- Làm thế nào mà ông có thể mua được tòa biệt thự sang trọng này trong khi thu nhập của ông rất thấp? - Kiểm toán viên thuế vụ chất vấn.

- Ô! Tôi đâu có mua! - Người đóng thuế đáp - Hè năm ngoái tôi đi câu và bắt được con cá vàng to. Khi tôi gỡ nó ra khỏi lưỡi câu, nó mở miệng nói: “Tôi là một con cá có phép thuật. Hãy thả tôi về với biển cả, tôi sẽ ban cho ông một ngôi biệt thự tráng lệ!”. Tôi ném con cá xuống biển và được tòa biệt thự này...

Kiểm toán viên nóng nảy ngắt lời:

- Làm sao ông có thể chứng minh chuyện như vậy là có thật chứ?

- Bằng chứng đấy! - Người đóng thuế vừa nói vừa chỉ vào ngôi biệt thự.1982




tôi từ đó nhỏ nhoi như chấu chấu
như cào cào vỗ cánh chả bay xa
người yêu tôi là thảm cỏ mượt mà
khi tôi đậu nàng uốn mình cảm động

tôi từ đó rêu xanh ôm đá tảng
khinh loài người nên chọn kiếp vô tri
người yêu tôi con suối nhỏ thầm thì
âu yếm mãi nỗi sầu tôi một đời chín ủng

tôi từ đó dật dờ như bóng mộng
như chuồn chuồn cánh rã một đêm mưa
người tôi yêu con dế biết đợi chờ
biết nghe hát và thường ưa than thở

tôi từ đó bơ vơ như chiếc lá
cơn gió lùa tôi se sẽ rung rinh
người yêu tôi là tượng đá chung tình
thấy tôi rụng nhìn theo mà chả khóc

tôi từ đó khật khừ như bọ ngựa
tình đam mê không dấu nổi mọi người
hồn đắm đuối làm sao che sự thật

tôi từ đó ải dòn như củi mục
như mảnh bom miếng đạn vỡ trên không
người tôi yêu đêm nước mắt đanh tròng
tôi chợt nhớ từ lâu đã già trước tuổi
992




Tôi viết những dòng này cho bạn bè để chia sẻ một nỗi niềm, cho con tôi và cho H. như một lời trần tình, và cho chính tôi như một lời trăn trối.

Cũng như tôi, đa số các bạn đã từng trải qua những ngày tù đày đói khổ trên cao-nguyên hay núi rừng Bắc Việt. Nhưng những đau đớn thể xác đó không thể so-sánh được với niềm thống khổ mà tôi đã trải qua. Một năm sau ngày tôi bị cưỡng bách học tập cải tạo, nhà tôi mang đứa con chưa đầy năm tuổi vượt biên. Vợ con tôi được một tầu Hoà Lan cứu vớt và định cư tại xứ tự do này. Mười bốn năm tù đầy là mười bốn năm hy-vọng, vì qua em gái tôi, tôi được biết rằng vợ con tôi đã có một đời sống yên lành.

Ngày tôi trở về thành phố cũng là ngày xót xa nhất cuộc đời, còn hơn cả lúc tôi lên xe đi cải tạo. Em gái tôi ngập ngừng cho tôi biết là vợ tôi đã sống chung với một người khác. Những lá thư cuối cùng H. viết về em tôi đã giấu kín vì sợ rằng tôi không chịu được thêm niềm đau tinh thần trong lúc tù đày.

"Trăm nghìn lạy anh, xin anh tha thứ và quên đi người đàn bà không xứng đáng … ".

Tôi vò nát lá thư, đau và tủi, nhưng không có nước mắt để khóc cho mình, cho đời!

Nhưng niềm đau nào rồi cũng nguôi ngoai. Tôi vẫn còn đứa con mà 15 năm tôi chưa gập mặt. Tôi viết thư cho người vợ cũ, chúc H. hạnh phúc và cám ơn H. đã thay tôi nuôi nấng con nên người.

Năm 1991, sau khi đã định cư ở Hoa-Kỳ, tôi lại nhận được thư H.. H. nhắc tới tình yêu đầu đời, êm như dòng sông nhỏ nơi quê nàng, và xin gập tôi một lần: "Một lần với anh, rồi để tuỳ anh, em bao giờ cũng như dòng sông cũ".

Lòng tôi chùng xuống và tôi háo hức mong ngày tái ngộ như thủa mới yêu nhau. Mùa hè năm ấy, H. gọi tôi từ một góc phố, hỏi đường đến căn phòng trọ tôi chia sẻ với người bạn cùng cảnh ngộ. Tôi run-rẫy chải lại mái tóc đã điểm sương để đón H. và thấy mình lúng túng như thủa hai mươi, khi mới biết yêu lần đầu.

Đêm đó H. kể với tôi nổi cô đơn và thống khổ vô-tận của người đàn bà với đứa con nhỏ trên xứ lạ. Từ con sông hiền-hoà, dòng đời đã đưa H. ra biển, và X., một sinh viên du-học, thông dịch viên trong phái đoàn cứu trợ, là cái phao cho H. bám víu, chịu ơn nghĩa, nuôi con và nuôi chồng trong tù.

"Chúng mình sống với nhau được mấy năm, anh thường đi xa, và cuối cùng đi biền biệt, không biết ngày về. Em lúc nào cũng thương nhớ anh, Nhưng X. cho em và con đời sống. Hơn 10 năm nay X. quanh quẩn bên em, tha-thiết và dịu dàng, đưa con đến trường ngày bé dại, đón em những chiều mưa, và hôm qua cặm cụi xếp quần áo cho em sang thăm anh. Đưa em ra phi-trường, X. không nói, chỉ cầm tay, nhưng ánh mắt co trăm điều gửi gấm. Trăm nghìn lạy anh, anh quyết-định sao em cũng chịu. Em không thể nào trọn cả nghĩa lẫn tình."

Tôi ứa nước mắt vì bồi hồi. Trong tù, tôi đau khổ, nhưng tôi không bao giờ cô đơn. Tôi có bạn bè xung quanh, có cái điếu cầy và những cơn say choáng váng đủ để lãng quên đời. Tôi đã may mắn hơn vợ tôi nhiều mà tôi không biết. Lúc đó tôi mới thấy thương nàng, và thương cả X.. Tình yêu của chúng tôi như dòng sông, nhưng X. tới với H. bằng tấm lòng của biển.

"Em nên về bên đó. Con đã trưởng thành và anh cũng đã yên phận. X. cần có em hơn là anh. Cho anh gửi lời cám-ơn."

H. khóc, nhưng trong niềm đau như có cái gì rất an-ủi.

Mùa đông năm ấy con gái tôi cũng qua thăm. Cháu hầu như không nói được tiếng Việt mà tiếng Anh của tôi lúc đó còn rất kém. Người bạn giúp đỡ mỗi lần cha con tôi lúng túng. Tôi tuy nói rất ít nhưng cháu Âu Cơ hình như hiểu rất nhiều. Cháu gọi 'Bố' rất rõ ràng, và trước khi trở về Hoà Lan, cháu mua một chậu hoa hồng, trồng ở đầu hè:

"So you know that I'm around, and that I love you".

Tâm hồn tôi bây giờ rất bình yên. Lâu lâu tôi lên chùa Từ Sơn nói chuyện 'thiền' với thầy Đức. Một mai tôi ra đi, xin các bạn hoả táng tôi và rắc tro ngoài biển. Gió sẽ đưa tôi về bên kia đại-dương:

Tro tàn theo dấu cố hương
Hồn theo ngọn sóng về đường biển xưa.

Như các bạn đã biết, quê tôi ở ven sông Hồng. Lúc đó tôi thật sự vẹn cả 'Tình Sông Nghĩa Biển'.

Trần Quang Thiệu
April 2001

Phụ chú: Nhân vật chính trong câu chuyện này, anh Đ.V.M., đã qua đời vì ung thư phổi, năm 2006 tại California. Anh yêu cầu được hoả táng và mang tro tàn về quê hương, an táng cạnh mộ phần cha mẹ, thay vì trải ngoài biển như anh từng ước mong trước đây. Bạn bè đã làm tất cả những gì anh trăn trối, và người vợ củ cũng từ Âu Châu sang để tang anh.



 

842




Chị bần thần ngắm bông hồng ủ rũ, mệt lả đi trong bàn tay mềm mại của mình. Rồi, với một niềm nuối tiếc vu vơ, chị ném chúng vào sọt rác nơi góc hè, để thay vào đó vài bông hồng tươi tắn nhất mà chị vừa chọn ra từ mấy bó hoa còn xếp đầy một góc bàn.
Căn phòng bỗng rực rỡ hẳn lên. Trong ánh mắt chị, chứa chan niềm thích thú, khác hẳn với tâm trạng đối nghịch mới đó còn vướng vất trong lồng ngực và tan biến theo một hơi thở dài thật khẽ khàng.
Theo thói quen cố hữu, chị ngoái nhìn vào góc chiếc sa-lon, nơi anh thường ngồi, dường như để tìm kiếm mối đồng cảm trong sự im lặng đầy ấn tượng. Chị ngả đầu vào ngực anh, chờ đợi bàn tay ve vuốt, nghe hơi thở nồng nàn của anh. Cả hai cùng nhìn ngắm mấy bó hoa tươi rói xếp đầy nơi góc bàn và liên tưởng đến đêm biểu diễn thành công trở về.
Khi tấm màn nhung vừa khép lại, anh chị quên hết mệt nhọc, quên cả những giọt mồ hôi chảy dài hai bên má và đưa tay đón nhận những bó hoa hồng mà số khán giả ái mộ dành cho mình.
Nhờ tài nghệ bẩm sinh, niềm say mê nghề nghiệp và những kiến thức đã học được nhiều năm ở một trường múa nước ngoài, anh chị đã sớm khẳng định được mình và gặt hái được nhiều thành công chẳng mấy ai bì kịp.
Anh chị luôn múa sóng đôi bên nhau như một cặp uyên ương không thể rời nhau và cũng không ai có thể thay thế được mỗi khi vắng một trong hai người.
Thời gian cứ thế cuốn hút trong ánh đèn sân khấu rực rỡ sắc màu, giữa những tràng vỗ tay và những bó hoa. Và anh chị cũng chỉ có một nguyện vọng duy nhất là đem hết tài nghệ đóng góp cho nền nghệ thuật múa nước nhà.
Là một nghệ sĩ múa tài hoa, chị hiểu rằng mình đang trèo lên chiếc thang không có nấc cuối cùng. Đó vừa là niềm hạnh phúc, vừa là nỗi bất hạnh mà bất cứ một ai đã trót phụng sự cho nghệ thuật, ít nhiều đều ý thức được. Phải lao động, lao động không ngừng cả trí óc và bằng cả sự vận động toàn thân theo những luật lệ riêng của nó.
Chị đâu ngờ rằng, niềm say mê cao quý đó đang âm thầm gặm nhấm cái khả năng sinh lý của người phụ nữ mà trời đã phú cho họ.
Như bao người phụ nữ khác, nhiều khi chị cũng ao ước có được một đứa con. Nhưng chị lại phân vân, sợ như thế, cũng là một trở ngại, dẫu chỉ tạm thời, niềm vinh quang mà nhờ chị, anh mới có được.
Cho tới một ngày tình cờ nào đó, khi nâng niu mấy bông hồng trên tay, chị đã mơ hồ nhận ra rằng, cái phần ẩn náu phía sau vẻ rực rỡ kia, mới thật sự là vẻ đẹp bản chất của chính nó.
Chị cũng mơ hồ thấy mình đã khác xưa nhiều lắm. Cả cái khả năng tiềm ẩn được làm một người mẹ cũng theo thời gian mà cạn kiệt dần. Khi biết được việc đó thì đã quá muộn đối với chị.
Nghe chị nói ra cái sự thật phũ phàng đó, anh im lặng nhìn chị bằng ánh mắt đầy tuyệt vọng. Lần đầu tiên chị thấy thiếu vắng sự thương cảm nơi anh.
Sau những đêm biểu diễn như thường lệ, chị lại trở về căn phòng cũ kỹ và quen thuộc năm xưa. Chị lại bần thần ngắm nhìn mấy bông hồng ủ rũ, lại ngoái nhìn vào góc chiếc sa-lon nơi anh vẫn ngồi. Với một thói quen vô thức, chị nâng niu mấy bông hồng mệt lả đi trong bàn tay mềm mại của mình. Cả căn phòng đầy ắp tiếng trẻ khóc. Chị ngây ngất nhìn khuôn mặt bầu bĩnh, hai má phúng phính ửng hồng và cặp môi chúm chím như những nụ hồng nơi kia. Đứa bé ngủ ngon lành, thỉnh thoảng lại toét miệng cười, đó là nụ cười bà mụ dạy cho nó, chị nghĩ thế. Chị khe khẽ cất tiếng ru, điệu ru con không rõ chị học thuộc từ khi nào. Chị ôm ghì con vào lòng, thảng thốt một nỗi lo niềm hạnh phúc mong manh sẽ tan biến đâu mất. Chị cuồng nhiệt hôn lên khắp khuôn mặt con, úp mặt vào bụng con và thiếp đi trong một giấc mơ kỳ lạ. Mãi tới khi thấy nhức buốt nơi cánh tay, chị mới chợt bừng tỉnh. Trong bàn tay mềm mại và ấm nóng của chị vẫn chỉ là mấy bông hồng ủ rũ có những cánh rơi lả tả một góc bàn. Hai cánh tay nhức buốt vì những chiếc gai nhọn cào xước bỗng rỉ ra những giọt máu đỏ chảy thành từng dòng.
Góc chiếc sa-lon, nơi anh thường ngồi, giờ chỉ còn là một khoảng trống vô tận không sao khỏa lấp được.
220






Muộn  màng  quá  khi  hai  ta  gặp  lại.

Em  tàn  phai  anh cũng  hết  tuổi  xanh.

Quê  Hương  mình  thôi  khói  lửa  điêu  linh.

Ta  hội  ngộ  chiều  tàn  trên  đất  khách.

 

Những  lời  lẽ  đôi  bên  cùng  biện  bạch.

Trách  hờn  nhau  quá  lẩm  cẩm  bâng  quơ.

Ba  mươi  năm  qua  nhưng  vẫn  chưa  mờ.

Cứ  còn  mãi  in  sâu  vào  ký  ức.

 

Hai  chúng  ta  cố  khơi  trong  tiềm  thức.

Nhắc  chuyện  xưa , người  trách , kẻ  hờn  nhau.

Một  quảng  đời  mãi  lận  đận  lao đao.

Giờ  cuối  nẽo  nghe  xót  xa  quá  đổi.

 

Anh  giờ  thôi !  đã  hết  rồi  ngang  dọc.

Em  giờ  thôi ! môi  tắt  lịm  nụ  cười.

Có  còn  chăng  là  bao  nỗi  ngậm  ngùi.

Đành  tiếc  nhớ  cho  những  gì  đã  mất.

 

Đêm  nay  ngồi  lạnh  run  cơn  gió  bấc.

Ước  gì  ta  lật  ngược  lại  thời  gian.

Lời  nguyện  cầu  theo  cơn  gió  tiêu  tan.

Thời  gian  ấy , ta  dễ  gì  quay  lại.

959




Dùng lòng từ bi cứu một mạng sống đặng phước báo không kể xiết.

Thuở xưa, có một vị La Hán ở trên núi tuyết đã chứng Lục thông: thấy rõ việc trong ba đời như xem việc trước mắt. Nên danh tiếng vang lừng, người đương thời đều cảm phục.

Vị La hán kia có nuôi thiếu niên Sa Di làm đệ tử.

Một hôm, vị thiếu niên đệ tử đứng hầu bên cạnh thầy. Vị La hán xem qua sắc tướng của vị đệ tử mình, Ngài liền buồn rầu bảo vị thiếu niên đệ tử rằng:

- Con ơi, Thầy xem sắc tướng hôm nay, Thầy rõ biết phước báu của con đến nay đã gần hết, sau bảy ngày nữa mạng con sẽ chết. Thôi Thầy trò ta ngày nay vĩnh biệt. Thầy cho con trở về nhà thăm bà con quyến thuộc và cho con được thấy cha mẹ con trong phút cuối cùng.

Nghe xong, thiếu niên Sa Di chỉ biết đau đớn đảnh lễ thầy rồi gạt lệ từ tạ ra đi.

Trên đường về, gặp phải trận mưa lớn, thiếu niêu Sa Di rẽ qua con đường hẻm thấy một bầy kiến nhỏ đang chơi vơi trên một dòng nước nhỏ chảy ngang đường. Bầy kiến hết sức chống đỡ, nhưng vô hiệu; vì thân nhỏ sức yếu mà dòng nước quá mạnh, nên đành để dòng nước tự do dày xéo, và chờ dòng nước đưa về cõi chết.

Thiếu niên Sa Di thấy vậy, động lòng từ bi, liền cỡi chiếc áo đang mặc trong mình ngăn ngang dòng nước để đàn kiến có chỗ leo vào, những con nào kiệt sức, không thể leo vào áo được, thiếu niên Sa Di nhẹ tay bắt từng con bỏ vào aó, rồi đem bỏ vào chỗ khô ráo. Hai ba phen xem xét thấy bầy kiến chắc chắn thoát chết, mới yên lòng về nhà.

Ðến nhà, trong thời gian bảy ngày, thiếu niên Sa Di lo sợ chờ ngày mạng chung. Nhưng đến ngày thứ tám, thiếu niên vẫn còn sống. Thiếu niên Sa Di mừng rỡ trở về chỗ thầy.

Ðến nơi, vị La hán hết sức ngạc nhiên! Không biết vì sao đệ tử mình đến bây giờ mà vẫn còn sống. Ngài liền nhập định dùng diệu trí quan sát mới biết đệ tử mình do công đức cứu bầy kiến nên bảy ngày không chết mà còn sống lâu được nữa.

Sau khi xuất định, vị La hán giải cho Sa Di rõ lý do thoát chết, và giải nghĩa chữ từ bi.

Từ đấy, thiếu niên Sa Di tinh tấn tu hành không bao lâu chứng đặng đạo quả.


Hết
481




Về cái thời đại gần đây, trong xóm Cầu Đá ở làng Hội Xá có một người đàn bà góa chồng, tuổi ngoài bốn mươi.


Từ khi đức phu quân bà vui thú non bồng, còn bà ở lại chốn hồng trần thời chăn tằm, hái dâu, hàng xay hàng xáo, giữ tiết thờ chồng và nuôi hai đứa con trai bồ côi cha đi học.


Bà vốn người họ Nguyễn, năm 20 tuổi thời tơ xe chỉ kết về họ Lê, lấy kế một ông đồ tuổi ngoài ba chục, đã có một đứa con riêng vợ trước để lại lên bốn. Không ngờ trăng già độc địa, giữa đường vội cắt gánh loan hoàng, gối uyên ương nỡ đem chia nửa, gây nên một cái bi kịch kẻ dương gian, người âm phủ, đôi đường cách trở rất bi ai! Năm bà chẵn ba mươi, thời ông từ biệt bà mà chơi nơi Lạc quốc.


*

* *


Có một hôm, mặt trời đà xuống núi, vừng trăng mới lên non, chuông triêu mộ trong làng đổ dồn khắp chốn, người làm trong các khu ruộng chiêm đã đuổi trâu về nghỉ tối, kẻ đi người lại vắng tanh, trên con đường vào chùa Hương Tích, cách mé trong cái quán Đìa độ chừng hai mươi thước tây có một cô con gái trạc ngoại đôi mươi, nón quai thao, giày mõm nhái, quần lĩnh áo băng, khăn xa tanh, yếm nhiễu đỏ, vòng hoa, nhẫn hột coi rất phong lưu, bị mấy nhát dao ở cuống họng và cạnh sườn, nằm sóng sượt ra ở dưới rặng tre bên bờ mạ, hành trang đồ vật y nguyên, không mất tí gì cả. Lạ thay! Không biết tiền oan nghiệp chướng ra làm sao, ai thù ai ghét mà mảnh hồng nhan phơi nơi đất khách, thảm đát (#1) nhường vầy! ở đâu đến đó cơn cớ những gì? Biết ai mà hỏi!


--------------------------------------------------------


1. Nguyên in: thảm đáp. Thảm đát: buồn rầu, đau xót.




--------------------------------------------------------


Tuần phiên làng Yến Vĩ đi canh đồng đêm vừa đến đó, thấy dưới bụi tre thấp thóang bóng người mặc áo trắng, đương ngồi bên bờ mạ bèn đi xuống thời bắt gặp hai chàng thiếu niên hai bên mà cái thây người con gái thời ở giữa, đứa lớn tay cầm dao, đứa nhỏ áo dây máu liền hô hóan nhau lại bắt trói giật cánh khỉ cả đôi đem giải về điếm.


*

* *


Trong lúc tuần phiên làng Yến Vĩ bắt được hai kẻ giết người thời trên con đường khuất khúc ở bờ sông Đào, sông Hát dưới bóng trăng lờ mờ ở men làng Thượng, làng Sêu có một người con trai thành thị chân bước vội vàng, lòng lo ngay ngáy, đi một quãng lại ngoảnh cổ lại sau nhìn, nhường e, nhường sợ tai vạ đến mình. Nhưng xem vẻ ra có ý vui lòng hả dạ, miệng lẩm bẩm rằng: "Xin đức Thượng đế ngài chiếu giám cho tấm lòng thành kính của tôi đối với bạn tôi, những kẻ hại nhân thời nhân hại, ngài soi xét cho chúng tôi được phận nhờ".


Cách sau người ấy, độ năm kilômet thời không biết rằng người ấy có biết đến hai kẻ giết người cổ đeo gông tre, tay bị thừng buộc theo những người tuần phiên và kỳ dịch làng Yến Vĩ giải nộp quan phủ Mỹ Đức đó không? Ai ngờ cùng chung một con đường, cùng chung người đi đường mà có cái bi kịch diễn ra cũng trong một khoảnh khắc, một bên lủi thủi một người, không ai gông trói mà lòng cũng ngổn ngang. Vậy các độc giả cao minh cho cái bi kịch nào thảm hơn?


*

* *


Một hồi ba tiếng trống buổi hầu sáng, quan ra công đường, nha lại dân sự đều chực hầu rất đông, ở hàng cơm cổng phủ, các bác tuần phiên đã cột hai tên ác phạm vào cột nhà hàng mà ngồi hầu cơm cụ chánh tổng tổng mình và thầy lý thầy phó làng mình, người nào người nấy đều cơm no rượu say cả rồi, nghe tiếng trống bấy giờ mới điệu tội nhân vào nộp trước quan phụ mẫu.


Quan phụ nhận giấy giải nộp xong, nhất diện ngài sai thầy đề cùng mấy tên lính lệ, tùy phái đi ngay với chánh tổng Phù Lưu thượng và lý trưởng Yến Vĩ về chỗ người bị giết nằm khám nghiệm lại để đem chôn; nhất diện ngài sai thầy thông lấy cung hai tên ác phạm rồi ngài truyền cai lệ đem xuống trại giam. Trong khẩu cung thời một người khai tên là Lê Văn Hữu 25 tuổi, cha mẹ chết cả rồi, một người khai tên là Lê Văn Cung, 18 tuổi, cha chết mẹ còn, chỉ khác tên khác mẹ, còn họ và tên cha cùng các lời cung về việc giết người con gái thời giống nhau hết. Hai cậu cùng khai tên cha là Lê Văn Từ ở làng Hội Xá, duy cậu bé thời còn mẹ là Nguyễn Thị Nhân mà đều nói rằng: "Vốn con nhà học trò xưa nay lương thiện không có làm xằng bao giờ". Sự giết người thời cùng chối rằng: "Tình cờ gặp thời xem, chớ không phải anh em mình giết".


*

* *


Nguyễn Thị Nhân là tên ai? Các độc giả hẳn cũng biết ngay là tên bà ngoài bốn mươi tuổi, góa chồng từ năm ba mươi, ở xóm Cầu Đá mà Lê Văn Từ chính thực là tên ông đồ chồng bà. Lê Văn Cung con bà, còn Lê Văn Hữu là con người vợ trước vậy.


Đêm hôm ấy, mà Hữu và Cung phải bắt thời bà ở nhà vẫn tưởng như mọi khi hai con mình đi chơi cùng các bạn học quanh vùng hoặc ở Phú Yên, hoặc sang Bài Lam hay là ở Bạch Tuyết, không ngờ sáng ra bà vừa cất gánh gạo ra chợ Đục Khê bán, đến cổng chợ đã thấy người ta xôn xao chuyện con bà giết người phải bắt nộp quan. Ôi! Tin đâu sét đánh lưng trời, khiến cho lòng người mẹ góa kia không nung mà nóng, chẳng cắt mà đau. Sụt sùi giọt lệ trở lại gia đình, nào hai con đâu? Mà chỉ thấy một miếng đất vườn, ba gian nhà gỗ. Lẽ đâu tin ấy lại là thật? Hay hai con ta ở trong nhà? Nào có đâu! Chỉ thấy bàn thờ: đây là thổ công, đây là tiên tổ, đây là đức phu quân! Nghĩ mà thương thay cho con trẻ, tưởng lại giận thay với trời già! Kìa mặt trời đã gần đứng bóng, trẻ đầu làng đã đi xem về, đã thấy đồn đến tai rằng quan phái cụ tá về khám thây người con gái trẻ, thôi thế nào mà chẳng lụy đến thân già này thôi. Khóc chán lại nghĩ, nghĩ chán lại khóc, không còn biết tính ra sao, bà chỉ còn có lên đèn hương mà cầu nguyện trước từ đường mà thôi.



2909




Đơn vị hành quân ngang qua làng. Trung sĩ tranh thủ lúc chờ phà tót ngay về nhà, gặp vợ ở cổng vội kéo tuột vào buồng:
- Nhanh lên bu nó, đơn vị sắp sang sông rồi! Tới giữa cơn "vần vũ", vợ thì thào:
- Sao bảo ở đơn vị đói ăn lắm mà em thấy mình vẫn... nặng như xưa?
- Thôi chết! Anh quên chưa tháo ba lô.
2404




Ông giám đốc công ty cần phát biểu trong buổi lễ cuối năm và ông nhờ cô thư ký của mình viết hộ bài phát biểu ấn tượng dài khoảng 20 phút. Khi trở về từ buổi lễ, ông giám đốc trông rất cáu kỉnh:

- Sao cô lại soạn một bài phát biểu dài đến một tiếng hồ? Hơn một nửa số khách tham dự bỏ về trước khi tôi phát biểu xong.

- Tôi soạn bài dài 20 phút như ông yêu cầu đấy chứ - cô thư ký ngơ ngác - với lại tôi kẹp thêm hai bản copy của bài phát biểu như mọi khi mà.
2011





Một ông nọ viết đơn đến phòng nhà cửa phàn nàn rằng, căn hộ của ông đối diện ngay nhà tắm nữ, nhìn rõ hết cả, rất mất tập trung khi làm việc. Ban kiểm tra đến, ngắm nghía mọi phía qua ô cửa sổ rồi bảo chủ nhà:
- Ông nói thế nào chứ chúng tôi có nhìn thấy gì đâu?
- Thế các vị đã trèo lên nóc tủ kia chưa?
2234



Powered by Blogger.