Chị tôi, phải nói là đẹp, chị có một mái tóc dài nổi tiếng ở thành phố đó ngày xưa, chẳng thế mà có biết bao nhiêu cây si trồng trước nhà không sao bứng đi cho được, cho dù nhà tôi đã có 2 cây dừa xum xuê cành lá hai bên cổng ra vào. Cái quyến rũ của mái tóc dài, cái đẹp của chị tôi đôi khi đã làm phiền người khác không ít, trong đó có tôi... bởi tôi đã bị đòn oan chỉ vì thương hại những cây si trước sân nhà.

Trong những đứa con của ba mẹ, chị tôi là người đẹp nhất, bởi thế trời chẳng công bằng khi đã dành cho chị tôi quá nhiều ưu đãi, từ khuôn mặt, dáng dấp đài các cho đến mái tóc dài quá eo đã làm nhiều anh chàng chết mê chết mệt, đã làm cổng nhà tôi sập một bên chỉ vì ghen, chỉ vì không tìm được chỗ đứng trong tim chị tôi. Cái đẹp ngây thơ của tuổi dậy thì đã khiến biết bao anh chàng mà trong đó có những anh chàng Hải Quân khốn khổ, ngẩn ngơ... mỗi lần tàu cặp bến Bạch Đằng, các ông thuỷ thủ đã làm trắng cả thành phố Đà Nẵng trông thật đặc biệt, lúc đó Chị và bạn bè của chị đã đặt tên cho thành phố Đà Nẵng là thành phố của Hải Âu.

Một hôm đi học về, sau khi chia tay với bạn, đi một quãng chợt thấy có người đi theo, chị quýnh quáng bước vội, càng bước nhanh, người đi sau càng tiến đến gần...người đi theo chị mặc quân phục trắng, giây vàng đeo một bên vai vừa đi vừa hát nho nhỏ vừa đủ cho chị tôi nghe " [i]Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng, em là thiếu nữ đẹp như trăng, tóc xanh là bóng dừa hoang dai, âu yếm nhìn tôi không nói năng.[/i].." . Thế là chị tôi biết yêu " [i]Hoa Biển[/i]" , biết " [i]Tâm Sự Một Loài Chim Biển[/i]" , chị tôi thích những gì liên quan đến biển và...chị tôi thích Binh Chủng Hải Quân từ đó, nhưng Ông Bố nhà binh khó tính của chúng tôi lên tiếng:

- Con còn bé, lo học hành không được quen vớ vẩn...

Thế là chị tôi im lặng vâng lời nhưng buồn không ít. Tuy nhiên cái tình cảm học trò đó đã len lén đi vào tâm tư chị tôi, cho dù có lần chị bảo:

- Chị nghe cô Hương bên cạnh nhà mình có chồng Hải Quân nói lấy chồng HQ khổ lắm, cô đơn lắm, họ đi quanh năm suốt tháng, có khi 6 tháng mới về một lần... eo ơi! nghe vậy chẳng muốn quen mấy ông HQ nữa đâu.

Thế nhưng " [i]Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên[/i]" của chị tôi như một cái gì thật đẹp, thật lãng mạn của người đi theo sau, hết con đường này đến con đường nọ, của những buổi tan trường như một kỷ-niệm ăn sâu trong lòng chị tôi, và tình cảm đó đã phải dừng lại khi chúng tôi và Mẹ, một lần nữa lại theo gót giầy của Ba tôi vào Quy Nhơn, nơi cũng có biển xanh, cát vàng, nơi có những hòn đá nằm chồng lên nhau. Nơi có Suối Tiên, có Mộ Hàn Mặc Tử nằm cheo leo lẻ loi nhìn ra biển, nơi cũng có Cù-Lao-Xanh xa thật xa với ngọn hải đăng nằm cô độc quanh năm nhìn sóng vỗ... Tuy nhiên, Quy Nhơn không là bến Bạch Đằng nên QN không có những bộ quân phục trắng như ngày xưa, thay vào đó là những bộ quần áo màu xám xanh để chúng tôi cứ gọi đùa là " Lính đổ xăng" .

Ở đấy, chị em tôi lớn lên theo ngày tháng, chị tôi chững chạc hơn, hiểu biết hơn để vừa đủ làm thiên hạ khổ lên, khổ xuống. Còn tôi, tôi lớn lên theo cái thế giới ngây thơ của tôi, tôi vẫn ồn ào, vẫn chưa tập cho mình sự nhẹ nhàng, khoan thai, từ tốn như chị tôi đang có. Cái thế giới của tôi không biết làm khổ người khác, như một nụ hoa còn e-ấp, chưa nở hết cánh thành ra mỗi lần đi đâu với Chị, tôi muốn được làm người lớn, muốn khoác lên mình chiếc áo dài như chị nhưng luôn bị chị bỉu môi châm biếm:

- Thôi, Nhỏ mặc đầm hay quần tây đi, mặc áo dài trông thẳng từ trên xuống dưới không giống ai cả...

Những lần như vậy tôi tức đến muốn khóc, nhưng vì ham đi nên tôi đành chiều theo ý chị, cho dù tôi chỉ chờ cơ hội để khoác lên mình những chiếc áo dài tha thướt như chị tôi đang mặc. Bởi thế nên cái thế giới của tôi luôn bị che lấp bởi cái tàn lọng của chị, nên tôi cứ như con mèo con, như cái bóng bên cạnh chị để rồi vẫn vô tư đùa giỡn, đuổi bắt nhau trong sân trường với những tiếng cười dòn tan, thoải mái, với những trái me xanh dấu kín nhâm nhi trong lớp học, với những chồng bánh bèo nóng hổi bên đường, hay của những quán chè nằm trong ngõ cụt.

Thỉnh thoảng chị cho tôi được tham dự những cuộc picnic cuối tuần ở những hòn đảo ngoài khơi do mấy ông " lính đổ xăng" của chị tổ chức. Những cuộc đi chơi xa ấy bao giờ cũng đem đến cho tôi nhiêu hứng thú. Tôi ngắm trời, ngắm biển, ngắm những đợt sóng tiếp nối va vào thân tàu để rồi tan vỡ ra thành những bọt biển trắng xoá li-ti, cứ thế tôi mải mê ngắm mà quên mất chị tôi đang khốn khổ, đang vật lộn với con tàu nhấp nhô với cái mũ sắt trước mặt, nhìn vào tôi rùng mình quay đi. Người ngồi bên cạnh có cơ hội được săn sóc chị tôi, tay giữ chặt cái mũ sắt mà đôi mắt lo âu áy náy đến tội nghiệp. Lúc ấy chắc chắn chị tôi không còn thích loài chim biển hay hoa biển hay sóng biển bởi chị đang xanh xao như tàu lá, lúc ấy nếu ai có hỏi chị có muốn lên tàu hoa để ra biển khơi, chắc chắn chị sẽ rõ ràng lắc đầu quầy quậy chứ không ỡm ờ như mọi khi để những cây si trước nhà cứ hiểu lầm nhau mãi, để tôi bị đòn oan chỉ vì thương người không đúng chỗ như Ba Mẹ tôi vẫn thường hay mắng.

Cù Lao Xanh, một hòn đảo đẹp nổi tiếng ở Quy Nhơn, từ đất liền đi ra Cù-Lao-Xanh cũng mất khoảng một tiếng rưỡi nếu đi tàu của mấy ông HQ, vậy mà chị tôi cũng rũ-rượi trông ghê quá, trong khi tôi vẫn tỉnh bơ vừa ăn vừa ngắm trời xanh mây nước...nước biển trong xanh để có thể nhìn thấy những cụm rong biển, những cây san-hô đủ màu mọc sâu dưới nước để có người tình nguyện nhảy xuống đưa lên cho tôi những cây san-hô màu trắng xanh non, màu trắng tim-tím trông thật đẹp.

Khi người ta không thương thì người ta rất vô tình đến tàn nhẫn, như cái tàn nhẫn của chị tôi. Chị bị Ba Mẹ la hoài vì có cái tật là không chịu nói thẳng cho người ta biết về cảm tình của mình như thế nào, Mẹ vẫn nói " [i]không thương thì cứ nói là không, mà thương thì cứ bảo là có[/i]..." nhưng chị lại vẫn cứ ẫm-ờ để rồi một tối cả nhà đã lên giường, chỉ có tôi còn đang ngồi học bài, chuông cổng lại cứ reo, nhìn ra tôi biết là một trong những cây si của chị, người ấy năn nỉ thật tội:

- Bé làm ơn mở cửa cho anh vào, anh hỏi chị một câu là anh ra ngay...

Tôi suốt đời vẫn là con bé ngu, nên tin người, thương người tôi mở cổng, chị tôi cũng ác lắm, không chịu ra cho người ta hỏi 1 câu để người ta đi, chị nhất định không ra, và người ta cũng nhất định không về. Ba tôi nằm trong phòng chắc bực mình lắm nên cứ hắng giọng làm tôi cuống quýt:

- Chị em ng2061




Bâng khuâng mấy ngõ lá vàng
Ngõ nào cũng đến nhà nàng trong tôi
Hỏi thu nắng nhạt đầy vơi
Nắng nào chợt rọi từ trời nhớ thương
Lá rơi đắp mấy tình trường
Đắp ngang rừng mộng đắp đường qua em
Gió rung từng cọng mềm mềm
Cọng hương áo cũ êm êm giữa nguồn
Trời cao xanh ngắt mây tuôn
Nhớ ta lên cả mây buồn dạo quanh
Bây giờ thu bóng xây thành
Người ơi hoang vắng xin đành gọi tên
Thành tôi chứa những bồng bềnh
Chứa người trong mộng ôm miền phù vân
Ta đi cuối tận thu gần
Hôn lên nỗi nhớ tan dần chiêm bao
1506




Năm 75, Hùng mới lên 5 thì bố phải đi học tập cải tạo ở miền Bắc xa xôị Mẹ ở nhà phải buôn tần bán tảo để nuôi Hùng và đứa em gái kém Hùng 2 tuổị Mẹ đã khổ sở như vậy mà vẫn phải cố gắng dành dụm tiền để đi thăm nuôi bố mỗi năm một lần. Một ngày kia, mẹ kéo Hùng lại dặn dò là phải nghe lời bác Tư (một người bạn của mẹ) và rồi bác ấy dẫn Hùng về ở một miền làng quê gần một con sông lớn. Một đêm không trăng sao, bác Tư và cả gia đình cùng Hùng kéo nhau xuống một cái ghe nho,û và họ chở mọi người ra một cái tàu khá lớn. Hùng bị đẩy vào phía trong hầm tàụ Hùng cũng không biết tàu chạy mất mấy ngày đêm, lâu lâu họ cho mọi người một chút thực phẩm và ít nước để sống cho qua ngàỵ Một trưa kia mọi người phía trên reo lên mừng rở vì họ đã thấy đảọ Chiều đó họ lên được đảo Ku Ku, ở đó ít lâu rồi mọi người được chuyển về đảo lớn hơn là Bidong để chờ duyệt xét cho đi dịnh cư ở nước thứ bạ

Ở đảo Hùng thuộc diện minor lại không có thân nhân nên được một gia đình người Mỹ bảo trợ qua Mỹ từ trại Bidong, Malaysiạ Hùng được đưa về ở tại Salem, đó là một thành phố nhỏ tại tiểu bang Massachusetts. Lúc đó Hùng mới lên 10 tuổị

Vợ chồng người Mỹ này không có con cái nên coi Hùng như con ruột của mình vậỵ Họ chăm sóc Hùng rất chu đáo, cho ăn học đàng hoàng. Hùng cũng nhận ông bà này là bố mẹ nuôi của mình. Ngôi nhà của họ ở gồm hai tầng và một gác thượng. Thời gian đầu họ cho Hùng ở một phòng ở tầng dưới, nhưng khi Hùng lên trung học thì Hùng đòi lên tầng trên ở cho thoải mái hơn.

Thế là bố mẹ nuôi thì ở tầng dưới còn Hùng một mình ở tầng trên. Cái cầu thang dẫn từ tầng một lên tầng hai và lên luôn cả gác thượng. Cả hai tầng đều có đầy đủ tiện nghi như phòng tắm, phòng ngủ, phòng để coi TV v.v., nên Hùng cảm thấy thoải mái vô cùng. Thỉnh thoảng bố mẹ nuôi có lên tầng trên để xem Hùng ăn ở thế nào, còn ngoài ra họ cũng ít khi quấy rầy đến Hùng.

Cái gác thượng thì trông có vẻ lạnh lẻo nên không ai bước chân lên đó cả. Tuy mỗi lần leo lên lầu Hùng đôi khi cũng nhìn lên trên đó vì tò mò, nhưng mỗi khi nhìn lên đó Hùng đều cảm thấy như có cái gì làm Hùng ơn ớn lạnh nên Hùng không bao giờ có cái ý định leo lên cái gác thượng này để xem trên đó có gì.

Mới lên ở được hai ngày thì đêm đó Hùng nghe có tiếng động lịch kịch trên gác thượng, rồi nghe cả tiếng chân bước ở trên đó nữa! Hùng cố lắng tai nghe để coi xem đó có phải đúng là tiếng động do người gây ra hay là do thú vật . Ðúng rỏ ràng là tiếng bước chân của người rồi, Hùng cảm thấy hơi run và vơ lấy cái mền trùm kín cả người từ đầu tới chân. Tiếng động bổng im bặt, Hùng cố chờ một hồi nhưng không nghe thấy gì nữa cả và rồi thiếp ngủ lúc nào không biết nữạ

Sáng sau thức dậy Hùng không biết hôm qua mình nghe thật hay chỉ là trong giấc mơ. Hùng cũng chẳng dám nói với bố mẹ nuôi sợ họ không tin và cười cho sự nhát gan của mình! Tối hôm đó sau khi ăn chiều xong, Hùng leo lên lầu để lên phòng, khi tới đầu cầu thang Hùng không tránh khỏi việc đưa mắt nhìn lên cái gác thượng. Tự nhiên Hùng thấy một làn hơi lạnh chạy dọc theo xương sống của mình. Hùng vội đi nhanh về phòng rồi lấy sách ra đọc. Chín giờ Hùng cất sách rồi lên giường nhưng vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Một lúc sau thì tiếng động lại nổi lên, tiếng lịch kịch và tiếng bước chân vang xuống từ gác thượng. Hùng co rúm cả người trong cái chăn, tiếng động vẫn nghe rỏ nồn nộp! Có khi Hùng nghe như tiếng bước chân lê xuống cái cầu thang và tiếng bước chân dẫm lên các bậc thang bằng gỗ gây ra những tiếng kọt kẹt. Hùng càng co rúm người lại hơn vì sợ tiếng chân đó tiến về phòng mình. Nhưng may mắn là tiếng chân dừng lại ở lưng chừng cầu thang rồi lại bước trở lên gác thượng và im bặt.

Hùng vẫn không ngủ được. Ðến cở 11 giờ, Hùng bổng mắc đi tiểu, cố nín một hồi rồi không thể nín nổi nữa Hùng đánh bạo bước xuống giường rón rén ra mở cửa phòng và đi lại phòng tắm để đi tiểụ Khi tiểu xong quay về phòng mình, Hùng cố tình nhìn xuống sàn nhà để khỏi phải nhìn về phía cầu thang, nhưng khi đến cửa phòng thì như có ai khiến, Hùng ngước mắt nhìn lên! Chúa ơi! Một bóng đen đã đứng thù lù ở cái cầu thang từ bao giờ. Hùng chỉ thấy một nửa dưới mà thôi vì nửa trên của cái bóng đó ở trên gác thượng. Hùng đứng chết trân một chổ và cái bóng đó cũng cứ đứng nửa trên nửa dưới như vậy một chổ! Không biết được bao lâu thì Hùng tỉnh hồn lại và chạy một mạch vào phòng đóng cửa rồi nhảy lên giường trùm kín cả người lạị Bên ngoài không có một tiếng động, Hùng đoán cái bóng đen vẫn đứng tại cầu thang. Hùng cố giữ để khỏi run nhưng không cầm được, tay chân đánh bò cạp liên hồi, và thỉnh thoảng một làn hơi lạnh lại chạy dài dọc theo xương sống của mình!

Sáng đó khi xuống ăn điểm tâm Hùng chỉ dám nói với bố mẹ nuôi là hình như có tiếng động lạ ở trên gác thượng. Cả hai nghe, im lặng một chút rồi nói là có lẽ tiếng động do chuột gây ra, để khi Hùng đi học thì ở nhà bố sẽ lên dọn dẹp trên đó xem có ổ chuột nào không. Tuy thế đến trường Hùng cũng kể cho Tâm người bạn thân Việt Nam của mình nghe về chuyện mà Hùng đã nghe và gặp trong mấy ngày quạ Tâm là một người mạnh dạn, chẳng bao giờ tin vào ma quỷ cả. Khi nghe Hùng kể về chuyện này, Tâm liền phá lên cười và chọc quê Hùng là con thỏ đế. Nhưng thấùy mặt Hùng rất nghiêm trọng nên cũng không dám đùa dai nữa, nhưng trong thâm tâm thì vẫn không tin. Hôm sau là thứ Bảy nên Tâm đề nghị là tối nay Tâm sẽ xin phép bố mẹ mình đến nhà Hùng ngủ và để xem cái tiếng động kia có đúng là thật hay do Hùng tưởng tượng rạ

Ðêm đó giữ đúng lời hứa, Tâm đến ngủ chung với Hùng. Tâm quấn mình trong cái túi ngủ và một lúc sau đã nghe thấy tiếng thở đều rồi, nó đã ngủ ngon lành. Hùng thì vẫn trằn trọc chưa ngủ được thì tiếng động trên gác thượng đã vang lên. Hùng cố nén nỗi sợ hãi trườn người xuống sàn nhà và bò tới chổ Tâm nằm. Lay lay một lúc Tâm mới cựa mình, tay dụi mắt hỏi "Gì đó?". Hùng dơ tay lên môi ra dấu im lặng rồi chỉ lên trần nhà. Tâm lúc này mới sực nhớ ra cái lý do mình tới đây ngủ. Tâm lắng tai nghe và rỏ ràng là co tiếng động trên gác thật. Nó bật dậy quơ lấy cái đèn pin rồi ra hiệu cho Hùng theo nó. Tuy sợ nhưng Hùng vẫn bước theo chân Tâm ra cửa rồi lần leo lên gác thượng. Tâm vẫn không chịu bật đèn pin lên, cả hai mò mẫm bước nhẹ nhàng lên các bậc thang vì sợ gây ra tiếng động thì sẽ hỏng việc bắt gặp ai đó một cách bất ngờ.


Hai đứa nhô đầu lên căn gác thượng. Qua ánh sáng nhờ nhờ của đèn đường xuyên qua cái cửa sổ sát mái nhà, hai đứa giật bắn người vì thấy một bóng người to lớn đứng lom khom như đang làm gì đó ở bên cạnh cái bàn ở xó nhà. Tâm bấm đèn pin về phía đó! Dưới ánh sáng chói chang hai đúa thấy đó chỉ là một bức tượng bằng thạch cao to như người thật đứng bất động cạnh cái bàn đầy bụi bậm. Hai đứa thở phào nhẹ nhỏm cả ngườị Hùng chưa bao giờ dám lên cái gác thượng nên chẳng biết có những thứ gì ở trên này hết. Tâêm soi đèn từ từ vòng quanh cái gác thượng xem có cái gì khác và có lẽ nó muốn xem có con chuột hay mèo nào lẩn quẩn đâu đó không, nó muốn chứng minh là Hùng chỉ sợ hoảng thôi chứ làm gì có ma quỷ trên đòi nàỵ

Hai đứa dõi mắt theo ánh đèn và khi ánh đèn rọi lại chỗ cũ thì thiên thần quỷ địa ơi, cái bức tượng đã biến đi đâu mất tiêu rồi! Tự nhiên không ai bảo ai, cả hai đứa bỏ chạy một mạch xuống cầu thang, Tâm làm rớt luôn cả cây đèn pin ở trên gác mà chẳng dám quay đầu lại lượm!
Khi chạy về đến cửa phòng tự dưng hai đứa quay mặt lại nhìn lên chỗ cầu thang. Hai đứa thấy rợn cả người lên vì cái bóng đen đó đã sừng sững đứng đó từ hồi nào rồi, vẫn với tư thế nửa trên nửa dưới ở cái cầu thang. Tâm không dám nằm dưới sàn nữa, cả hai leo lên ngồi trên giường của Hùng và để đèn sáng choang cho tới sáng. Hai cặp mắt chăm chăm nhìn về hướng cửa vì sợ cái bóng đó sẽ bước vào phòng lúc nào không biết. Cũng may từ đó tới sáng chẳng có gì xảy ra cả.

Sáng hôm sau trước khi Tâm ra về nó không quên nói "Mày nên nói chuyện này với bố mẹ nuôi mày đi! Tao tin lời mày nói roià đó!" Khi ăn sáng Hùng cũng không dám nói sự thật mà chỉ xin dọn xuống nhà dưới ở thôị Bố mẹ nuôi của Hùng nhìn nhau rồi nói là tùy Hùng thôị Hùng vội lên lầu và dọn tất cả đồ đạc của mình xuống cái phòng cũ khi trước.

Trưa đó sau khi ăn cơm xong, ông bố nuôi mới kêu Hùng ngồi lại rồi chậm rãi hỏi:

Có chuyện gì xảy ra trên đó phải không con?

Biết không thể dấu được Hùng đành phải kể hết các sự việc đã xảy ra trong mấy đêm rồị Nghe xong ông bố nuôi mới gục gặt đầu rồi kể:

Bố mẹ mua căn nhà này đã được 15 năm nay rồị Khi mới dọn tới ở thì "ông ta" cũng có phá phách trong nhà đó con ạ! Mẹ con biết điều này trước vì bà ấy tỉnh ngủ hơn tạ Bà nói cho ta biết nhưng ta chẳng tin và cho là bà ấy sợ nhảm nhí mà thôị Ðến một đêm kia, bà lay ta dậy và ra hiệu cho ta nghe, ta lắng nghe và đúng là có tiếng động ở phía nhà bếp vọng về. Ta rón rén mò lấy cây đèn pin rồi mò ra phía cửa, ta mở cửa và rọi đèn pin về phía nhà bếp, như không thấy gì cả. Ta bật đèn nhà bếp và tìm tòi mọi nơi xem có con vật gì ở đó không. Cũng không thấy gì nên ta trở về phòng ngủ lạị Cứ thế sự việc xảy ra trong mấy đêm liền mà ta cũng chẳng tìm ra manh mối gì cả nên ta quyết định rình cho biết sự thật. Ðêm đó ta ngồi sau cái ghế sofa, tay thủ sẵn cây đèn pin. Khoảng gần nửa đêm ta nghe tiếng động và tiếng lịch kịch leng keng của ly chén chạm nhau, ta ngó ra và thấy một bóng đen đang mở các cửa của cabinet. Ta nhào ra và bật đèn pin về hướng đó, nhưng cái bóng đen vụt mất về hướng cầu thang. Ta đuổi theo và rọi tìm khắp các phòng trên lầu nhưng không thấy gì! Ta bèn leo lên cái gác thượng soi tìm khắp xó xỉnh trên đó nhưng cũng chẳng tìm ra một bóng ai cả. Một điều làm ta hơi rùn mình là khi ta ở trên cái gác đó ta cảm thấy như là có ai đang nhìn theo dõi ta vậy đó. Ta lui trở xuống và tin là mình đãû chạm trán với con ma trên đo rồị Hôm sau ta nói chuyện này với mẹ con, bà ta sợ hãi quá và đòi bán nhà đi chổ khác ở. Ta không đồng ý và còn lớn tiếng biện minh là ma sợ người chứ người không sợ ma! Bằng chứng là khi nó thấy ta là nó biến mất chứ có dám làm gì ta đâu! Nó chỉ nhát những ai sợ nó mà thôị Chập tối hôm sau ta lên lại gác thượng nói to như để cho con ma đó nghe "Chúng tôi không đụng chạm gì đến ông và cũng không có ý định đó. Vậy ông hãy để chúng tôi được yên cũng như chúng tôi cũng sẽ không đụng chạm gì đến ông hết!" Từ đêm đó ông ta không còn hiện ra phá phách nữa cho đến ngày hôm naỵ Thôi thì để ta lên hòa đàm với ông ta lại một lần nữa xem saọ

Tối đó bố nuôi rủ Hùng lên gác thượng nhưng Hùng từ chối không đị Bố nuôi lên một lúc rồi trở xuống nói:

Chắc là sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa đâu!

Ðúng như vậy! Từ đêm đó Hùng không còn nghe hay thấy điều gì lạ xảy ra nữạ Hùng cũng nói cho Tâm biết về điều này, dù vậy có năn nỉ cách mấy đi nữa thì Tâm cũng không bao giờ ngủ lại đêm ở nhà Hùng.

Cho đến bây giờ dù đã đi làm và ra ở riêng lâu rồi, và gia đình bố mẹ ruột cùng em gái Hùng đã qua bên này, nhưng mỗi khi về thăm lại bố mẹ nuôi của mình Hùng cũng không dám leo lên lầu chứ đừng nói gì là leo lên căn gác thượng đó. Nếu có ngủ lại đêm thì Hùng cũng chỉ dám ngủ ở căn phòng ở tầng dưới mà khi còn bé Hùng vẫn ngủ trong đó mà thôi! 580




Trong giờ học đạo đức, thầy giáo kể rằng tổng thống Mỹ Washington hồi nhỏ có lần đã chặt nhầm cây anh đào của bố, nhưng sau đó vẫn mạnh dạn nhận sai lầm của mình và được ông tha thứ. Kết thúc mẩu chuyện, thầy hỏi:
- Em nào có thể cho thầy biết, tại sao bố của Washington lại không phạt con mình? Cả lớp yên lặng suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng Johny đứng dậy cả quyết:
- Thưa thầy, ông bố không dám phạt vì khi đó trong tay Washington vẫn còn cầm... cái rìu ạ!
2126




Trong dịp nghỉ hè, nhà văn Victor Hugo đến một ngôi làng xinh đẹp. Cuộc sống ở đây thật thanh bình, ngày nào ông cũng thả ngựa gặm cỏ trên cánh đồng, còn mình thì lim dim tựa gốc cây tìm ý tưởng...

Một hôm, choàng dậy thì ông đã thấy con ngựa biến mất. Tức điên lên, nhà văn bổ đi tìm nhưng vô ích. Thất thểu về nhà, gặp một ông cụ nông dân đi dạo trên đường, nhà văn than phiền về con ngựa. Ông cụ nhìn Hugo như một "quái vật" rồi khẽ đáp:

- Làng này toàn người tự trọng cả, không ai làm chuyện ấy đâu - chợt cụ sực nhớ ra - À, mà này, cách đây mấy hôm, nghe nói có cái ông nhà văn gì đấy từ Paris đến. Hay là...2476




Một anh chàng đào hoa mệt mỏi với chuỗi ngày phóng đãng vừa qua nên quyết định ra biển nghỉ một mình. Đến khách sạn vào nửa đêm, sáng thức dậy nhìn ra cửa sổ thấy dưới bãi biển cơ man nào là phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, ăn mặc khêu gợi, nằm ngồi các kiểu... anh ta tự nhủ:
- Ôi trời, thế kia thì mình nghỉ ngơi thế quái nào được nhỉ!
1763




- Tí, em có biết chúng ta thường dùng điện từ đâu không?

- Dạ có thưa cô. Theo em được biết thì nguồn điện bắt đầu từ sở thú ạ !

- Sao em lại nghĩ vậy? - Cô giáo ngạc nhiên.

- Bởi vì mỗi khi ở nhà bị mất điện, mẹ em lại gào lên: "Lại mất điện rồi, đồ con khỉ!"






Thầy giáo hỏi cả lớp trong giờ toán đố:

- Nếu năm ngoái thày sinh đôi hai cậu con trai, năm nay sinh thêm một gái, đố các em thầy có bao nhiêu con?

Cả lớp im phăng phắc, tiếng con ruồi bay cũng nghe. Thấy không ai giơ tay, thầy bảo:

- Tí, nói thầy nghe nào?

Tí lúng túng:

- Thưa thầy không có đứa nào cả.

Thày ngạc nhiên:

- Này nhé, năm ngoái 2, năm nay 1...

Tí lắc đầu quả quyết:

- Thưa không ạ... Mẹ em nói chỉ có đàn bà mới sinh con được thôi ạ.

1149




Em đi rồi ! Chùm phượng cuối mùa thi
Đỏ hoe mắt một buổi chiều chớm nắng
Nhấm chùm hoa, không chua mà chát đắng
Bước chân tôi khập khiễng trước sân trường...

Trước mặt tôi là hoàng hôn
Sau lưng là cánh cửa phòng thi khóa vội
Những bàn ghế, những bảng đen ngập bụi
Tờ giấy vo tròn ném cuối giờ thi .

Chỗ em ngồi còn kia :
Vệt nắng dài in hằn lên ghế
Buổi sáng nào lần đầu đi trễ
Vai run run, tay lấm vệt dầu .

Em đi rồi ! Chùm phượng ở trên cao
Cứ cháy mãi những điều chưa nói hết
Nắng chiều hôm cứ ngời lên nuối tiếc
Giá ngày xưa ... Thôi, đừng nhắc ! Hạ tàn...1280















"Năm sau, Hàn Hoành trở về Trường An, tìm lại ngôi nhà ở phố Chương Đài, thì Liễu thị đã biệt tăm"...

Ông Giả ngừng kể, nhìn vào mặt Sinh mỉm cười. Đôi mắt lấp lánh láu lỉnh tinh nghịch, không có vẻ là một ông giáo già về hưu. Và Sinh thấy hơi rượu phả ra từ miệng ông Giả có mùi thơm dịu ngọt, rất lạ. Có lần Sinh hỏi vì sao uống thứ rượu tiểu thủ công rẻ tiền, được chế biến theo cách cẩu thả và ăn gian nguyên liệu mà ông lại thở ra hương thơm như vậy. Ông Giả cười không nói gì. Sau, Sinh mới biết nhiều người khác uống rượu với ông Giả cũng đã hỏi như vậy. "Mình cũng không hiểu sao lại thế. Có lẽ cơ thể mình có cấu tạo giống con chồn hương, chỉ ăn uống những thứ bình thường nhưng lại thải ra chất thơm có nồng độ đậm đặc hơn cả nước hoa Cologne của Pháp". Sinh kết luận: "Bố là "Hàm hương nhân"; là một kỳ nhân, trong người có trữ chất thơm. Uống rượu với bố rất kinh tế. Chỉ cần uống rượu rẻ tiền mà vẫn được hưởng mùi quý". Họ cùng cười.

Hôm đầu tiên được Sinh đãi rượu, ông Giả ngậm ngụm rượu nhăn mặt như muốn nhổ ra; rồi lại cố nuốt ực, có lẽ ông sợ Sinh phật lòng.

- Chắc bố sành rượu lắm. Xin lỗi bố vì ngân sách vợ cấp không cho phép con đãi bố rượu khá hơn.

- Lỗi gì đâu. - Ông Giả cười. - Nhưng đúng là "nước đái quỷ". Nấu rượu tồi là phạm trọng tội với quỷ thần. Rượu là chất nước thiêng mà con người không thể tự chế ra nếu không được thần linh mách bảo. Mà thần linh đâu có dạy nấu thứ rượu này.

Sinh nhớ đến lời kêu ca của Thục, vợ anh? Cái lão giáo hữu vô tích sự ấy có bùa bả gì mà cứ ngơi ra là lại tìm đến; có đồng kẽm nào cũng dốc ra hầu rượu lão. Sinh cố nhịn không vặc lại vợ. Anh nuốt khan cho trôi cái cục vô danh trong họng như ông Giả nuốt cái thứ "nước đái quỷ".

Ông Giả cũng biết nỗi khổ của Sinh. Có lần thấy Sinh bộ dạng thiểu não, mặt nhăn nhó như bị đau răng, ông nói bâng quơ: "Cho nên tôi mới một mình một thân như thế này". Khi lĩnh lương hưu, ông Giả đãi lại Sinh. Chỉ là vài chén rượu tồi với mấy củ lạc; khá hơn là mỗi người hai cái chân gà công nghiệp.

Hôm nay, lúc ngồi uống với nhau, ông chợt hỏi Sinh:

- Cậu giảng Kiều, có bao giờ tán cái tích "Liễu Chương Đài" không?

- Sách đã chú rõ. Con thấy không cần nói thêm. Mà tích ấy cũng đơn giản.

- Đơn giản à? - Ông Giả ngạc nhiên.

Sinh im lặng không biết trả lời sao. Thì vợ chồng xa nhau, nhớ nhung tí chút, rồi lại đoàn tụ. Chứ có gì đặc biệt. Sinh nghĩ thế, và hỏi ông Giả:

- Chắc trước kia bố giảng cái tích ấy hay lắm?

- Một lần có các thầy dạy văn cùng mấy vị trên Sở Giáo dục xuống dự giảng. Hôm ấy, bình về đoạn "Kim - Kiều tái hợp", chợt nhớ lại cái tích được nghe từ hồi thiếu niên, tôi cao hứng giảng cương ngoài giáo án. Bọn trẻ vỗ tay ầm ầm. Còn các quan Sở và các thầy phê là lan man vớ vẩn.

- Bố thử cho con mở rộng tầm mắt một phen. - Sinh hỏi như thách đố.

Thật ra, tôi chỉ bình phẩm theo câu chuyện bố tôi kể lại. Chuyện có vẻ tam sao thất bản. Một ông đồ bạn của ông nội tôi kể cho bố tôi nghe trong một cơn say vào đêm ba mươi Tết. Ông đồ này hỏng thi mấy bận, bất đắc chí; thường đem những câu chuyện linh tinh trong sách cũ ra kể làm quà, kiếm chén rượu.

Sau cơn đại loạn ở kinh thành, Hàn Hoành mới xong việc nhà. Chàng trở lại Trường An, tìm về ngôi nhà cũ của mình ở phố Chương Đài. Ngôi nhà nhỏ hoang tàn. Liễu thị thì biệt tăm. Chẳng ai biết vợ chàng đi đâu. Hỏi dò hỏi khắp nơi. Lão Trương bán hàng cơm bảo có lần nhìn thấy Liễu thị ăn mặc sang trọng ngồi trên xe song mã bên một vị đại quan trông phương phi quyền uy lắm. Mụ Lý béo bán đậu phụ rong thì thấy nàng ngồi trên ngựa bạch yên cương nạm bạc, châu báu lụa là phủ kín từ đầu đến chân, song đôi với một võ quan cưỡi ngựa ô, giáp trụ sáng choang, oai phong lẫm liệt. Mụ bình phẩm, ra vẻ triết lý:

- Người đẹp đổ quán xiêu đình thế thì trước sau cũng phải vào nơi "lầu xanh gác tía" thôi; chứ như anh thật làm sao giữ được .

Hàn Hoành không để ý câu nói như có ý miệt thị chàng; cũng không chấp mụ Lý đã nhầm lẫn "lầu son gác tía" với "lầu xanh gác tía". Vì, dù có biết Liễu thị từng là kỹ nữ, mụ Lý cũng chẳng đủ trí tuệ mà chơi chữ như vậy. Và Hàn cũng không chấp cái chuyện mụ cũng như lão Trương và đám dân phố không còn gọi chàng là "Hàn công tử", "Hàn tiên sinh" như trước; mà chỉ gọi trống không là "Hàn Hoành", hay là "anh Hàn".

Nhưng Hàn buồn lắm. Chàng ngồi bên bờ đầm Lam Thủy cuối phố Chương Đài lặng ngắm cây liễu. Đang độ xuân, lá liễu tốt xanh mướt chảy dài như dòng suối xanh. Chàng nhớ ngày trước có một cành liễu vươn ra mặt hồ, rủ sát mặt nước. Khi tiễn Hàn Hoành về quê, Liễu thị bảo cành liễu đó cũng như cánh tay nàng luôn vẫy theo chàng. Bây giờ cành liễu ấy chỉ còn một mẩu khô trụi chìa ra như chiếc đuôi cụt, rất tức mắt. Chẳng biết kẻ nào đã cất công lội xuống nước bẻ cành liễu ấy. Mấy con vịt bơi qua làm mặt nước sóng sánh bóng cành cây cụt dưới nước lay động, trông tội nghiệp như cánh tay tàn phế cố vẫy ai trên con thuyền ngoài xa kia. Hàn nhớ tới bài thơ chàng làm ở quê nhà trong một lần thương nhớ Liễu thị da diết:

Chương Đài liễu! Chương Đài liễu!
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ
Túng sử trường điều tự cựu thùy
Giã ung phan chiết tha nhân thủ?

(Dịch thoát: Chương Đài liễu trước xanh xanh. Còn nguyên hay đã bẻ cành cho ai?)

Lúc ấy Hàn định bụng khi về Trường An sẽ đọc bài thơ lên để chọc giận Liễu thị, để rồi họ sẽ làm lành với nhau theo cái cách rất hiệu nghiệm của những cặp vợ chồng trẻ.

Bây giờ liễu xanh còn đấy, mà nàng ở tận chân trời góc biển nào.

Ngày ngày Hàn Hoành đi lang thang dọc phố Chương Đài, ngâm mãi bài thơ cho đến khi ứa nước mắt, cổ họng nghẹn lại mới thôi. Trẻ con bám theo Hàn đông như đàn vịt, reo cười, xô đẩy nhau kêu la náo động cả phố. Lão Trương hàng cơm lần nào thấy Hàn đi qua cũng gọi vào quán bảo ngâm "Liễu Chương Đài". Lão gật gù nghe rồi thưởng cho Hàn một chung rượu. Có lần cao hứng, lão đem đến bàn của Hàn một đĩa đậu đũa xào. Lão Trương thuộc lòng bài thơ, vừa chặt thịt vừa ê a hát "Liễu Chương Đài" theo một giai điệu dã ca vùng quê Phúc Kiến của lão, đệm thêm những tiếng "Hầy a!..." của những người đang ì ạch nặng nhọc đẩy xe lên dốc hay kéo gỗ, chống thuyền:

Ngày trước xanh xanh
Hầy a!
Liễu Chương Đài
Ngày trước xanh xanh,
Hầy à!
Hỏi có còn không
Hầy, liễu Chương Đài?

Mụ Lý béo quẩy gánh đậu phụ bán rong, gặp Hàn, mụ lấy một bìa đậu đưa cho chàng:

- Hàn Hoành. Hát cái bài có cây liễu ở phố Chương Đài này đi.

Hàn không một xu dính túi và đã nhịn đói mấy ngày. Chàng cười ngượng, cầm bìa đậu rồi hát "Liễu Chương Đài" theo điệu dã ca Phúc Kiến của lão Trương. Nước mắt chàng chảy ròng ròng. Miếng đậu trên tay chàng chảy nước ròng ròng. Mụ Lý cũng nước mắt đầm đìa, bảo ngày trước mụ xinh đẹp nhất xứ Giang Nam, nhưng bị gã công tử nhà giàu họ Mã bội tình, mụ chán đời chẳng thiết chăm sóc dung nhan nên mới ra thế này. Bây giờ nghe bài "Liễu Chương Đài", mụ cám cảnh mình mà không cầm được nước mắt. Hàn ngắm cặp má bánh đúc và cái mũi tẹt, cố hình dung ra nhan sắc của mụ ngày trước. Mụ Lý ngượng:

- Béo quá hả? Dương Quý Phi còn béo hơn tôi nhiều.

Người đẹp Dương Quý Phi quả là có đẫy đà thật. Nhưng vua Đường Huyền Tôn lại thích những cô gái mũm mĩm, và Dương Quý Phi biết cách đưa nhà vua lên tận cung Quảng Hàn, trên trời.

Hàn Hoành trả lại bìa đậu cho mụ Lý, bảo, giá có cái màn thầu ăn thì tốt hơn. Hai ngày nay chàng không một chút ngọc thực trong bụng. Mụ Lý ái ngại đưa cho Hàn một đồng xu. Rồi mụ kéo tạp dề lau mắt, quẩy gánh đậu phụ đi, miệng rao lanh lảnh, tươi tỉnh sảng khoái như trước đó mụ chưa từng khóc cho thân phận mình:

Đậu phụ Chương Đài đây,
Ơ - Ơ - ơi!
Liễu Chương Đài!
Ngày trước xanh xanh,
Ơ-ơi! Đậu phụ Chương Đài!

Hàn Hoành vào quán lão Trương, đặt một xu lên bàn cho lão yên tâm rồi gọi một thố cơm nóng. Lão Trương cười hỏi:

- ăn cơm với gì?

Hàn tặc lưỡi:

- Chan cơm với nước cháo hoa. Nhưng nếu phải tính tiền nước cháo hoa thì thôi vậy. Chỉ xin ít tương.

- Tôi đãi đĩa ca la thầu. Ăn xong, cho nghe bài "Liễu Chương Đài".

- Thế thì xin thêm bát rượu. Loại rượu nhạt cũng được .

Vậy là một trong những thi phẩm tuyệt tác đời Đường có giá là một bát rượu hạng bét với đĩa củ cải muối sau cuộc thương lượng về nhuận bút giữa tác giả với nhà xuất bản. Ăn xong, Hàn ngâm "Liễu Chương Đài", giọng nghẹn vì phải nuốt thố cơm không có canh rau, mà rượu thì đắng. Trong quán có những thương gia, những khách giang hồ mệt mỏi, áo khăn nhàu nát bụi bặm. Họ lặng nghe Hàn ngâm "Liễu Chương Đài". Có người thở dài. Có người đưa ống tay áo chấm mắt. Biết bao nhiêu Liễu thị đang chờ trên khắp đất Trung Nguyên này.

Hàn Hoành lang thang trên phố Chương Đài. Bọn trẻ bám theo chàng reo cười ầm ỹ, như đi theo một người điên. Chúng vừa đi vừa chìa tay vào các hàng quán xin hộ Hàn những thức ăn. Quần áo chàng rách tươm. Lão Trương thương tình bảo Hàn đến quán cơm pha trà, ngâm nga thơ phú mua vui cho khách, lão sẽ nuôi ăn. Bài hát "Liễu Chương Đài" được những khách thương ghé qua quán lão Trương nghe rồi truyền khẩu đi xa mãi.

Một buổi tối, Hàn Hoành đang đói meo nằm nhớ vợ trong ngôi nhà lạnh lẽo thì Liễu thị đột ngột trở về trên cỗ xe ngựa sơn son thếp vàng, như một mệnh phụ phu nhân. Hàn Hoành hoa mắt, ngỡ đang nằm mơ.

- Sách nói Liễu thị được Hàn Hoành đem vàng chuộc về từ tay tướng giặc cơ mà, bố? - Sinh cười hói, như cách lật tẩy một chuyện khoác lác.

- Sách sai - Ông Giả tỏ vẻ khó chịu - Hàn Hoành là một hàn sĩ lại vừa về quê lo đại tang, làm gì có vàng. Chính là vì bài thơ "Liễu Chương Đài" đã được truyền tụng đến nơi đóng quân của tướng giặc Sầm Dự, kẻ đã bắt Liễu thị về làm thiếp.

Liễu thị khóc lóc van xin được tha về với chồng: Sầm Dự cũng là kẻ có tình nên động lòng, cho Liễu thị được toại ý.

Sinh nhớ cái đêm Thục rời bỏ Nghĩa trở lại với mình.

Anh đứng ngoài hiên nhà Nghĩa phấp phỏng chờ. Sinh bị ướt sũng khi đội mưa đến đây. Anh đứng run cầm cập, nghe rõ tiếng trong nhà đang thu dọn gì đó.

- Thục đem cái màn đôi đi. Tôi vẫn còn cái màn cá nhân - Tiếng Nghĩa.

- Biết làm sao bây giờ, hả trời? Sao chưa đích xác mà họ đã báo tử, để bây giờ ra nông nỗi này - Thục như kêu lên.

- Ngày xưa thì bảo tại trời. Bây giờ thì chẳng biết tại ai. Thôi thì Thục cứ về với người ta. May mà chúng mình chưa có con, đỡ phiền toái. Giấy hủy bỏ hôn ước tôi làm xong rồi đây. Thục cầm lấy.

- Anh... Để rồi em nói với anh Sinh.

- Anh sẽ là anh cả của chúng em. Thỉnh thoảng anh sang chơi.

- Thế sao tiện. Thục đừng bận tâm về tôi nữa. Rồi tôi sẽ đi khỏi đây. Tôi đã đổi nhà cho chú Quýnh ngoài bãi rồi. Mà chưa biết chừng tôi sẽ lên chỗ bà cô ở Thái Nguyên. Thục cố quên chuyện cũ đi.

- Sao anh phải khổ thế? Anh làm thế chúng em có tội... - Thục khóc.

- Thôi Thục về đi. Tôi không thể đưa tiễn được.

Cánh cửa hé mở. Thục đầu trần khoác túi vải, ào ra ngoài trời mưa, như trốn chạy. Sinh đuổi theo đến đường cái, giữ Thục lại, ôm xiết lấy cô. Anh đã tìm lại được Thục của anh, không phải Thục trong những giấc mơ giữa rừng lạnh, dưới những trận bom rải thảm; với cảm giác của một người đói đến phát sốt trong cơn ngủ mê ăn ngấu nghiến những thức ngon nhưng vô vị như nhai giấy; mà là Thục với thân hình ấm mềm ngày trước. Nhưng Thục gỡ tay anh, thở hổn hển: "Giữa đường, người ta thấy, dơ lắm". Rồi cô xách cái túi chạy lên trước.

Thế là Thục đã dứt được Nghĩa một cách êm thấm để lại là của riêng anh. Hai hôm sau, Sinh làm bữa cơm để họ hàng mừng anh sống lại, trở về với vợ. Sinh hớn hở còn hơn cả trong bữa tiệc cưới Thục ngày xưa. Sinh cũng không để ý chuyện Thục mắt đỏ hoe vì khói, cặm cụi dưới bếp nấu nướng, ít khi lên nhà trên.

Đúng hôm vợ chồng Sinh ăn mừng, Nghĩa đổi nhà cho ông chú, chuyển ra ngoài bãi sông. Rồi sau, Nghĩa bỏ luôn cả nghề thợ mộc, mua cái bè nuôi cá lồng, lênh đênh mãi tận mạn thượng nguồn sông Lãng.

- Thế rồi cái tay Hàn Hoành ấy sống bên Liễu thị sung sướng đến trọn đời? - Sinh cười. Chuyện nhạt thế mà bố cũng tán được thì tài thật.

- Cậu ở trong nghề mà nói thế. Ăn thua nhau là ở cái kết. - Ông giáo Kiên nhẫn tiến tới đoạn cuối câu chuyện. - Họ gặp lại nhau như tìm lại được báu vật bị thất lạc. Hàn Hoành như được hưởng lại tuần trăng mật ngày trước. Liễu thị đem về một số vàng lớn của Sầm Dư tặng cùng cỗ xe ngựa lộng lẫy mà các vị quan lớn cũng phải thèm muốn.

Hàn Hoành đổi đời. Hàn béo đỏ ra, khăn áo gấm vóc lụa là xênh xang, bóng láng; ngày ngày cưỡi con ngựa trắng rong chơi những nơi non xanh nước biếc tìm tứ thơ. Phố Chương Đài vắng lặng vì không còn chàng hàn sĩ bất hạnh lang thang để hàng đàn trẻ con đi theo reo cười.

Nhưng rồi Hàn thi sĩ nhận thấy mình không thể làm thơ được nữa. Đúng ra, chàng làm thơ không còn hay như trước. Vì không còn nỗi thương nhớ khắc khoải; không có sự hoài niệm về một quá khứ đẹp đẽ nào, không có khát vọng gì khác ngoài ham muốn được nổi tiếng vì thơ phú. Mà để làm được thơ hay thì không thế chỉ bằng khát vọng nổi tiếng. Và cái chính là Hàn không còn rách rưới đói khổ nữa. Người ta cúi mình trước đầu con ngựa trắng yên cương nạm bạc của chàng, kính cẩn chào: "Xin vấn an Hàn công tử", "Dạ, Hàn tiên sinh du ngoạn". Người ta không còn gọi chàng là "Hàn Hoành" trống không nữa. Và người ta cũng dần quên bài thơ "Liễu Chương Đài".

Liễu thị có vốn, đóng thuyền đi buôn tơ lụa. Nhà Hàn Hoành lại càng giàu. Chồng tài họa thơ văn, vợ xinh đẹp thương hồ hái ra bạc.

Nhưng có một con rắn độc đêm đêm lẻn vào giường ngủ của hai vợ chồng. Đó là cái bóng đen của tướng giặc Sầm Dự.

Một đêm, Hàn Hoành hỏi Liễu thị, giọng như cái ngõng cứa gỗ tứ thiết lâu ngày không tra dầu lạc:

- Cái thằng giặc võ biền hung đồ ấy đã ăn nằm với cô như thế nào, mà bây giờ cứ thở ngắn than dài?

- Ông ta chẳng làm gì tôi cả. Tôi chỉ đàn hát cho ông ấy nghe. Thê thiếp của ông ấy hàng đàn, người nào cũng mặt hoa da phấn, đẹp bằng mấy tôi. - Liễu thị khó chịu vì phải nghe câu hỏi này nhiều đêm rồi.

- Hắn bắt cô về để làm tượng thờ à? Nói khó nghe lắm.

- Thì cố mà nghe. Nói khó nghe, nhưng từ khi tôi trở về thì anh không còn phải xin đậu phụ của mụ Lý béo, không phải hầu trà kiếm ăn ở quán lão Trương.

Hàn Hoành đấm xuống đệm giường đánh "ầm" như tiếng trống:

- Sao hay đi đến mạn Hàng Châu là nơi có doanh trại của thằng giặc ấy?

- Buôn tơ lụa mà không đến Hàng Châu, Tô Châu, Tứ Xuyên thì đến Sơn Đông mãi võ chắc? Nói khó nghe như thế thì để yên cho người ta ngủ, sáng mai còn phải xuống thuyền sớm cho kịp con nước.

Liễu thị quay mặt vào tường, ngáp dài. Nghĩa là nàng đã treo "Miễn chiến bài". Hàn Hoành đành nuốt giận, nghiến răng, mở mắt trừng trừng trong bóng đêm. Chàng hình dung ra cái cảnh Sầm Dự ân ái với vợ mình. Chàng đấm xuống giường lần nữa, nhưng lần này đấm trúng phải cạnh giường, nắm tay thư sinh của chàng như bẹp nát, những ngón tay muốn gẫy vụn.

- Cô còn thương nhớ hắn ta à? - Sinh hỏi Thục.

- Tôi không phải là khúc gỗ. - Một lúc sau, Thục nói trong tiếng thở dài buồn bực chán ngán.

- Thế mà nằm bên tôi, cô lại là một khúc gỗ lim đấy. Không, còn hơn thế nữa kia. Là một cây nước đá, cây nước đá! Hiểu chưa? - Sinh rít lên.

- Ngoa ngoắt, chấp nhặt dai dẳng quá đàn bà.

- Phải, tôi là đàn bà. Hắn là đàn ông.

- Còn cô là thứ gì, hả?!

Những đồ dễ vỡ trong nhà bị cả hai người đập tan tành.

Những đêm bi kịch.

Không thể mãi như thế này được. ở làng Nghĩa là ở gần con sông Lãng mà nơi thượng nguồn của nó có cái bè cá lồng của Nghĩa; là không thể quên được chuyện cũ. Sinh chạy chọt mãi rồi cũng xin được một chân dạy ở một trường cấp hai ven thị xã. Họ bán rẻ nhà cửa vườn đất chuyển đến nơi ở mới. Thục học nghề may, kiếm được khá tiền, còn hơn cả lương của giáo Sinh. Cô ta ý thức được vị thế của mình trong nhà. Cô coi thường Sinh. Không phải là "khinh mười lăm phút" mà là khinh mãi mãi. Vì chuyện tiền nong, vì chuyện cũ. Vì cả một điều tế nhị quan trọng nữa. Vết thương ở cột sống không làm cho Sinh chết như đồng đội tưởng, nhưng lại làm anh chỉ còn là một nửa người đàn ông.

Sinh thấy bồn chồn vì một điều gì đó. Không thể nghe nốt câu chuyện của ông Giả, anh làm bộ xem đồng hồ rồi giật mình kêu lên:

- Chết rồi, mải chuyện quên khuấy cái hẹn quan trọng. Mai bố cho con nghe nốt vậy.

Đêm cuối năm, mưa lạnh. Sinh dở say dở tỉnh về gian nhà tập thể giáo viên. Trong nhà có điện sáng nhưng im ắng khác thường. Ngăn tủ quần áo của Thục trống không. Bà tạp vụ nhà trường là bạn thân của Thục ở gian bên cạnh đang đứng ngoài hiên có ý chờ Sinh về. Bà rụt rè khép nép như sợ hãi, sang đưa cho Sinh phong thư rồi về ngay. Thư của Thục. Sinh vứt phong thư lên bàn. Anh biết trong thư viết gì rồi.

Ra đến cửa, bà tạp vụ còn ngoái lại. "à, cô ấy nấu sẵn cơm dưới bếp cho anh đấy". Sự săn sóc cuối cùng của Liễu thị, để cho Hàn Hoành lại nhớ thương khắc khoải mà làm thơ.

Sinh hình dung ra cái bè nuôi cá lồng dập dềnh trên mặt nước thượng nguồn sông Lãng, trong đêm mưa lạnh. Thục sẽ chẳng có được hạnh phúc như cô ấy tưởng. Thục sẽ lại ân hận và nhớ thương Sinh. Nỗi đau khổ chỉ biến từ dạng này sang dạng khác. Sinh khẽ cười buồn vì cái định luật bảo toàn nỗi buồn mà anh vừa nghĩ ra.

Cái tay Hàn Hoành ấy cũng chẳng sung sướng gì hơn mình. Thà rằng trước kia Liễu thị đừng trở về - Sinh lại nghĩ - Những điển cố, những chuyện ngụ ngôn và những giáo điều, chỉ chăm chú vào mục đích giải trình cho được một ý tưởng nào đấy, mà chẳng mấy khi để tâm tới những khổ đau bất hạnh riêng của mỗi con người. Con tàu cứ sầm sập băng đi, không bận tâm đến thân phận của những bụi cỏ hoang rối bời, khóm hoa dại li ti và đám mạng nhện mỏng manh trĩu nặng sương sớm chờm trên đường ray, dưới những bánh xe thép của nó.

Lần này Liễu thị đi Hàng Châu đã không quay về. ở đấy có doanh trại của viên tướng giặc Sầm Dự hào hoa không chỉ biết múa đao mà còn biết thưởng thức đàn ca.

Hàn Hoành bán sạch tài sản của vợ để lại, lăn lóc trong các ca lâu tửu điếm. Chàng làm những bài thơ thương nhớ Liễu thị trong những cơn say. Người đàn bà tầm thường từng là kỹ nữ ấy nhờ thơ của Hàn Hoành mà thành nổi tiếng. Cũng không biết có phải vợ của Hàn mang họ Liễu không, hay là chỉ vì trong thơ có cây liễu gãy ấy mà người ta gán cho thị họ Liễu?

Hàn lại là một hàn sĩ. Nhưng thơ Hàn Hoành lừng lẫy thiên hạ. Những bài thơ của chàng vạch ứa máu những thân cây, khắc sâu vào gan đá, viết chi chít trên những mảnh tường rêu phong nơi miếu hoang, cổ tự.

Người ta lại thấy Hàn Hoành lang thang trên phố Chương Đài, trong bộ cánh rách tướp của một gã khất thực. Và cũng vẫn như trước, bọn trẻ bám theo chàng reo cười ầm phố như đi theo một người điên, vừa đi vừa chìa tay vào các hàng quán xin hộ Hàn những thực phẩm. Mụ Lý béo bán đậu phụ lại thỉnh thoảng đãi chàng một vảy bạc vụn, đề nghị bài hát về cây liễu xanh xanh bên bờ đầm Lam Thủy.

Lão Trương lại gọi Hàn đến quán cơm nuôi ăn để tiếp rượu, pha trà, ngâm thơ mua vui cho khách. Những khách thương mệt mỏi bụi bặm ghé qua quán lại vừa uống ruợu nghe "Liễu Chương Đài", vừa thở dài chấm nước mắt. Lão Trương lại cao hứng vừa chặt thịt, vừa hát bài thơ đệm thêm những tiếng: "Hầy - a!..." theo một điệu dã ca vùng quê Phúc Kiến của lão:

Ngày trước xanh xanh,
Hầy a! Liễu Chương Đài!
Ngày trước xanh xanh,
Hầy à!
Hỏi có còn không
Hầy, liễu Chương Đài?...

Viết xong tại Vũ Trang
Ngày Lập đông - Canh Thìn.

839




Tại cửa hàng chim cảnh, một bà khách hỏi một con vẹt:

- Mày có biết nói không?

- Còn phải hỏi. - Vẹt ta vặn lại - Thế bà có biết bay không?


***


Ở sở thú, chuồng sư tử vừa được bổ sung một thành viên. Sau khi làm quen với nhau, con đầu đàn nói với chú sư tử mới đến:

- Tiếc là cậu chẳng được làm quen với người phụ trách cũ của tụi mình. Ông ta béo tốt, hiền lành, dễ mến và... rất ngon.2691







Viên ngọc thần ấy mà, cái viên ngọc mà khi ngậm trong miệng ta có thể nghe được tiếng nói của mọi vật, là có thật đấy các bạn ạ, không phải là chuyện bịa đâu! Cũng giống như các bạn, trước đây tôi cứ tưởng đó là chuyện cổ tích, người ta đặt ra cho vui vậy thôi. Ai dè đâu có một hôm tôi nhặt được nó, cái viên ngọc ấy, ở góc vườn nhà tôi. Không biết cái tay đoảng vị nào lại đánh rơi một thứ của quý như thế. Thoạt đầu tôi nghĩ đó là cục kẹo nên khi ngồi vào bàn đọc sách tôi thuận tay cho nó vào miệng. Dè đâu, ngay khi cục kẹo vừa chạm vào đầu lưỡi, tôi bỗng nghe có tiếng nói:
- Nói thật với chú, mặc dù tôi với chú đều là đồ gỗ cả thôi, nhưng tôi sống đã ngần này tuổi rồi, tôi đã ở trong cái nhà này suốt mấy chục năm qua, nghe thấy biết bao là chuyện, đó là chưa kể trong bụng tôi chứa toàn là sách với báo, hẳn tôi phải lịch lãm hơn cái nhà chú chứ!
Tiếng nói vang lên sát bên tai, rõ ràng là phát ra từ cái tủ sát cạnh tôi. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì lại nghe một tiếng nói khác, lần này phát ra từ ngay chỗ tôi ngồi:
- Thì nhà bác nói vậy, tôi có dám cãi đâu. Tôi biết phận tôi là cái anh bàn cục mịch, lại sinh sau đẻ muộn...
Sau khi trấn tĩnh, tôi kịp hiểu ra là tủ sách và cái bàn đang trò chuyện và cái vật tôi đang ngậm rõ ràng không phải là cục kẹo. Một cảm giác ngạc nhiên sung sướng tràn ngập cả người tôi. Tất nhiên tôi không dại gì mà không tiếp tục theo dõi câu chuyện.
- Còn về cái ông chủ nhà này thật tôi chưa thấy một ngời thứ hai như thế - cái tủ nói - thật hiếm có!
Đích thị cái tủ đang nói về tôi, mà lại khen tôi là loại người hiếm có nữa chứ. Tai tôi dỏng lên, tim đập loạn.
- Ý bác ra sao tôi chưa rõ! - Cái bàn lên tiếng.
- Thì có gì đâu. Đấy là tôi nói về cái tính vô trách nhiệm của ông chủ ấy mà. Ai đời lại có bao nhiêu tiền lương đem tiêu xài hết, mỗi tháng chỉ đưa vợ chút đỉnh gọi là có. Đã vậy, hôm nào ngồi vào mâm cơm cũng chê õng chê ẹo. Tôi trông sao mà xốn con mắt quá!
Cái tủ thấy xốn con mắt bao nhiêu thì tôi thấy sôi trong bụng bấy nhiêu. Sao mà cái lão già này lắm điều thế không biết. Phận mình lo bảo quản mấy cuốn sách còn không xong, để cho ba con gián nó bò khắp các ngăn và ị vãi ra tứ tung, vậy mà lại đi chúi mũi vào chuyện người khác, cứ làm như lõi đời lắm đấy. Hừ, hôm nào ta róc xương lão ra nhóm bếp, thử xem lão có còn huênh hoang nữa không!
Tôi hầm hè trong bụng và liếc cái tủ với một sự ác cảm không giấu giếm.
Cái bàn lại cất giọng phân vân:
- Cứ theo như bác nói thì sự sinh hoạt hằng ngày của cái nhà này hẳn phải thiếu thốn lắm, nhưng tôi thì lại thấy...
- Ấy, ấy! - Cái tủ ngắt lời - Để tôi bảo cho chú biết. Sở dĩ cái nhà này cơm còn đủ ăn, áo còn đủ mặc ấy là nhờ một tay bà chủ cả thôi. Bà ấy phải giật gấu vá vai, mượn đầu này xoay đầu kia, chạy tới chạy lui cứ như chong chóng vậy. Còn anh chồng thì nào có để ý cho, cứ ẵm tiền lương tếch đi những đâu đâu, vợ khóc cũng chả hay!
Chà, chà, cái lão già này tinh ra phết chứ chẳng phải chơi! Có khi lão nói đúng cũng nên! Mình thật đoảng... - Tôi buồn rầu nghĩ đến những nỗi vất vả của vợ.
Tháng đó, tôi đưa toàn bộ tiền lương cho vợ, không giữ lại lấy một hào. Và tôi hết sức sung sướng khi đọc trong mắt vợ nỗi ngạc nhiên lạ lẫm, cứ như tôi làm một nghĩa cử gì ghê gớm lắm. Tối đó, sau khi ngồi vào bàn và bỏ viên ngọc vào miệng, tôi cực kỳ hân hoan khi nghe thấy những lời nhận xét tốt đẹp của hai thứ đồ gỗ kia. Nhưng niềm vui của tôi chỉ kéo dài đúng một tuần cho đến cái ngày tôi tình cờ nghe thấy đôi giày của tôi và đôi dép của vợ tôi kháo chuyện với nhau. Cũng giống như tính tôi, đôi giày của tôi hễ gặp phái nữ là bắt đầu ba hoa:
- Này, cậu có biết không, ngày hôm nay tớ đi biết bao nhiêu là nơi. Tớ ra xa lộ Biên Hòa này. Tớ tới tận Lái Thiêu nữa đấy. Chao ôi, ở đấy toàn những vườn là vườn, trái cây thì vô khối! Đó là chưa kể tớ còn được đi...
Tôi mỉm cười khi nghe đôi giày của mình kể ra một lô một lốc những nơi chốn tôi thường lui tới, vui chơi cùng bè bạn. Nó có tài kể chuyện thêm mắm thêm muối hệt mình!
Trước câu chuyện phiêu lưu kỳ thú của bạn, đôi dép của vợ tôi không giấu được nỗi tủi thân, nó than vãn với giọng ấm ức:
- Càng nghe chuyện của anh, tôi càng thấy buồn. Anh thì đi đây đi đó, còn tôi suốt ngày cứ thui thủi trong xó bếp, có đi xa lắm thì cũng chỉ ra tới chợ mà thôi. Thật chả bù với hồi trước, tôi được bà chủ cho đi khắp nơi. Khi thì ông chủ dẫn bà chủ đi nghe ca nhạc, lúc thì đi xem phim, lúc thì đi dạo mát, thỉnh thoảng lại ra chơi ngoại ô... ối giời, cái thuở ấy thật là tôi đi bằng thích! Tiếc là mọi sự trôi qua nhanh quá! Bây giờ ông chủ chỉ toàn là đi chơi một mình, chả thèm ngó ngàng gì đến cô vợ. Thật tội cho bà ấy. Còn tôi thì chỉ biết nhìn cuộc sống của anh mà ao ước...
Đôi dép nói tới đâu tôi giật mình tới đấy. Chết thật! Chẳng lẽ tôi là một thằng chồng ích kỷ như thế sao?
Ngay lập tức, tôi quyết tâm sửa chữa lỗi lầm:
- Em ạ! Rạp Thăng Long đang chiếu phim hay lắm. Tối nay, anh và em đi xem nghen!
Lần thứ hai trong một tuần, đôi mắt vợ tôi tròn như hai viên bi.
Nhưng mọi chuyện không dừng lại ở đây. Lần này tới lượt chiếc giường ngủ làm khổ tôi. Nó nói với chiếc gối:
- Này cậu, sao người cậu lúc nào cũng ướt đẫm như thế kia? Tớ chẳng thấy cậu khô lấy một phút.
- Khô sao được mà khô! - Chiếc gối thở dài - Tối nào bà chủ cũng khóc, mà phải khóc lớn gì cho cam, cứ dụi mặt vào người tôi mà khóc thầm khóc lén. Cứ cái kiểu này, thân tôi chưa nhão ra là may, chứ đừng nói đến chuyện khô với chả khô!
Lại chuyện gì nữa đây? Tôi rùng mình như có ai chích kim vào người.
Cả chiếc giường cũng thắc mắc:
- Sao lại thế nhỉ? Tớ thấy dạo này ông chủ quan tâm đến bà chủ nhiều lắm cơ mà!
Chiếc gối tặc lưỡi:
- Thì đã đành là ông chủ có để ý đến vợ mình hơn trước, nhưng không phải là đã quan tâm đến mọi chuyện. Ngay cái chuyện đi ngủ đây này, ông chủ cũng đã làm buồn lòng bà chủ biết bao nhiêu. Hai vợ chồng suốt ngày đâu có ai thấy mặt ai, chỉ có buổi tối trước khi ngủ mới gặp nhau tí tẹo. Thế mà ông chủ sau khi chui vào giường, lót gối dưới đầu xong, lại mở tờ báo ra, chúi mũi đọc, đọc mê đọc mải, chẳng hề để ý đến bà vợ nằm cạnh đang chực chờ trò chuyện với chồng. Đọc kỳ đến mỏi mắt, thò tay bật công tắc đánh tách một cái, thế là ông chủ lăn ra ngáy khò khò. Trong khi đó, bà chủ với bao nhiêu chuyện trong ngày đang muốn bàn bạc, tâm sự với chồng đành phải nằm thao thức một mình. Rốt cuộc chỉ có cái thân tôi lãnh đủ hết. Còn anh chồng vô tư kia thì cứ trơ ra như đá. Trời ơi, nó dám ví tôi với cục đá, cái đồ mất dạy này! Tôi muốn quẳng mẹ cái gối phản chủ này xuống sàn cho rồi, nhưng nghĩ lại, tôi thấy sự ví von láo lếu của nó cũng không xa sự thật là bao.
Lẽ dĩ nhiên, ngày hôm đó trước khi đi ngủ, người chồng đáng yêu là tôi nhỏ to trò chuyện với vợ một cách vui vẻ. Vợ tôi tươi tỉnh thì rõ rồi. Điều đáng nói là chính tôi cũng ngạc nhiên khi khám phá ra sự thú vị trong hành động mới mẻ này. Té ra vợ chồng cũng cần nói chuyện với nhau, lần đầu tiên kể từ ngày cưới tôi phát hiện ra điều đó.
Sau tủ, bàn, giày, dép, giường, gối lại tới khăn mặt, chổi, đồng hồ, bút máy, hộp quẹt, nồi, chảo... mỗi thứ đều cung cấp cho tôi một số tin tức về cuộc sống nội tâm của vợ tôi. Nhờ vậy mà tôi từng bước một khắc phục được những thiếu sót của mình trong cuộc sống gia đình. Và kết quả hiển nhiên là quan hệ giữa vợ chồng tôi ngày một tốt hơn.
Trong lúc tôi định đem viên ngọc của mình tới Viện khoa học quốc gia để nhờ các đồng chí ở đó phân tích, xét nghiệm các hợp chất cấu thành của nó để sau đó có thể sản xuất thêm hàng triệu viên như thế và cấp cho mỗi cặp vợ chồng một viên thì đùng một cái, viên ngọc không còn nữa.
Các độc giả có tiếc mà trách thì tôi cũng đành chịu chứ sự thể là như thế này. Tôi đi tắm biển ở Vũng Tàu và mang viên ngọc theo. Khi xuống nước, tôi ngậm nó trong miệng, ý là để nghe thử sóng nước và tôm cá nói nhăng nói cuội những gì. Bất thần một con sóng không biết từ đâu nhảy bổ vào mặt tôi khiến đôi mắt cay xé. Tôi nhắm nghiền mắt lại, còn miệng thì há ra... uống nước. Thế là thứ của quý báu trời cho kia trôi tuột ra khỏi miệng tôi và chuồi đi mất. Thật là tiếc đứt ruột. Về nhà, tôi cứ ngẩn ra như người mất hồn. Xót viên ngọc thì ít mà xót cho mình thì nhiều. Không có nó, từ nay cuộc sống của tôi sẽ khó khăn biết chừng nào. Vợ tôi muốn gì, nghĩ gì, mỗi ngày khóc mấy lần, cười mấy lần, làm sao tôi biết. Cái bàn cái tủ bây giờ thì cứ trơ ra như những vật vô tri, thật chẳng được cái tích sự gì!
Chiều đó, đi làm về, thấy vợ đang chuẩn bị thổi cơm, tôi vừa thay đồ vừa cố đoán xem cô ta đang cần gì. Không có viên ngọc thì tự mình phải tìm hiểu thôi. Sau khi suy nghĩ một thoáng, tôi ôm bó củi đi chẻ. Khi tôi bê những thanh củi vụn vào bếp thì vợ tôi nhoẻn miệng cười với tôi một cái, tươi như hoa. Khi cơm chín tới, trong lúc vợ tôi đang múc thức ăn ra bát thì tôi lại phải suy nghĩ xem mình nên làm gì. Và tôi quyết định đi lau bàn, dọn mâm và kê lại ghế ngồi, vừa vặn lúc vợ tôi bưng thức ăn lên và... cười, một lần nữa tươi như hoa nở xong, khi vợ tôi đi rửa chén bát thì tôi lại... nghĩ ngợi. Mất viên ngọc thì đời nó khổ thế đấy! Và cuối cùng tôi cũng nghĩ ra: phải giúp vợ một tay. Thế là tôi mon men xuống bếp và ngồi cạnh vợ, tập rửa bát. Vợ tôi có vẻ rất hài lòng về đức ông chồng của mình, cô ta ríu rít luôn miệng. Cô ta đâu có biết nỗi khổ mất ngọc của tôi.
Khi vào giường chuẩn bị đi ngủ, quay sang vợ, tôi bất chợt nhìn thấy chiếc áo của cô ta đã sờn vai, lại lốm đốm vài mụn vá. Tôi sực nhớ ra từ trước tới nay, mỗi khi mua được vải, cô ta chỉ toàn may áo cho tôi. Cô ta bảo: Anh đi lại nhiều, cần ăn mặc đàng hoàng, còn em thì... . Thì như chiếc áo cũ mà tôi đang nhìn thấy lúc này đây. Thật tội!
Tôi đằng hắng:
- Tuần tới cơ quan anh bán vải. Lần này thì anh nhất quyết phải may áo cho em.Thú thật là từ khi lập gia đình đến nay tôi mới nói với vợ được một câu tử tế như vậy. Ngay lúc đó, vợ tôi ôm chầm lấy tôi và dụi mặt vào ngực tôi một cách âu yếm. Trong nỗi xúc động dạt dào đó, tôi bỗng hiểu ra cuộc sống thật là đáng yêu và vun đắp hạnh phúc gia đình không phải là một việc khó lắm nếu như ta biết quan tâm đến người cùng chung sống hơn là chỉ bo bo nghĩ đến bản thân mình. Và như vậy có nghĩa là viên ngọc kỳ diệu kia, thực sự nó không hề mất đi, nhưng thay vì ở trong miệng thì bây giờ lại nằm trong lồng ngực tôi và đang đập một cách khoan thai. Cái viên ngọc ấy cặp vợ chồng nào cũng có, nó được cấu thành bởi những hợp chất như nhau và đang mách bảo cho chúng ta những điều khôn ngoan trong cuộc sống.

1260




Người vợ trẻ, sau một thời gian xa cách, được gặp lại chồng mới từ quân ngũ trở về. Đêm đầu tiên, hai người "tâm sự" đến gần sáng mới chợp mắt... Bỗng có tiếng chuông cửa, cả hai choàng tỉnh. Người chồng hốt hoảng:
    - Dậy mau, em yêu, hình như chồng em về kìa!


Người vợ giọng vẫn còn ngái ngủ:


- Yên tâm đi, đừng sợ, hắn giờ vẫn đang còn trong quân ngũ mà.


 


Ông chồng sau khi đọc xong bài báo "Vụ án mạng tại nhà hàng: một nữ nhân viên bị giết chết", ngẫm nghĩ và nói với vợ:
    - Em yêu, mẹ em cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà như vậy, không chán sao! Có lẽ nên kiếm cho mẹ một công việc nào đó ...
    - Mẹ em thì có thể làm được gì bây giờ chứ?
    - À , thì chẳng hạn như... nhân viên phục vụ tại nhà hàng.

422


Powered by Blogger.