Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đợ là án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là án Tiêu.

Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng "tiêu", ví dụ như hạt tiêu thì hải nói là hạt ớt... Hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội. Lệnh ban ra khiến Xiển đã ghét quan huyện lại càng ghét thêm. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan. Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai. Tức thì quan nổi trận lôi đình thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám cả gan đem quần áo rách đên bán cho quan bao giờ? Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói:

- Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử...

- Quân tử gì mày! Ðồ quân tử cùng quân tử cố!

Xiển trần tình:

- Dạ, Khổng Minh túng Khổng Minh cầm ạ!

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình: "Quân tử cùng quân tử cố" với lời trần tình của Xiển: "Khổng Minh túng Khổng Minh cầm" (1) đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt. Quan phục tài Xiển, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói:

- Bẩm quan, tiền này không "ớt" được ạ!

Quan vô tình mắng:

- Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?

Chỉ chờ có thế, Xiển liền vả cho quan ba cái tát vào mồm như trời giáng. Quan hô lính bắt trói. Xiển ngăn lại nói:

- Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!

Quan sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.2702




Hai vợ chồng nọ có 5 đứa con: 4 đứa đầu thì trắng trẻo xinh đẹp, chỉ có đứa út đen đủi, xấu xí tệ. Người chồng nghi ngờ lắm nhưng không dám nói ra. Đến lúc lâm chung, mới ra hiệu gọi bà vợ lại hỏi:
- Tôi sắp đi đây, trước khi chết tôi hỏi thật bà một điều. Thằng út...
- Thằng út làm sao?
- Nó có thật sự... là con của tôi không?
- Đến giờ phút này thì tôi cũng không giấu giếm gì ông. Thằng út... mới thật sự là con của ông. Ông chồng, tai đã lãng đãng, máy đã "treo"... mỉm cười ra đi.
2367




Người vợ kể chuyện với chồng:

- Hôm qua em vào vườn bách thú chơi, một chuyện khủng khiếp đã xảy ra. Có một con sư tử chẳng biết làm thế nào đã ra khỏi chuồng. Em đã đối mặt với nó, đúng lúc nó chuẩn bị nhảy xổ vào người em thì...

Người chồng hôi hộp:

- Thì sao?

- ... Thì người nuôi dạy thú kịp thời vào dẫn nó đi...

Người chồng thở hắt kết luận:

- Vậy là may cho nó đấy!

1030




Luân hồi nhân quả không sai
Không tu ắt phải đọa đày khổ thân.


Ðã mấy năm qua. Từ ngày chứng nghiệm chân lý dưới gốc cây Bồ Ðề, Ðức Phật Thích Ca đã đặt chân lên nhiều kinh thành, nhiều thôn dã, nhiều đất nước để truyền bá đạo Từ Bi. Hàng đệ tử của Ngài càng ngày càng đông.

Trên con đường giải thoát cho nhân loại không biên giới ấy, một hôm kia, Ðức Phật trở về đất nước quê hương, nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thấy nhân loại đáng thương đang chìm trong sự lôi cuốn của cuộc đời có bà con thân thuộc mình, có... em Ngài, Hoàng tử Nan Ðà.

Hoàng tử Nan Ðà là em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật. Lúc Phật xuất gia, Nan Ðà còn tấm bé, Nan Ðà chỉ buồn thoang thoảng vì thiếu sự chăm sóc chỉ bảo của một người anh hiền từ. Thế thôi. Và tuổi trẻ cũng mau quên. Nan Ðà lớn lên trong sự hầu hạ ân cần cẩn thận của cung vua. Không như anh. Nan Ðà buông theo các thú vui. Cuộc đời bó hẹp lại, nhỏ dần trước mắt người thanh niên ham mê sắc dục. Nan Ðà chỉ còn thấy các mỹ nữ trong giọng hát, trong điệu múa, trong những cuộc truy hoan...

Phật trở về giữa sự vui mừng của dân chúng. Ngài ở Tịnh xá và hàng ngày mang bình bát đi khất thực và truyền đạo như trong khi Ngài ở các nước khác. Lối sống bình dị ấy làm mọi người thán phục. Ðời sống của kinh thành xáo trộn. Vàng bạc không còn là cứu cánh. Lòng thương yêu nhau, thương yêu đến cả các sinh vật được xem là cao quí. Người ta đã thấy những gì chắc thật của cuộc đời, thú vui chỉ là mong manh chốc lát.

Nhà vua đã mở nhiều cuộc bố thí, giảm nhẹ thuế má cho dân chúng.

Về phần Nan Ðà, Nan Ðà cũng cảm thấy vui. Những hình ảnh tươi đẹp của những năm xưa hiện lên. Nhưng trong hai người như có một cái gì khác nhau nhiều lắm, nên Nan Ðà chưa dám gặp Phật. Nghe những lời ca ngợi về lòng nhân ái, về cuộc sống bình dị của Ðức Phật, Nan Ðà tự đối chiếu với mình. Và đã có lúc chàng nghiệm thấy một cái gì mong manh, chóng tàn trong những cuộc vui say, trên nét nhăn mệt mỏi của những mỹ nữ qua những cuộc múa ca.

Một hôm, Nan Ðà thức dậy sau một giấc ngủ dài mệt mỏi. Mặt trời đã lên cao. Chưa kịp sửa soạn, chàng đã thấy Ðức Phật đang tiến vào nhà. Phật khoác chiếc y vàng, tay cầm bình bát, Ngài đi khoan thai như lùa vào đây tất cả những ánh sáng trong lành của buổi mai.

Phật không khác xưa nhiều lắm, vẫn gương mặt hiền lành nhưng thêm phần sáng suốt. Tất cả những hình ảnh trên diễn ra trước mắt Nan Ðà đang đứng ngây người nhìn. Ðức Phật tiến lạI gần, ân cần hỏi han. Lời nói của Ngài dịu dàng làm cho Nan Ðà nhớ lại những ngày vui vẻ thuở xưa, hồi ấy Nan Ðà nhìn đời một cách đẹp đẽ. Rồi Ngài nói với Nan Ðà:

- Từ lâu, ta vẫn thấy bên trong ra có phụ hoàng và em. Chính trong mục đích giải thoát cho loài người rộng lớn và cho những người thân thuộc mà ta thấy được đạo lý. Ta biết em đang khao khát chân thật. Ta đi trước em, ta đã biết rằng hạnh phúc chân thật không thể tìm ở đâu khác ánh đạo. Ánh đạo ấy ta đem về cho em đây.

Nan Ðà im lặng, cảm động. Người đứng trước mình là anh, là thầy, là ân nhân? Nan Ðà thấy trong người rạo rực một mối tình muốn hướng về đường lành. Chàng cúi xuống thân mến ôm bàn tay của Ðức Phật đang đưa ra nâng chàng dậy. Ðức Phật âu yếm:

- Ðường ta đi sáng như sao nhưng khó khắn trở lực không phải là ít. Mà có sự thành đạt nào không phải mua bằng gian lao, ta đã nghiệm điều đó. Biết em có đủ trí lực để vượt qua không?

Nan Ðà ngẫm nghĩ rồi nguyện theo Phật. Chàng sửa soạn rất nhanh chóng. Phật đã tiến ra cửa. Ngài bước đi, Nan Ðà theo Ngài, tuy lòng đang dâng lên một cái gì âm ấm, trong sáng như ánh nắng và trời đất tươi đẹp bên ngoài. Hai người cùng tiến về Tịnh xá.

Ðến Tịnh xá, Phật bảo các đệ tử săn sóc cho Nan Ðà. Người ta thay chiếc áo gấm xanh và khoác cho chàng chiếc áo nâu bằn vải. Người ta dành cho chàng một phòng rộng ngó ra vườn hoa. Nan Ðà ngồi xuống chiếc ghế mây rồi nhìn ra vườn. Trăm hoa đang mở rộng tung cánh để đón ánh trời, màu hồng tươi mát của đào. Màu vàng dịu của mai, màu trắng như tuyết của huệ, nổi bật lên trên màu xanh tươi của lá cây. Ðây đó một vài đạo sĩ đang ngồi trên các phiến đá trầm tĩnh niệm Pháp. Trong cái yên lặng, lâu lâu có điểm một tiếng chuông ngân dài. Nan Ðà thấy một sức sống mạnh mẽ của muôn cây, một sự rạo rực hướng về đạo của con người. Thật là một thay đổi cực kỳ lớn lao trong tâm hồn vị Hoàng tử thanh niên.

Nhưng rồi có những lúc Nan Ðà thiêu thiếu một cái gì. Chàng tiếc rẽ cái áo gấm chăng? Ðâu phải thế! Trước đây cũng có nhiều lần chàng áo ước cởi bỏ nó đi để được mát mẻ. Chàng tiếc một cái gì? Ðó là các sinh hoạt cũ, cái lối ăn chơi say sưa bên cạnh những người vũ nữ có bàn tay ngọc ngà, có thân hình mềm mại.

Ðức Phật thừa hiểu rằng trong một sớm một chiều, Nan Ðà chưa thể giác ngộ được chân lý nên chú ý đến Nan Ðà nhiều hơn các đệ tử khác. Một hôm, có người mời Phật đi thọ trai, Ngài không đưa Nan Ðà đi mà còn kêu đến đưa bình bát cho và dặn  nhà múc nước đổ vào cho đầy.

Ðược ở nhà, Nan Ðà là vui thích vì chàng thấy có cơ hội trở về thăm cung điện và các mỹ nữ. Biết như thế là sai lầm nhưng có một sức mạnh nào thúc đẩy mãnh liệt. Dầu sao, Nan Ðà cũng không quên lời Phật dặn "đổ nước vào bình bát" mà chàng không biết đổ để làm gì. Cái bình bát nhỏ bè này, hãy đổ vào một gàu là đầy ngay và rồi sẽ trở về thăm cung điện cũng không muộn. Nan Ðà đem bình bát ra giếng. Chàng xách lên gàu nước và đổ nước vào. Chàng cẩn thận để nước khỏi đổ ra ngoài. Lạ quá! Gàu nước đồ hết rồi mà sao không thấy nước tràn lên miệng bình. Nan Ðà cúi xuống xem bình bát có bị nứt không. Tuyệt nhiên không một đường rạn nào, lớp men vẫn liền láng. Chàng múc gàu nước thứ hai, thứ ba, thứ tư và liên tiếp nhanh tay đổ vào. Lạ thật, không có nước chảy ra ngoài mà nước đổ vào biến đi đâu cả.

Nan Ðà đã mệt nhoài mà bình bát vẫn không được một tí nào cả. Làm sao để về thăm cung điện? Nôn nả quá, chàng để bình bát ngay bên giếng và vụt chạy đi, hẹn trong lòng chốc trở lại sẽ tiếp tục đổ nước vào.

Chạy được một quảng, Nan Ðà thấy ở xa có đoàn người đi ngược lại. Chàng dừng lại nhìn. Khốn rồi! Chính Phật và đoàn đệ tử thọ trai về. Nan Ðà biết không có cách nào tránh khỏi, bèn nép bên đường, cúi mặt nhìn xuống đất. Phật đến bên Nan Ðà hiền lành bảo:

- Thôi! Trở lại. Em hãy còn lời hứa đối với ta, còn công việc ta giao chưa làm xong. Hãy tự chiến thắng mình mới đi đến đích cuối cùn
g.

Nan Ðà đi theo Ngài cùng trở về Tịnh xá.

Năm hôm sau, trong cuộc du hành thuyết pháp ở cõi trời, Phật cho Nan Ðà đi theo, Nan Ðà mừng lắm.

Ðấy là một trong những cõi trời đẹp đẽ và hạnh phúc nhất. Không biết bao nhiêu lâu đài tráng lệ nguy nga. Những chiếc bàn, những độc bình bằng thủy tinh muôn màu rực rỡ. Những vườn hoa với các cây xanh mướt, quanh năm hoa nở thắm tươi và tỏa mùi hương nồng ấm. Ánh sáng một màu huyền ảo. Mặt trời không gay gắt, ban ngày vẫn có sao sáng và ban đêm trời luôn luôn sáng, thứ ánh sáng vàng trắng của những đêm rằm.

Phật đưa Nan Ðà đến một cung điện rực rỡ. Các tiên ông râu bạc trắng ra đón tiếp. Phật thuyết pháp cho họ nghe. Trong lúc đó các nàng tiên mời Nan Ðà đi xem khắp nơi. Chỗ nào Nan Ðà cũng tấm tắc khen ngợi. Rồi các nàng tiên múa cho Nan Ðà xem. Những gương mặt tươi đẹp như chưa bao giờ lo buồn, các điệu múa uyển chuyển như còn gởi mãi trong không gian các đường nét mềm mại. Sau đó Nan Ðà hỏi họ:

- Ai sẽ có vinh hạnh hưởng cảnh sống êm đẹp trong những cung điện ở đây?

Các nàng tiên nhỏ nhẹ thưa:

- Cung điện, vườn hoa, ánh sáng ở đây đang chờ đón một người tên là Nan Ðà, nếu người ấy tu hành được chánh quả.

Nan Ðà sung sướng nhẹ nhõm khi theo các nàng về cung điện.

Trên đường về Tịnh xá, Nan Ðà định hỏi Phật xem lời các nàng tiên nói có đúng không, nhưng không dám, chỉ tự bảo với mình phải cố gắng tu tập. Nhưng biết đến bao giờ mới lên cõi trời sung sướng. Nan Ðà nôn nả nên thiếu thái độ hiền từ, tĩnh tâm, định trí. Và cái hăng hái của những ngày mới trở về lần lần phai nhạt.

Một thời gian sau, Phật lại chuẩn bị một cuộc đi truyền thuyết xa và Nan Ðà cũng được đi theo. Lần này Phật dẫn chàng xuống địa ngục.

Ðịa ngục bày ta trước mắt Nan Ðà trước những cảnh tượng ghê rợn. Ðây là một người đàn ông bị ép dưới một tản đá khổng lồ. Tảng đá lún dần, lún dần trong tiếng kêu thắt nghẹn trong tiếng răng rắc của bộ xương ngực, xương tay, xương chân đang dập nát. Ðây là một người đàn bà mang trên đầu một vành lửa đỏ. Tóc của người ấy cũng cháy khét lẹt; và tay bị trói chặt ra phía sau, người đàn bà vừa chạy vừa kêu không ra tiếng người. Nan Ðà biết những hình phạt ấy là do sự tàn ác của họ ở kiếp trước nên im lặng đi theo Phật. Gương mặt của Ngài tỏ vẻ vô cùng thương xót và Ngài cầu nguyện cho họ.

Ðến một đoạn nữa, Nan Ðà thấy trước mặt có năm chảo dầu xếp thành hành dài trước mặt một cái đền tối om. Năm con quỷ đang sắp sửa đun lửa. Trong bốn cái chảo đã có bốn người không rõ là đàn ông hay đàn bà. Lửa đỏ, dầu gần sôi. Người trong chảo vẫy vùng, chồm lên rồi lại rơi xuống. Tiếng kêu của họ tắt đi trong tiếng sôi sùng sục của dầu, tiếng củi cháy phừng phực. Nan Ðà đến gần con quỷ coi chảo dầu thứ năm và hỏi:

- Tại sao trong nầy lại không có người nào?

Con quỷ không nhìn Nan Ðà, chăm chú coi lửa và trả lời:

- Chảo không này cứ đun sẵn, để dành riêng cho một người tên là Nan Ðà nếu người ấy biếng nhác, không lo tu tập.

Nan Ðà giật nẩy mình và không dám hỏi thêm gì nữa.

Từ độ ấy về, Nan Ðà không một chút nào dám xao nhãng việc tu niệm, chàng lo tụng niệm, thuộc làu kinh kệ. Mãi đến chiều chiều, Nan Ðà mới để một ít thì giờ đi dạo ngoài vườn Tịnh xá.

Nhưng có một điều là chàng đến chỗ nào, người chỗ ấy đều lánh đi nơi khác. Nan Ðà bực lắm. Có một hôm Nan Ðà đến gặp Ngài A Nan, Ngài A Nan là em họ chàng và là đệ tử yêu mến nhất của Ðức Phật. Thấy Nan Ðà đến, Ngài A Nan cũng lánh đi nơi khác. Không thể giữ nổi sự bực bội trong lòng, chàng đến trước mặt Ngài A Nan là lấy lời kính cẩn thưa:

- "Xin chú cho tôi biết vì lẽ gì các Ngài và chú lại không muốn gặp tôi. Tôi tưởng đã ở một đạo với nhau, hơn nữa lại là bà con, chú cũng không nên đối xử với tôi như thế".

Ngài A Nan biết không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội nầy để trình bày cho Nan Ðà rõ đầu đuôi nên ôn tồn bảo:

- Chúng ta tuy theo một đạo nhưng mục đích chúng ta không giống nhau. Anh nhắm một mục đích khác. Anh tu hành để được lên cõi tiên, để sống trong hạnh phúc, riêng anh, tu hành vì cảnh khủng khiếp của địa ngục. Anh Nan Ðà ơi! Mục đích của anh hẹp hòi. Phải lấy sự đau khổ của chúng sinh làm đau khổ của mình, xem thường tài sản và tính mệnh của mình, phát tâm thực hành lục độ để giải thoát vô lượng chúng sanh. Ðó  là mục đích của thầy ta, của chúng ta, của những người tu hành chân chính.

Ngài A Nan dừng lại để Nan Ðà kịp suy nghiệm. Rồi âu yếm nhìn Nan Ðà Ngài nói tiếp.

- Anh Nan Ðà ơi! Ðường tu hành còn dài lắm, cho đến khi nào chúng sinh không còn khổ đau. Cho nên không nhìn một mục đích cao rộng, ta sẽ dễ nản lòng thối chí như anh, đã có lần muốn bỏ dỡ công cuộc nửa chừng. Phải can đảm lên anh ạ! Quả lành sẽ đến với chúng ta.

Lời Ngài A Nan đi thẳng vào tâm can, vào trí óc A Nan. Từ đó Nan Ðà công phu tu luyện với mục đích cao quý giải thoát cho chúng sanh và một ngày kia, bước theo A Nan, Nan Ðà trở thành một đệ tử chân chính của Ðức Phật, trở thành Nan Ðà tôn giả đáng kính mến muôn đời của chúng ta.


Hết
480




Ngân Hà mở rộng cánh cửa sổ nhìn ra cánh đồng, mùi cỏ mới cắt sộc vô mũi nàng mùi ngai ngái tanh nồng. Đám học trò đang yên lặng làm bài bỗng la lên "Cô ơi hôi quá! Hôi quá!" Ngân Hà mĩm cười quay lại nhìn đám học trò nhỏ đang giương những đôi mắt nai tơ nhìn chờ đợi nàng trả lời. Nàng khẻ bảo "Các em chịu khó một chút rồi nó sẽ hết ngay mà. Chắc cỏ nầy là cỏ dại." Một cô học trò nhỏ ngồi trong góc đưa tay xin nói. Ngân Hà gật đầu ra dấu cho phép. "Thưa cô, cỏ nhà em thơm lắm. " Cả lớp cùng cười, Ngân Hà cười theo: "Ừa em. Cỏ nhà nào cũng thơm ..." Nàng chưa dứt lời có tiếng nói của một em bé trai "Thế sao cỏ trường học nầy không thơm hà cô." Ngân Hà bỏ dở câu nói quay lại nhìn người học trò vừa nói. Thằng bé tròn to bụ bẩm, hai má ú na ú nần, bạn bè đạt tên "Ông Địa" Nàng lựa lời "Ờ, ờ…cỏ nơi đây không được chăm sóc, có cỏ dại mọc chen vào cho nên mùi cỏ không được tinh khiết đó em." Câu giải thích mang đầy cảm tính của nàng chưa chắc thỏa mãn được thắc mắc tò mò của đám học trò, nhưng chúng im lặng trở lại và cặm cụi làm bài. Tuổi trẻ chóng quên và dễ tin.

Hôm nay vẫn lớp học bình thường. Chúa nhật có nắng xuân rực rỡ, chim líu lo trong vòm cây ven chân đồi, xe cộ ồn ào trên xa lộ không át nổi tiếng gió vi vu trong lùm cây hòa cùng tiếng chim trên cánh đồng bên cạnh ngôi trường. Từ căn phòng học nhìn qua cửa sổ, Ngân Hà có thể cho đôi mắt nàng tự do bay lượn trên khắp cành đồng thay đồi màu sác mỗi mùa. Cánh đồng áp sát hàng rào ngôi trường được trồng bắp, trồng lúa theo mùa, và đôi khi nàng còn nhìn thấy cả cánh đồng vàng hực khi vào vụ. Lần đầu tiên tham dự vào ban giảng huấn của trường, nàng đã choáng váng khi mở cánh cửa sổ; một thảm vàng lung linh reo vui, mùi lúa chín ngào ngạt trong không gian, và nàng đã căng lồng ngực hít lấy hít để. It lâu sau nàng còn thich thú khám phá thêm rằng mỗi sáng chúa nhật trước khi lớp học bắt đầu nếu đến sớm chừng nửa giờ nàng sẽ được chứng kiến sự hùng vĩ cảnh măït trời mọc đỏ ău từ phía chân trới. "Ôi! Sao mà thơ mộng thế." Nàng nhắm mắt kêu lên sung sướng khi căn phòng tràn ngập ánh náng sáng ấm áp, tươi mát, trong lành. Tạo hóa thật chí công, cái đẹp không chia riêng cho một ai nếu họ biết tìm đến và mở cửa đón nhận lấy nó. Ánh nắng rực rở, hàng cây xao động, cánh đồng lúa xanh rì lấp lánh dưới làn nước phun từ các ống dẫn nước tưới, tất cả tạo nên sức quyến rũ như một bức tranh tuyệt với. Nàng bỗng nhớ đến Vangoh và bức tranh Hoa Hướng Dương. "Ước chi ta là họa sĩ" Nàng chợt cười thầm với ý nghĩ vu vơ đó. Những người nghệ sĩ đã tạo nên cho đời biết bao bức tranh đẹp, những vần thơ hay, những mẩu chuyện để đời. Ử nhỉ, làm văn nghệ thật tuyệt vời. Mọi sự có thể sẽ qua đi nhưng tác phẩm sẽ còn đó. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, cảnh vật có thể thay đổi nhưng ánh nắng mặt trời vẫn không chút đổi thay. Ánh sáng đối nghịch bóng tối. Thái Dương -Thái Âm.

Ngân Hà chìm trong những suy nghĩ đầy cảm tính mông lung. Nàng muốn viết, vẽ "Khả năng không bằng ước muốn" Nàng tự nhủ. Có một lần cô bạn gái nói với nàng "Bồ muốn trở thành nhà văn à? Hay muốn làm họa sĩ?" Ngân Hà cười thay cho câu trả lời, cô bạn tiếp "Dễ ẹt mà. Có thì giờ cứ viết bừa xuống, nghĩ gì viết nấy rồi đem ra cậy đăng có trả tiền…" Cô bạn cười ngặt ngẹo sau câu nói chế diễu ước mơ thầm kín của nàng. Ngân Hà không có mộng ước trở thành văn sĩ hay họa sĩ. Nàng chỉ muốn được ghi nhận những cảm xúc của nàng ngay lúc đó. Đôi khi nàng tự hỏi "Tai sao cũng mực đó, màu đó, chữ nghĩa có sẵn đó mà nàng cắn mãi vẫn không ra?" Đám bạn cứ mỗi lần nhìn nàng mơ màng tư lự là chúng xúm vào chọc. Ngân Hà không trách đám bạn tinh nghịch.

Văn chương hội hoạ không phải là những tảng màu, những mầu mã văn tự chữ nghĩa lắp ghép. Làm văn nghệ không phải là có thời gian rảnh, hoặc sự đảo lộn vần điệu, pha trộn ngôn từ. Văn nghệ là làm đẹp cuộc đời, làm mới cuộc sống, tìm tòi khai quật để nẩy sinh những cái mới. Những suy nghĩ cạn cợt, những cố gắng thoát khỏi đường mòn bằng cách đào hang động, bẻ cong, che đậy, tối nghĩa những câu văn chỉ làm cho văn nghệ ngày càng đi xuống. Nếu không có căn bản nền móng vững thì sự làm văn nghệ đúng như bạn nàng thường chọc "Cứ viết bừa đi rối cậy đang có trả tiền." Ấy là một văn bản cáo phó, một quảng cáo "mì ăn liền".

Đám học trò vẫn cặm cụi trên bài tập. Ngân Hà rời khỏi khung cửa, lìa bỏ cánh đồng mơ ước phía xa xa để trở về với đám học trò nhỏ. "Thưa cô, chữ huỳnh với chữ hoàng có khác nhau không?" "Thưa cô tại sao chó mực, mèo mun, ngựa ô?" Những cái đầu bé tí xíu, những mái tóc (có khi) pha trộn màu nâu sáng, màu bánh mật không đen nhánh như những mái đầu Việt Nam của đám bạn bè như chị Ngân Hà nói "Học trò của mầy là tô tả phín lù.". Ngân Hà không dám chắc nàng đã hiểu hết những câu hỏi của đám học trò nhỏ-chúng nói tiếng Anh nhanh hơn gió-tuổi ô mai đã biết xài thuốc ngừa thai.

Nàng chới với trong cảnh đời đảo lộn. Chọn ngành sư phạm không phải Ngân Hà muốn làm "cô" thiên hạ, nhưng là những chia xẻ những đam mê, những nồng cháy. Bố trước khi mất có dặn "Làm bác sĩ lầm có thể giết một người, làm chánh trị lầm có thể giết một quốc gia…nhưng con ơi, làm văn hóa mà lầm là giết chết bao nhiêu thế hệ đó con ạ." Lời bố dạy có bao giờ Ngân Hà dám quên. Bố là một ông giáo làng từ ngày quân Pháp còn chiếm đóng. Ngôi trưòng làng nhỏ nằm trên mõm đồi nào đó ngoài miền Trung xa xôi, học trò của bố sau nầy hay đến thăm bố đã có ông một thời là m tướng, làm bộ trưởng, giám đốc trong chánh quyền Việt Nam. Bố nói "Làm nghề giáo như một người đi gieo giống con ạ. Hạt giống rơi xuống có thể sẽ bị chim, chuột ăn mất, hạt rơi vào đá, hạt rơi ngoài đồng…và có hạt sẽ nẩy mầm và sanh trái. Có thể có trái ngọt, trái đáng. Nhưng con ơi, hãy làm vói cái tâm chân chánh, tấm lòng vị tha cây sẽ nẩy mầm xanh." Và Ngân Hà theo bước chân của bố làm cô giáo tiểu học, và ngày nghỉ cuối tuần làm cô giáo Việt Ngữ. Dây học trò nhỏ nhiều sắc tộc bằng Anh Ngữ dễ hơn dạy đám học trò cùng chủng tộc vào ngày cuối tuần. Nàng không hơn gì đám nhóc đang ngồi kia. Nàng ngơ ngác và bối rối khi đọc chuyện Van Lang dựng nước, chuyện Bà Trưng, Bà Triệu đánh đuổi quân xâm lăng. Chuyện Son Tinh, chuyen Phù Đổng…v.v. càng làm cho nàng lạc mất lối về. Sách vỡ Việt Ngữ ít, tài liệu không có, các tác phẩm giá trị của Việt Nam nằm trong thư viện đại học Hoa Kỳ, thư khố Pháp.

Càng suy nghĩ, càng tìm về, Ngân Hà càng ý thức được trách nhiệm của
những công việc làm văn hóa văn nghệ. Phải chuẩn hành trang trước khi bưóc vào đời.

Ngôi trường đứng trên sườn đông ngọn đồi, hướng mặt trời mọc, những căn phòng nhiều cửa chớp bằng kiếng, có tấm bảng đen chạy dọc ngang tầm nhìn trên bốn bức tường màu xanh dương. Học trò ngồi hướng nào cũng nhìn thấy tấm bảng. Học cụ chứa đầy trên các ngăn tủ; bản đồ, hình vẽ được cuộn tròn trong những chiếc trục treo ở phần trên của những tấm bảng, chỉ cần bấm một chiếc nút nhỏ thì học cụ cần dùng sẽ mở ra. Lớp học Việt Ngữ dành cho ngân Hà được thuê mướn vào ngày chúa nhật. Những "học cu"ï cần thiết cho lớp Việt Ngữ không nằm ở nơi đây, nơi căn phòng này mà nằm ngay trong đầu nàng-một "bô nhớ" chưa hoàn chỉnh. Ngân Hà chưa đủ bề dày để làm cô giáo Việt Ngữ. Nàng đứng đây chỉ được trang bị băng một tấm lòng,một con tim thương nhớ quê hương.

Ngân Hà theo gia đình rời Việt Nam (theo lời mẹ kể) "Khi đó đạn nổ ầm ì trên phi trường Tân Sơn Nhứt., ba mầy vừa mới ra về lấy thêm đồ…thấy người ta chạy xuống bến tàu thì tao ẵm mầy chạy theo mà thôi." "Còn ba con và mấy anh chị khác như thế nào?" Mẹ Ngân Hà thở dài "Mẹ con mình đang nằm trong bệnh viện mà…mẹ thấy người ta nhốn nháo nên không kịp đợi ba trở lại…cuối cùng cả nhà gặp nhau tại trại tị nạn trên đảo Guam. Hú vía. Tạ ơn Phật Trời." Như một phép lạ, gia đình Ngân Hà toàn vẹn không mất mát một chút gì. Cứ mỗi lần có chuyện buồn, mẹ thường an ủi: "May lắm rồi con ơi. Nếu như mình ở lại bây giờ không biết thế nào? Gia đình mình may mắn lám đó con."

Ngân Hà lớn lên trong tình thương bao la của mẹ, trong sự đùm bọc mến yêu của anh chị. Nàng thật hạnh phúc. Cuộc sống của nàng thiếu một điều: Quê hương, mỗi khi nghe bạn bè cùng lớp nói về quê hương của chúng nó, Ngân Hà về hỏi mẹ. Tất cả tình yêu quê hương xuất phát từ những câu chuyện của mẹ, từ những buổi học Việt Ngữ với ba và các anh các chị. Dù có bận rộn đến đâu thì cuối tuần ba mẹ và các anh chị vẫn quây quần trong căn phòng đọc sách mấy giờ để cùng nhau học và đọc sách. Các anh chị rời Việt Nam đã có vốn liếng riêng, phần Ngân Hà việc tập đọc tập viết là một việc "Cố gắng đáng thưởng" như lời chị Hai và anh Ba trêu nàng.

Ba mất, mẹ quá tuổi làm việc, Ngân Hà và các anh chị cùng nhau phụng dưởng mẹ. Mẹ là nguồn tài liệu vô tận bằng các chuyện cổ tích. Các anh chị là gương sáng cho Ngân Hà. Đối với bố, Ngân Hà đã dành riêng một khoảng trời cho người cha kính yêu. Như căn nhà mở cửa ra hướng mặït trời mọc để hứng trọn nắng sớm của bình minh. Ngân Hà đứa con gái út của ông giáo già trường Lê Khiết vẫn mãi mãi mở rộng lòng nàng đi tiếp tục con đường của bố. Căn nhà hướng mặt trời mọc đang chông chênh nghiêng ngã mất hướng, trong khi đó Ngân Hà và đám bạn trẻ đang cố gắng tìm đướng leo lên đỉnh đồi cao.

Lớp học vẫn im lặng, đám học trò nhỏ cắm cúi làm bài. Ngân Hà đắm mình trong nắng và thả hồn ngao du chợt giật mình khi "Oâng Địa" cất tiếng hỏi: "Thưa cô bạn em nó nói người Việt là con cháu của người Tàu phải không thưa cô?"
233




- Sao mặt cậu sưng vều lên thế kia?


- Tớ tự đánh đấy!


- Sạo lại thế?


- Tại vì tớ trót tát thằng em một cái nên bố tớ phạt tớ tự đánh mình.


- Bố cậu thật kỳ quặc!


- Không kỳ quặc tí nào đâu. Ông ấy làm ở Viện nghiên cứu tự động hóa nên làm gì cũng yêu cầu tự động, kể cả việc dạy con.


***


Con trai hỏi bố:


- Trong trường hợp nào thì người ta gửi thư đến cho nhau hở bố?


- Đó là khi người ta ở cách xa nhau, muốn trò chuyện, tâm sự hoặc có việc phải liên hệ với nhau con ạ.


- Thế sao các cô, các chú trong cơ quan bố, ngày nào cũng đi làm với bố mà thỉnh thoảng lại mang phong bì đến cho bố?


- À, đó là trường hợp cá biệt.

451




Cành Mai Của Tháng Giêng Gần.
Trần Thị Hạ Anh
Hình như không phải là cảm giác của những ngày xưa cũ, dù rằng đó cũng là phiên chợ tàn vào ngày ba mươi Tết. Cũng vẫn còn những đống rác rưởi chưa dọn sạch, chồng chất những bông hoa giập nát cánh, màu sắc trộn lẫn nhau, không phải như một bức tranh sặc sỡ muôn màu mà là những tàn phai héo úa, những xót xa thương cảm. Những cánh hoa, trước đây vài giờ, người ta còn nâng niu lựa chọn, người ta còn muốn ngửi lấy hương thơm của nó. Bây giờ, mọi người đều tránh xa để khỏi phải lợm giọng vì mùi hư thối xông lên từ những nhát chổi của người phu quét dọn. Ai cũng cố nhón gót, sợ quần áo vấy bẩn, vướng rách bởi những cánh hoa tàn, cành gãy phế thảị

Ngoài cái cảm giác buồn buồn của những năm trước đây mỗi khi đi xem chợ hoa tàn đêm trước Tết, năm nay Nguyệt cảm thấy mình có thêm một sự trống vắng lạ thường trong lòng. Bởi vì không như những năm còn ở quê nhà, sự háo hức đón Tết luôn kèm theo những lo toan, tính toán về tiền bạc này nọ. Năm nay thì không vậỵ Nàng trở về quê, trước thăm nhà và sau, chỉ để tìm lại cảm giác cũ. Tất cả đã khác đi nhiềụ Những toan tính, những chuẩn bị đã có người nhà. Nàng mang tâm trạng của một người khách ngay trong ngôi nhà cũ của mình. Thực sự ai cũng muốn nàng thong dong, hưởng một cái Tết thoải mái, không phải lo điều gì. Nàng trở thành người ngoại cuộc trong sự chào đón dành cho một người trong lớp áo Việt kiềụ Trong giờ phút hiện tại trên đường phố gần như vắng lặng này , chỉ còn lác đác một vài bộ hành vội vã cho kịp về với gia đình. Năm ba công nhân sở vệ sinh đang hối hả làm việc cho kịp sớm về nhà. Bên kia đường, một vài em bé quần áo không lành lặn, cố nhặt thu những thứ còn khả dĩ dùng được, nơi hông chợ. Vì muốn tìm lại những dư âm ngày cũ, lúc ở nhà, Nguyệt quan sát xem có những món gì còn thiếu sót để xin được đi chợ, nhân dịp nhìn lại một lần cảnh đêm chợ tết cuốị Dù biết trước đó là chợ tàn, sẽ không còn gì. Như thế càng haỵ Nàng cảm thấy mình được tự do hơn khi bước vào khuôn chợ vắng vẻ, không tiếng chào mời náo nhiệt, không sợ đụng người này, chạm kẻ khác... Giờ phút cuối của một năm này, trong ngôi chợ quen thuộc mà trước đây mỗi ngày Nguyệt đều phải hiện diện vì sinh kế, không khí uể oải lạnh lùng đến lạ. Ngay cả những bạn hàng dọn dẹp muộn, họ cũng không níu kéo, chào mời nàng để may ra bán thêm được món gì chăng. Suốt năm dài đầy bận rộn, đây là lúc họ cảm thấy sắp rảnh tay, dù rằng có thể trong năm, họ gặp những thua lỗ. Bây giờ không phải là giờ phút tính toán chuyện làm ăn thêm nữạ Sắp đến khoảnh khắc thiêng liêng, giờ phút quây quần với gia đình dành riêng cho đời sống của mình.

Những mùa xuân lúc còn ở quê nhà trước đây, vào những phiên chợ tết, Nguyệt thường cùng gia đình đi xem chợ hoa bày bán trên đường Nguyễn Huệ, trung tâm thành phố Sài Gòn. Như một thói quen, dù rằng đã được nhìn ngắm hàng hàng lớp lớp hoa muôn hồng, ngàn tía, Nguyệt cũng không bao giờ bỏ sót một phiên chợ chiều, chạng vạng tối nào của ngày ba mươi Tết. Không gian có vẻ cô động lại, và thời gian lúc ấy như nuối tiếc một cái gì sắp sửa khép lại, qua đi lâu dàị

Ðang cố tránh một ụ rác lớn nằm chắn ngang vĩa hè, bỗng cảm thấy có gì níu chân, Nguyệt nhìn xuống. Thì ra là một cành mai quẹt vướng vào ống quần, nàng cúi xuống đưa tay gơ ờnó rạ Cành mai nhỏ xíu, nhiều chi bị gãy, chỉ có khoảng mười mấy nụ mới nhú. Có lẽ vì thế mà cành mai này mới còn lại nơi đâỵ Chắc do bán không được nên người bán dựng lại bên tường rồi quên, hay cũng không muốn mang nó về. Còn người qua đường, không nhìn thấy, hoặc vả có thấy nhưng vì nụ hoa còn bé quá, biết chắc không thể nào nở kịp được trong mấy ngày Tết nên không ai muốn nhặt về vì cho rằng nó sẽ không mang lại vui tươi, may mắn gì hết . Nguyệt định vứt vào đống rác nhưng ngần ngừ, nghĩ lại nó sẽ cùng chung số phận với những cành hoa không may khác, nên lại thôị Ðịnh dựng lại chỗ cũ, nhưng không hiểu sao, dường như những nụ hoa bé nhỏ kia đang nhìn nàng van cầu; những nụ hoa mũm mĩm dễ thương với màu xanh non nớt nhu mì. Thế là, tiện tay nàng cầm luôn, mang về.

Quả thực, vừa nhìn thấy cành mai trên tay Nguyệt, Khánh, đứa em họ, con trai út của cậu mợ nàng, đã vội kêu lên:

- Bộ chị bị người ta biết là Việt kiều nên gạt, bán cành mai đó hả?

Còn mợ thì rối rít:

-Sao con mua chi cành mai như vậy! Nó không nở kịp ngày mai đâụ Ít ra cũng cả tuần nữạ

Nguyệt chỉ biết cười trừ:

-Con đâu có mua, chỉ nhặt thôị Nghĩ nó cũng là "may" nên con mang về.

-Ừ, mà nụ hoa còn nhỏ quá, không thể đem chưng trên nhà được. Nó không nở là điềm xui đấỵ Nhất là nếu bị rụng hết thì lại càng xấu hơn.

Nguyệt đang phân vân không biết tính sao, đứa em đã đề nghị :

-À, em với chị trồng cành mai này đị Em thấy ở nhà bạn em có trồng maị

Chẳng đợi Nguyệt ừ hử, đứa em mang cành mai đi ra phía sân sau nhà. Sau đó, mặc mọi người lo dọn dẹp, sửa soạn cho giờ đón giao thừa lúc nửa đêm, Nguyệt và đứa em lui cui lo trồng cành maị Cả hai Ðào lấy một chút đất đắp vào phiá dưới cành mai, và không biết moi từ đâu, Khánh lấy được một miếng phân đậu bỏ thêm vàọ Xong, cả hai chị em lục lạo tìm miếng vải mỏng quấn quanh gốc cành mai, chỗ cạp đất và phân. Họ đem cành mai đặt nơi khoảng đất nhỏ, nơi có những bụi bông trang cung cấp bông cho những ngày cúng Phật, những cụm hoa mười giờ đang say giấc ban đêm và những cây móng tay đang nở hoa đỏ chói như muốn chườn tới bắt tay làm quen với người bạn mớị Cả hai chị em Nguyệt đứng lặng nhìn công trình vừa hoàn tất trong mấy giây, mãn nguyện, lòng tự hỏi không biết nó sẽ ra saọ..

Trước khi trở vào nhà, đứa em lấy nước rưới cả cành mai cho ẩm rồi ngắm nghía:

-Chị yên chí, em thấy gia đình bạn em cũng làm như vậy để cho cành mai được sống.

Mặc dù trong thâm tâm, Nguyệt tự hứa mỗi ngày sẽ ra thăm xem cành mai ra saọ Nhưng trong những ngày Tết, mọi vui chơi rộn ràng cùng nhiều cuộc thăm viếng tới tấp đã làm Nguyệt quên hẳn cành mai tội nghiệp.

Cành mai đã bị quên lãng. Nguyệt không còn nhớ mình đã mang về một cành maị Cho đến sáng sớm ngày mùng tám tết, khi mợ nàng ra ngoài vườn sau định hái một vài bông trang để cúng sao vào buổi tối, bà gọi vọng vào:

-Nguyệt ơi, ra mà xem nầỵ

Nghe tiếng mợ gọi cao giọng, Nguyệt bước vội ra vườn. Ôi! Cành mai của nàng sao mà đẹp lạ lùng. Những búp nở rộ, xòe năm cánh trắng nõn có điểm lấm tấm nhị vàng. Nguyệt sung sướng thốt : "Bạch Mai, đẹp quá mợ ạ!"
. Ngó lại, cả nhà hầu như kéo nhau cả ra, ai nấy im lặng. Dưới ánh nắng ban mai ấm áp, những cánh hoa mai trắng như ngọc, mềm mại, uyển chuyển, thanh tao làm saọ đứa em họ nheo mắt nhìn Nguyệt không nóị Nàng biết mấy hôm nay nó đã âm thầm tưới nước. Nhưng có lẽ nó cũng không ngờ những bông hoa mai nở muộn màng nầy lại là một loại mai quý hiếm, đẹp sang dường ấỵ Riêng cậu của Nguyệt hài lòng ra mặt, ông ta xoa tay, tươi cười:

-Con Nguyệt này hên thiệt! Tưởng cành mai không sống nổi, mà lại sống. Lại còn là mai quý hiếm nữa chứ. Nếu không nở, ai mà biết nó là bạch mai đâụ

Nguyệt lặng lẽ, nghiêng đầu ngắm hoạ Những bông hoa tươi tắn nhìn lại nàng với những nhụy hoa rung khẽ. Hình như nó muốn cảm ơn nàng đã giúp lấy lại cái giá trị đáng quý đích thật của nó mà lẽ ra, đã bị chôn vùi trong đống rác theo ngày tàn phiên chợ tết cuối năm.

Mợ ra lệnh mạnh miệng:

- Ðem nó lên nhà trên, cắm vào độc bình trên bàn thờ. Mai trắng này mắc lắm, không dễ mua đâụ để đây uổng phí. Phải khoe với khách vài ngàỵ Mai mốt Khánh trồng lại cho mẹ, nghẹ

Ðứa em họ nhăn mặt. Nguyệt biết nó không thể bất tuân lệnh. Cả Nguyệt, nàng cũng muốn cành mai để nguyên nơi vị trí cũ, có khí trời, có những bông hoa lân cận, như vậy chắc nó thích hơn. Nhưng ý của mợ vẫn đúng phần nàọ Vả lại, Nguyệt chỉ còn được mấy ngày ở lại đây thôị Thôi thì ngắm cành mai trắng từ một nơi trang nghiêm như bàn thờ cũng có cái hay của nó.

Quả như mợ đã nóị Người khách nào cũng trầm trồ khen ngợi khi nhìn thấy cành maị Lúc nầy, khi mọi thứ bông hoa màu sắc rực rỡ chưng trong những ngày Tết đã tàn phai và bị vứt bỏ, cành bạch mai càng là trung tâm điểm của những lời khen tặng. Ðến bây giờ mợ Nguyệt mới tiếc: "Giá mà nó nở đúng vào ngày mùng một thì hay biết mấy". Cậu trêu mợ: "Thôi bà, có voi còn đòi tiên, lúc con Nguyệt mới mang về, bà sợ xui, bây giờ thì lại nâng niu, mong ước"...

+++

"Em viết thư cho chị vào ngày cuối tháng Giêng. Sau ngày chị trở về Mỹ, em mang cành mai ra chỗ cũ. Lần này em Ðào đất, đặt nó xuống trồng hẳn hoị Không chắc nó sống hay không. Chỉ hy vọng thôi, vì em nghe ba của người bạn gái học chung trường giải thích cho em : Mai chỉ trồng được khi nào người ta chiết cành từ cây chính, hoặc gieo bằng hạt mai đủ già. Còn nếu chỉ chặt ngang với mục đích chưng trong mấy ngày Tết thì không hy vọng trồng được đâụ Cành mai ấy chỉ có thể trổ và nở hoa lúc đó thôị

Lúc hoa rụng cô bạn gái của em có xin mang về ép. Bây giờ cô ấy gửi qua vài bông hoa tặng chị. Nhưng lúc đó cô bạn em lại không phân biệt được đâu là hoa mai vàng nhà cô ấy và hoa mai trắng của chị, vì những bông hoa khi xỉn màu đều giống nhaụ Chỉ nhận được theo vóc dáng, cánh mai trắng nhỏ hơn cánh mai vàng. Bạn em hy vọng là gửi đúng những bông mai trắng đến cho chị. Mong mùa xuân sang năm chị sẽ lại về ăn tết. Chắc chắn em sẽ tình nguyện theo chị để hai chị em mình cùng tìm mai trắng. Chị có huệ nhãn thật tinh đời! ".

Nâng những cánh mai ép đã sẫm màu, được gửi theo cẩn thận cùng lá thư, Nguyệt cảm thấy thích thú lẫn bồi hồị Dù đó là những cánh hoa không còn màu sắc tươi thắm để có thể nhận ra được là trắng hay vàng. đối với nàng, dù sao đây cũng là món quà quý mang một kỷ niệm dịu dàng khó quên trong lần về thăm quê nhà yêu dấu vừa quạ..

Cành mai trắng với những bông hoa của một tháng giêng gần của Nguyệt có thể khô héo, chết dần vì không đủ nguồn nhựa cho sự sinh tồn. Nhưng nó cũng xứng đáng tự hào đã trao tặng những đóa hoa mãn khai thanh cao hương sắc, tô điểm thêm niềm vui và hạnh phúc cho những ngày cuối cùng còn lưu lại của Nguyệt trong gia đình người thân. Tháng giêng, không những xanh màu cỏ biếc còn điểm thêm màu trắng thanh thoát từ những cánh bạch mai nở muộn. Màu trắng hòa vào hư không, bảng lảng cùng những đám mây trôi giạt khắp bốn phương trời xa xăm, mang theo lời thì thầm chúc tụng của một mùa xuân muộn. Màu trắng cho một lần về với quê nhà, để lúc chia tay mang theo hơi ấm của một tháng Giêng gần.
235






Cuối cùng tôi cũng xin được chỗ dạy, ở một trường cách nhà mười lăm kilômét, cũng cách thị xã ngần ấy đường đất. "Thế nào, chấp nhận hả?" - dì Thương hỏi. "Cháu biết làm sao" - tôi nói. An không ngạc nhiên khi tôi báo tin: "Hiểu rồi, ở đời ai chả một thời ảo vọng thế" - anh nói. Tôi dỗi, anh chỉ cười. "Em dự định rằng sẽ đi làm một thời gian, khi nào đủ điều kiện, chúng ta gặp nhau" - tôi nói, và thêm: " Có thể là sang năm, hoặc năm nữa...".

"Quân trí thức chúng mày chỉ được cái sĩ diện hão" - dì Thương nói thế, bởi vì tôi đã từ chối việc dì cậy nhờ xin cho tôi làm ở một văn phòng nước ngoài, nơi đó có thu nhập cao. "Cháu muốn" - tôi nói. "Cho là thế, rồi đời sẽ dạy mày biết thế nào là đi thực tế theo con đường của mày", dì hăng hái. "Nhưng còn thằng An?". "Thì cứ tạm thời xa nhau thế, bao giờ cả anh ấy và cháu cảm thấy có thể, chúng cháu sẽ...". Dì cắt lời tôi: "Lãng mạn một cách không phải". Biết nói thêm, hai dì cháu sẽ cãi nhau, nhưng buồn vì cho rằng dì không chịu hiểu.

Dì Thương là em út của mẹ tôi, sau cậu Hưng. Mẹ tôi mặn mòi thế, nhưng dì Thương sắc sảo hơn. Mắt dì đen láy, mũi thanh nhỏ, môi đỏ, da trắng hồng. Phải tội, trời phú cho dì gương mặt đẹp thì lại bớt xén của dì thứ khác. Sinh ra dì đã bị thọt chân, một chân nhỏ, ngắn hơn hẳn chân kia. Từ đấy, đôi chân thành mối hoạ của đời dì. Mẹ kể hồi nhỏ đi học, dì học giỏi lắm, từng đỗ đầu huyện về thi học sinh giỏi toán kia mà. Có điều bọn trẻ con ở trường không gọi dì là Thương, dù tên dì đẹp và dịu hiền, chúng gọi dì là con thọt. Chẳng có trò nào dì được chơi cùng, ngoài trò đánh chắt. Sự hãnh diện vì thông minh không bù được nỗi cay đắng vì dị tật. Nhiều bữa dì khóc sưng cả mắt. Bà thương dì, bảo: "Thôi thì ở nhà với mẹ vậy, chả cần học làm gì". Dì cương quyết: "Ðã tật lại dốt nữa, để người ta càng khinh à!". Từ đấy dì cứ luôn là học sinh giỏi, học sinh tiên tiến. Tốt nghiệp cấp ba, thi vào Ðại học Tổng hợp, nhưng dì vào trường rồi bị trả về, cũng vì cái chân. Suốt một năm dì thui thủi ở nhà, thêu móc những ví và túi xách bán cho các nàng con gái thích làm đỏm. Năm ấy cậu Hưng tôi cưới vợ làm nhà trên thị xã. Dì bảo: "Anh cho em theo, em ở giữ nhà giữ cháu cũng được". Thế là dì rời quê. Bà thở dài: "Số nó rồi khốn khổ". Mẹ bảo: "Dì ấy muốn thì cứ chiều".

Lên phố với cậu Hưng, ngày cậu mợ đi làm, nhà vắng, ngồi thêu móc mãi cũng chán, dì lân la sang quầy tạp hoá bên cạnh chợ. Chẳng dè sự xuất hiện của dì làm người mua tăng hẳn lên. Bà chủ cửa hàng bên thuê hẳn dì đứng trông quầy tháng trả hai trăm tiền công. Dì nhận lời, từ đấy thành người bán hàng. Người qua phố cứ thấy dì thấp thoáng sau quầy hàng, mắt vời vợi, nụ cười như mê hoặc, không thể không dừng chân. Một đồn bảy, bảy đồn mười, người ta đến như bươm bướm chuồn chuồn, đàn ông con trai cũng như bươm bướm chuồn chuồn. Mẹ bảo: "Dì lấy chồng đi!". Dì cười: "Mười thằng đàn ông thì chín thằng thích hai phần trên, không nhìn phần ba dưới...". Ðược lâu, dì thôi đứng bán thuê, nên cậu tôi cho mở hẳn một cửa hàng trước nhà. Khách hàng kéo sang cửa hàng dì, đến nỗi bà chủ cũ cũng cạnh khoé. Dì bảo: "Thị trường, ai khéo thì ăn, có ăn cắp của nhau đâu mà sợ...". Vốn liếng dì phình phình ra mãi. Dì hăm lăm, rồi hăm tám... Mẹ buồn rầu: "Mong nó kiếm tấm chồng mà kiểu này cũng không xong!". Dì vẫn cười, mắt lúng liếng, chung chiêng. Người mua hàng vẫn như bươm bướm chuồn chuồn...

Tôi vào đại học, dì đã có nhà riêng hẳn hoi, không sang trọng nhưng xinh xắn, ấm cúng. Bốn năm học, nào học phí, sách vở, áo quần, trăm thứ nhu cầu, kể cả ái tình phí, nhà tôi bố mẹ làm ruộng, con đông, không đủ chu cấp, nhờ dì Thương mà tôi không đến nỗi túng thiếu. Dì trẻ, cháu gái lớn, thành ra tôi gần gũi dì, nhiều khi thấy hơn cả với mẹ tôi. Thỉnh thoảng nghỉ học, tôi lại đi một trăm cây số ra thị xã, gục vào dì mà cười mà khóc, mà kể lể. Dì bảo: "ừ, chỉ khi yêu con người mới lắm nỗi niềm". Khi tôi yêu An, dì cũng không ngăn, chỉ nói: "Dám yêu thì dám chịu". Trái lại mẹ tôi cấm ngặt, bởi An đi làm ở xa, cách nhau gần nghìn cây số, gia đình An lại thuộc thành phần buôn bán không trong sáng! Dì kể, dì cũng đang yêu. Tôi mừng hú, bíu lấy dì: "Chừng nào cưới, hả dì?". "Chả cưới!" - dì thủng thỉnh. Tôi ngạc nhiên nhìn dì. Dì ngoài ba mươi rồi mà sao còn đẹp thế, người như dì suốt đời không được yêu thì bất công biết bao. Tôi là con gái cũng còn phải thua dì. Giá tôi giống dì hay mẹ được một chút, đằng này tôi giống bố, mắt nâu và xếch, da bồ quân... Không, người như dì không thể không được yêu... "Dì nói cháu nghe đi!" - tôi giục. Dì cười mông lung. "Ông ấy có vợ con đề huề". Sao dì?..." - tôi cố nuốt cái gì nghèn nghẹn trong cổ họng. "Là dì tự nguyện đấy, chẳng phải bị phỉnh phờ hay dỗ dành gì đâu" - dì nói như sợ tôi sẽ nghĩ điều không tốt đẹp về người đàn ông của dì. Tôi gay gắt: "Ông ta yêu dì nhưng không dám bỏ vợ chứ gì? Thế thì hèn... ". Dì cúi đầu, một lúc mới cất tiếng: "Có thể. Có thể sự hèn ấy cũng khiến ta yêu. Ðôi khi lòng yêu và lòng thương nó là một, đôi khi không phải, nhưng người ta hay nhầm. Chẳng cần biết, chỉ biết lòng được an ủi là đủ". Tôi khóc, vừa thương vừa giận dì. Làm sao có lúc dì tỏ ra thực tế, bây giờ lại cả tin thế?

***

Thứ bảy ấy tan trường tôi vội vã đạp xe vào thị xã. Tôi vừa nhận thư An, anh bảo tôi vào ngay, vì có thể chuyện của chúng tôi cũng phải có một kết cục nào đó. Tôi đâm khó nghĩ, liệu có nên ra đi không, hoặc cứ thế, chờ một cái gì đó sẽ đến trong đời mình... Ðang mùa mưa, vậy mà có một ngày tạnh ráo, trời xanh dịu, hứa hẹn một đêm đẹp trời. Ðến thị xã vừa lúc tối. Ði giữa phố, dưới đèn điện lấp loá, giữa dòng người tấp nập đi phố, nhiều nhất là trai gái, những cặp trai gái đèo nhau bằng xe đạp, xe máy, mắt ngời ngợi, bất chợt thấy rủi cho cái cuộc sống buồn tẻ trầm lặng của mình. Chẳng lẽ điều dì Thương nói là có lý? Cả An cũng thế?

Ngày ra trường lẽ ra phải đi vào Nam cùng với An, hoặc làm ở thị xã theo như gợi ý của dì, nhưng tôi đã từ chối tất cả, xách vali về một trường lẻ, với ảo tưởng của kẻ đi khai phóng văn minh. Từ bấy giờ đã gần năm. Trái với những dự định, thời gian cốt chỉ làm tôi mỏi mòn đi, không hơn. Liệu có thể thay đổi được gì không? Ðau đớn vì khao khát, đồng thời tự tôi cũng biết tôi có một đau đớn khác, đau vì sợ đổi thay...

"Bao giờ chán về đây, thích thì tao giao cho cái quầy, không thích tao kiếm cho chỗ làm khác" - tôi nhớ dì Thương có lần nói thế. Bây giờ, chẳng lẽ tôi phải nhờ vào dì? Nhà đóng cửa. Tôi dùng chìa khoá riêng vào nhà, đọc mảnh giấy chặn sẵn trên bàn: "Thức ăn trong tủ lạnh. Tiền trong tủ áo, nếu muốn thì lấy đi chơi. Dì về muộn". Tôi ăn cơm, chán nản mở tivi ngồi xem, xem chán lại giở thư An đọc. Anh viết: "Anh tự hỏi, không biết có phải chúng ta đã thật yêu nhau chưa, khi chúng ta cứ viện vào những cớ khách quan, và cứ trông chờ, chẳng dám, chẳng phá vỡ một cái gì để được ở gần nhau? Cả anh cũng hèn thế...".

Mười một giờ, nghe tiếng động ngoài cửa, tôi hé rèm, nhìn ra. Dì đang đứng trên hiên, cạnh một người đàn ông cao, tì người trên chiếc nạng gỗ. Tôi nghe dì thì thầm: "Mai anh lại đến chứ? Thôi hay để ngày kia vậy? Mà em sẽ đón anh, chỗ ngã tư ấy...". Họ đứng bên nhau, lặng im, trong ánh trăng đan dệt huyền diệu như một ảo ảnh. Dì mặc bộ áo lụa hồng, tóc thả dài, rực rỡ mê hoặc. "Em nhìn thấy trăng không?" - lâu sau người đàn ông lên tiếng. "Có" - dì Thương trả lời, và nép sát vào bạn tình. "Hôn em đi!" - dì bảo. Người đàn ông cẩn thận áp chặt chiếc nạng gỗ vào nách, cúi xuống, và dì, cố thật thẳng người, chờ đợi. Cái hôn kéo dài, bất tận, tôi tưởng tất cả đều ngưng đọng trong đó, cả hạnh phúc nỗi đau, cả thời gian... Khuya lắm, mới nghe tiếng lộc cộc, lộc cộc khua xa dần trên phố.

Dì áp sát người vào tôi, cầm lấy bàn tay tôi đặt lên bụng, nói như hụt hơi: "Này, dì sắp có con đây!". Tôi giật mình. Dì tiếp: "Chắc thế! Trước đây, dì cứ sợ không có, nay chắc rồi...!". "Dì hạnh phúc phải không?" - tôi hỏi. "ừ..." - giọng dì thoảng nhẹ. "Dì có chắc là ông ta yêu thương dì không?". Tôi nghi ngờ, xa xót. "Chắc chứ! Mà không yêu cũng vậy thôi. Chỉ biết mình được gần gũi người mình yêu, cần gì"... "Dì không sợ đau khổ à?". "Dào! Sợ đau khổ thì đừng yêu!" - dì đáp và quay lưng, ngủ.

Tôi trằn trọc mãi, lòng bồi hồi, nôn nao, mãi không ngủ được. Hôm sau tôi dậy sớm, lặng lẽ chuẩn bị. Dì thấy tôi xếp hành lý vào túi xách, ngạc nhiên. "Cháu đi đây, dì ạ! Cháu vào với anh An!" - tôi nói với dì. Dì ôm lấy tôi, bất chợt khóc: "Chúng mày có dám chắc chúng mày sẽ sống nổi trong ấy không?". "Cháu không biết! Miễn là chúng cháu được gần nhau". ừ, ừ, - dì vẫn khóc - có gì khó khăn viết thư cho dì! Dì tin mày hạnh phúc".

Tôi nhìn ra, bình minh hồng rạng phía chân trời, một màu hồng mỡ màng, đầy sức sống. Dì kéo tôi lên ban công, chỉ tay về phía vầng mặt trời đỏ ối đang từ từ nhô lên, lặng lẽ nhưng tự tin. "Cháu hiểu không, ngày bao giờ cũng là của mặt trời..." - dì nói, và mắt dì lại phản chiếu muôn vàn ánh sáng lấp lánh, mê hoặc, như hồi hôm, khi dì tì sát vào người đàn ông dì yêu...

1909




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Người Đánh Xe Lừa


Người đánh xe lừa, rất bực mình giống lừa cứng cổ. Giống này, hễ làm biếng không đi, thì đứng lỳ một chỗ, càng bị đánh càng lùi thêm... Anh ta bèn nghĩ ra một kế: Đem bó lúa tươi thơm ngát treo trước đầu lừa.

Lừa thấy lúa thơm, bước tới ăn. Nhưng, bước tới thì bước, mà bó lúa vẫn không bao giờ ăn được. Nhờ vậy mà nó cứ bước mãi... Người đánh xe không cần thúc giục, mà xe cứ lăn tới đều đều... theo ý muốn.
568




Chiếc lồng đèn bằng giấy kiếng bóng muôn màu rực rỡ đã là một ước mơ giản dị nhưng chưa bao giờ đạt đến trong thời tuổi thơ nghèo khó của tôi. Những chiếc lồng đèn muôn hình, vạn trạng treo lủng lẳng, bày bán ở chợ, trong các tiệm bánh được bọn con nít nhà bần chúng tôi dòm ngó, thèm thuồng. Trung thu của trẻ con nghèo chỉ là những ngọn nến thắp sáng , gắn vào một thanh gỗ là quá đủ. Sang hơn một chút, ngọn nến được cắm trong một cái lon sữa bò đục lỗ hai đầu cho ánh sáng tỏa ra từ các khe hở. Có đứa nảy sinh sáng
kiến làm một chiếc xe trên một trục thép khi đẩy cái lon xoay tròn kéo theo sự chuyển động của tia đèn , trông thật đẹp mắt. Nhờ có người anh hai khéo tay nên tôi không phải chơi với món đồ nguy hiểm đó. Đôi khi những mảnh thép cứa đứt tay,
hoặc bị phỏng vì hơi lửa nung nóng chiếc lon lúc vô tình chạm phải . Năm nào anh tôi cũng bỏ công đi chặt tre, đẻo trúc, chuốt nan, quấy hồ cũng như chuẩn bị sẵn những tờ giấy bóng mờ dùng để bao tập để dành rồi tự tay làm lấy những chiếc đèn ông sao cho anh và tôi rước đèn trung thu .
Chiếc lồng đèn tuy đường nét còn thô kệch, những tờ giấy dán mờ mờ, không trong và bóng bằng những chiếc lồng đèn ngoài chợ mà cũng có lắm đứa thèm thuồng. Đó là niềm hãnh diện nhỏ nhoi của tôi trong những mùa trăng tháng Tám xa xưa.
Năm ấy, anh tôi đã trưởng thành hơn, do đó óc tưởng tượng cũng lớn theo . Anh quyết định không thèm làm những chiếc lồng đèn ông sao tầm thường, đơn giản như mấy năm trước nữa. Lần này, anh sẽ thực hiện một chiếc lồng đèn mang hình dáng một con phượng hoàng kiêu kỳ với cái đuôi dài lộng lẫy. Mọi việc đã chuẩn bị xong, anh lúi cúi làm quên cả những trò giải trí khác. Tôi nôn nao chờ đợi, vẽ vời trong trí óc nhỏ bé của mình một chiếc lồng đèn thật đặc biệt, thật đẹp để khoe với bọn trẻ cùng xóm. Ngày làm xong cái khung đèn, tôi lân la đến gần, chỉ thấy một khung nan tre
uốn theo hình dáng cong cong, phần dài dài thanh mảnh. tôi đoán đó là cái đuôi, còn ngoài ra, tôi không hình dung ra được gì cả. Điều tưởng tượng khác với khung sườn đang nằm trước mặt làm tôi đôi chút thất vọng.

Ngày dán giấy vào khung đèn, anh tôi rất chộn rộn, chạy qua nhà đứa bạn này, người bạn nọ hết cả ngày trời để mang về đủ thứ món lỉnh kỉnh mà xem chừng anh rất quí. Cuối cùng, chiếc đèn con phượng đã ra đời qua đôi bàn tay khéo léo của anh. Con phượng kiêu hãnh trong màu vàng dịu ngọt của trăng, đôi cánh vươn rộng điểm thêm những tia bông gòn mềm mại. Còn cái đuôi mới thật là một kỳ công. Anh cố sức tô điểm bằng những chấm tròn to nhỏ nhiều màu sắc, xen lẫn
nhau trông lòe loẹt, ngộ nghĩnh như đuôi của mấy chú công mà tôi có dịp nhìn thấy trong sở thú. Chắc anh tôi đã thực hiện đuôi phượng bằng hình ảnh ấy, chứ có ai nhìn được con phượng thật bao giờ đâu. Đây là phần anh chăm chút nhất. Nhưng có lẽ vì quá tuyệt vời nên nó làm cho chiếc lồng đèn không giữ được thăng bằng khi đặt xuống đất.
Nó cứ chúi đầu xuống rồi nghiêng hẳn qua một bên. Hình như con phượng này chỉ muốn bay chứ không thèm ở trên mặt đất.
Dù vậy anh tôi vẫn tự hào:
-Kệ nó, miễn đẹp là tốt rồị Khi đốt đèn người ta cầm trên tay, có ai để xuống đất đâu mà lo.
Từ ngày hoàn tất xong mọi việc, mỗi ngày, chiếc đèn hình con phượng đều được anh mang ra ngắm nghía, khi thêm chỗ này, lúc sửa lại chỗ kia dù đó chỉ là những chi tiết nho nhỏ. Còn tôi, chỉ mong chóng đến ngày rằm để chiêm ngưỡng xem nó đẹp đến chừng nào. Chiếc đuôi hẳn sẽ lộng lẫy muôn màu tỏa sáng dưới ánh nến, những chiếc vảy lấp lánh trên thân phượng và đôi cánh chấp chới như muốn bay lên bầu trời sáng ánh trăng thu. Chỉ tưởng tượng thôi mà tôi đã cảm thấy thích thú vô cùng. Chao ơi là đẹp.

Thời gian mong đợi cũng đến. Khi ánh trăng bắt đầu ló dạng, mặt trăng tròn vành vạnh, nằm lơ lửng vắt trên bụi tre đầu xóm, chiếu từng tia sáng xuống trần, cũng là lúc lũ trẻ từng nhóm rủ nhau xách đèn đi chơị Anh tôi không vội vàng, đợi bọn trẻ quây quần đầy đủ và lũ bạn gọi tên ơi ới, mới thủng thẳng xách tuyệt phẩm của mình ra khoe. Anh đốt một cây đèn cầy rồi cẩn thận gắn bên trong chiếc đèn. Có thêm ánh sáng, con phượng nhìn sống động hẳn ra. Bao ánh mắt trầm trồ thán phục. Chiếc đèn không giống những chiếc đèn khác, nó to lớn và như biết múa dưới ánh trăng. Anh thận trọng cầm đèn và dắt tôi hòa nhập vào dòng con nít đang đi rước đèn. Trong khi đi, anh kể lại giai đoạn làm đèn một cách hào hứng, sôi nổị Tôi lủi thủi theo sau, mới đầu còn hăng hái sau cảm thấy chán vì chưa được xách chiếc đèn này. Quay qua thấy tôi tiu nghỉu, anh hiểu ý:
-Cho em cầm nè, nhưng cẩn thận nhẹ Đừng để nó xuống đất, nhớ nha.
Anh nhường đèn cho tôi, lấy một cây nến khác đốt lên, cắm vào một thanh tre nhỏ rồi bước theo lũ bạn của anh. Tôi gia nhập vào đám trẻ cùng lứa tuổi. Có một nhóm con nhà khá giả, cầm những chiếc đèn làm bằng giấy kiếng bóng đủ mọi hình dáng đang khoe sắc , những chiếc máy bay, tàu buồm, bươm bướm, ngôi sao chiếu sáng cả màn đêm. Chúng thì thầm với nhau khi thấy cái lồng đèn "không giống ai" của tôi. Tôi cũng nhìn lại chúng. Chiếc đèn của tôi tuy đặc biệt nhưng vì dán bằng giấy bóng mờ nên không rực rỡ bằng mấy
cái đèn đó. Trung, một thằng con trai trong nhóm tiến đến gần tôi:
-Ê! Chiếc đèn của mầy ngộ quá hen. Ai làm cho mầy vậy?
Tôi hãnh diện:
Ừa, anh tao làm đó.
-Sao mầy không mua một cái giống của tao. Đèn của mầy ngộ thôi, đâu có sáng bằng đèn tao. Giấy bóng kiếng như vầy mới đẹp.
Tôi ngẩn người, chỉ biết ấp úng:
-Nhưng mà anh tao làm, đâu đứa nào có đèn giống vầy đâu.
Tôi cũng thèm cái lồng đèn như nó lắm. Nó nói cũng đúng, con phượng của tôi tuy lạ nhưng nhìn kỹ không rực rỡ bằng đèn của nó. Ánh sáng trong veo , màu nào cũng tỏ, lại thêm những đường nét sơn tô điểm bên ngoài. Nhưng thôi, có mấy đứa còn phải cầm nến với thanh gỗ kia mà chúng vẫn cười vui, hớn hở đó sao. Khi nhường đèn cho tôi anh tôi cũng phải chơi như vậy. Đang cầm chiếc đèn hình chiếc xe tăng màu đỏ trên tay, Trung tỏ vẻ thèm thuồng cái đèn của tôi ra mặt:
-Mầy cho tao cầm thử coi.
-Không được, của anh tao. Đưa cho mầy cầm, anh tao la.
-Hay mày cầm cái đèn của tao đổi nhau chơi chút rồi trả lại, có gì đâu mà sợ anh mầy la.
-Không được mà.
Tôi trả lời mà mắt vẫn chằm chằm nhìn vào chiếc đèn của Trung. Hồi nào đến giờ, tôi chưa hề cầm được trên tay chiếc đèn giấy kiếng. Tôi chỉ sợ anh tôi biết sự trao đổi này sẽ giận không cho tôi chơi đèn chung với anh. Nghĩ ngợi giây lâu, Trung đưa tay vào túi quần, lấy ra một miếng bánh trung thu thơm ngon, chìa ra trước mắ
t tôi:
-Cho tao cầm một chút rồi tao cho mầy miếng bánh nướng này, ngon hết sẩy đó.
Mùi vị của miếng bánh làm cho nước miếng tôi đầy trong miệng. Tôi chỉ ăn thứ bánh nhân đậu rẻ tiền khi má tôi cúng xong chia thành nhiều lát mỏng cho cả nhà. Còn miếng bánh này thuộc loại mắc tiền, hương thịt trộn lẫn với tròng đỏ trứng, hạt sen, lạc xưởng, mứt bí, hạt dưa... Ôi còn nhiều thứ nữa. Tôi lạc lòng, nhận chịu:
-Thì nè, nhưng lúc cháy hết cây đèn cầy thì mầy phải trả lại tao.
Cầm chiếc đèn giấy kiếng trong tay, tôi vô cùng hả da. Chiếc đèn hắt muôn ngàn tia sáng soi rõ đôi bàn chân nhỏ bé, gầy yếu của tôi. Lần thứ nhất tôi cầm được chiếc đèn từng mơ ước. Chiếc đèn như đang cười với tôi bằng những tia sáng lung linh. Vị bánh ngon ngọt đang trôi dần dần qua cổ họng.
Tôi đang thưởng thức một hương vị trung thu mới mẻ nhất trong đời. Đột nhiên , một ánh lửa bùng lên trong mắt, sáng bừng cả một góc. Miếng bánh còn vương trong cổ họng chưa kịp nuốt đã dừng lại nửa chừng khi bên tai tôi nghe có những tiếng la
lớn:
-Chết, cái đèn của con Nhiên cháy rồi kìa.
Tiếng chân chạy, tiếng lao xao của lũ bạn. Những chiếc đèn đang tụ hết về đây. Lũ trẻ quơ quơ ngọn đèn chung quanh, miệng la ơi ới. Anh tôi từ xa chạy vội tới. Mấy cái miệng phù ra thổi thổi, những thanh tre đập đập vào ngọn lửa . Tôi thừ người, nhìn ngọn lửa đang liếm dần từng phần của chiếc đèn hình con phượng. Ngọn lữa lụi tàn dần rồi tắt
hẳn. Con phượng yêu kiều chỉ còn là một đống lam nham, lõ dở. Thì ra, tôi đã quên dặn Trung đừng để chiếc đèn xuống đất.Tôi bật khóc nức nở, miệng có vị mặn của bánh hay nước mắt hòa vào nhau tôi cũng không biết. Cảm giác mất đi một vật quí giá không có gì đền bù được làm tôi càng khóc lớn hơn. Qua màn nước mắt, tôi thấy anh tôi chắt lưỡi tiếc rẻ, tay cầm cán đèn, ngắm nghía hồi lâu, xem chừng không còn gì cứu vãn được, anh bỏ xuống, đến bên tôi, vỗ vỗ lên đầu tôi, dỗ dành:
-Nín , nín đi. Mai mốt anh làm cho em cái đèn khác đẹp hơn.
Biết lỗi tại mình, lại nhìn thấy tôi khóc lóc thảm thiết. Trung không đành lòng lấy lại chiếc đèn, nhưng anh tôi ấn vào tay nó, đoạn dắt tôi trở về nhà. Trăng vẫn còn vằng vặc sáng. Đám trẻ coi bộ mất vui sau cảnh tượng đó nên cũng lục tục ra về bỏ dở cuộc vui. Sáng hôm sau, tôi mon men ra chỗ rước đèn đêm qua, chiếc đèn con phuợng đang nằm chỏng chơ trên mặt đất. Những thanh nan
tre nám đen lỗ chỗ, tàn tro đầy phía dưới khung sườn. Tôi giở cái khung lên, như được giải thoát, bụi giấy bay là là theo ngọn gió sớm rồi tản mạn mọi nơị Mùa trung thu chấm dứt theo chiếc đèn bị cháỵ Vị bánh không còn đọng vị ngọt trong tôi. Sự hối tiếc làm tôi buồn bã. Vì lòng ham muốn vật
không phải của mình, vì một miếng ăn làm bỏ phí bao nhiêu công trình tim óc của anh tôi. Có phải vì những tính xấu ấy mà chiếc đèn đã rời xa tôi mãi.

Cho đến ngày nay, sau bao nhiêu năm đã qua, anh vẫn còn nợ tôi lời hứa trong đêm trung thu ấỵ Chiếc đèn hình con phượng là chiếc đèn cuối cùng trong mùa trung thu thơ ấu của tôi. Trải qua nhiều thay đổi thăng trầm trong đời sống nhưng mỗi lần đến mùa trung thu, hình ảnh chiếc đèn năm xưa lại quay về trong ký ức tôi tình cảm ấm áp ngày nào. Con phượng thời thơ ấu đã bay vào một khung trời khác. Trăng trung thu vẫn tròn, ánh sáng vẫn trong. Trong đường nét mờ mờ của
vầng trăng mầu nhiệm ấy, ngoài hình ảnh một Chú Cuội, chị Hằng Nga còn có bóng dáng một con phượng hoàng với cái đuôi nhiều màu sắc sặc sỡ, vì không tìm được sự thăng bằng trong đời sống nên đã bay lên đó làm chỗ trú thân mãi mãi.248







Bây giờ chưa hết tháng ba nhưng mỗi tối từ chợ về, dì Diệu đã tranh thủ ngồi may đồ cho em bé. Đã biết là con gái nên bộ nào dì cũng dún bèo cổ, bèo tay, bèo lai áo . . . coi rất dễ thương ngộ mắt. Ban ngày, dì ra sạp vải, lúc nào có khách thì lo buôn bán, đo đắt, lúc nào rảnh dì ngồi đơm nút, vắt khuy. Tay dì tẩn mẩn xỏ từng đường kim tí xíu. Dì vừa làm vừa mủm mỉm cười một mình, rồi vui quá xá là vui, một mình vui không hết, dì Diệu khoe :
- Tui sắp có con gái rồi nghen.
Một người dòm lom com vô cái eo thon thả của dì rồi cười :
- Nói chơi hoài, có thấy bầu bì gì đâu ?
Dì Diệu cười ngặt nghẽo, cười đến khi cái mũi thon thon xinh xẻo của dì ửng đỏ lên :
- Bốn mươi mấy tuổi rồi, bầu bì gì nữa. Tui xin con nuôi.

Mấy bà bạn bàn ra bàn vô, nói chuyện tò vò nuôi con nhện, chuyện con quạ nuôi tu hú nhằm lung lạc dì, nhưng dì Diệu vẫn khăng khăng chắc lòng chắc dạ, làm như dì đã thấy ràng ràng một tương lai chắc chắn rồi vậy. Thấy dì Diệu cười cười hoài, kiểu “chuyện của tui, chị em sao biết được”, thấy tức chết.

Đó thật sự là một bí mật của dì Diệu. Đứa bé sắp sinh ra là máu thịt của chú Đức, chồng dì Diệu. Chú Đức làm giám đốc văn phòng đại diện một công ty điện tử ở Cần Thơ. Chú làm việc xa nhà nhưng chưa bao giờ chú làm chuyện có lỗi với dì Diệu. Là vì chú Đức hiền hậu, chừng mực, mà cũng vì dì Diệu cực kỳ đáng yêu. Dì là loại người ít lo nghĩ, lúc nào cũng trẻ con, non nả. Dì ít giận ai mà có giận cũng mau quên. Chú Đức hay lấy tay ngoáy tóc dì, cười bảo :
- Em như con nít.. Tới chừng anh lụ khụ rồi em vẫn chưa già .
Suốt nữa đời, dì chỉ buồn là không còn được có con. Năm chú cưới dì, dì khám bịnh phát hiện ra mình có một khối u nhỏ ở buồng trứng. Dì vốn không lo mấy, không biết ngày nó càng lớn lên. Đến lúc sực nhớ trong bụng mình có bịnh thì là lúc đã đau quặn lên rồi. Đi bệnh viện, bác sĩ bảo cắt, dì nhoẻn cười, thì phải cắt, cắt để sống với chồng chớ. Rồi dì lạc quan lên bàn mổ. Không ai nói cho dì biết trước là sau ca mổ vĩnh viễn dì không thể có con được nữa. Dì nằm trong phòng hồi sức, nước mắt chảy về hai phía đuôi mắt ròng ròng, len vào tóc, ướt gối. Hồi nhỏ, em dì đông, tuổi thơ cơ cực, dì Diệu bồng em chai hông, có lần dì ra ngoài đình, dì than, dì ghét con nít lắm. Có phải vì vậy mà trời phạt gì không hỏng biết. Dì Diệu buồn như ai rứt ruột, dì khóc, biểu chú Đức thôi dì đi, sống chung mà không có con chỉ buồn thêm thôi. Chú Đức tỏ ra cứng lòng cứng dạ, cười xoà, chú sẽ ở bên dì suốt đời cho dù vợ chồng có con hay không có con. “Tìm đâu trên đời nầy một người vợ non nhuốt và trong trẻo như em để cho anh chở che mà em biểu bỏ nhau”, chú Đức nói vậy. Rồi từ từ dì Diệu cũng nguôi đi. Dì lại cười lại nói. Nhưng lạ cái, chuyện gì dì cũng mau quên, nhưng chuyện nầy rõ ràng quên không được. Trẻ con đi qua cửa lòng dì quặn lại, rối nùi, rát như muối xát vào vết thương đang mở miệng. Chú Đức an ủi dì bằng cách mỗi lần về tặng cho dì một món quà. Có lần chú đem về cho dì một con sáo, nó ẽo ẹt :
- Má ơi, nhà có khách.
Mèn ơi, dì Diệu nghe tiếng má mà nghe lịm ngọt trong lòng. Dì bảo dì không cần món quà nào khác ngoài một đứa con. Chú Đức tưởng dì nói chơi, cười sùi sụt :
- Trời đất, sao có được ?
Dì Diệu tỉnh rụi :
- Mướn đẻ. Em đọc báo thấy người ta mướn đẻ nhiều lắm.
- Rồi làm sao anh còn dám nhìn mặt em nữa ? – Nhìn vẻ mặt chú Đức rối rắm, dì Diệu cười :
- Em thương anh hoài. Anh đâu có làm gì có lỗi với em. Kỹ thuật mới mà.
Rồi dì te tái xách mấy tờ báo cho chú Đức coi, dì nói thiệt dứt khoát :
- Lần này mà anh không chịu, em thôi thiệt. Anh thì công tác xa, em ở nhà có một mình, nghĩ tới con nít buồn đứt ruột.

Đó là mở đầu một câu chuyện được bàn bạc rất lâu, dài, căng thẳng. Chú Đức mất bốn ngày nghĩ ngợi, năm đêm thức trắng. Lần đầu tiên chú chiều vợ vượt quá sức mình. Chú tin là dì Diệu sẽ thu xếp chuyện sau nầy thật chu đáo, nhưng trong lòng cắn rứt vì nghĩ mình đã làm một chuyện trái lương tâm. Dì Diệu nằm kê đầu lên tay chú thở đều, ngủ ngọt lịm. Thì dì có gì nữa đâu, người mà dì muốn mướn cũng đã có sẵn rồi: Chị Lành.
Chị Lành lỡ thời, mập mạp, hịch hạc. Chị sống trong khu nhà dì Diệu cất cho sinh viên thuê, nhưng chị không phải sinh viên, chị gánh nước mướn. Hai bên vai chị thâm xám, vai gồ lên. Một ngày chị gánh non trăm đôi nước. Chị gánh dẻo như múa, đường dài, hẻm nhỏ mà không chao một giọt nước ra ngoài. Dì Diệu chọn chị Lành bởi vì chị hiền. Dì tin rằng người mẹ hiền sẽ đẻ con hiền. Mà, chị Lành cũng rất cần tiền để gởi về xứ. Má chị biên thư xuống bảo nhà chị bây giờ mối ăn gần sụm bà chè rồi, lúc này mưa, nước dội ngay bàn thờ ba, rầu thúi ruột. Má nói làm sao bắt thằng em út chị Lành viết y chang như vậy.Chị Lành đắn đo hoài. Chị cần tiền nhưng sợ chuyện sau này, sợ những mối thâm tình ràng buột mình không tròn lời hứa với dì Diệu. Lại nữa sợ bà con người ta dị nghị, không chồng mà lại có con, bởi chuyện nầy , ai cũng muốn giấu cho thật sâu kín. Chị coi chuyện mình cần tiền với một đứa con như hai cánh tay. Cánh tay nào cũng quan trọng, biết chọn làm sao bây giờ. Nhưng khi chị nhìn thấy những giọt nước mắt rớt lộp độp xuống áo dì Diệu, chị cầm lòng không đậu, chị gật đầu. Hồi nào giờ có bà chủ nhà nào tốt với chị như Dì Diệu đâu.

Cuối cùng thì chị Lành cũng đã trở thành người nhà dì Diệu. Dì thương chị như em gái ruột của mình. Mà, không thương sao được, nghe xóm giềng xầm xì chuyện chị Lành không chồng mà lại có con, lòng dì Diệu đau lắm, dì nghĩ, vậy là tai tiếng, khổ sở cả một đời con gái người ta. Không thương sao được, khi chị Lành thay dì chịu hết cơ cực khi có con. Mới hai tháng, khắp mình chị đã nổi sẩy sần như giề cơm cháy. Hai bên gò má da bắt đầu nám xạm đi. Chị không ăn được gì nhưng lại thèm đủ thứ. Dì Diệu biểu chị muốn ăn cái gì dì Diệu sẽ mua cho. Chị thèm thịt trâu luộc cơm mẻ, dì Diệu mới đem về tằng lăng tíu líu trong bếp, chị Lành đã bắt mùi cơm mẻ ói sấp ói ngửa. Dì Diệu thương tới rơi nước mắt. Tận đáy lòng chị Lành biết rằng dì Diệu thương chị thiệt tình như một con người với một con người chứ không phải vì đứa bé chị mang trong bụng. Dì Diệu bắt đầu chuẩn bị cho một đứa con ra đời. Dì mua mấy tấm hình em bé về dán trong căn nhà chị Lành. Đứa nào đứa nấy ú na ú nần, thấy cưng không chịu được. Dì biểu chị Lành phải siêng nhìn để sinh con ra nó sẽ xinh đẹp như thế. Chị Lành thắc mắc :
- Giống trong hình làm chi, giống ba giống má nó là được rồi .
Dì Diệu ngẩn người, ờ , dì bắt đầu nghĩ, đứa bé sinh ra sẽ giống ai, giống chú Đức đẹp người, giống dì trong trẻo, trẻ trung hay giống … ?
- Nó sẽ giống cả ba người.
Dì chắc chắn như vậy.

Chị Lành thường lén trốn dì Diệu đi gánh nước. Hồi chưa có bầu thì gánh đầy, bây giờ gánh lưng thùng. Chị muốn gởi về cho má nguyên số tiền đó mà không mẻ một đồng nào. Bây giờ, có con, chị thương má nhiều thiệt nhiều. Dì Diệu có hôm dọn hàng về sớm, thấy chị Lành vắt vẻo đôi thùng trên đường mà lòng xót xa :
- Con của chị em mình giờ là cục máu mỏng manh lắm, em làm vậy không được đâu.
Chị Lành rân rấn nước mắt cái câu “con của chị em mình”. Dì Diệu dỗ, “em mà khóc hoài, em bé sinh ra mặt sẽ buồn cho mà coi”. Rất nhẹ và dịu dàng, lòng hai người đàn bà tự dưng chỉ nghĩ về chỗ đứa con.
Dì Diệu bắt đầu mua sắm, từ cái núm vú da cầm tay tới bình ủ sữa, chiếu manh, nệm trẻ con, mùng chụp. Rảnh rỗi, dì ngồi mơn man mấy món đồ tưởng như đã thấy được đứa bé con ngo ngoe hai bàn chân nhỏ trên cái trường kỷ nhà dì. Chú Đức mỗi lần về lại thấy một mớ đồ trẻ con chất ngồn ngộn ở trong phòng. Chú đọc trong mắt dì Diệu một niềm khát khao hườm chín. Chú thấy mình vơi đi mối bận tâm trong lòng, đôi lúc chú cũng thèm muốn chết một đôi chân lẫm đẫm của trẻ con. Chỉ mỗi một chuyện, chú ngại gặp chị Lành. Chị cũng mắc cỡ khi gặp chú. Cho dù không đụng chạm gì nhau để có con nhưng suy tận cùng, cái quý giá, kín đáo của chú Đức đã nằm trong bụng chị. Trời đất ơi, mặt mũi nào mà nhìn người ta. Chị Lành vần còn nguyên con gái đó chớ.

Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe :
- Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè.
Dì Diệu hớn hở vén bụng chị Lành lên, dưới làn da căng mẫn, đứa bé con chòi đạp rối rít. Chị Lành cười giòn:
- Nó mạnh quá chị ha ?.

Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở cho một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng, tới chảy nước dãi món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được : cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.
Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé khóc ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa. Hợp đồng đã ghi rõ ràng như vậy. Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu. Chị rối rít ăn, rối rít ngủ vì biết rằng mai nầy rồi chẳng còn nhau . . .

Một sáng, chị Lành biến mất.
Dì Diệu kêu chú Đức về, nước mắt ròng ròng khi thấy bóng chồng qua cửa. Chú đau lòng bảo thôi bỏ đi, dì Diệu cãi, “em bỏ không đành, anh à”. Chú cũng thấy rằng bỏ không được. Máu mủ ruột ràng mình mà bỏ sao được. Hai người đi tìm xơ bơ xấc bấc. Không có, không gặp. Dì Diệu về quê, bà mẹ già chị Lành tay run bẩn, vừa đau vừa xót.
- Vậy ra nó không nói gì với cô sao ? Tui hay tin nó hư hỏng , tôi từ nó rồi, tui tính bỏ nó luôn, nhưng thiệt tình tui thương nó lắm, phải nó về, tui cũng nuôi.
Dì Diệu lau nước mắt cho mẹ chị Lành, lòng nghĩ, làm sao mình lại để ra nông nỗi nầy. Dì không tiếc tiền của, sông sức, dì cũng không tiếc tình thương dồn đắp cho chị Lành, dì chỉ cảm thấy xót xa cho mình “làm người thì ai lại đi giành con với người ta”, dì luôn dằn vặt vậy.
Dì Diệu bỏ sạp vải tối ngày chạy xe long rong ngoài đường để may ra tìm được bóng người …

Khi đã không trông chờ gì, một ngày, khi mở cửa, dì Diệu nhìn thấy chị Lành đang ngồi ngoài hàng ba và khóc.
Những người có tình có nghĩa, dễ gì bỏ được nhau.
Dì Diệu cắn cho môi vằn đỏ dấu răng, dì ôm chị Lành vào lòng rất chặt. Dì cảm nhận được từ trái tim bàn chân bé bỏng của đứa bé đang lòi chòi. Nó háo hức nằm giữa hai tấm lòng của hai bà mẹ.
Dì Diệu đi lấy tờ hợp đồng ra và đốt cháy thành một tờ tro mỏng. Đôi khi người ta hay bày chuyện nầy chuyện nọ để làm xao động cuộc đời đang hết sức yên bình, lãng nhách vậy đó …/.

1472



Powered by Blogger.