn phận phải viết thư vấn an em đều đều phải không ? Hay tại lúc này giấy đắt, mực đắt, tem đắt nên em "thắt lưng buộc bụng giữ eo" không viết thư trả lời? Chắc em cũng biết, yêu nhau đâu phải là làm cha mẹ nhau mà chỉ được quyền làm cha mẹ những đứa con của nhau mà thôi. Nhưng chúng ta đâu đã có đứa con nào vậy chúng ta chỉ là người tình của nhau. Là người tình thì phải chịu khó viết thư hỏi thăm sức khỏe nhau, chứ đâu có thể lơ là như em chẳng cần biết anh sống chết như thế nào trong ba tháng hè xa cách.
Vì vậy, anh rất buồn mà báo tin cho em biết, đám hỏi em đã được anh sửa đổi thành "đám nhậu" với bạn bè. Mong rằng hơi rượu sẽ mãi mãi ở trong tim anh như hình bóng em.
KHA."
Chẳng thèm đọc lá thư để sửa lỗi chính tả, Kha gấp tờ lịch bỏ vào bì thư màu xanh có sẵn tem và dán lại. Chàng biết khi đọc xong thư này, nàng sẽ chửi rủa chàng là người vô học, mất dạy, du côn và nhiều thứ nữa. Nhưng tất cả những tiếng chửi đó không làm chàng buồn. Chàng chỉ thật sự buồn và hiểu rằng ở kiếp này hay triệu triệu kiếp sau nàng cũng không có đủ thông minh để hiểu rằng chàng tha thiết yêu nàng... Chỉ có Chúa mới biết được tình yêu của chàng dành cho nàng. Nhưng Chúa là người quá nghiêm trang, chắc Ngài chẳng bao giờ thèm "mách lẻo" tình yêu của chàng cho nàng biết.
Kha cố gắng đứng thẳng người rồi loạng choạng bước ra khỏi nhà đi bỏ thư vào một thùng thư đặt trước Bưu điện quận ở cuối phố. Chàng phải đi bỏ thư ngay lúc này nếu không ngày mai chàng sẽ không còn hứng thú đi gửi thư nữa.
Trời mới mưa buổi chiều. Không khí mát mẻ nhưng đầu óc Kha vẫn nóng bừng. Đêm tối đen. Những ngôi nhà quanh căn phòng chàng trọ đều đã tắt đèn. Kha nghiêng ngã bước đi không còn nhận ra phương hướng chiếc cổng sơn xanh đóng kín nằm ở đâu. Thình lình chàng đâm sầm vào một gốc cây ngã nhoài xuống đất, những giọt mưa còn đọng trên lá rơi tới tấp xuống mặt chàng mát lạnh. Kha tỉnh dần, chàng đưa tay quờ quạng trên mặt đất ướt để tìm lá thư đánh rơi và chàng chỉ bắt gặp những đóa hoa trúc đ
ào rơi rụng. Chàng giận dữ vò nát một đóa hoa trong tay và Chúa ơi nếu có thằng bạn dạy văn ở đây chắc hắn sẽ cười chàng bể bụng, khi hắn nhận ra chàng đang khóc.288
Caymbeline là vua Anh quốc, đó là một ông vua bất hạnh, vì sau khi các binh đoàn của Jules César rút đi, triều đại ngài luôn bị phá rối, bọn lính La Mã thường xuyên quấy nhiễu, hai đứa con trai ngài, đã khôn lớn và tỏ ra dũng cảm, đã bị bắt đi cùng với bà vú, trong trường hợp rất bí ẩn, hoàng hậu lại qua đời. Tuy nhiên, dù bao hoạn nạn dồn dập xảy ra, tuổi già của ngài cũng cảm thấy được an ủi. Ngài đã tục nguyền với một góa phụ, biết hết lòng lo lắng cho ngài, mẹ của một chàng trai to lớn, mà Cymbeline rất quí mến, trong khi mọi người đều ghét cay ghét đắng cái gã Cloten hợm hĩnh. Nhưng phần lớn niềm vui của vị vua già là do công chúa Imogène, đứa con duy nhất còn lại của ngài, cô gái sắc nước hương trời và là người kế nghiệp của vương quốc.
Cymbeline, nhu nhược và cả tin, hoàn toàn tin cẩn bà thứ phi, bà ta lúc nào cũng chăm chú nghiên cứu các loài dược thảo và đặc tính của chúng, khảo sát các tính chất, cho bọn tì nữ hái các cây lá có thể chữa bệnh, cũng như có thể giết người. Chỉ có mỗi nhà vua là không rõ bà thù hận Imogène đến mức nào, và sự mù quáng đó đã gây ra biết bao tai họa.
Để chiều ý hoàng hậu và cũng vì ngài tưởng lầm Cloten đứng đắn và dũng cảm, ngài muốn gả Imogène cho anh ta. Cô công chúa trẻ đẹp, sáng suốt và tinh tế hơn, rất khinh ghét kẻ cầu hôn ấy, vả lại tim nàng đã hướng về người khác, chàng Posthumus. Sau khi cha mẹ qua đời, chàng được nuôi dưỡng trong triều cùng với nàng. Cha chàng nổi tiếng dũng liệt đến mức thiên hạ tặng cho biệt danh là Léonatus, sư tử. Dù thuộc dòng quý tộc và thừa hưởng danh vọng của thân quyến, Posthumus rất nghèo, và vua Cymbeline đã đón chàng về nuôi dưỡng thật chu đáo. Chàng đã trở thành một hiệp sĩ toàn diện, và người ta chỉ có thể phiền trách chàng về sự nghèo túng mà thôi. Nhưng Imogène chẳng mấy quan tâm đến sự nghèo khổ của chàng, vì cô yêu chàng, và bởi e ngại cơn phẫn nộ của vua cha, và sự theo đuổi ráo riết của Cloten, cô đã bí mật thành hôn với Posthumus.
Nhưng mọi việc đều vỡ lẽ ngay, do các thủ đoạn của hoàng hậu. Cymbeline, bị bà vợ yêu xúi dục, đã ra lệnh trục xuất Posthumus ra khỏi vương quốc, và quản thúc Imogène trong lâu đài. Tuy nhiên, đôi vợ chồng trẻ vẫn tìm cách gặp lại nhau giây lát, trước khi Posthumus xuống tàu rời khỏi Anh quốc. Đó là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi và
đau buồn.
- Điều duy nhất có thể giúp em chịu đựng nổi cuộc sống –Imogène tha thiết nói- đó là ý nghĩ trên đời này còn có một kho tàng mà đôi mắt em có ngày sẽ được thấy lại.
- Nữ hoàng của anh, người yêu quí nhất đời anh –Posthumus đáp, giọng thật nồng nàn- em đừng khóc nữa. Anh sẽ là người chồng chung thủy như vẫn hằng nguyện ước. Nhưng giờ đây, em yêu ơi! Phải để anh ra đi! Nếu những lời từ biệt cứ kéo dài mãi, trong suốt khoảnh khắc còn lại giữa đôi ta, thì niềm đau chia cách sẽ càng tăng lên nhiều. Thôi, xin giã từ em!
- Không hãy nán lại giây phút. -Imogène rên rỉ- Dẫu anh chỉ xa em để đi dạo mát, buổi chia ly này cũng chỉ là ngắn ngủi. Anh hãy nhìn, đây là chiếc nhẫn kim cương do mẹ em để lại, hãy đeo vào và gìn giữ nó cho đến ngày nào Imogène chết đi, rồi anh sẽ cưới vợ khác.
Posthumus nhận lấy món báu vật, rồi đeo vào cổ tay xinh xắn của Imogène chiếc vòng, tín vật tình yêu, mà nàng hứa sẽ chẳng bao giờ cởi ra. Rồi chàng ra đi, xua đuổi bởi Cymbeline, với những câu nguyền rủa thậm tệ. Thật lâu sau đó, nàng chỉ luôn tơ tưởng đến chuyến đi thê thảm. Nàng tự nhủ: “Sao ta không là con của một người chăn cừu và Posthumus chẳng là con của một chú mục đồng lân cận!”. Trong khi đó, Cymbeline, giận dữ vì thấy nàng tuy sầu muộn đến héo hon, nhưng vẫn nhất mực yêu kẻ bị lưu đày, đã không ngớt hầm hừ và thốt bao lời trách mắng, mà nàng chẳng muốn nghe. Tâm hồn nàng dõi theo người lữ khách đến tận bến cảng và xa hơn thế nữa. Nàng mòn mỏi đợi chờ ngày về của lão Pisaniô mà nàng phái đi dọ tin và rất ảo não khi gặp ông quay lại, bởi ông đã chứng kiến chuyến đi của Posthumus.
- Những lời cuối cùng, chàng nói gì? –nàng hỏi.
- Nữ hoàng của anh! Nữ hoàng của anh! Rồi chàng vẫy khăn và đưa lên môi hôn! Cho đến khi mắt còn phân biệt được tôi giữa đám đông, chàng vẫn đứng trên boong tàu, phe phẫy đôi găng tay, cái nón, hay chiếc khăn, như muốn cho tôi hiểu rằng, dù con tàu có lướt nhanh, hồn chàng vẫn lờ lững phía sau.
- Lẽ ra –Imogène nói- người phải đợi đến lúc chàng nhỏ như con chim mới được rời mắt khỏi chàng. Nếu là ta, ta sẽ nhìn chàng cho đến lúc khoảng cách khiến chàng nhỏ tợ con muỗi, tợ đầu cây kim, cho đến khi chàng tan biến trong không khí. Rồi ta sẽ ngoảnh mặt đi mà khóc. Và ta cũng sẽ không cáo biệt chàng, bởi ta còn nhiều điều lý thú muốn nói cho chàng nghe:“rằng ta nghĩ đến chàng vào những giờ nào đó, rằng chàng sẽ gặp ta trong những lời cầu nguyện, lúc đọc kinh buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, vì lúc đó ta đang trên trời để đợi chàng. Nhưng trước khi được trao cho chàng cái hôn từ biệt, cha ta đã bước vào hệt như cơn gió bấc, ông ta đã làm héo tàn mọi mùa hoa nở”.
Công chúa Imogène sầu muộn đã chuyện trò với gã nô bộc trung thành như thế đấy, trong khi chờ đợi tin tức người chồng yêu quí.
Trong lúc đó, Posthumus đã đến La Mã cho qua ngày tháng lưu đày, nơi đây, anh gặp lại vài đồng đội cũ, buộc anh về sống chung với họ. Anh chỉ khuây khỏa nỗi buồn đôi chút những khi ca ngợi người yêu, quả quyết rằng nàng là người đẹp nhất, trong trắng nhất, đức hạnh nhất, và thủy chung hơn bất cứ cô gái Pháp hay Italia nào. Anh ví nàng như viên kim cương vô giá và sáng ngời mà họ vẫn trầm trồ trên ngón tay anh. Nhưng một chiều kia, có một gã Italia, tên Iachimo, đến thách thức chàng hãy chứng minh lời nói, vì gã không chịu tin rằng Imogène lại có thể dửng dưng với một tay hiệp sĩ nào đó trong thời gian vắng chồng. Iachimo tự tin vào sức quyến rũ của mình, gã cho rằng tất cả đ
àn bà
đều đỏm dáng, nông nổi, mau đổi thay và gã đoan chắc mình có thể tiếp xúc dễ dàng với người vợ chung thủy và u buồn nhất, rằng gã sẽ lãnh vai trò giải khuây và mang lại hứng thú cho nàng, đến mức khiến nàng quên khuấy kẻ lưu đ
ày trong một thời gian.
Posthumus tin chắc vợ mình chẳng thiết tha bất cứ điều gì khi vắng anh, song le, không chịu nổi, cuối cùng anh đã khinh xuất khi nhận đánh cuộc với Iachimo. Anh cuộc chiếc nhẫn kim cương của mình với mười ngàn đồng Đuy-ca, phân nửa gia sản của Iachimo, là chẳng ai có thể mang lại bằng chứng rằng vợ anh có phút nào đó quên anh -rồi đặt tay lên đốc kiếm, anh tự hứa sẽ trừng phạt đích đáng kẻ hợm hĩnh, cứ tưởng dễ dàng lung lạc trái tim chung thủy của một người đàn bà.
Iachimo xoay được nhiều thư giới thiệu để tiến triều và đi ngay sang Anh quốc. Ngay khi đến nơi, gã xin được yết kiến công chúa. Nàng đón tiếp vị khách La Mã với sự vồn vã ân cần của người đ
àn bà
đã từ lâu mong ngóng tin chồng. Dù rằng nhan sắc diễm lệ và thái độ trang nghiêm của nàng có làm gã nao núng trong những phút đầu tiên, nhưng kẻ bạo gan vẫn không mất bình tĩnh, gã mua chuộc lòng nàng bằng cách nhắc đến Posthumus và cuộc sống của chàng ở La Mã.
“Anh ta vui vẻ quá chừng, gã nói. Hiếm có khách lạ nào ở La Mã lại vui tính và hay đùa cợt đến thế: thiên hạ gọi anh chàng là gã “người Anh vui vẻ”! Imogène trầm ngâm, trả lời:
- Lúc còn ở đây, chàng vẫn hay buồn nhiều khi thật vô cớ.
Gã mô tả Posthumus khác hẳn với hình ảnh mà nàng khắc sâu trong tâm khảm. Nàng háo hức lắng nghe, rồi dần dần một nỗi buồn man mác xâm chiếm lòng nàng. Gã trơ tráo đến mức khiến nàng tưởng rằng người chồng xa cách đã quên lãng mình, còn cho đó là một thử thách. Nhưng dù gã tán hươu tán vượn thế nào đi nữa, có thể nói chẳng giây phút nào Imogène lại thôi nghĩ đến Posthumus. Gã thấy rõ mình đã thua cuộc, nên quyết định phải thắng bằng mưu kế.
Gã nài nỉ công chúa, lúc đêm khuya tăm tối cho gã được gửi cái rương to chứa đầy báu vật trong phòng riêng của nàng, đến sáng hôm sau là gã lên đường. Nhưng khốn nạn thay, gã tự giam mình trong rương, đến khuya lại mò ra, bất chợt những lời than thở của Imogène thốt ra trong lúc ngủ say -người đ
àn bà hiền dịu đang mơ tưởng đến chồng mình- lục lọi khắp phòng, quan sát mọi nơi, cuối cùng đoạt luôn chiếc vòng của Imogène. Đến sáng, gã cầm chắc trong tay những gì có thể khiến Posthumus tin rằng gã vừa nhanh chóng chiếm được lòng tin cậy của cô công chúa hồn nhiên vô tội.
Gã không quên đoan chắc với kẻ lưu đày khốn khổ rằng anh đã bị lãng quên. Gã kể rằng công chúa đã tiếp gã trong khuê phòng và mô tả cách trang hoàng nơi đó:
“ Những tấm thảm lụa và ngân tuyến trình bày nữ hoàng Cléopatre kiêu hãnh trong giây phút hội ngộ với Marc Antoine; dòng Cydnus(1) ngạo nghễ dưới sức nặng các chiến thuyền. Ôi! Thật là một kỳ công. Lò sưởi ở giữa, phía trên có bức phù điêu mô tả Diane đang tắm: thật là một bức chân dung sống động. Nhà
điêu khắc, giống như người sáng tạo, đã mang sinh khí và cử động đến cho tác phẩm. Trần nhà, được tô điểm bởi những chú bé con bụ bẫm bằng vàng chạm nổi. Giá sắt là hai thần Cupidon nạm bạc, mắt bịt vải đứng một chân và tựa vào các ngọn đuốc.”
Posthumus cho rằng những cái đó rất phổ biến trong cung điện Cymbeline, người ta nghe nói đã nhiều, bởi thế Iachimo có thể nghe lỏm từ cửa miệng một thổ nữ, nhưng gã Iachimo không chịu buông tha chàng, vẫn tiếp tục lải nhải. Gã trưng ra chiếc vòng mà gã bảo là Imogène vừa tặng gã, vừa thủ thỉ: “trước đây, nó rất quí báu đối với em”. Tên phản phúc còn mô tả cả vết thẹo nhỏ bên thái dương công chúa mà Posthumus đã hôn lên bao lần. Thất vọng, rồi cuối cùng bị khuất phục, Posthumus bỏ cuộc và đ
ành mất chiếc nhẫn kim cương anh vẫn giữ gìn đến nay như một kỷ vật thiêng liêng. Nhưng nỗi giận dữ và lòng phẫn uất đã làm tê liệt mọi tình cảm khác, anh rít lên: “Vội quên mình khi mình vừa đi, chẳng chút bền lòng chặt dạ, lại vô cùng lơ đãng!” Anh chỉ còn nghĩ đến giết nàng và hộc tốc viết thư cho tên người hầu Pisaniô, mà anh đã để lại bên nàng, bảo đưa nàng rời xa lâu đ
ài, rồi cắt cổ nàng đi. Và kẻ nông nổi, tuy chẳng còn tin tưởng gì nàng Imogène hiền dịu, lại tin chắc ở nàng đến nơi để giao nàng cho tên sát nhân, anh báo cho nàng biết là mình đã về tới cảng Milford đất Anh.
Quả anh không lầm tí nào, khi nghĩ rằng nàng sẽ bí mật tìm mọi cách đến ngay với anh. Thực thế, nàng thoát khỏi lâu đài và ra đi với Pisanio. Đến giữa rừng rậm, khi sinh mạng nàng đã nằm trong tay, gã người hầu không có được cái can đảm man rợ để giết nàng, nên nàng vẫn sống. Nhưng gã tiết lộ cái lệnh quái ác của Posthumus, cả hai nhất trí rằng nàng chẳng nên quay về cung điện, tránh sự bám riết của Cloten. Họ quyết định nàng phải cải trang thành một thiếu niên và nàng sẽ tìm gặp viên tướng La Mã Lucius, ông ta chắc sẽ thu nhận nàng với tư cách thị đồng biết múa hát. Bởi vì các binh đoàn La Mã vừa đổ bộ xuống đất Anh, để buộc Cymbeline nạp triều cống cho hoàng đế Auguste.
Nhưng trước khi vào phục vụ dưới quyền Lucius, Imogène đã phải đương đầu với bao nỗi truân chuyên. Sau lúc chia tay với Pisanio, nàng đi bộ ròng rã thật lâu, đến lúc kiệt sức vì mệt và đói, mới tới trước một cái động; trông thấy thức ăn, nàng vội vồ lấy nhai ngấu nghiến. Những người cư ngụ trong động chẳng mấy chốc hiện ra. Một ông lão và hai thanh niên khôi ngô tuấn tú, sống giữa rừng nhờ vào các thứ săn được.
Ông lão đã từng biết qua các thành phố lớn, cả chiến tranh và vinh quang nữa, nhưng bị thất sủng, nên về ẩn náu nơi cảnh quạnh hiu cô tịch và nuôi dạy hai chàng trai trẻ, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Những người này lại luôn mơ ước được chiến đấu, họ cầu mong có dịp thi thố tài năng và tỏ rõ lòng dũng cảm. Cả ba đều ân cần tiếp đón chàng trai phiêu lãng và Imogène cảm thấy gắn bó một cách khó hiểu với hai người trẻ tuổi kia, họ cũng rất quí mến người bạn do định mênh run rủi đến với họ.
Rủi thay, một hôm Imogène ngã bệnh và mệt nhoài, trong lúc các chủ trọ đều đi vắng, để chữa cho mau lành, nàng dùng liều thuốc của Pisanio để lại, thuốc này do hoàng hậu, vợ của Cymbeline trao cho gã. Mụ đàn bà
độc ác ngỡ đó là viên thuốc độc cực mạnh dành riêng cho Imogène, nhưng lão y sĩ nhận lệnh bào chế viên thuốc ấy đã tỏ ra dè dặt, không theo lời bà, lão đưa cho hoàng hậu viên thuốc chỉ có khả năng khiến người uống ngủ vùi một giấc dài nặng nề như chết mà thôi. Than ôi! Viên thuốc quả là công hiệu, và ba người thợ săn khi quay về, bắt gặp Imogène nằm thiêm thiếp bất động, cứ tưởng nàng đã lìa trần.
Hơn nữa, họ vừa vô tình giết chết Cloten, giải thoát nàng khỏi tay một kẻ vẫn gây khổ cho nàng, đang theo dấu vết nàng vào tận rừng sâu. Họ khâm liệm cả hai thi thể, nhưng trong khi vội vàng tống khứ cho rảnh mắt cái xác chết của Cloten, họ than khóc và thương tiếc không nguôi người bạn trẻ, con chim nhỏ, cánh hoa huệ trinh trắng của họ. Họ phủ hoa đầy phần mộ ngào ngạt hương thơm, nào anh-thảo, nào cát-cánh, nào hồng hoang, nào thanh-đài, vừa kể lể vừa hát điếu ca. Chính nơi đó, nằm trên lớp cỏ đẫm sương mai, Imogène đã tỉnh dậy sau giấc ngủ nặng nề. Nàng lại lên đường đi Milford và gặp cái binh đoàn La Mã đã thu nhận nàng làm thị đồng và
đem nàng theo họ.
Cùng lúc, vua Cymbeline cảm thấy những tai họa của thời đã qua giờ lại tái diễn. Bọn La Mã trở lại xâm chiếm xứ sở, con gái ông biến mất, con trai của bà vợ thứ cũng biệt tăm. Ông đang lâm vào cảnh hiểm nghèo, bất ngờ bỗng được cứu nguy. Bốn người lạ mặt: ba chiến binh và một nông dân, tự mình chống giữ một đường đèo hiểm trở và mang lại chiến thắng cho nước Anh. Cymbeline thoát nạn, cho dẫn tất cả tù binh đến trước mặt ngài, và cho người đi tìm các anh hùng vô danh.
Bỗng nhiên, ngài nhận ra giữa bọn tù La Mã một chàng trai trẻ, mà họ kêu nài được khoan hồng. Nhác thấy, ngài đã hài lòng đến nỗi tự hứa sẽ tha ngay theo lời thỉnh cầu đầu tiên. Chàng trai trẻ đó, -chính là Imogène – yêu cầu một người La Mã hiện diện tại đó, giải thích vì sao hắn ta chiếm được chiếc nhẫn kim cương kỳ diệu đang lấp lánh trên ngón tay hắn. Người La Mã đó chẳng ai khác hơn là Iachimo. Hắn xem như mình sắp chết đến nơi, chẳng còn e ngại gì mà phải dối trá, nên đã thú nhận mưu kế và thủ đoạn của mình.
Ngay lúc đó, Posthumus từ hàng ngũ những kẻ bị bắt xông ra định giết hắn. Pisanio vừa nhận ra Imogène cũng nhảy bổ tới. Imogène ngả vào vòng tay vua cha. Ngài khoan hồng cho tất cả mọi người, vì chính ngài mới là kẻ duy nhất gây nên tội.
Cuối cùng, ngài nhận ra ông lão cư ngụ giữa rừng là Belarius, xưa kia bị lưu đày đã bắt cóc hai người con trai của Cymbeline mang theo. Giờ đây, ông giao họ lại cho đức vua, cha của họ. Ngài lấy làm mãn nguyện khi hiểu ra rằng, họ là ba người đứng ra chiến đấu bảo vệ vương quốc, hỗ trợ bởi gã nông dân, chẳng ai khác hơn là Posthumus. Mọi việc được phơi bày ra ánh sáng, họ ôm nhau, mừng mừng tủi tủi. Đức vua Cymbeline nối tình giao hảo với La Mã và tạ ơn trời đất.
Chú thích:
1) Cydnus: dòng sông ở Silicie (Tiểu Á), Alexandre le Grand có lần suýt chết vì tắm lúc dòng nước giá băng. Năm 42 Trước CN, Marc Antoine tổ chức nhiều buổi liên hoan ven bờ và trê
2904
Anh chê bé làm thơ sao vụng thế,
Vần trật nhịp, mực ti'm quẹt lem nhem ...
"Có chịu không, mỗi buổi, để anh kèm,
Chỉ mình bé là ngoại lệ : miễn phí ..."
Rồi anh dạy gieo những vần hoa mỹ ...
"Biết yêu đi, rồi sẽ biết làm thơ !"
Anh đùa cợt, bé cắn bút thẫn thờ :
"Yêu là gì ? học trò chưa nghĩ đến ..."
"Này cô bé, tình yêu không bờ bến,
Muốn dạy thật chẳng biết dạy từ đâu,
Thôi thì bé ráng đợi vài năm sau,
Rồi sẽ hiểu, anh yêu bé nhiều lắm ..."
Nhưng anh đi, từ ấy, bao năm tháng,
Bé bây giờ đã lớn, biết làm thơ ...
Thơ của bé mỗi chữ đều ngóng chờ,
Vần biết khóc vì tim yêu rồi đó ...
Anh ở đâu giữa cuộc đời chớn chở ?
Em muôn chiều lạc bước những gió giông,
Thơ em đó, anh dạy, ý thơ nồng,
Chỉ để khóc thuở làm thơ vụng quá ... 1537
Trong phòng xưng tội, một phụ nữ Mỹ ngồi trước vị linh mục:
- Thưa cha, chồng con vừa qua đời đêm qua. Con có lỗi với anh ấy.
- Chúa tha tội cho con! Hãy chuộc lại lỗi lầm bằng cách thực hiện mong ước cuối cùng của người đã khuất. Thế trước khi qua đời anh ta có cầu xin điều gì không?
- Dạ, khó nói lắm!
- Con cứ nói! Đó là những nguyện ước thiêng liêng.
- Anh ta van vỉ con: "Em đừng bắn! Hãy cho anh một cơ hội cuối cùng!".2167
Trong một chung cư nọ, ông lão sống ở tầng dưới còn cậu thanh niên ở tầng trên. Cứ 11 giờ đêm ông lại thức giấc vì chàng trai đi chơi về, tháo giày ném rầm rầm xuống sàn. Ông già gặp chàng trai và nói:
- Cháu ơi, nếu về khuya thì cháu làm ơn tháo giày đặt xuống sàn, đừng vứt mạnh làm ông giật mình mất ngủ. Cậu thanh niên biết lỗi, vâng dạ rối rít. Khuya hôm sau, theo thói quen cậu ta lại tháo chiếc giày thứ nhất vứt đánh rầm xuống sàn nhà. Chợt nhớ ra lời dặn của ông già, chiếc kia cậu vội nhẹ nhàng đặt cạnh chân giường. Khá lâu sau, cậu thanh niên giật mình thấy ông lão từ dưới gác mò lên, khẩn khoản:
- Cháu ơi, cháu làm ơn vứt nốt chiếc giày còn lại xuống đi để ông còn bắt đầu ngủ.
2149
Anh chàng giám đốc một công ty nói với người yêu:
Em yêu! Anh rất muốn lễ cưới của chúng mình sẽ được tổ chức ngay.
Ôi anh yêu! Sao anh vội thế, cứ để một thời gian nữa đã.
Nhưng để làm gì?
Để em xem công ty của anh có chắc chắn tồn tại được không.2773
Một doanh nghiệp mới thành lập có nhu cầu tuyển dụng nhân viên văn phòng. Họ treo một tấm biển ngoài cửa sổ trụ sở công ty, có ghi hàng chữ: "Tuyển dụng - Mọi ứng viên đều có cơ hội nếu đánh máy thạo, sử dụng tốt máy tính và biết một ngoại ngữ".
Một con chó hoang đi qua trụ sở công ty nhìn thấy bảng quảng cáo liền đẩy cửa đi vào. Nó ngước nhìn người lễ tân, vẫy đuôi, bước lại chỗ tấm biển và kêu rít lên.
Hiểu ý, người lễ tân liền gọi trưởng phòng tới. Ông ta cực kỳ ngạc nhiên khi biết ứng viên là một con chó. Tuy nhiên, vì vị khách bốn chân này có vẻ rất quyết tâm, ông vẫn cho nó vào phòng riêng để phỏng vấn. Đầu tiên, ông từ chối:
- Một chú cún con không thích hợp cho vị trí này. Công việc đòi hỏi ứng viên phải biết đánh máy.
Con chó chạy lại chỗ máy chữ và soạn thảo một lá thư hoàn chỉnh. Nó lấy tờ giấy ra và chạy lại đưa cho ông trưởng phòng rồi nhảy lên ghế ngồi chễm chệ.
Ông trưởng phòng choáng váng nhưng vẫn tìm lý do khác:
- Tấm bảng quảng cáo nêu rõ, ứng viên cần phải thành thạo máy vi tính.
Con chó chạy lại chỗ đặt máy tính, thao tác một cách cực kỳ ngon lành và hoàn tất một biểu mẫu tính thuế hoàn chỉnh.
Lần này, ông trưởng phòng nói không nên lời. Nghẹn giọng mất một lúc, ông mới lên tiếng:
- Tôi thấy rằng cậu là một chú chó rất, rất thông minh và có một số khả năng thú vị. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể giao công việc này cho cậu được.
Con chó nhảy xuống ghế, chạy lại chỗ một bản copy của bảng quảng cáo tuyển dụng và đặt chân trước lên dòng chữ: Mọi ứng viên đều có cơ hội.
Ông trưởng phòng nhún vai:
- Đúng vậy, nhưng công việc còn yêu cầu ứng viên phải biết một ngoại ngữ.
Con chó nhìn ông trưởng phòng một cách bình thản và cất tiếng:
- Me..e..e..o..o..o!
2677
Hai vợ chồng ngồi tâm sự với nhau, vợ nũng nịu:
- Trước đây, anh nói với em là mỗi ngày anh chỉ cần được gặp em một vài phút là đã thấy sung sướng lắm rồi, thế mà bây giờ anh... Chồng ôn tồn nói với vợ:
- Bây giờ, anh cũng chỉ muốn như vậy thôi mà!
2361
T
Ngoài trời vẫn lạnh, mùa đông nơi đây vẫn còn để thấy một vài cơn tuyết đi về, cây bradford trước nhà trơ trụi lá trông như bộ xương khô đang được tô điểm bằng những bông tuyết bay phất phới tạo nên một bức tranh thật hoang lạnh, để những kỷ niệm xưa cũ vẫn đi về như những bóng ma chập chờn níu kéo từ một hố thẳm ký ức nào đó. Tiếng điện thoại reo vang làm Quỳnh giật mình.
- Quỳnh đang làm gì đó? vừa gọi đến sở làm họ bảo Quỳnh bị đau không đi làm, bộ Quỳnh đau thật ha?
Quỳnh cười nhẹ chống đỡ:
- Đâu có, tại lười nên lấy cớ vậy thôi, nhưng sao không chờ cuối tuần gọi mà lại gọi vào giờ này?
Ái giả bộ trách móc:
- Thì nhớ lúc nào gọi lúc ấy không được hả? Sao mà khó tính thế? người ta gọi để rủ sang Canada ăn tết với gia đình đây nè. Sang chơi chứ không thôi lũ nhỏ cứ nhắc đến dì Quỳnh mãi đấy.
Lặng im nhìn qua cửa sổ, những bông tuyết rơi càng lúc càng nhiều, sân cỏ khô trước nhà không còn dấu vết của những cơn nắng hạ, chỉ thấy một bãi trắng xoá, phủ kín cả lối đi. Quỳnh bâng quơ:
- Thôi, không sang đâu, bên này đang lạnh lắm, tuyết rơi đầy sân đủ để buồn rũ người ra đây nè, sang Canada để kiếm thêm cái lạnh vào người nữa sao? Nói với đám nhóc khi nào hết lạnh dì Quỳnh sang.
Ái không chịu kêu lên:
- Cái gì mà lạnh? cái gì mà buồn? cứ như mình là con chim trốn tuyết không bằng. Sang đây đi, sang đây để thấy cái tuyết, cái lạnh ở đây đẹp và dễ thương chứ không giống như chỗ Quỳnh ở đâu, vả lại tết này ở Toronto có nhiều mục lắm, có cả hội chợ nữa. Quỳnh mà không sang mình cũng cứ gởi vé máy bay cho Quỳnh đấy.
Không ngờ Ái gởi thật, thế là Quỳnh đành thu xếp công việc sang Canada ăn tết đúng vào cái ngày cuối năm. Cái ngày mà dù ở văn-phòng có bận cách mấy, Quỳnh cũng cứ kiếm cớ ở nhà chùm kín chăn đọc sách hay nằm nghe nhạc.
Ngày cuối năm sau những ngày lễ Thanksgiving, Christmas và New Year, hành khách đã bớt hẳn, phi trường vắng vẻ hẳn ra, không thấy một người VN hay Á Châu nào cả, chỉ mỗi mình Quỳnh với lác-đác những người dân bản xứ, vì Ái gởi vé đi gấp nên đường bay đã phải ngừng lại nhiều nơi để đón khách. Nhanh chân bước theo người tiếp viên tìm ghế ngồi, Quỳnh cẩn thận bước vào ghế trong sát cửa sổ. Người tiếp viên trước mặt đang lôi từng vật dụng cấp cứu ra để chỉ dẫn cách xử dụng và những điều phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp. Tiếng động cơ bắt đầu ầm-ỹ, con tàu lắc-lư, rít bánh trên phi-đạo rồi từ-từ lên cao làm Quỳnh rùng mình nhắm mắt. Khi tiếng động cơ đã êm trở lại, Quỳnh mở mắt nhìn qua khung cửa nhỏ, những building, nhà cửa, đường xá nhỏ dần rồi mất hút phía dưới. Bên ngoài không thấy gì ngoài những đám mây bàng bạc, xam-xám làm đầu óc Quỳnh lơ-đãng mông-lung.
- Xin lỗi, hình như cái khăn này của Cô thì phải?
Quỳnh giật mình quay lại, người đàn ông ngồi bên cạnh mà lúc nãy khi bước vào Quỳnh thấy che quyển báo trên mặt là một người VN, người đồng hương của Quỳnh. E-thẹn khi thấy chiếc khăn quàng cổ trên tay người khách lạ, Quỳnh cầm lấy ấp-úng :
- Dạ thưa vâng, nãy vội quá chắc tôi làm rơi... nhưng hình như không phải ông đi từ Oklahoma?
- Vâng, tôi đi từ Dallas, và hình như cô đi Canada phải không ạ?
Quỳnh ngạc nhiên:
- Thưa vâng, nhưng sao Ông biết?
- Tôi chỉ hy vọng vậy thôi, vì tôi cũng đi Canada.
Quỳnh mỉm cười im lặng. Người đàn Ông gợi chuyện:
- Tôi là Phú, xin lỗi tôi có thể biết tên cô để tiếp chuyện được không? Đường bay dài, mong sẽ đốt ngắn được thời gian.
- Vâng, tôi là Quỳnh Châu, nhưng gia đình và bạn bè lại cứ gọi tôi là Quỳnh.
- Tên Quỳnh đẹp quá, thế cô Quỳnh về ăn tết với gia đình hả?
Quỳnh thấp giọng:
- Dạ không, tôi chỉ sang chơi thôi ạ, thế còn Ông? chắc ông về Canada ăn tết với gia đình?
Liếc mắt nhìn bàn tay thon nhỏ mịn màng không đeo nhẫn của Quỳnh, Phú cảm thấy một sự yên tâm, một sự yên tâm vô cớ làm chàng muốn bật cười với chính mình:
- Không, tôi cũng như cô, không có cái diễm phúc ấy... không ngờ tôi với cô lại giống nhau trong chuyến đi cuối năm này...
Phú trầm ngâm tiếp:
- Cô Quỳnh nhìn quanh xem, chẳng có người VN nào giống mình cả, ai cũng tim về với gia đình, chỉ có những người không gia đình mới bỏ đi thôi, nhưng chẳng thà đi còn hơn là cứ ở nhà gậm nhấm nỗi buồn với bốn bức tường, ra vào chẳng biết làm gì, đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận chuyện gia đình, thành ra những năm mới sang, tết nào cũng một mình, một rượu say mèm để đừng nghĩ đến chuyện gì khác, rồi say quá ngủ mê mệt cho đến khi đi làm trở lại... thế là xong một cái tết.
Quỳnh im lặng, chợt thấy lòng trùng xuống, nỗi buồn như ào lấy vây quanh, như có người vừa đốt lên ngọn đèn soi rõ nỗi buồn cô đọng của nàng. Vâng, Quỳnh cũng có nỗi buồn, cũng có nỗi cô đơn của riêng Quỳnh. Nỗi buồn, nỗi cô đơn như vỏ ốc kiên cố giam giữ Quỳnh suốt bao nhiêu năm trời, sau cái ngày không giống một ngày nào đó trong đời Quỳnh. Từ cái ngày mà người ấy bỏ ra đi, đi vội vàng, đi bất ngờ, đi không một lời nhắn nhủ từ giã để cho Quỳnh xanh xao với nỗi nhớ, nỗi đau. Dù đã quá lâu, dù tất cả đã rong rêu vàng úa, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi về réo gọi Quỳnh trong những giấc mơ mà khi tỉnh dậy, Quỳnh cảm thấy nuối-tiếc, ngẩn-ngơ, bần-thần cả một ngày dài đôi khi tiếp nối cả qua ngày hôm sau. Không thấy Quỳnh nói gì, Phú lên tiếng:
- Cô Quỳnh hình như ít đi xa lắm phải không?
- Dạ thưa vâng, đi xa vào những dịp cuối năm tôi không mấy thích cho mấy, nhưng hôm nay vì nể bạn bè thành ra...
Quỳnh buông lửng câu nói, Phú tiếp:
-Vậy bạn của cô Quỳnh chắc dặc-biệt lắm nhỉ? thế bạn của Quỳnh ở ngay tại Toronto hay ở đâu?
- Dạ thưa ở Toronto, chắc ông cũng hay đến Toronto lắm phải không ạ?
- Vâng, bạn bè tôi ở đấy cũng nhiều, t
hành ra khi nào có dịp là bay sang ngay, nhưng thường thường tôi thích đi vào tháng 10, tháng 11 hơn vì ở đấy mùa thu rất là đẹp, lá vàng rơi đẹp đến nỗi ai cũng chờ mùa thu về để rủ nhau đi thưởng ngoạn cả, tôi nghĩ không ở đâu có mùa thu đẹp bằng ở Canada. Nếu có dịp, cô Quỳnh nên đến vào những tháng ấy một lần cho biết... à, thế Quỳnh ở Toronto thì bao giờ thì trở lại Mỹ?
- Dạ mùng 10 ạ.
Bên ngoài khung cửa nhỏ, những mảng tuyết bay lãng-đãng, những cụm mây xám làm thân tàu nhấp-nhô, lắc lư đến chóng mặt. Quỳnh nhắm mắt thật chặt, mím chặt môi như cố đè nén những khó chịu, những ngầy-ngậy bên trong. Quỳnh nghe tiếng Phú, nhưng không hiểu Phú đang nói gì, khuôn mặt nàng cảm thấy lạnh buốt, tiếng Phú lần này cất lên, nghe rõ hơn:
- Cô Quỳnh chóng mặt phải không?
Quỳnh gật đầu nhưng vẫn nhắm mắt. Phú bắt đầu lục lọi, chàng lôi ra một cái bao ny-lon nhét vào tay Quỳnh, nói nhỏ bên tai:
- Quỳnh cầm cái bao này để nếu cần thì dùng nhé!
Quỳnh lại gật đầu, mắt vẫn nhắm nghiền, con tàu lại lắc lư làm Quỳnh cuống quýt cầm cái bao Phú vừa đưa, gập người nôn thốc như không còn kềm chế được một thứ gì bên trong, mái tóc dài rũ xuống che phủ một bên mặt, Phú nhìn ái ngại, chàng đưa tay vén nhẹ mái tóc dài của Quỳnh kéo về phía sau. Một vài hành khách cũng đang ngất ngư như Quỳnh, thời tiết xấu nên máy bay cư dập dềnh y như xe cộ đang đi trên những con đường đầy ổ gà tại VN. Một lúc sau, Quỳnh cảm thấy dễ chịu hơn, dựa thẳng người ra ghế, Quỳnh nói nhỏ, giọng thật yếu ớt run run:
- Quỳnh xin lỗi ông Phú nhé...
Đôi mắt to tròn, long lanh nước trong khoé mắt làm chàng thoáng rung động. Phú cầm lấy chiếc bao trên tay Quỳnh cột lại và đi về phía sau. Một lúc chàng trở lại với một xấp khăn giấy tẩm ướt nước nóng trao cho Quỳnh:
- Quỳnh lau mặt cho tỉnh táo, đây cái bao khác, nếu cần cứ cho vào đấy, đừng giữ lại để thêm chóng mặt.
Quỳnh ngượng ngùng cầm lấy, ấp úng:
- Quỳnh làm phiền ông Phú quá, may có ông Phú bên cạnh, nếu không...
Quỳnh buông lửng câu nói, Phú nhìn nàng mỉm cười:
- Quỳnh đừng ngại, không có gì phiền cả, tôi nghĩ Quỳnh nên nhắm mắt lại một tý cho khoẻ. À, Quỳnh có cần uống nước gì không?
- Dạ không, cám ơn.
Quỳnh nhắm mắt, một lúc thiếp dần vào giấc ngủ, Quỳnh say sưa ngủ như không biết đang dựa đầu lên vai chàng. Khuôn mặt xanh xao phảng phất nỗi buồn sâu kín nào đó như vừa trải qua những tháng ngày xao động. Đôi mắt to tròn như thảng thốt như bám chặt lấy tâm trí chàng. Phú chợt nhớ đến Yến, Yến của một Pleiku má đỏ môi hồng, Yến của thành phố chỉ đi có 5 phút lại trở về chốn cũ. Yến của ngày xưa đó đã đem đến cho chàng những yên tâm, những hạnh phúc, những tiếng cười sau những ngày hành quân miệt mài cả tháng trong rừng. Yến của sau ngày 30/4 đen tối đã khóc vùi trong tay chàng, đã thề thốt đợi chàng về, nhưng chưa được một năm sau, Mẹ Phú trong một lần thăm nuôi cho biết Yến đã lấy chồng và đã xuất ngoại.
Phú đau từ đấy, cái đau như những vết thương hằn sâu mà bao nhiêu năm trời chàng muốn tẩy xoá, muốn quên mà vẫn chưa quên được. Phú đau với cái đau tang thương của đất nước trong một ván cờ không minh bạch, mà từ đó đã cuốn theo mốt tình chân thật của chàng. Mối tình mà Phú đã ấp ủ đặt để lên ngôi, đã tôn sùng như con chiên ngoan đạo. Nhưng rồi, đất nước mất, mất tất cả. Mẹ chàng cũng mất theo giòng đời nghiệt ngã đó khi Phú còn chưa biết được ngày về, khi Phú và những người cùng chung số phận đang khốn khổ còn hơn những tên tù khổ sai của giờ thứ 25 mà Phú đã đọc. Phú cảm thấy những người lính bất hạnh như chàng đã chơi-vơi hụt-hẫng trong một khoảng trống tối đen, như bị đánh lừa trong một trò chơi chiến tranh, mà cuối cùng đã bị bắt buộc phải buông súng đứng yên làm kẻ bại trận.
Khi trở về, Phú bàng hoàng lạc-lõng, vì tất cả không còn giống như ngày chàng ra đi, tất cả như đảo ngược. Phú cảm thấy nỗi đau, nỗi hận chồng chất lên nhau để rồi từ đó chàng dửng dưng với tất cả mọi chuyện. Nỗi buồn không lối thoát như đông cứng, như băng giá đến nỗi Phú không còn cảm giác về cái buồn cái đau được nữa. Giòng đời cứ từ từ biến đổi cũng như đã biến đổi cuộc đời chàng. Đã đưa đẩy sang đến bên này để trong một buổi dạ tiệc tất-niên do Binh-Chủng của Phú tổ chức. Phú đã bất ngờ gặp lại Yến, Yến đẹp kiêu sa, lộng lẫy trong chiếc áo dạ hội đắt tiền, ở nàng lấp lánh những trang sức mà Phú không thể nào biết được cái giá trị của nó. Phú nhìn Yến đăm đăm, ở Yến, chàng không còn thấy một tý gì của Yến ngày xưa. Yến đang tíu-tít cười nói bên chồng, bên bạn bè, bên những điệu nhạc quay cuồng, nhưng khi vô tình nhìn thấy chàng... Yến khựng lại sửng-sốt nhìn Phú, như không ngờ có ngày gặp lại chàng nơi miền đất xa lạ này. Phú cũng bối rối không kém vì sự bất ngờ... để tránh sự khó chịu cho Yến, cho chàng, nên Phú lặng lẽ bỏ ra về. Đêm ấy chàng đã uống rượu thật say, say đến không còn biết gì nữa. Hai tuần sau, Phú lặng lẽ rời bỏ thành phố hoa vàng, thành phố nổi tiếng có nắng ấm để đến một nơi mà Phú hy vọng sẽ không gặp lại.
Máy bay bắt đầu hạ xuống phi trường. Đường đi Toronto bao giờ cũng phải ngừng lại ở Chicago để đổi chuyến bay. Mọi người lục-đục đứng lên sửa soạn hành lý, Quỳnh vẫn say sưa ngủ, Phú đánh thức nàng dậy, Quỳnh mở bừng mắt ngơ-ngác:
- Ủa, đến Toronto rồi sao?
Phú mỉm cười:
- Không, mới đến phi trường Chicago mà thôi, Quỳnh có gì xách không đưa tôi xách hộ? Mình phải nhanh lên để kịp chuyến bay tới.
Quỳnh gật đầu, ngượng-ngùng vuốt lại mái tóc, màu đỏ đã ửng lại trên khuôn mặt buồn xanh xao lúc nãy. Quỳnh nhờ Phú lấy hộ cái va ly nhỏ ở phía trên và theo chàng bước ra khỏi máy bay. Phi trường Oklahoma vắng vẻ bao nhiêu thì phi-trường Chicago lại ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu. Đông như vậy mà Quỳnh vẫn không thấy một khôn mặt VN hay Á Đông nào khác. Bởi giờ này, có lẽ mọi người đã tìm về với gia đình, đang quây quần bên nhau vào những ngày cuối năm, chứ đâu có ai như nàng, như Phú là những kẻ bỏ đi, bỏ đi như trốn chạy sự cô đơn, sự trống vắng của chính mình. 15 phút sau, 2 người mới tìm được cổng vào của chuyến bay đi Toronto. Sau khi làm xong thủ tục, Phú đưa tay nhìn đồng hồ:
- Còn 10 phút nữa, cô Quỳnh có mệt lắm không?
Quỳnh đưa tay cột lại mái tóc, e-thẹn bào chữa cho sự mệt mỏi của mình lúc nãy trên máy bay:
- Dạ cám ơn, Quỳnh thấy đỡ nhiều lắm rồi, đi máy bay kỳ này ghê quá, cứ nghĩ đến phải lên máy bay là thấy sợ ghê đi, không ngờ Quỳnh lại làm phiền ông Phú đến như vậy!... Cũng may là hôm nay gặp được Ông Phú, nếu không... đi máy bay kiểu này chắc Quỳnh đứng tim mất thôi.
Phú ngồi xuống bên cạnh vui vẻ:
- Đâu có gì mà Quỳnh cứ phải bận tâm. Phải nói là hôm nay hên lắm tôi mới được xếp ngồi bên cạnh Quỳnh đấy chứ, vả lại hôm nay thời tiết xấu quá thành ra hành khách ai cũng mệt cả.
Chợt có tiếng thông cáo lồng lộng trong máy, tất cả các chuyến bay đều bị đình lại cho đến sáng hom sau vì thời tiết xấu. Quỳnh hoảng hốt nhìn Phú rồi lại nhìn lên bảng, chỗ đã xếp chuyến bay nhưng không có giờ khởi hành. Phú thấy đôi mắt lo sợ của Quỳnh, chàng cười trấn an:
- Không sao đâu, Quỳnh đừng lo, chuyện đình lại những chuyến bay như thế này là chuyện thường xảy ra vào mùa đông khi gặp thời tiết xấu, không sao cả, thế nào rồi ngày mai mình cũng đến được Canada mà. Bây giờ mình ra phố kiếm tiệm VN nào đó ghé vào rồi trở lại đây. Quỳnh nên ăn một tý gì cho ấm bụng... vả lại tôi cũng đã thấy đói bụng lắm rồi.
Quỳnh ngập ngừng:
- Nhưng tối nay giao thừa, đâu có tiệm nào mở cửa?
Phú ngẩn người gật đầu:
- Ừ nhỉ, tôi quên mất, nhưng mình cũng cần phải ra khỏi nơi này đã, không lý mình cứ ở đây suốt đêm sao? không có tiệm ăn VN thì cũng có những tiệm ăn khác vậy, chàng đùa tiếp:
- Mình vừa ăn, vừa nói chuyện, vừa đón giao thừa luôn.
Quỳnh mỉm cười với câu nói của Phú nhưng vẫn bối rối vì chuyến bay bị đình lại. Quỳnh chán nản đứng dậy đeo túi xách lên vai bước bên cạnh Phú. Những bước đi chậm rãi, không còn hấp tấp vội vàng như lúc vừa ra khỏi máy bay. Xe taxi đưa 2 người ra phố, thành phố Chicago quá đẹp và sầm uất với những building cao đồ sộ, không bì với một nhóm building cao của thành phố Quỳnh đang ở. Phú đưa nàng vào tiệm ăn trên một toà nhà cao chót vót, ở đó Quỳnh có thể nhìn thấy khắp thành phố Chicago mà không cần phải đi đâu cả.
- Quỳnh gọi thức ăn nhé!
Quỳnh lắc đầu từ chối, nàng đẩy thực đơn về phía Phú:
- Quỳnh không rành lắm đâu, Ông Phú gọi hộ cho Quỳnh đi.
Phú gọi thức ăn và một chai Champagne, thấy Quỳnh ngạc nhiên, Phú giải thích:
- Mình phải uống Champagne để đón giao thừa chứ, nhưng nếu Quỳnh không thích thì thôi vậy.
Quỳnh vội vàng lắc đầu mỉm cười:
- Dạ không, không sao cả, ông Phú cứ tự nhiên.
Phú rót rượu ra 2 ly, chàng đưa cho Quỳnh một ly và bảo:
- Mình cụng ly nhé, trước hết chúc Quỳnh một năm hoàn toàn mới, một năm thật nhiều may mắn và toại ý những gì mà Quỳnh đang ước muốn, sau là để kỷ niệm chuyến bay bất ngờ này.
Quỳnh đưa ly lên đủ để chạm nhẹ vào ly chàng, e-thẹn nói khẽ:
- Vâng, Quỳnh cũng xin được chúc Ông Phú như vậy.
Quỳnh nhấp nhẹ, một chút ấm áp nồng nồng trong cổ, bên ngoài bầu trời tối đen, không một vì sao, những ánh đèn đường, đèn từ những toà nhà cao hắt ra chiếu vào nhau, vào những thân cây trụi lá, vào những mái nhà mà cơn gió lạnh vừa qua đã làm đông đá những giọt nước rơi lơ lửng trông như những giọt thạch nhũ lấp lánh thật đẹp. Quỳnh như mất hút trong khung cảnh thần tiên huyễn hoặc đó. Quỳnh nhớ đến những cái tết khi còn bé, khi lớn lên, nhớ đến Mẹ giờ này đang lẻ loi đón giao thừa một mình không có bố bên cạnh. Đến những con đường rợp lá, đến những lần theo người ta lên Chùa hái lộc đầu năm. Quỳnh nhớ đến tấm thẻ bài, chiếc giây đeo cổ mà sau cái ngày đổi đời, có một người đến trao và báo tin người ấy đã bỏ đi, đã đi thật xa, đi đến một nơi mà Quỳnh không thể tìm kiếm được. Đầu óc Quỳnh miên man, Quỳnh lại chợt nhớ đến hiện tại, đến chuyến bay hôm nay, đến người đàn ông đang ngồi trước mặt. Người đàn ông xa lạ mà Quỳnh vừa mới gặp, vừa mới quen nhưng đã có những cử chỉ lo lắng, săn sóc làm Quỳnh cảm động bối rối, một cái gì đó hình như không rõ rệt lắm trong Quỳnh.
- Quỳnh, Quỳnh đang nghĩ gì mà thừ người ra thế, ăn đi chứ!
Quỳnh giật mình quay lại khẽ nói:
-Quỳnh vừa nghĩ nếu trong chuyến bay này không có Ông Phú, không biết Quỳnh sẽ ra sao khi gặp thời tiết như thế này. Chắc Quỳnh sẽ hoảng sợ mà chết đi được.
Phú bật cười, chàng đùa:
- Vâng, tôi cũng nghĩ nếu không có Quỳnh hôm nay, tôi cũng không biết phải đón giao thừa như thế nào nữa!
Quỳnh đỏ mặt đưa ly rượu lên môi hớp nhẹ, Phú ân cần:
-Quỳnh ăn đi chứ, nãy giờ Quỳnh ăn ít quá.
Quỳnh xếp khăn bỏ lại trên bàn:
-Dạ cám ơn, Quỳnh dùng như thế đủ rồi ạ.
Nhìn đồng hồ Quỳnh hỏi:
- Đã đến giờ mình trở lại phi-trường chưa?
Phú nhìn nàng mỉm cười gật đầu, nụ cười âu yếm làm Quỳnh đỏ mặt, cuống quýt ngượng ngiụ, giả bộ kiếm đôi găng tay trong bóp và sửa lại chiếc khăn quàng cổ.
Đường phố vắng tanh, chờ mãi không thấy một chiếc taxi nào chạy ngang, 2 người thả bộ dài trên con đường trước mặt. Tuyết không còn rơi, những con gió lạnh buốt lúc nãy cũng không còn nữa. Quỳnh chợt trượt chân, lao-chao xuýt ngã, Phú nhanh tay đỡ lấy, ôm Quỳnh trong tay một lúc cho Quỳnh lấy lại sự thăng bằng. Hoi thở ấm với mùi rượu thơm của Phú vừa phả lên mặt làm Quỳnh choáng váng.
Phú âu yếm khẽ bảo:
- Quỳnh bước cẩn thận, khéo ngã.
Mặt Quỳnh đỏ bừng, cúi đầu bước đi, tay Phú vẫn đỡ nhẹ sau lưng Quỳnh. Một lúc, chàng chợt dừng lại, xoay Quỳnh sang đối diện hẳn với mình, nhìn thật sâu trong mắt Quỳnh, Phú hỏi:
- Quỳnh, Quỳnh có bao giờ tin vào định mệnh không?
Quỳnh ngước mắt nhìn Phú ngỡ ngàng, bối rối trong giây lát rồi lặng lẽ gật đầu. Hơi thở ấm, mùi đàn ông, lẫn với mùi rượu thơm của Phú làm Quỳnh hồi hộp đến khó thở, chân Quỳnh như đứng không muốn vững. Quỳnh chợt thấy một cái gì đó mới lạ vừa xảy ra, vừa đến với nàng. Quỳnh chợt quên, quên tất cả, quên tấm thẻ bài, quên luôn cả ngày tháng rong rêu vàng úa. Đôi mắt to tròn không còn thấy thảng thốt như con chim bơ-vơ lạc lõng lúc Phú mới gặp. Càng nhìn Quỳnh, Phú càng thấy tim mình đập nhanh. Chàng rung động đến cuống quýt, sự rung-động mà Phú đã thiếu vắng từ lâu, ôm Quỳnh trong tay, Phú từ từ cúi xuống... Bầu trời chợt cao hơn, trong vắt hơn và hình như có vài vì sao vừa xuất hiện trên bầu trời còn đen thẫm. Phú cảm thấy vui, Phú cảm thấy yêu đời, kéo đầu Quỳnh sát vào vai chàng, hai người bước đi, những bước thật chậm, Phú chợt hát lên nho nhỏ: