Nơi ấy tôi đã từng sống. Nơi ấy có một dòng sông. Nó chảy qua vùng đất nghèo quê nội tôi như một ký ức tuổi thơ xam xám. Tôi đã từng cởi trần cùng lũ trẻ nhảy ào xuống dòng nước đen ấy để vùng vẫy cho thỏa thích. Tôi, mẹ, ba, và mọi người sống ở đó nhiều năm. ở đó tôi cũng có một gia đình, có mẹ, có ba, có bà nội nhưng không có một mái ấm hạnh phúc. Mẹ tôi thường nói vậy.
Khi tôi lên năm tuổi, ba bắt đầu nghiện rượu. Tôi thường cười khanh khách lúc thấy ông bước liêu xiêu. Nhưng tôi không biết những lúc ấy mẹ khóc, khóc rất nhiều vì những cái bạt tai, cái đấm, cái đá của ba dưới áp lực của men rượu. Chịu đựng để giữ hạnh phúc gia đình nên mẹ không than vãn một lời. Lúc đó mẹ mới hai mấy tuổi nhưng trông già xọp đi. Lúc đó tôi không hiểu gì.
Bà nội chơi số đề. Tỉnh mắt dậy là nội chạy sang hàng xóm để bàn tán về số. Nhưng số đề không mỉm cười với nội, bà thua liên miên. Đồ đạc trong nhà cứ đem bán dần. Bán hết nữ trang của mình, nội lại quay sang vòi tiền mẹ. Phận dâu con mẹ phải cắn răng chịu. Sợi dây chuyền mẹ đeo trên cổ mỗi tối tôi hay nghịch cũng biến mất theo những con số đỏ đen.
Cha tôi uống rượu nhiều hơn. Bà nội ngày càng cau có hơn. Mẹ càng khổ hơn. Tôi chẳng biết gì. Thua số đề nhiều quá, nội mất ngủ. Bà không thể nào tìm ra những giấc mơ như thuở trước để sáng ra qua hàng xóm bàn tán. Thế là nội quay sang tôi. Mỗi sáng nội kéo tôi lại gần: Đêm qua cháu mơ thấy cái gì?
Cả ngày lăn lóc ngoài bờ sông, đu trên lưng trâu mỏi nhừ nên lên giường là tôi ngủ say như chết, làm gì có giấc mơ nào. Thấy tôi đứng ngẩn tò te, nội giục. Tôi ấp úng. Mẹ đứng gần đó đỡ lời: "Cháu còn nhỏ, không biết gì đâu!".
Nội trừng mắt. Tối, mẹ bị một trận bạt tai, đánh, đấm từ bố. Nội trông thấy cười, bởi chính bà là người tạo ra với nguyên nhân hết sức đơn giản: "Nó là dâu mà dám hỗn với tao".
Phần sợ nội, phần thương mẹ, tôi bắt đầu nói láo. Chỉ cần ngoắc lại là tôi gào lên: "Đêm qua cháu mơ thấy...". Khi thì con quạ, con ngỗng. Lúc thì con ốc, con nai. Thậm chí hỏi mấy đứa hàng xóm biết số đề có ông địa, ông thần tài, tôi cũng gào lên ông địa, ông thần tài.
Không hiểu thế nào mà mấy bữa đầu trúng, nội vui ra mặt. Bà coi tôi như thần thánh. Mua cho tôi đủ thứ từ cái chợ chòm hỏm (chợ ngồi chòm hỏm để bán chứ không có sạp, có quán) của thôn. Mấy ngày sau bắt đầu trật, trật liên miên. Có hôm tôi phải chịu sự gầm ghè, đay nghiến của nội. Mẹ chỉ biết thở dài và khóc thầm. Cuộc sống đối với mẹ bất hạnh, khắc khổ quá.
Như mọi ngày, tôi lao xuống dòng sông đầy rác với con Tẻo, thằng Rớt, thằng Đủn, thằng Đen... Cả nhóm chỉ có Tẻo là con gái. Tội nghiệp, bữa nay nó phải dắt trâu của ông Bá đi tắm giùm để lấy tiền mua kẹo cho em nó. Con trâu được tắm hứng chí tuôn ra mấy "bãi". Phân nổi lềnh bềnh với rác trên mặt nước. Tôi vô ý quạt tay vào làm cả bọn cười lớn. Nóng mặt tôi chửi Tẻo. Nó phân bua:
- Tại anh chứ, trâu "ỉ" kệ nó, ai bảo anh đụng?
Như lửa đổ thêm dầu, tôi lao tới đánh nó một cái thật mạnh cho hả. Con Tẻo khóc lu loa. Tự nhiên tôi thấy thương nó quá, liền xuống nước năn nỉ:
- Thôi mày nín đi, mai tao bắt cho mày con dế!
- Chừng nào có con dế tui mới hết nghỉ chơi với anh.
Con Tẻo ngoay ngoảy đi. Mấy ngày tôi mò khắp các bờ ruộng mà không tìm ra con dế nào. Nắng gió làm tôi mỏi nhừ. Buổi tối, tôi mơ thấy tôi bắt được con dế dễ thương lắm. Trời sáng, nội vào buồng lay tôi dậy:
- Đêm qua mày mơ thấy con gì hả?
Đưa tay dụi dụi mắt cho tỉnh ngủ, tôi đáp như reo mừng:
- Con dế nội ơi! Đêm qua cháu mơ thấy con dế!
- Láo toét, số đề làm gì có con dế. Láo này, láo này... Nội quơ lấy cái chổi quật lia lịa vào tôi. Vừa đau, vừa hoảng tôi khóc ré lên.
Mẹ chạy đến khóc theo tôi:
- Đừng đánh cháu nữa, nó nhỏ đâu biết gì...
- A, còn mày! Sinh con mà không biết dạy, để nó hỗn láo thế... !
Nội quất vào mẹ. Như một nỗi đau nén lâu ngày trào lên, mẹ giật lấy cái chổi trên tay nội. Đôi mắt mẹ long lên những tia lửa, từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ thấy mẹ như thế. Bà nội tỏ vẻ sợ sệt lui ra sân.
Buổi tối đêm đó, ba lại say rượu trở về nhà. Vẫn đánh, vẫn đập, vẫn chửi rủa. Và đêm đó mãi trong giấc ngủ tôi còn nghe tiếng hét của ba, tiếng cãi lại của mẹ, tiếng đổ vỡ to lắm. Đêm đó tôi kéo cả cái chiếu để quấn quanh mình mà vẫn thấy sợ.
Ba mẹ ly dị. Bà nội cười. Hàng xóm xôn xao. Tôi khóc.
Vài bộ quần áo cũ, cái xách tay nhỏ, mẹ dắt tôi đi. Đứng chờ đò để qua sông, tôi gặp con Tẻo. Nó biết tôi sắp đi xa. Nó vẫn đi tắm trâu để lấy tiền mua kẹo cho em nó. Tôi nắm lấy bàn tay đen hoẻn của nó:
- Mày đừng giận tao nữa nghen. Tao tìm mấy ngày nhưng không bắt được con dế nào. Tao lên thị xã ở, nếu có dế tao sẽ bắt để dành cho mày.
- Anh ngu quá! Thị xã làm gì có dế.
Con Tẻo mắt đỏ hoe. Tôi biết nó cũng buồn. Lúc này tôi mới thấy dòng sông đầy rác và lềnh bềnh phân trâu cũng dễ thương như con dế tôi còn mắc nợ.
Qua đến bờ bên kia, mẹ đứng rất lâu để nhìn. Hai giọt nước mắt mẹ rơi xuống đầu tôi nóng hổi. Mẹ thở dài:
- Con sông tên Hiền vậy. Nhưng, cuộc sống có hiền lành và lương thiện đâu!
*
* *
Lên thị xã mẹ làm rất nhiều việc để nuôi tôi. Và cái nơi đang đô thị hóa này đã không phụ mẹ dù nhiều lúc mẹ phải rơi nước mắt. Tôi có nhà ở, có ăn có mặc, được đi học. Mặc dù âm vang "... con người sống ở bờ sông không hiền lành và lương thiện..." luôn bám lấy tôi nhưng tôi luôn nhớ về dòng sông ấy, nhớ từng kỷ niệm, từng con người.
Tôi làm thơ đăng báo. Những bài thơ của tôi thường mang nét buồn và thường nhắc đến dòng sông.
Chiều. Như bao chiều khác, tôi đi dạo các sạp báo. Một ánh mắt nhìn tôi nửa quen, nửa lạ. Tôi nhíu mày. Thằng con trai đó thoáng bối rối rồi ồ lên:
- Lê Thụy Nhân! Còn nhớ tao không. Rớt nè!
Trời, thằng Rớt giờ to con như chú Chín (ba Rớt) hồi nào. Tôi kéo Rớt lại quán nước. Rớt vẫn cười luôn miệng:
- Lâu quá phải không mậy, hơn mười năm chứ ít gì. Tao không ngờ có một thằng bạn làm thơ hay như mày. Nè, cho tao hỏi chút. Dòng sông trong thơ mày có phải là sông Hiền không?
Tôi gật đầu. Dòng sông ấy vẫn trồi lên những nét riêng dù là nét buồn da diết. Bây giờ vùng sông Hiền đổi mới nhiều lắm rồi. Hơn mười năm tôi chưa về lại mảnh đất ấy. Rớt tiếp tục hào hứng:
- ở quê, "nẫu" thích thơ mày lắm. Tờ báo nào có thơ mày là "nẫu" mua sạch. Còn tao, tao thích nhất hai câu: "ừ tôi con dế xưa đi lạc - Giờ thèm cọng rác phía sông quê". Mày viết bài này đề tặng "T" là tặng ai vậy?
- ờ... ừ..., tao tặng con Tẻo đó. Con Tẻo hồi nhỏ tao đánh nó và mắc nợ nó con dế.
- Thôi đi cha nội. "Nẫu" lớn rồi mà còn kêu Tẻo. Đó là tên ở nhà, còn tên thật là Quỳnh Trâm.
- Quỳnh Trâm! Tên hay quá há! Tao đâu có biết, tao chỉ nhớ tên Tẻo thôi. Còn mày tên thật là gì?
- Tuấn, Phan Gia Tuấn nghiêm chỉnh nghe mậy!
Hai ly nước vơi dần cùng câu chuyện dài ra:
- Quỳnh Trâm hay nhắc mày lắm. Bữa nay nhỏ dễ thương gớm luôn. Mới được giải nhất học sinh thanh lịch của tỉnh đó.
- à, tao có biết. Nhưng tao đâu ngờ là Tẻo.
- Tẻo nữa! Biết tao lên thị xã, Trâm nhắc nếu gặp mày thì gởi lời thăm giùm. à, còn nữa, nếu mày rảnh thì viết thư cho Trâm. Trâm nhắc mày còn nợ nó con dế lâu rồi chưa trả. Chấm hết!
*
* *
Câu chuyện của Tuấn làm tôi trỗi dậy những cảm xúc khó hiểu. Tuấn bây giờ đã thành anh thanh niên khỏe mạnh. Lũ trẻ trong xóm đã lớn. Quê nội tôi đã có trường cấp 3 khang trang. Bà nội vẫn khỏe. Ba tôi đã hết uống rượu và có vợ khác. Tẻo đã thành cô nữ sinh thanh lịch Quỳnh Trâm mà tôi thấy ở ảnh bìa tờ báo tỉnh. Tất cả đã thay đổi.
Suốt buổi tối tôi ngồi không học được gì. Mẹ vẫn cặm cụi với chiếc máy may xành xạch. Trời đêm nay đầy sao dù chỉ mới dứt mưa. Đi qua đi lại để lấy can đảm, tôi nói với mẹ:
- Mai mốt con thi đậu đại học rồi, mẹ cho con về quê nội một bữa ghen.
Mẹ ngừng máy may. Mẹ hiểu những gì tôi muốn nói. Rót cho mình ly nước, mẹ nhìn tôi. Khổ đau đời mẹ tụ lại thành những vết chân chim nơi khóe mắt. Tôi bối rối:
- Con xin lỗi nếu làm mẹ buồn. Con sẽ không đòi về quê nội nữa.
- Khi nào con muốn thì cứ về thăm nội với cha. Nhưng mẹ nói trước là mẹ không đi chung với con.
Mẹ thở dài. Một đêm tôi có thể đọc ngấu nghiến hết một quyển tiểu thuyết xã hội đau lòng. Nhưng mười mấy năm rồi tôi không biết giấu tiếng thở dài của mẹ vào đâu.
Trời đêm nay đầy sao. Những vì sao lấp lánh chắc sẽ hiểu mẹ, hiểu tôi. Dù mẹ và tôi có từ chối đi nữa cũng không che được tiềm thức về nơi ấy. Nơi ấy tôi thèm giấc mơ thấy ông Địa, ông Thần Tài thật sự để nội đánh số đề. Nơi ấy cha đã nợ mẹ một mái ấm hạnh phúc. Nơi ấy tôi đã để lại một tuổi thơ. Nơi ấy tôi đã nợ Quỳnh Trâm một con dế. Nơi ấy có một dòng sông đã chảy qua ký ức tôi: Tên con sông rất hiền mà sao cuộc đời cực nhọc vậy.
L.T.N.1657




Gần hai mươi giờ ngủ ngồi gật gưỡng trong băng ghế, tôi tỉnh dậy bởi tiếng loa thông báo phi cơ sửa soạn đáp xuống. Phi cơ ngừng hẵn, tôi đứng dậy, với lấy cái xách hành lý, cửa mở bước lẹ ra ngoài. Hai người tiếp viên đứng chào khách có vẻ khó chịu khi thấy tôi không được tế nhị trong việc đi đứng. Mặc kệ, tình trạng muốn nôn mửa và đầu óc quay cuồng thôi thúc tôi cần một chút không khí khoáng đãng. Tôi lảo đảo, quảy xách hành lý lên vai, bước từng bước ngắn dọc theo hành lang cổng số. Dòm thấy đúng bảng số muốn tìm, tôi bước xà vào băng ghế trống gần nhứt. Ngồi một lúc lâu thấy đỡ mệt. Còn hơn bốn giờ nữa mới tới chuyến bay của mình. Tôi đảo mắt dòm chung quanh. Hành khách ngồi chờ thưa thớt. Mấy ngọn đèn từ trên cao chiếu xuống, ánh sáng dịu dàng mát mắt gợi tôi so sánh những vòm ánh sáng hắt hiu của các con đường ở quê nhà. Lần đi cảm giác bồi hồi náo nức bao nhiêu, thì lần trở về thất vọng và mỏi mệt bấy nhiêu. Trên con đường mòn vào xóm nhà xưa cũ, nhà tổ phụ hiện ra trước mắt bỗng gợi nhắc tôi nhớ đến gian nhà cạnh bên có người con gái với đôi bím dài thả lơ lửng bờ vai, với đôi mắt tròn, to ngơ ngác. Bây giờ tuổi Phỏn cũng quá nửa chừng xuân. Lòng tôi rộn lên niềm thương xót. Những lời giao ước âm thầm của hai đứa đêm nào như còn văng vẳng bên tai hòa cùng tiếng rào rào của sóng nước. Nàng trao thân, dâng hiến mảnh băng trinh con gái cho tôi. Ba mẹ Phỏn không khứng sự cầu hôn của gia đình tôi. Chút tự trọng và bất mãn tôi ra đi không lời từ biệt. Ngày đó tôi tìm quên lảng bằng cách lăn xả vào con đường binh nghiệp. Chí trai chưa vẹn thì lửa đỏ lan tràn đốt cháy quê hương. Tôi chạy dạt đến xứ người. Bây giờ kiếm tìm vô vọng bởi bóng dáng Phỏn mất biệt từ hai mươi mấy năm qua.


Ngoài khung kiếng trong suốt của phòng chờ, từ chân mây vòng tròn đỏ đã xuống hết nửa phần, không gian dấy lên màu tro xám. Đôi mắt tôi thoáng thấy một khuôn mặt người nào đó như đang mỉm cười trong bóng kiếng. Tôi nhắm mắt lại định thần, lúc mở mắt liếc dòm bên kia hàng ghế nhận ra người đàn bà Tàu đôi mắt bà ta cũng đang chăm chăm hướng về bên nầy. Tôi quay mặt phía khác. Người đàn bà rời chỗ ngồi ngập ngừng bước đến gần tôi, ấp úng :


- Ông, có phải là Đạt nhà ở xóm Tàu cạnh sông Bảo Định không?


Tôi sững sờ dòm người đàn bà lạ:


- Sao bà biết tôi?


- Ở Việt Nam, nhà tôi sát nhà ông.


Tim tôi bỗng dưng nghe chừng ngưng đập. Hồn tôi như bị cuốn nâng lên trên một bãi nhung tơ nào đó, và nghe thấy chính tiếng của mình hỏi lại như trong cơn mê.


- Mỹ Phương, có phải Mỹ Phương không?


Trả lời cho tôi bằng những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt vừa cảm nhận hân hoan lẫn nỗi tủi buồn. Mỹ Phương ngồi nghiêng người xuống chiếc ghế trống cạnh tôi. Tay nàng lạnh ngắt trong tay tôi. Chúng tôi nghẹn lời... Thời gian như ngừng động, hồn tôi bay ngược về quá khứ. Hình ảnh của ký ức làm thân thể tôi căng phồng. Hiện lần trong trí những ngày vui với nhau trên con đường nhỏ nhiều cây lá bao quanh, vòng vèo theo rìa con sông đầy nước. Tình yêu nồng nàn, ấm áp bị ngọn gió đông ập thổi làm điêu tàn cây lá. Nỗi buồn cũ kỹ lan tới ngập hồn. Tình xưa dang dở không thể nối kết. Mỹ Phương ơi! bao nhiêu năm qua mọi sự đổi thaỵ Hiện giờ chúng ta đang trong hoàn cảnh trái ngang. Tôi đã có gia đình, không thể giữ Mỹ Phương cho mình. Một lần nữa, tôi đành làm người tình phụ.


Sửa lại thế ngồi, tôi hỏi Mỹ Phương:


- Em qua đây bao lâu rồi, ở với ai?


- Hơn hai mươi năm. Em ở với con.


Vừa nói Mỹ Phương vừa mở bóp tìm kiếm, đưa cho tôi tấm ảnh một người con trai khoảng chừng hai mươi lăm tuổi. Thằng nhỏ trong hình giống in tôi thời còn trai trẻ. Tôi hốt hoảng kêu lên.


- Nó là con anh phải không Mỹ Phương?


Tôi nghe trong sâu thẳm lòng mình những tiếng kêu vang thống thiết, xót xa, và tuyệt vời đau đớn. Ruột tôi quặn từng khúc và tâm hồn điên đảo. Tiếng nói của Mỹ Phương nghèn nghẹn bên tai.


- Tên nó là Thành, bây giờ con đi làm lo cho em. Bao nhiêu năm em đã sống một mình, gặp lại nhau nên coi như bạn thâm giao. Tình yêu của chúng ta từ lâu em đã để lắng sâu vào dĩ vãng. Chút ân tình cũ sót lại là đứa con đã lớn khôn.'


Bên ngoài, vòm trời đêm đen thẫm, loáng thoáng vài ngôi sao nhợt nhạt không đủ soi buồn đáy mắt, tôi từ tạ nàng với ngấn lệ long lanh. Những giọt nước mắt bồi hồi nhớ lại đêm tình ái đầu đời và sự thương cảm đang dày xéo hồn tôi. Tôi đã vô tình gieo nỗi đắng cay cho nàng suốt cuộc đời. Ngồi đây mà thân xác tôi dường như phiến băng rã tan trong nước sông đêm nồng nàn đó và còn lờ mờ thấy lại hình ảnh lớp sương phủ dầy là đà trên triều sóng luân lưu. Tha lỗi cho tôi. Hãy tha thứ như tha thứ cuộc đời đã bắt em vào nẻo đoạn trường. Hãy quên và xem như chúng ta chưa cùng một lần ân ái. Quên hết những buổi chiều mưa, những khúc nhạc bên sông, những ảo vọng thần tiên làm ngẩn ngơ kỷ niệm và quên luôn trên mặt đất nầy có một người đàn ông đã khước từ bổn phận bỏ đi biền biệt không hề biết chấm dứt cuộc hành trình.


Tiếng loa nhắc nhở chuyến bay của Mỹ Phương sắp khởi hành. Nàng đứng lên với lấy cái xách tay cúi đầu đi thẳng. Tôi dòm theo cho tới khi dáng nàng khuất chìm vào vòm cửa sâu hun hút. Tôi ngồi đó bàng hoàng như người nằm mơ vừa tỉnh dậy. Trống không. Bây giờ thẳng thắn ôn lại lần cuối, cuộc sống đã qua như một giấc mơ đời.




* * * * *

- A Phỏn ơi... ! A Phỏn!


Chú Ngầu đứng đàng sau nhà kêu con gái, âm thanh vang dội trên mặt sông.


Mới sáu giờ sáng.


Dòng Bảo Định giang còn đẫm mình trong màn sương trắng. Không khí trong lành hòa cùng làn gió nhẹ phả về tứ phía. Lòng sông thấp thoáng ghe, xuồng khẳm lừ hướng về phía chợ. Từ dãy nhà ven sông đến phần nhà bên kia đường lố nhố lầu có, trệt có, cuồn cuộn khói bếp đùn lên lan tỏa trong không khí cùng tiếng khua động nổi trôi đây đó. Xóm nhà của người Tàu chộn rộn mỗi đầu ngày như những năm tháng trước.


Sàn nhà phơi tương bắt dài ra gần giữa sông. Năm bảy chục cái khạp có nắp đậy kín được sắp ngay hàng thẳng lối phơi mình theo tháng ngày bất định. Chú Ngầu đứng giữa sàn phơi tương cất tiếng kêu con lần nữa.


- A Phỏn... , nị đâu rồi.


Không lên tiếng, Phỏn ló ra cửa sau, đủng đỉnh đi về chỗ cha đang lúi húi. Chú Ngầu chỉ cho con gái mấy cái khạp tương cần phải lấy ra bán hôm nay, rồi bỏ đi lên nhà trước. Phỏn lặng lẽ làm việc hằng ngày của mình. Dở nắp khạp, lấy gáo nhựa có cán dài thọc sâu vào khạp tương mút ra đổ vào mấy cái thau
chồng lên nhau đã gát sẵn trên nắp khạp cạnh bên. Những hột tương mập tròn mộng nước sền sệt lẫn lộn với những khoanh gừng nhiều hình thể khác nhau, toát ra không khí mùi thơm đặc biệt. Hằng ngày đã quen với mùi tương như vậy mà mũi Phỏn cũng thun lại hít hít như thưởng thức thêm hương vị đã có sẵn từ lâu phất phưởng trong không khí đó đây. Phỏn bưng từng thau nho nhỏ đặt dài theo lối đi giữa hai đám khạp tương. Phần tương ngọt và tàu xì lấy ít hơn, mỗi thứ vài thau. Lấy tương đủ như lời Pá dặn, Phỏn khuân từng thau đem ra sân gạch trước nhà sắp ngay ngắn vào chiếc xe cây có tay đẩy. Màu vàng ngoách tươi tắn của những thau tương gừng khơi dậy vị giác nằm kiêu hãnh bên mấy thau tương ngọt và thau tào xì đen đủi. Xong xả, Phỏn phủ lên mấy thau tương tấm nhựa mỏng màu xanh, che đậy bụi đường và che luôn sự lộ liễu. Ngày nào cũng vậy, đem tương ra chợ cho mẹ bán và dẫn hai đứa em trai đi học ở trường tiểu học cách chợ vài con đường. Công việc thường ngày quá quen thuộc, Phỏn làm việc với nét mặt tư lự cố hữu. Thường từ chợ trở về trước khi băng qua đường đẩy xe vô ngõ, Phỏn luôn dòm vào căn nhà bên cạnh, như thử tìm kiếm bóng dáng người yêu. Nhưng anh vẫn biệt tâm.


Hôm nay, Phỏn cũng dòm vào căn nhà cuối dãy, thấy một người con trai từ căn nhà đó đi lướt qua, mắt mở lớn ngơ ngẩn dòm theo. Sao người đó lại giống hệt anh vậy. Vẻ mặt tươi cười trong sáng. Vầng trán cao, mớ tóc bồng bềnh. Dáng dấp vừa tinh nghịch vừa oai hùng ngang ngược. Có phải anh không? Thấy em mà anh lạnh lùng hờ hững. Trên khúc đường nầy dưới dòm trời xanh lồng lộng, cơn gió lốc ngất ngây mùi sông nước lẫn với mùi đậu nành rang. Anh đã ra, vào, đi về, đã có những nỗi vui, buồn, giận với em. Bây giờ đã quên em, quên mất biệt đứa con gái Tàu xấu số. Chúng mình đã xa nhau hơn hai tháng. Pá em đâu hiểu được chúng ta tuy hai người nhưng đã thành là một, đành đoạn từ chối lời cầu hôn của mẹ anh. Pá còn quá câu nệ giữa hai chủng tộc khác nhau. Pá đâu biết rằng sự từ chối của ông đã gây cho em nỗi thống hận. Tưởng giận hờn trong phúc chốc, ra đi cho nguôi ngoai rồi anh sẽ trở về. Em quay quắt đợi chờ mòn mỏi. Anh ở đâu? Có thấu hiểu được hiện giờ hòn máu nhỏ của anh đang lớn dần trong cơ thể em. Vì anh, em sẽ nhận chịu tất cả mọi điều, khốn khổ và ô nhục trong cuộc sống. Không có chuyện tày trời xảy đến. Không có trường hợp kết tinh và sự tượng hình một bào thai của hai đứa, em cũng cố gắng quên đi, xem như chúng ta chưa hề quen biết. Niềm hạnh phúc ước ao xa vời, không bao giờ thành tựu được trong đời của một người con gái bất hạnh như em. Sự gần gũi chỉ một lần, nên anh đã coi giữa chúng ta không một dây tơ ràng buộc nào. Coi như giờ trước, hôm qua, chiều nay, đêm nay, ngày mai, mãi mãi suốt đời không có phút giây nào tái hội. Không lẽ nào chúng ta phải sống xa nhau, khi người này đã chan hòa trong máu, huyết tủy xương của người kia. Chúng ta chỉ chung sống một đêm. Một đêm thần tiên bằng đằng đẵng một năm hạ giới. Em đã trân quí vô ngần, những thời gian anh ở bên em. Nhớ anh em chỉ biết ngốn vào miệng những kỷ niệm và uống từng mảnh nhỏ thời gian chúng mình quấn quýt. Nhà anh bên kia. Nhà em bên này. Cắt chia ranh bởi hàng rào bùm xụm. Hai đứa quen nhau từ ấu thợ Lớn lên cùng một vùng đất đai mầu mỡ, một dòng sông, một con đường. Cùng đi học. Hai lượt đi, về trên đường có hàng điệp đỏ. Thân thiết. Rồi yêu nhau. Yêu cho đến nỗi không thể kềm giữ... Nhưng thôi, không còn mấy thời gian nữa... Cái thai mỗi ngày một lớn. Làm sao che đậy được xóm diềng. Làm điếm nhục gia phong. Pá biết được sẽ không để em sống. Nhớ tới sự nghiêm khắc thường có hằng ngày trong nhà, Phỏn run rẩy và liên tưởng tới sự trừng trị. Phải làm sao? Phỏn úp mặt vào đôi bàn tay nức nở.


Bóng tối của đêm mênh mang lành lạnh, trời tối đen với những vì sao trắng toát. Gió lùa lay động cành lá. Những giọt sương khuya rơi lộp độp trên mái tôn sau nhà. Nằm trong phòng trăn trở, toan tính không biết phải than thở cùng ai khi biết được một lần nữa Pá đã khước từ lời cầu hôn của cha mẹ A Dzìn. Lần nầy lấy cớ hai nước thù hằn từ ngàn xưa, Quảng Đông không làm sui gia với Hẹ. Uổng công Phỏn đã đầu mày cuối mắt quyến rủ. Cắn răng nhắm mắt, sắp đặt, hiến dâng thân xác cho A Dzìn để cứu vãn cái thai đã ba tháng. Gục đầu vào gối, kêu mẹ thầm trong cổ họng với nỗi ngán ngao tuyệt vọng. Phỏn nghẹn ngào nất lên trong sự nghiệt ngã của mình. Điều muốn liều thân hủy mạng sống cho trôi theo dòng nước vẫn nhuốm lên nhắc nhở trở lại khi bước đường cùng, khó khăn, một mình trong vòng vây trùng điệp của định mạng. Hai hàng nước mắt chảy dài, Phỏn đành phải dùng cái chết. Đó là biện pháp cuối cùng. Kết quả của một phút yếu mềm mà đời mình có những tháng năm hờn tủi, những ngày gượng gạo vui cười. Có ai biết cái chết đang gần kề với tôi không? Bên ngoài đêm đen vẫn vây phủ bầu trời, những vì sao khuya đã ẩn mình trong mây. Đã quyết định, Phỏn bước khỏi giường, nhẹ nhàng mở cửa ra đi. Lần theo lối mòn thôn xóm, băng mình thầm lặng luồn lách qua những bụi bờ, ẩn hiện như hồn ma trong bóng tối. Đi hoài theo cạnh dòng Bảo Định hiền hòa mà Phỏn cảm thấy lòng mình không yên ổn, xôn xao như lượng nước nhấp nhộ Phía trời xa nỗi lên vài tia chớp ngoằn ngoèo, và tiếng gầm gừ tưởng như trời sắp sập. Phỏn nghĩ có lẽ sập trời thì sướng biết bao. Qua khỏi cầu bà Tàu, cơn mưa đêm bỗng nhiên đổ ập xuống. Tấm màn nước khổng lồ thường trực tuôn đều đặn những dãy nước căm căm lạnh buốt xương dạ Phỏn lao đao, hai con mắt ríu lại mịt mù ướt nước và mê sảng đi giữa sự lùng bùng của cây lá ven sông. Mưa lất phất rơi Người Phỏn đã lạnh và sũng nước. Lần dò hoài trong tăm tối cho đến khi cơn sốt hoành hành, đầu váng, mắt hoa. Quanh quất đâu đây những cụm bần, những cây bằng lăng hàng hàng, lớp lớp chen chúc. Liều chết, Phỏn đã bất kể thân xác bắt đầu bật nóng dữ dội. Ước độ đã thật xa nhà. Mù mờ qua đáy mắt một cây bần cao mọc xiêng thẳng giữa sông. Lẩy bẩy Phỏn đến dưới gốc cây.Trèo lên. Mò mẫm bò gần ngọn. Cắn chặt môi đè tiếng khóc. Phỏn hành động như người điên. Nhắm mắt buông tay...




Phỏn thấy mình ngã mạnh vào một tấm liếp cửa lá của căn chòi hoang nào đó trong cánh rừng thưa. Cơn gió nhẹ từ hướng nào trong cõi âm u lạnh lùng thổi tới. Chung quanh tối đen như mực, Phỏn tự hỏi, đây là đâu? địa ngục a tỳ?Tự hỏi nhưng không thể trả lời. Nhướng mắt, thấy có cây đèn trứng vịt nhập nhòa bên trong. Phỏn bật ngồi dậy định đi vào chỗ có cây đèn thì cánh cửa và căn chòi bỗng quay tít. Một con quái vật từ bên ngoài cửa liếp phóng tới chụp vào cấu xé, Phỏn la hét giãy giụa căn chòi chuyển động, sập xuống đè người Phỏn dẹp lép dưới mấy tấm vách lá chồng chất lên nhau.


Phỏn tỉnh dậy trong trạng thái đau nhứt khắp châu thân. Đưa mắt liếc dòm căn phòng kín bưng, chút ánh sáng xiêng qua kẽ hở lờ mờ soi bốn bức vách cây. Cựa mình chiếc giường tre phát ra tiếng kêu cót két. Đỉnh mùng ngã màu vàng pha mấy vòng tròn hoen ố. Bàn tay Phỏn vô tình bấu vô chiếc chiếu dưới lưng mềm nhũn, sợi chiếu đứt tả tơi. Đây là đâu? Ai cứu tôi. Qua rồi cái chết. Hạn hán thổi bay những hơi nước ẩm ướt trong tròng mắt. Không còn khóc được nữa. Không biết bên ngoài sáng hay tối Phỏn tự hỏi như vậy và lắng tai nghe dường như có tiếng khua động trong nhà. Tiếng dép lẹp xẹp, bước chân của ai đó mỗi lúc một gần thêm, một người đàn bà bước vào. Phỏn tròn mắt dòm người lạ:


- Cháu đã tỉnh lại rồi.


Ngập ngừng và bối rối Phỏn chóng tay ngồi dậy theo thói quen quờ quạng hai chân tìm đôi đép. Người đàn bà cuối xuống cầm đôi dép đang mang tra vào chơn nàng:


- Cháu mang đỡ đôi dép nầy. Hãy nằm xuống nghỉ trông cháu còn mệt lắm -vừa nói người đàn bà vừa đỡ nàng nằm xuống - Dì đã nấu cháo. Mấy đêm, ngày cháu hôn mê đâu có cơm cháo gì, ráng bình tỉnh ăn uống lấy lại sức. Củng may hôm đó mưa lớn không đi nữa được, phải núp ghe dưới khóm bần. Trời tối đen như mực. Ông nhà tôi mò hồi lâu mới kéo được cháu lên, xóc nước. Sao dại dột vậy? Có chuyện gì thì nói thật với mẹ chạ Chết như vậy không nên đâu.


Bà kể lể một hơi. Phỏn lặng thinh. Nghẹn ngào. Dòm người đàn bà lạ, có gương mặt hiền lành, đôi mắt xót xa của bà ngó thẳng vào mặt người đối diện cho một cảm tưởng được bao che, an ủi. Lòng chợt nguôi ngoai như trong cơn nóng bức có một luồng gió mát lạnh ào ào thổi đến. Cuối cùng Phỏn bập bẹ như mới tập nói :


- Thưa dì, dì thật nhơn đức. Được dì cứu sống. Cháu không dám trở về nhà. Có thai... Cháu lỡ dại... Nếu được chết thì đỡ khổ hơn.


Người đàn bà tốt bụng như hiểu hoàn cảnh khó khăn của nàng:


- Cháu yên lòng ở đây với dì. Dì, dượng không có con. Thủng thẳng rồi cho gia đình cháu biết. Từ đây về sau cháu kêu là 'dì haí nha.


Phỏn yên lặng với hai hàng nước mắt chảy dài theo khóe... cùng lúc tay Phỏn xoa chung quanh bụng mình.


Buổi chiều trong phố chợ hoang vu như thành phố không người. Rời rạc mấy người bộ đội súng ống đi rõn, cuối cùng mất hút sau dãy nhà lầu cao. Phỏn đảo mắt dòm quanh, đi nhanh về phía căn nhà của cha mẹ. Cửa nhà đóng kín, vắng lặng. Phỏn đứng trước nhà. Năm ngón tay run lên trên khung cửa, Phỏn ngập ngừng không dám gọi. Dòm lên cao, hàng chữ trong tấm bản treo phía trên cửa đập vào mắt cho biết căn nhà đã bị niêm phong. Tay bồng con, tay chỏi vào vách nhà chảy nước mắt Phỏn cắn răng để khỏi bật tiếng khóc. Quanh đây đâu còn ai mà nhờ vả. Pá và má nàng đã đi thật rồi. Phỏn nghĩ nhanh hay mình trở lại nhà dì Hai. Nhưng mà... Thời điểm bơ vơ lạc loài dấy lên trong trí, nước mắt không ngừng tuôn khi dòm đứa con đang ngủ vùi trên vai. Thở dài, ngao ngán cho phận mình. Bỗng nghe tiếng một chiếc xe nào đó qua đường, chạy chậm lại khi ngang chỗ Phỏn đứng. Chiếc xe ngừng hẵn. Một người đàn ông mở cửa xe bước mau về phía Phỏn. Tiếng nói thất thanh trong gió thoảng 'A Phỏn lên xe về nhà anh, mau đị' Dầu mặt quay vào trong cửa, Phỏn cũng biết ai kêu réo mình. Bối rối chưa biết phải hành động sao cho đúng thì người đàn ông đó đã tới sát bên Phỏn sớt bồng đứa nhỏ, miệng hối thúc 'Lên xe mau đi Phỏn, đừng ngại, ngày mai anh đưa em rời nơi đây với gia đình anh, sẽ gặp được Pá và má của em bên kia. Liếc dòm thoáng nhận ra ánh mắt trìu mến của người đàn ông đang chiếu châm bẩm vào mặt thằng nhỏ. Trong đà này chắc chắn A Dzìn tưởng thằng bé trên tay là con của anh? Không nói một lời, nàng cúi đầu lẵng lặng bước theo như người mộng dụ Tiếng cửa đóng mạnh đứa bé giật mình tỉnh giấc, mếu máo. Giọng ru của người đàn ông nhè nhẹ : Ầu... Ơ... Ghe xuồng đặc lệt bờ kinh. Anh về... thu xếp cùng tình nuôi con... Mặt bừng nóng như mới nhắp chun rượu cay nồng, Phỏn vội quay dòm dãy phố dọc theo đường vã vờ như không nghe câu hát ru con của người đàn ông ngồi phía trước.

2907




Cái thắt lưng


      Truyện lành mà hoá làm người ta buồn vì thấy đời một người chóng vánh quá, nhất là đời người đàn bà. Chả được mấy giấc mơ đã thôi mơ mộng, chả được mấy cuộc yêu đã lạnh lửa lòng... Mà thôi, sống với bấy nhiêu cái lặt vặt ấy vẫn đáng sống cho vui vậy.

Dung thất tình lần thứ nhất, đến nhà khóc với chị Hoàn, chan chứa. Khổ thân cái gối nhà chị vừa giặt! Chị Hoàn tóc ấm tay dài, nhè nhẹ Ôm Dung bảo: "Không phải mình không đáng yêu đâu em, nhưng tại đàn ông, họ chóng chán... ".

Bẵng đi mấy tháng, lại thấy Dung hai mắt nhoè nhoẹt đứng trước nhà chị Hoàn. Lần này là chuyện năm rõ mười: Cái chỗ xe mà Dung hay ngồi đã có đứa khác ghé mông, "hai tay nó lại ôm cứng cái thắt lưng em tặng sinh nhật anh ấy năm ngoái mới điên chứ"... Chị Hoàn lại cho Dung lần này, cũng là một câu tương tự: "Không phải mình không đáng nhớ đâu em, nhưng đàn ông... , họ nhanh quên lắm... ".

Không rõ có phải nhờ tài an ủi của chị Hoàn với chỉ mấy câu chung chung đó hay không mà sau đó quả thấy Dung gượng lại được rất nhanh. Qua kỳ 2 năm thứ ba vẫn thấy đứng trong tốp 5 sinh viên có điểm tổng kết đầu khoa, thừa tiêu chuẩn được làm luận văn. Vậy mà đùng một cái, nàng tuyên bố lấy chồng, thi tốt nghiệp cũng chấp, chả luận văn luận veo gì nữa, chỉ tổ tốn bạc mất thời giờ. Một anh chàng vừa "tăm" được đúng mấy tháng qua đứa bạn, hơn Dung tới tận 9 tuổi, người tròn vênh, mặt lại mỏng dẹt. Được mỗi cái mắt là nom còn hiền hiền nhưng nhìn kỹ lại trông vừa cay nghiệt vừa bao dung, chả biết thế nào. Thấy bảo là có nghề nghiệp ngon, quê "Ba Vì có con bò vàng" nhưng gia đình đã chuyển cả lên đây rồi, nhà có hai ông anh trai đi Đức, thừa sức lo cho bố mẹ. "Thuốc không nghiện, bia không, cà phê cà pháo không, chả nghiện gì cả, ngoài em... - Dung hất tóc, vẻ mãn nguyện - Em giờ chỉ cần có một người như thế thôi, thế thôi cũng được rồi chị nhỉ? Chứ cả đời phải chạy theo mấy thằng hào hoa, chả biết nó cả thèm chóng chán lúc nào, mệt lắm! À mà anh Khanh bảo bao giờ về nước hả chị? Giục anh ấy về nhanh nhanh đi chị, con gái có thì... ". Chị Hoàn cười tênh tênh, muôn năm cũng là cái vẻ kín như bưng ấy: "Lo gì em! Cơm chưa ăn gạo còn để đấy!".

Gạo đã không hề để đấy! Anh Khanh đã về nước nhưng không phải vì chị Hoàn. Dung cùng chồng hôm đó tình cờ ghé qua thăm chị Hoàn, thấy chị đứng phăng phắc ở giữa nhà mà tưởng như chị có thể sắm vai... Từ Hải đạt hơn bất kỳ ai. "Không phải mình đáng bị bỏ rơi đâu chị, nhưng đàn ông, ho... lười mang nặng lắm!" - Cái câu không dám nói ra đó, đêm về Dung cho vào nhật ký, rồi quay ra ngắm chồng ngủ. Cái mặt mỏng từ độ có hơi vợ như đã đầy lên được đôi chút như phồng tôm gặp mỡ!

Rồi Dung vui vẻ có bầu và sinh con. Cũng lo lắm, người ngợm tự dưng cứ xổ hết cả ra, béo quá! Rồi thì con cái, bận bịu. Rồi Dung quên chị Hoàn. Quên mất đời chị Hoàn.



Chị Hoàn rời thành phố trước độ Dung sinh con. Sát giờ mới biết Hoàn đi, Dung giận lắm! Ai lại người như chị Hoàn mà lại tơn tớn nương theo một tay chán vợ kia chứ! Vào trong đấy dễ tưởng có thể được yên với vợ con người ta chắc? "Đã đành họ ly thân, nhưng tại sao không li dị, lý dỏ Phải biết chắc là mình có được an toàn không đã chứ, chuyện cả đời người"... "Gì mà đến nỗi cả đời người! Chị giờ chỉ còn nửa đời nữa thôi! Nửa đời tiêu nhanh lắm! Mà không tiêu cũng hết, dại gì không tiêu hả em?" - Chị Hoàn rất hay có cái kiểu cười hất, cười quẳng bừa ra đấy, như chẳng thiết cười. Dung lúc đó đang mang bầu, cảm thấy trong người dễ mủi lòng, ngỡ tưởng như có thể... nhường chồng được cho chị Hoàn.

Thế mà bây giờ đây khi Dung đã yên phận rồi thì Dung lại bỏ quên chị Hoàn. Và sẽ còn nếu như chồng Dung trong bữa cơm mừng đầy tuổi con hôm kia không dưng dè dặt nhắc tới: "Em lâu nay không gọi điện xem chị ấy sống thế nào? Đàn bà giỏi giang mà long đong như thế kể cũng tội! Tuần tới anh có việc ở Sài Gòn, hay mình chuẩn bị chút gì ghé thăm chị ấy... ". Bạn "mặt mỏng" chả hiểu sao lại rất hay đánh giá cao chị Hoàn, ngày từ hôm đầu tiên ngó mặt, vẻ như chả cần biết chị Hoàn chấm điểm mình như thế nào, vui thế... Vậy mà sao cánh đàn ông nói chung lại có vẻ như không mấy nhẹ tay trong vụ chấm điểm cho Hoàn kia chứ! Tội nghiệp Hoàn giỏi giang sắc sảo quá chừng!

Dung chuẩn bị cho chồng một gói quà rõ to trong đó chứa gần như đủ cả mấy thứ quà khô mà chị Hoàn mê nhất ở Hà Nội, ảnh của hai mẹ con Dung, ảnh hai chị em hồi học chung trường đại học... và quyết định không gọi điện báo trước để người nhận được bất ngờ.

Cái số điện thoại của chị Hoàn, thực ra giờ đây Dung vẫn nhớ. Có điều, từ độ cơ quan cắt chế độ đường dài, quả tình cũng không tiện gọi. Nhớ bạn thì cũng chả nhớ đến mức phải rẽ vào bưu điện. Mà về nhà bây giờ thì... đúng thật, chị chàng chỉ ưa đắm đuối với con thôi. Dung yêu con lắm, mặt đầy chứ không hề mỏng như mặt bố. Má cháu ngủ mà cứ như làm cái gối hồng ửng theo. Mắt cháu khi mở lại nom ngời ngời.

Điều chẳng ngờ được là hai ngày sau đã thấy chồng Dung gọi ra bảo: Không liên hệ được với chị Hoàn đâu, "phu nhân" qua Mỹ định cư rồi, thấy bảo giờ lại theo một ông ngoại quốc nào, mệt thế! Giờ thì xử thế nào đây cái túi quà...

Cái dây điện thoại nhà Dung như quắn lại. Dè đâu chỉ cần bỏ quên nhau một chút trong đời là người ta có thể lạc nhau lăng lắc đến thế sao? Cứ nhất thiết phải phiêu lưu mãi sao chị Hoàn? Sao không thể cũng là một sự lựa chọn đơn giản như của em mà rồi bình lặng sống, không được thì nhiều nhưng cũng chẳng phải lo mất gì? Như thế là đủ rồi mà! Đàn bà chỉ cần thế thôi!

Chẳng đủ được, hình như...

Đêm Noel vắng chồng, Dung ôm con qua nhà bà nội rồi tự dưng hứng chí gọi điện rủ đứa bạn cũ muộn chồng đi chơi. Chẳng may nó đồng ý, thế là phải ra đường. Nhưng đi thì cũng vui, hai đứa trở lại mấy vạt quán nghèo thời sinh viên. Vui một nỗi là tất thảy hầu như vẫn còn nguyên hết cả, lạ thế! Chỉ có những chuyện cũ là đã khác, buồn ghê... Bạn Dung kể: Cái "Thắt Lưng" ngày trước của Dung, giờ hoá ra lại chuyển về cùng cơ quan với nó. "Chuyện riêng thấy bảo cũng vẫn chưa có gì, làm mấy đứa con nít trong cơ quan tao mừng rấp rỉnh. Trong đó có một em xinh lắm nhá con sếp, trẻ măng, trẻ như con nít, trông cái má muốn cắn ơi là cắn, gì mà cái "Thắt Lưng" của mày chả chết. Tao đồ rằng... ".

Dung chẳng hề muốn nghe con bạn ấy "đồ" thêm cái gì. Chỉ bỗng dưng muốn gặp lại quá, cái "Thắt Lưng" ngày xưa của mình. Xưa Dung có bồ đẹp nhất khoa, hai người đẹp đôi đến nỗi ôm nhau đi trong trường có hẳn một giàn các em ở khoá sau nhìn xuống chỉ trỏ. Xưa bồ Dung mặt đầy và ấm, khiến Dung mỗi lần được áp vào má đấy là là cứ như cùng lúc nghe thấy hoa nở và lửa cháy, như đang được dựa gối. Nhớ quá trời cái đêm Noel thời nào của năm thứ nhất, cái nhìn ấy mới gọi là làm tan nhau chứ! Rồi Noel năm hai, năm ba... năm nào cũng ngập tràn hạnh phúc, đi, đi mãi, đến đâu đó tận cùng! Tình yêu là những mắt xích Noel nối dài, phải vậy?... Cái thắt lưng da Dung liều mua tặng hắn một năm trước khi chia tay là đi nguyên cả một kỳ học bổng loại một của Dung đấy, thế mà... Ôi sao mà đến tận hôm nay Dung mới chợt nhớ ra là mình đã từng yêu "cái Thắt Lưng" ấy đến thế chứ, mà mình cũng giận "cái Thắt Lưng" ấy đến vậy chứ. Cái con bé ôm thắt lưng của hắn, Dung cũng đã trông thấy. Rõ ràng là con bé ấy xấu mà, quá xấu... "Mày muốn gặp lại Thắt Lưng không? Tranh thủ lúc chồng đi vắng nhé! Chiều mai tan tầm vờ đứng ở cổng cơ quan đợi tao, thể nào hai đứa cũng gặp được nhau. Mày dạo này xinh lắm (gái một con!), phải để nó gặp lại một lần cho nó tiếc, cho nó không mê được ai nữa thì thôi!".

Dung về soi gương, thấy mình lúc này xinh thật, xinh ra bao nhiêu so với thời sinh viên. Người trong Sài Gòn hai hôm nữa ra... Lại phải sống tiếp với nhau thôi, chứ biết làm thế nào... Không biết làm thế nào cả! Nhưng chỉ xin chồng được một buổi đến chỗ có cái cơ quan ấy thôi. Không phải đứng trước cổng mà là ra từ một cái quán đối diện. Và thì cũng phải trang điểm thật kỹ một chút, dù cũng đã xác định rõ ràng là nhất quyết không để bị... phát giác đâu mà!

Thế mà Dung chờ, nát cả giờ tan tầm, tan cả ba cốc nước và hai đĩa hạt dưa, vẫn tịnh không thấy một bóng quen nào, trừ... con bạn ấy!

Muộn, Dung qua bà nội đón con, tiện miệng hỏi mẹ chồng xem chồng mình có gọi điện ra không thì bà cụ bảo là có. "Thấy nói công việc ổn rồi, có khi ra sớm được một ngày đấy! Nó mừng lắm! Tội nghiệp cái thằng, đàn ông con trai giờ đi đâu rời được vợ ra là lo kiếm bồ kiếm bịch, đây lại chỉ biết nhớ vợ nhớ con... ".

Dung mở cửa xong thì tha con vào giường, vục đầu vào gối, rồi chẳng biết thế nào mà thấy chị chàng lại trào nước mắt y như thuở đứng trước nhà chị Hoàn, lạ quá! Sao tận đến giờ, tự dưng lại còn, vẫn thế, hư ghê...

Điện thoại nhà Dung lâu lắm mới reo khuya. Nhưng không phải chồng Dung mà là con bạn lúc chiều: "Trêu mày một chút cho vui thôi! Thử xem chồng con rồi thì lập trường tư tưởng đã vững vàng chưa. Ai dè vững thật! Báo hại chiều nay tao ra khỏi cổng cơ quan cứ phải nhìn tới nhìn lui mãi. Thôi thì mày sống được vậy là khoẻ rồi, chứ đa mang cả nghĩ như tao, quá lắm chỉ tổ muộn màng... ". "Thế... thật ra... là không có chuyện Thắt Lưng về làm cùng cơ quan mày thật à? Thật hả?". "Có thì vẫn có! Nhưng tay đấy mát số lắm, vừa về chỗ tao chưa được bao lâu mà đã được sếp tao cử đi học suất hai năm ở Mỹ nhé!... ".

Ở Mỹ? Cũng ở Mỹ à? Thế có gặp chị Hoàn không, hai người ấy, gặp không nhỉ, họ biết nhau mà. Nhưng đất người ta rộng thế, làm sao? Chỉ cầu mong sao khi gặp nhau, họ đừng nhắc đến tên Dung...



Tác Giả: Lê Thị Thu Thủy

6




Một lữ khách đi ngựa đến một dòng sông xa lạ. Ông ta hỏi một thiếu niên xem dòng sông ấy có sâu không.

Không đâu.

Chú bé đáp.

Và người kỵ mã bắt đầu vượt sông. Nhưng ngay sau đó ông ta nhận ra cả người lẫn ngựa đều phải bơi trối chết.

Khi người lữ khách đã tới bờ bên kia, ông quay lại hét lên:

Tao cứ tưởng mày nói là sông không sâu.

Đúng thế mà.

Chú bé đáp.

Nước sông này chỉ ngập ngang bụng lũ vịt của cháu thôi.

2848




Một cô tóc vàng mới vào nghề sơn vạch phân tuyến trên đường cao tốc. Ngày đầu, cô sơn được 10 dặm, ngày hôm sau cô chỉ sơn được 7 dặm. Ông chủ nghĩ rằng cô mệt, nên cho nghỉ một ngày. Sau hôm đó, cô ta làm cũng chỉ được 5 dặm. Cứ thế mỗi ngày cô lại làm ít hơn. Ông chủ gọi cô tới hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra thế? Tại sao năng suất của cô giảm từng ngày?
- Tôi tưởng là ông phải biết chứ! Đơn giản là càng ngày, tôi càng đi xa cái thùng sơn hơn.

2264




:::Buzzati, Dino:::

Gặp gỡ Einstein
Đoàn Tử Huyến dịch



Một tối tháng Mười, sau ngày làm việc căng thẳng, Albert Einstein đang một mình dạo chơi dọc con đường hai bên trồng cây của thành phố Princeton thì xảy ra một việc lạ lùng. Hoàn toàn bất ngờ và không có bất cứ một nguyên nhân đặc biệt nào, khi ý nghĩ tự do chuyển từ sự vật này sang sự vật khác giống như con chó xổ xích, ông đã đạt đến được cái suốt đời từng là mục đích ông gắng hướng tới trong các mơ ước của mình. Trong một thoáng, Albert Einstein chợt thấy xung quanh mình cái gọi là không gian cong, và ông kịp xem xét nó từ một góc cạnh, hệt như bây giờ bạn đọc có thể xem xét quyển sách này trên tay.

Người ta cho rằng, trí tuệ của con người không đủ sức để nắm bắt hiện tượng uốn cong của không gian - không chỉ có chiều rộng, chiều dài, chiều sâu mà còn có cả một chiều thứ tư bí ẩn nào đó nữa: sự tồn tại của nó đã được chứng minh, mặc dù nó nằm ngoài khả năng cảm nhận của con người. Xung quanh chúng ta có một bức tường nào đó và con người, đang tiến thẳng về phía trước trên đôi cánh tư duy không mệt mỏi của mình, bay lên mỗi lúc một cao hơn, bỗng đụng phải. Cả Pithagore, cả Platon, cả Dante, cho dù họ có sống đến tận ngày hôm nay đi nữa, cũng không thể vượt qua được bức tường đó, vì rằng một chân lý như vậy không khuôn vừa trong kích thước bộ não của chúng ta.

Tuy nhiên, cũng có người cho rằng có thể nắm bắt được không gian cong bằng những năm tháng dài thí nghiệm và tư duy cực kỳ căng thẳng. Một vài nhà bác học, trong khi thế giới xung quanh họ sống cuộc sống bình thường, các lò cao và các đầu tầu nhả khói, hàng triệu người bỏ mạng nơi chiến trận, còn trong bóng tối của các công viên thành phố những cặp tình nhân âu yếm hôn nhau, thì các nhà bác học cô đơn đó, bằng nỗ lực trí tuệ phi thường của mình - ít ra là trong các huyền thoại cũng nói như vậy - đã nhìn thấy được, dù chỉ trong một thoáng chốc ngắn ngủi (dường như có một sức mạnh nào đó nâng họ lên phía trên vực thẳm rồi lại ngay tức khắc kéo họ về chỗ cũ) và kịp xem xét cái không gian cong - đỉnh cao không thể đạt tới của tòa vũ trụ.

Nhưng thường thường, về hiện tượng kỳ lạ này, người ta không đưa ra khoe khoang và không ai chúc mừng các anh hùng, không có các dàn kèn đồng chào đón, các cuộc phỏng vấn, các tấm huân chương kỷ niệm, vì rằng những chiến thắng đó mang tính chất hết sức cá nhân, chỉ đơn giản là một người nào đó có thể nói: tôi đã cảm thận được không gian cong. Bởi vì không hề có giấy chứng nhận, không hề có ảnh chụp, không hề có bất cứ một cái gì tương tự khả dĩ chứng minh điều đó là có thật.

Thế nhưng, khi những khoảnh khắc đó xuất hiện và tư duy của chúng ta trong đà bay mạnh mẽ dường như tìm được khe hở rất khó nhận thấy trên bức tường, luồn qua đó, lọt vào cái thế giới đóng kín đối với chúng ta, và cái trước đây chỉ là một công thức trừu tượng được sinh ra và phát triển ở ngoài chúng ta, chợt trở thành chính bản thân cuộc sống của chúng ta, ôi, khi đó, trong nháy mắt, biến thành mây khói tất cả những nỗi lo buồn, bận bịu ba chiều của chúng ta, và chúng ta - sức mạnh trí tuệ con người mới kỳ lạ làm sao! - vụt bốc lên cao và bay lượn trên một cái gì đó rất giống như sự vĩnh cửu.

Chính đó là điều xảy ra với giáo sư Albert Einstein vào buổi tối tháng Mười nọ. Trong bầu không khí trong suốt tựa pha lê, đây đó những ngọn đèn đường cháy sáng như muốn ganh đua với ánh sao Vệ Nữ, và trái tim - một khối cơ bí hiểm của con người - thỏa sức hít vào mình cái thanh bình ngọt lành của Chúa. Mặc dù Albert Einstein, một nhà thông thái và không vướng bận bả vinh hoa thường tình trần thế, vào thời điểm đó ông cũng cảm thấy mình trội vượt hơn hẳn mọi người, giống như một kẻ ăn mày kiết xác nhất chợt nhận thấy túi mình đầy ắp vàng ngọc.

Nhưng ngay tức khắc, dường như để trừng phạt thói cao ngạo ấy, chân lý bí ẩn đó vụt biến mất đi cũng nhanh hệt như lúc hiện đến. Liền đó, Albert Einstein nhận thấy chỗ mình đang đứng là một nơi hoàn toàn xa lạ đối với ông. Nhà bác học bước dọc theo con đường nhỏ hai bên trồng cây xanh, bốn phía không hề thấy nhà cửa, lều quán. Chỉ có một cột bơm xăng, sơn sọc vàng đen loang lổ với quả cầu bằng kính chiếu sáng ở phía trên. Bên cạnh, trên chiếc ghế bằng gỗ, một gã da đen ngồi đợi khách hàng. Gã mặc áo liền quần bảo hộ lao động, đội mũ thể thao bóng chày màu đỏ chói.

Albert Einstein đã định đi ngang qua thì gã da đen đứng lên và đi thẳng về phía ông vài bước.

- Mister!- Gã gọi.

Giờ đây, khi gã đứng, có thể thấy rằng đó là một người rất cao, khuôn mặt dễ coi, cân đối một cách đáng ngạc nhiên, rất đẹp trai theo kiểu châu Phi. Gã cười lộ hàm răng trắng lóa trong bóng tối vừa buông xanh biếc.

- Thưa ngài, - gã da đen nói - ngài có lửa không ạ? - Gã chìa ra điếu thuốc lá hút dở đã bị tắt.

- Tôi không hút - Einstein đáp và dừng lại, phần nhiều là do ngạc nhiên.

Gã da đen lại lên tiếng.

- Thế ngài có thể cho tôi tiền uống rượu được không? - Gã cao lớn, trẻ khỏe và trơ tráo.

Einstein lục lọi các túi.

- Tôi không biết... Tôi không mang theo gì cả... Tôi không quen... Tôi, quả thật, đáng tiếc... - Ông nói rồi toan bước đi tiếp.

- Cám ơn ngài! Gã da đen nói - Nhưng... xin lỗi.

- Anh còn cần gì nữa? - Einstein hỏi.

- Tôi cần ông. Chính vì vậy mà tôi ở đây.

- Cần tôi? Có chuyện gì thế?

- Tôi cần ông. - Gã da đen nói. - Cho một việc bí mật. Và điều đó tôi chỉ có thể nói thể nói thầm với ông mà thôi.

Hai hàm răng trắng của kẻ lạ mặt như trở nên trắng hơn vì trời lúc này gần như đã tối hẳn. Gã ghé sát vào tai Einstein.

- Tôi là quỷ Iblich. - Gã thì thầm - Tức là Thần Chết, đến đây để bắt linh hồn ông.

Einstein lùi lại một bước.

- Tôi thấy - giọng ông trở nên gay gắt, - tôi thấy anh có vẻ đã quá chén.

Gã da đen bước đến bên hàng cây xanh, bẻ một cành nhỏ và chỉ trong chớp mắt những chiếc lá xanh biến màu, héo rũ xuống và trở nên xám xịt. Gã chúm miệng thổi, và tất cả, những chiếc lá, cả cành cây, tan thành đám bụi nhỏ.

Einstein cúi đầu.

- Hừm, quỷ thật! Có nghĩa đúng là hết... Nhưng sao, ngay tại đây, buổi tối... ngoài phố thế này à?

- Tôi được lệnh như vậy.

Einstein nhìn quanh, nhưng bốn phía không một bóng người. Vẫn con đường nhỏ, những ngọn đèn đường và xa xa phía dưới, ở ngã tư, lấp loáng đèn ôtô. Ông nhìn lên trời - bầu trời trong và sáng. Những ngôi sao vẫn cháy rực rỡ ở các vị trí của mình. Riêng sao Vệ Nữ vừa lặn khuất nơi chân trời.

Einstein nói:

- Này, anh hãy hoãn cho tôi một tháng. Làm sao mà anh lại đến đúng cái lúc tôi đang hoàn thành một công trình! Tôi xin anh cho tôi chỉ một tháng thôi.

- Cái mà ông định phát minh - gã da đen nói, - ông đi với tôi, đến bên đó sẽ tìm thấy ngay.

- Đó là những chuyện hoàn toàn khác nhau: liệu tất cả những gì chúng tôi dễ dàng biết được ở thế giới bên kia có đáng giá không? Công trình của tôi có một giá trị nghiêm túc. Tôi đã trăn trở đeo đuổi nó ba chục năm. Và giờ đây, khi chỉ còn lại một ít nữa...

Gã da đen cười khẩy.

- Ông bảo là một tháng à?... Thôi được, nhưng ông chớ có lẩn khi hết hạn đấy. Cho dù ông có trốn xuống tận đáy của hầm mỏ sâu nhất, tôi cũng tìm ra ông.

Einstein định hỏi thêm một câu nữa, nhưng người đối thoại của ông đã biến mất.

Một tháng là khoảng thời gian rất dài khi phải sống xa người ta yêu dấu nhưng lại hết sức ngắn ngủi khi anh chờ đợi sứ giả của thần chết. Tưởng như nó ngắn hơn cả một tiếng thờ dài. Và rồi nó đã hết. Một buổi chiều, khi chỉ còn lại một mình, Einstein tìm đến nơi đã hẹn. Vẫn cột xăng ấy, vẫn chiếc ghế dài ấy, còn ngồi trên ghế là gã da đen, chỉ có điều bây giờ đã khoác thêm ngoài bộ bảo hộ lao động một chiếc áo capốt nhà binh cũ - trời đã chuyển sang rét đậm.

- Tôi đã đến đây. - Einstein khẽ chạm tay vào vai gã, nói.

- Thế công việc của ông ra sao rồi? Xong chưa?

- Chưa, chưa xong được - Nhà bác học buồn rầu đáp - Hãy cho tôi thêm một tháng. Một lần này nữa thôi, tôi thề đấy. Tôi tin là lần này sẽ hoàn thành được. Anh biết không, tôi làm việc như điên suốt ngày đêm, mà vẫn không kịp. Nhưng còn lại có chút xíu nữa thôi.

Gã da đen xoay người, nhún vai.

- Tất cả loài người các ông chẳng khác gì nhau. Không bao giờ chịu vừa lòng. Sẵn sàng quỳ gối để xin gia hạn. Bao giờ cũng tìm ra lý do...

- Nhưng vấn đề tôi nghiên cứu rất phức tạp. Chưa bao giờ có ai...

- Tôi biết, tôi biết - gã Thần Chết cắt ngang lời ông - Ông tìm chìa khóa để mở cửa vào vũ trụ chứ gì?

Cả hai im lặng. Cảm thấy thật lạnh lẽo trong bóng tối đầy sương mù của trời đêm đã thật sự sang đông. Trong những đêm như thế này chẳng ai muốn bước ra khỏi nhà.

- Thế nào? - Einstein hỏi.

- Thôi được, ông về đi... Nhưng nên nhớ là một tháng trôi qua chóng lắm.

Và quả thật, nó trôi qua lúc nào không biết. Chưa bao giờ thời gian nuốt chửng cả bốn tuần lễ một cách ngấu nghiến như vậy. Vào đêm tháng Mười Hai hôm đó, một ngọn gió giá băng thổi những chiếc lá rụng cuối cùng xào xạc lăn trên mặt đường rải đá. Những sợi tóc bạc của nhà bác học xổ ra dưới vành mũ bêrê bay phất phơ. Và vẫn lại cột xăng ấy, bên cạnh là gã da đen ngồi xổm, mũ trùm kín đầu, và dường như đang ngủ gật.

Einstein bước đến, rụt rè chạm tay vào vai gã.

- Tôi đã đến.

Gã da đen va hai hàm răng vào nhau và co rúm người lại trong chiếc áo capốt:

- Ông đấy à?

- Vâng, tôi.

- Nghĩa là ông đã làm xong.

- Vâng, nhờ trời, tôi đã làm xong.

- Cuộc đấu thế kỷ đã kết thúc? Thế nào, ông đã thấy cái ông tìm ra rồi chứ? Đã mổ xẻ được vũ trụ rồi à?

- Đúng thế. - Einstein mỉm cười đáp và khẽ hắng giọng ho. - trong một chừng mực nào đó có thể nói giờ đây mọi chuyện với vũ trụ đều đã ổn thỏa.

- Vậy thì ta đi. Ông đã sẵn sàng chịu chuyến đi này chứ?

- Tất nhiên, đó là điều kiện mà.

Gã Iblich bỗng nhảy vọt dậy và phá ra cười - cười rất to, rất cởi mở, rất da đen. Rồi gã chọc ngón trỏ bàn tay phải vào bụng Einstein khiến ông loạng choạng suýt ngã.

- Thôi được, thôi được, ông bạn bịp già lõi ạ... Ông về nhà đi... chạy nhanh lên, nếu không muốn viêm phổi... Bây giờ tôi tạm thời không cần ông nữa.

- Anh tha tôi?... Nếu thế thì tất cả những trò kia để làm gì?

- Để cho ông hoàn thành công trình của mình. Chỉ có vậy thôi. Và tôi đã làm được điều đó... Nếu tôi không doạ ông thì ai biết được ông còn kéo dài bao lâu nữa.

- Công trình của tôi? Thế anh cần nó để làm gì?

- Tôi thì chẳng cần để làm gì cả... nhưng các sếp trên của tôi, ở dưới kia, những chúa quỷ cấp cao hơn... họ nói rằng ngay từ những phát minh đầu tiên của mình ông đã phục vụ cho họ rất đắc lực... Mặc dù ông không có lỗi, nhưng đúng là như vậy đấy. Ông có thích hay không, thưa giáo sư quý mến, nhưng địa ngục đáp áp dụng các phát minh của ông rất hiệu nghiệm. Bây giờ chúng tôi đầu tư những khoản chi phí cho trang thiết bị, phương tiện...

- Vớ vẩn! - Einstein phẫn nộ quát lên - Hỏi trên thế giới có cái gì vô hại hơn không? Đó chỉ là những công thức, thuần túy trừu tượng, khá là khách quan...

- Đúng rồi! - Iblich hét vang, lại chọc ngón tay vào bụng nhà bác học. - Ôi, ngài cừ quá! Hóa ra người ta cử tôi đến đây phí công vô ích? Theo ngài, họ đã làm gì? Không, không đâu, ngài đã làm việc rất tốt. Các sếp của tôi ở dưới kia sẽ rất hài lòng! Ôi, giá như ngài biết được!...

- Giá như tôi biết được cái gì?

Nhưng gã da đen đã biến mất.

Không còn cả cây xăng, không còn cả chiếc ghế dài. Chỉ có màn đêm, gió lạnh và những ánh đèn ôtô xa xa phía dưới kia. Thành phố Princeton bang New Jersey.

Đoàn Tử Huyến dịch


2203





Ông Tư đưa tay vuốt chòm râu bạc đang bung trắng trước ngực. Ông say sưa kể tiếp chuyện cái "sọ đầu cá trê" của bác Ba Phi cho con cháu nghe.

- Nè... tụi con ngồi yên, đừng chồm tới nữa, để ông kể nữa cho nghe. Nhà bác Ba hồi đó có nuôi bầy heo nái... Ờ... ờ... chuyện này mấy con nghe chưa? Số là hôm nọ tới ngày bán đàn heo rồi, mà bầy heo đi đâu chẳng thấy hẻo lánh về. Bà con lối xóm tới bắt heo con, đứng chờ đông nghẹt, chật cả nhà. Sốt ruột quá, bác Ba lội đi lùng kiếm khắp vườn chẳng thấy.

Chắc là bị cọp ăn hết rồi! Bác Ba thất vọng than thở, vừa lê từng bước nặng nhọc trở về nhà.

Vừa tới sàn trước, bác giật mình thấy vật gì cứ làm nhúc nhích, nhúc nhích cái sọ đầu con cá trê trông hình như cái sọ đầu muốn "bò" đi mà "bò" không được. Trời đất, lại ma quỷ ám ảnh nữa rồi, hay là...

Bà con đứng chờ bắt heo trong nhà nghe tiếng bác Ba kêu la, liền chạy ra. Một tốp đứng cầm cây, dao mác vây quanh chực sẵn, số bà con còn lại thì ráp nhau cùng bác khiêng lật ngược sọ đầu cá trê lên. Hổng ngờ bầy heo con từ trong vù chạy ra. Con heo nái mẹ vú lòng thòng cũng chạy vụt ra theo.

Mọi người mới bật ngửa, cười ồ. Thì ra lúc nãy, heo nái mẹ dẫn đàn heo đến sàn lăng ủi tìm cái ăn, nhưng nó ủi phá thế nào, làm sọ đầu cá trê của bác Ba lật úp lại nhốt gọn lỏn bầy heo, cả mẹ lẫn con vào bên trong.

Kể tới đây, ông Tư đưa tay lên nắn nắn sửa lại cái búi tóc sau ót. Ông cười hề hề:

- Cái sọ đầu cá trê của bác Ba thời đó bự cỡ vậy lận đó, các con!
2651




Khách du lịch đến khách sạn thuê một phòng đơn. Trong khi người quản lý viết vào sổ, khách trò chuyện với một cô nàng tóc vàng tuyệt đẹp đứng gần đó. Chỉ vài phút mà câu chuyện đã quá thân mật, anh ta quay lại, tay trong tay cùng cô nàng, nói với cậu lễ tân:
- Vợ chồng tôi quyết định chỉ cần một phòng đôi cho tối nay. Sáng hôm sau, anh ta trả phòng và sững sờ khi nhìn thấy hoá đơn 3.000 đôla:
- Điều này nghĩa là sao? Tôi chỉ ở đây có một đêm thôi mà!
- Vâng, người quản lý nói, nhưng vợ ông đã ở đây ba tuần rồi.
2218




- Vợ đâu mà ôm con thế kia?

- À, ... nàng ra chợ. Đi làm thì đỡ chứ ở nhà sểnh ra cái là vợ lại bắt trông con. Mà đúng là mẹ nào con ấy, tớ mệt với con bé quá.

- Cậu nói "mẹ nào con ấy" nghĩa là sao? Chẳng lẽ con bé đã biết son phấn, quần áo thay mốt liên tục... như mẹ nó?

- Cũng gần như thế. Có một giờ đồng hồ mà nó đã mấy lần đòi... thay tã.



o O o


Bí quyết

Bà mẹ mắng con gái:

- Con gái mà chẳng chịu học cách nấu nướng gì hết! Mai mốt mày muốn má chồng mày mắng vốn tao chắc!

- Má yên tâm con đã có bí quyết.

- Bí quyết gì?

- Bột nêm đó! Y chang như quảng cáo trên tivi!



o O o


Tô điểm

Bố, mẹ muốn nhân lúc trời đẹp làm vườn, biết con gái đang ở trong nhà, liền gọi to:

- Sao con không ra giúp bố mẹ tôi điểm cho cái vườn này đẹp hơn?

Câu nói quả có tác dụng. Năm phút sau, cô con gái diện bộ đồ đẹp nhất và đem chiếc ghế ra vườn... ngồi đọc sách.
2627




ÕÕÕ Một anh đi lỡ độ đường, mới nghĩ ra một mẹo kiếm ăn. Anh ta vào nhà nọ, ngồi nói chuyện xa gần một lúc, anh ta biết nhà này giàu có nhưng hà tiện, mới nói anh ta là thợ hàn kim. Chủ nhà mừng quá, đưa trầu thuốc cho anh ta dùng, sai người nhà dọn cơm cho anh ta ăn. Lão tâm sự:


ÕÕÕ - Thật may quá, trước nay bao nhiêu kim gãy, dồn lại đó, mong có người thợ hàn nào giỏi đến hàn cho thì đỡ không biết bao nhiêu là tiền của!


ÕÕÕ Nói rồi, mang ra một hộp to tướng đựng toàn kim gãy, không biết tích trữ từ bao giờ! Anh kia cứ thong thả ngồi ăn cơm. Ăn xong, mới bảo:


ÕÕÕ - Ông tìm nốt những mũi kim gãy ra đây cho tôi! Mũi nào tôi sẽ hàn vào kim ấy!


ÕÕÕ Chủ nhà sửng sốt. Lâu nay, lão có giữ lại cái mũi kim gãy nào đâu, vì nhỏ quá, tưởng khong dùng làm gì được!


ÕÕÕ Anh thợ hàn kim nói:


ÕÕÕ - Không có mũi kim thì tôi cũng đành chịu!


ÕÕÕ Thế rồi, đàng hoàng từ giã chủ nhà ra về.

2566







Dịch giả: Trí Hải

Tiểu Sử
Herman Hesse
Hermann Hesse (1877-1962), Nhà văn, nhà thơ Đức; giải Nobel Văn học năm 1946. Sinh năm 1877 tại Wuerttember, mất năm 1962 tại Thuỵ Sĩ. Con một nhà truyền giáo. Bỏ học thần học. Làm thợ thủ công, bán sách. Từ năm 1904, viết văn chuyên nghiệp. Năm 1911, ngán ngẩm văn minh Châu Âu, đi Ấn độ tìm hiểu Phương Đông. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, do có thái độ chống đối, bị coi là “phản quốc”. Năm 1919 sang Thuỵ Sĩ, vào quốc tịch nước này – Hesse là đại diện tiêu biểu cho văn học nhân đạo tư sản Đức. Khuynh hướng siêu hình, tìm quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn cuối thế kỷ 19 đến tầm nhìn rộng rãi, có trách nhiệm với xã hội, ước mơ và tin chắc vào hành động, và tương lai tốt đẹp hơn của con người. Phê phán xã hội tư sản. Cuốn tiểu thuyết được chú ý đầu tiên là Peter Camenzind (1904) có ít nhiều tính chất tự truyện : một người nguồn gốc tầm thường, có tài và có nhiều hoài bão, không thích nghi được với xã hội tư sản và đời sống thành phố, đành trở về sống ở quên nhà. Cuốn tiểu thuyết Demien (1919) viết về tình trạng rối loạn của thanh niên tư sản. Cuốn tiểu thuyết Steppenwolf (Sói đồng hoang) (1927), phản ảnh tình trạng bấp bênh của nền cộng hoà Weimar với khả năng chủ nghĩa phát xít xuất hiện. Trong cuốn Narziss und Goldmund (1930), Hesse tìm thoát ly trong một câu chuyện cổ tích thời Trung cổ, hoà giải tư duy và hành động. Tác phẩm lớn nhất của Hesse là Das Glasperlenspiel (Những viên ngọc bằng thuỷ tinh) (1943), viết trong chiến tranh thế giới lần thứ hai : tiểu thuyết vừa phê phán, vừa có tính chất không tưởng và tượng trưng, nói lên khả năng và cần thiết hành động vì tương lai tốt đẹp của loài người (chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 23 : một nhóm trí thức kết hợp tư tưởng Đông và Tây sống riêng biệt ở một nơi. Các truyện (1915), Klingsors letzter Sommer (Mùa hè cuối cùng của Klingson) (1920), Siđharta (1922) - một bản tự truyện về sự cố gắng tự giải thoát – cùng đi đến kết luận : tình yêu con người phải thể hiện bằng hành động. Nhiều luận văn của Hesse có tư tưởng nhân đạo.



1627


Powered by Blogger.