Người nọ hay tin nhảm, làm việc gì cũng xem ngày. Một hôm, mái nhà anh ta sập xuống, hàng xóm xúm lại đỡ ra cứu anh ta đang bị mái nhà úp lên đầu. Anh ta vội ngoi đầu ra, nói to:


- Khoan đã! Khoan đã! Bà con hãy xem hộ tôi hôm nay có phải ngày tốt không đã. Nếu ngày xấu thì để ngày khác vậy!

2558








Xe lửa chạy về hướng bắc, đường đèo quanh co, bên trái là vực thẳm với rặng thông cao ngất, trùng trùng điệp điệp, tuyết đã phủ trắng xóa, trên cao bầu trời trắng đục, như tuyết vẫn còn muốn rơi nữa, thời tiết đang giữa tháng giêng, mùa đông lạnh lẽo. Cây cối chạy lùi, San Francisco càng lúc càng xa dần. Nàng ngồi dựa lưng bên cửa sổ, mơ màng nhớ tới chàng...
Ở sân ga tiễn nàng, trông chàng thật cô đơn, chàng thật buồn, chẳng lúc nào chàng cười. Hình như chàng đã đánh mất nụ cười trong những tháng ngày trôi nổi phiêu bạt. Đời sống lưu vong không gia đình làm chàng cằn cỗi, đáng thương. Trong phòng đợi, chàng đứng tần ngần, hết ngó nàng rồi lại ngó mông lung qua khung cửa kính. Chẳng thấy gì, khoảng trời trước mặt sương mù vẫn còn dày đặc bao trùm. Nàng ngồi ở ghế dài, ôm cái xách trong người. Họ như không còn gì để nói nên đều lặng thinh. Nhưng đầu óc thì đang trầm tư, nghĩ ngợi. Hồi lâu, chàng đến ngồi bên cạnh nàng, hai bàn tay đưa qua xiết chặt bàn tay nhỏ nhắn ấm áp của người yêu.
Không nhìn nàng, chàng nói thật nhỏ:
-Ở lại đi, Uyên.
Nàng nghe và vẫn yên lặng. Nàng đã nghe nhiều lần. Ở lại. Để làm gì? Họ có một cuộc tình không lối thoát: vợ chàng và hai con đã vượt biên được và đang ở bên đảo chờ ngày đoàn tụ. Người đàn bà bao năm khốn khổ một mình nuôi nấng dạy dỗ con cái đã đến lúc cần sự đền bù và chia bớt phần trách nhiệm, và hai đứa con thì không thể thiếu sót tình thương và sự chăm sóc của cha. Hai người đều biết vậy.
Nàng không muốn là kẻ gây rắc rối, với lại nàng cũng không chắc tình nàng có đủ để đương đầu với những thử thách, những khó khăn, rồi biết hai người sẽ có hạnh phúc với nhau không, nàng không phải là mẫu người của mạo hiểm phiêu lưu, mà nàng cũng không dám phiêu lưu mạo hiểm. Nàng cũng biết nàng là kẻ đến sau, mọi việc cũng đã muộn rồi.
-Anh đã làm khổ Uyên. Anh đã làm khổ em, Uyên ơi!
Bây giờ, nàng nghe như có tiếng chàng trong gió. Vẫn thật gần. Vẫn như hai người chưa xa cách. Vẫn như nàng còn ở San Francisco. Với đường cong và dốc đứng. Với sương mù dày đặc và gió vịnh lồng lộng. Với đàn chim biển ngập trời và đám quạ đen tung hoành ở khu phố Tàu.
Chàng cứ năn nỉ nàng ở lại, nhưng chưa lần nào chàng đưa ra một đề nghị rõ rệt. Ly dị vợ để lấy nàng? Chàng chưa bao giờ nói với nàng như vậy cả. Hình như chàng cũng biết đó là điều không phải. Dù chàng có yêu nàng thật nhiều, còn người vợ cưới hỏi là do ý muốn của hai gia đình - người đàn ông nào khi lòng dạ đổi thay cũng đều bào chữa như vậy!
Không yêu nhưng nghĩa vợ chồng? Trân trẻ đẹp, con nhà nề nếp, ăn học, biết lo chồng, lo con. Nàng chỉ mới 25 khi chàng chạy thoát khỏi VN, còn trẻ đẹp, có thiếu gì bộ đội, cán bộ thèm thuồng theo đuổi mà Trân chẳng bám vào một tên nào để nhờ tấm thân? Sao lại phải tần tảo ngược xuôi như dân buôn thứ thật chi cho khổ cực? Có những người mà Trân là một, họ như những đóa sen gần bùn mà vẫn tinh khiết, xinh đẹp!
Chàng sợ nàng buồn không muốn nàng coi những lá thư của vợ chàng. Mà nàng vẫn cứ đòi. Trân gốc ban C, chữ nghĩa đầy mình, viết thư thật hay, hay như văn sĩ. Nàng hình dung qua những giòng chữ đó là một gia đình bình thường ấm êm, hai đứa con ngoan, một người vợ hiền, dù thiếu vắng bóng người cha, người chồng, dù những nơi ăn chốn ở không nhất định, có lúc về bên bố mẹ chồng, có lúc về bên cha mẹ ruột, có lúc chung nhà với con bạn mà chồng nó cũng chạy được như chàng. Trân có than thở, nhưng thật nhẹ, thật thoáng, vì sợ chàng buồn, vì sợ chàng lo, chàng chỉ có một thân một mình nơi xứ người. Dù vậy đôi khi nàng cũng bắt gặp một hai chỗ nhòe nhoẹt hoen ố trong thư, nàng biết Trân đã khóc, và nàng hiểu nỗi khổ của người bị kẹt lại. Ở hoàn cảnh của Trân, nàng cũng khóc, nàng nghĩ là nàng yếu đuối hơn Trân nhiều.
Nàng tức nghẹn nơi cổ vì thấy thương hại Trân quá, và nàng lại nhắc:
-Tháng này anh đã gởi tiền cho chị ấy chưa?
Nàng cũng hay hùn vào mấy chục cho tụi nhỏ ăn quà bánh nữa.
Trong tình huống đó, chẳng lẽ nàng lại đòi chàng phải ly dị vợ để lấy nàng?
Cùng lúc mẹ nàng đã viết thư qua khóc lóc " ...Con hãy thôi ngay, người ta đã có vợ con, một ngày nào rồi sẽ đoàn tụ. Đừng phá gia cang người khác. Thương má, con hãy nghe lời má, má già rồi, má chỉ có mình con, con yêu dấu của má..."
Nàng biết rồi có lúc mẹ nàng cũng hay. Một trong những đứa con riêng của dì Tuyết, vợ nhỏ của ba nàng, đã nghe lời bà viết thư về mét.
Nàng khổ đã đành, có làm có chịu, có yêu có khổ, sao còn để cho mẹ nàng khổ theo? Người đàn bà quá hiền lành, bà như con thú được nuôi trong chuồng mà bên ngoài là xảo trá ma men đầy cạm bẫy, khi thả ra đời không biết cách săn mồi kiếm ăn, chồng quyền thế ăn chơi, bồ bịch suốt thời trai trẻ, bà vẫn kính nể âm thầm chịu đựng, rồi một hôm mất chồng luôn. Bố gặp dì Tuyết như quả quít dày phải móng tay nhọn, một trời một vực mâu thuẫn với mẹ, người đàn bà đó cũng một thời ăn chơi từng trải với bầy con có hai, ba khuôn mặt khác nhau. Ở Việt Nam vì bố nàng còn chức tước quyền uy để dì mượn danh nghĩa mà chạy áp phe, dì còn nhỏ nhẹ ngọt dịu. Qua đây dì thích ứng ngay với hoàn cảnh mới, tả xung hữu đột tháo vát ngoài đời, mọi việc trong nhà đều một mình dì coi quản, dì hét ra lửa, dì chỉ ra lệnh.
Còn bố nàng, tới nước Mỹ ông đã gần 60, cái tuổi mà ở VN ông đã về hưu, đã hưởng tuổi già. Muộn màng cho mọi cái bắt đầu . Không biết tiếng người, không biết lái xe, cũng không có nghề ngỗng gì để đi xin việc, nên ông ở nhà từ dạo đó. 5 giờ sáng ông đã dậy, người già ngủ rất ít, tự nấu nước sôi châm trà, bỏ một nụ tường vi vào ấm nhỏ, rồi ngồi uống một mình, nhìn thế sự đổi thay. Ngày nào cũng như ngày nào. Cụt cẳng cụt tay ông bây giờ hiền như bụt, ông không khùng là may. Kể ra ông cũng giỏi!
Có phải quả báo không, ăn mặn quá nên giờ khát nước! Đời cũng thật lạ!
-Cô về đâu?
Bà cụ Mỹ ngồi bên cạnh nàng chợt hỏi chuyện làm quen. Bà đi có một mình. Nàng quay lại trả lời:
-Portland, Oregon.
Bà cười nói bà có một người cháu cũng ở đó nhưng lần này bà không ghé nó mà về thẳng Seattle, Washington. Đã thấy nhớ nhà quá. Tóc bà trắng phau phau, óng ánh dưới tia nắng vàng, nhìn xa dám tưởng đó là một lão bà ác nghiệt trong mấy phim kiếm hiệp. Đã 70 tuổi, bà vẫn còn tráng kiện, da mặt chưa có vết nhăn, hai gò má đánh phấn đỏ au au, còn khỏe nên bà hay lấy xe lửa đi thăm con cháu. Hết ở với đứa này thì sang ở với đứa kia. Có năm, đám Seattle, đám Santa Rosa hẹn nhau đánh bài ở Reno, từ Seattle xuống lái xe khoảng 15 tiếng, từ Santa Rosa qua
khoảng 4 tiếng, bà đang ở với đứa ở Santa Rosa và đã đến lúc về lại Seattle, sẵn dịp họ trao đổi bà ở Reno, như là trao đổi tù binh, thật tiện. Bà còn có một đứa con gái lấy chồng ở Alaska, Alaska là tiểu bang lớn nhất nước Hoa Kỳ, ở cực bắc, trong đất của Nga Sô, Alaska đất rộng người thưa, dân số chỉ hơn 3 trăm ngàn, gia đình cô này thỉnh thoảng về thăm chứ bà không đi vì bà sợ đi máy bay và bà cũng chưa nghĩ đến chuyện đi bằng tàu thủy. Lối này Anchorage tuyết xuống đã lên đến đầu gối, mùa hè không có đêm, 10 giờ tối còn thấy mặt trời, ngủ buổi tối cũng như ngủ buổi trưa. Cô con gái cứ gọi nói đẹp lắm má lên chơi một chuyến. Bà vừa ở chơi với gia đình người con trai ở Santa Rosa, bà khoe nó mới mua một cái nhà khác thật lớn. Bà thao thao kể với giọng vui vẻ, hãnh diện.
Tuổi già mà không bệnh tật và còn vui chơi với con cháu, bà là một cụ bà Mỹ có phước, so với những cụ khác bất hạnh phải cô đơn sống trong những viện dưỡng lão vì con cháu bận công ăn việc làm không chăm sóc được.
Bà tưởng nàng cùng lên một trạm, hỏi:
-Cô có người thân ở Santa Rosa?
Nàng đang mệt mỏi với trăm ngàn thứ chuyện phải nghĩ, không muốn trả lời dài dòng với bà già đồng hành nhưng nàng cũng không muốn bị hiểu lầm là không thân thiện hay bất lịch sự. Cứ cho chàng là người thân đi, nàng trả lời:
-San Francisco, thưa cụ.
-Ồ! San Francisco. Chắc cô đã từng đi qua cái cầu Golden Gate? Cầu treo dài nhất nước, đi qua tôi sợ quá! Tưởng tượng mấy hôm có gió lớn...
Nàng mỉm cười. Xem ra bà già sợ nhiều thứ quá. Bà cười suýt xoa nói tiếp:
-Cứ sợ nó sập...
Câu chuyện tới đây làm nàng nhớ đến tấm hình ở bến phà chờ qua đảo Sausalito chơi, sau nàng là cầu Golden Gate lửng lơ vắt ngang giữa trời. Nàng mặc áo vàng, trời hôm đó cũng nắng vàng, biển xanh, bầu trời xanh, đám hải âu dạn dĩ bay lượn gần người, nàng cười với chàng, chàng cứ loay hoay với ống kính trông thật tức cười. Chàng thích tấm hình đó nhất. Chàng nói:
-Em đẹp quá! Cho anh xin tấm này nghe Uyên?
Bây giờ nàng bâng khuâng tự hỏi:
-Rồi chàng sẽ dấu tấm hình đó ở đâu? Hay là rồi sẽ phải xé bỏ vào sọt rác?
Nàng có một người anh con ông bác, anh Hùng, mà nàng rất thân hồi còn ở VN, qua đây anh ở tiểu bang khác xa nàng hàng ngàn dặm. Sau ngày lấy vợ, anh vẫn tỉnh queo giữ hình những cô bồ cũ trong album gia đình. Nhiều năm sau anh vẫn còn kể rành rọt những tính nết của các cô. Trong đó anh hay nhắc đến Quỳnh Giao với giọng như nuối tiếc:
-Quỳnh Giao không lấy anh được vì cô ấy học giỏi quá, anh với không tới. Có đôi mắt to đen tròn như hai hạt nhãn. Bây giờ đã là bà bác sĩ. Bà bác sĩ ở hai nghĩa: chồng là một bác sĩ người Đài Loan và chính Quỳnh Giao cũng ra bác sĩ.
Chị Nga, vợ anh, nghe chồng lập tới lập lui nhiều lần cũng thuộc lòng. Chị chỉ cười cười. Nàng thường thắc mắc:
-Chị rộng lượng, khôn ngoan, hay không biết ghen?
Chị Nga chắc chắn là biết một điều. Dù sao những hình bóng đó cũng chỉ là những hình bóng dĩ vãng, mà hiện tại mới là quan trọng hơn, chị có anh và hai người sống rất là hạnh phúc.
Nàng thở dài buồn buồn. Hình như nàng có nghe bà cụ nói:
-Cảnh trí đẹp quá cô thấy không?
Nàng mải mê đắm chìm trong ý nghĩ riêng tư, không trả lời, chừng quay sang thì bà cụ đã lim dim ngủ. Xe lửa vẫn êm êm băng qua thung lũng, núi đồi, đồng cỏ, thành phố, xóm làng. Ngừng một chút ở phố lớn đông đúc. Một chút ở tỉnh lẻ vắng hoe. Lúc nào cũng từ tốn. Thả người xuống rước khách lên. Đi xe lửa không hẳn rẻ hơn những phương tiện khác, nhưng dân đi xe lửa phải có nhiều thì giờ, không quay cuồng trong guồng máy xã hội, và phải là dân thích ngắm cảnh, thích phiêu lưu. Đi hơi xa một chút cần một ngày một đêm là bạn biết vanh vách về đời sống, tiểu sử của những người đồng hành ngồi bên cạnh. Có khi nghe đến chán bạn cũng phải nghe. Họ cũng muốn biết đời sống, gốc gác của bạn. Có khi bạn vồn vã lại, có khi bạn bực bội thờ ơ.
Bà cụ Eva đã quen đi xe lửa. Bà đi tới đi lui trò chuyện làm bạn, xuống cafeteria ăn uống, ngắm cảnh. Đem hình con cháu ra khoe. Đan áo, móc khăn trải giường. Đi xe lửa đã là một phần đời sống của bà lúc này.
Bắt chước bà, nàng cũng ngủ được một giấc. Một giấc ngủ chập chờn.
Chuyện nàng với Huy đi vào ngõ cụt. Nghe lời dì, nàng bằng lòng lấy Ngọc và nghĩ là nàng có thể xây dựng hạnh phúc bên người khác, Huy trở về với gia đình của chàng, và rồi mọi việc sẽ xong. Nàng không yêu Ngọc, nhưng Ngọc lại rất yêu nàng, và không có gì để nàng chê. Quyết định rồi nàng tính cho bố nàng biết, nhưng hôm đó vừa bước vào nhà, bố nàng đã kêu lại:
-Uyên à!
-Dạ, ba kêu con?
Ông ngoắc:
-Lại đây, ba muốn nói chuyện.
Rồi ông chỉ cái ghế đối diện. Nàng ngồi xuống rồi, ông mới từ tốn nói:
-Lâu nay ba con không có dịp nói chuyện. Con cũng biết...
Hồi ở Việt Nam, nàng bên mẹ giận cha, qua đây thấy ông thất thời nàng thương hơn giận, nhưng cha con chẳng có gì để nói với nhau. Nàng đi đi về về, ông lẳng lặng một mình. Nàng chỉ thấy ông thấp thoáng qua cái bóng mà thôi. Bây giờ có dịp ngồi gần, nàng mới nhận thấy ông đã thật già, tóc bạc trắng, tìm tóc đen khó hơn tóc bạc, lòng nàng xót xa.
-Chuyện con...ba không có ý kiến. Đời ba, ba làm nhiều chuyện khiến má con buồn, lại không có dịp gần gũi dạy dỗ con. Có trách là trách ba chớ không trách con.
Nàng ngập ngừng ngắt lời:
-Thưa ba!
Ông xua tay, rồi buồn buồn nói:
-Uyên con, con có làm gì thì cũng nên nghĩ tới má con.
Rồi như sợ nàng buồn, ông lại nói tiếp:
-Ba không có trách con.
-Con hiểu.
-Con không phải nghe theo dì Tuyết.
-Ba, ba già rồi. Con cũng muốn ba khỏi lo cho con. Con muốn ba vui...
Ngừng một lát, nàng nói tiếp:
-Con sẽ lấy Ngọc.
-Con đã quyết định?
-Dạ.
-Nó cũng đàng hoàng!
Chuyện nàng với Huy, bố nàng đã không mắng nàng. Ông không còn đủ sức để mà mắng chửi ai hết, dù là với nàng, một đứa con không có phe phía. Bên này, ông như cái bóng lặng lờ trong nhà vậy thôi. Trong thâm tâm ông vẫn còn bứt rứt việc đã để mẹ nàng ở lại. Thật ra, trong hấp tấp vội vã, lộn xộn của cuối tháng tư năm đó khó mà làm được mọi việc, nhớ được mọi thứ, thời giờ eo hẹp, bà lại ở Nha Trang, còn gia đình dì Tuyết thì ở Sàigòn, ra tới biển rồi dì Tuyết viện bao lý lẽ nguy hiểm để không cho tàu vào rước, thiên hạ sẽ tràn lên tàu, mà chắc gì đã tìm ra mẹ nàng, không chừng bà cũng chạy vào Sàigòn rồi. Nhưng nói cho cùng thì cũng tại ông, nếu ông cứng rắn một chút thì biết đâu mẹ nàng đã không kẹt ở lại. Cũng may ông còn dẫn con gái theo được, không thì ông hối hận suốt đời.
-Con sẽ viết thơ cho má hay.
Nhắc tới mẹ, nàng chợt nhớ, và nói:
-Ba, con vừa nhận thơ của má.
-Vậy à, má con ra sao?
-Vẫn thường ba à. Vẫn ở trên chùa.
-Nhớ cuối tuần đi gởi thêm chút gì cho má con. Ở chùa chắc là thiếu thốn. Nhớ nhắc ba, để ba đưa tiền nghen.
-Được mà ba, con có tiền. Má nói ở chùa má cũng không cần gì. Ăn chay nhẹ người quen rồi. Lo là lo cho ba con mình, bên này đó, chớ đừng lo cho má.
Nghe con nói, ông thấy nhớ và thương vợ. " Ba con mình" ...ông và nàng quả đúng như người ở đậu trong căn nhà này, mẹ nàng tuy ở xa mà như nhìn thấy tất cả. Bây giờ ông bất lực, dở mả, chỉ quanh quẩn trong nhà. Còn nàng thì khờ khạo, nông nổi, chưa có kinh nghiệm ở đời.
-Ba, bữa nào mình chụp chung một tấm ảnh để gởi cho má.
-Thôi, một mình con chụp đủ rồi.
Nàng nài nỉ:
-Ba! Có thấy mặt ba, má mới vui chớ.
Ông cười mắng yêu con:
-Thôi được! Mày lôi thôi quá!
Nói xong, ông ho khục khặc. Nàng nhìn cha và thấy thương ông nhiều. Tuổi già của ông cô đơn quá. Ông không chịu được phong thổ xứ này. Ông như một thứ cây đã già mà bứng đem trồng đất khác, có sống cũng èo uột vậy thôi.
Nàng đứng lên hỏi:
-Ba lạnh hả? Con vặn thêm " heat" nghen ba.
-Được rồi con. Ba không có lạnh.
-Ba cứ ho.
-Không sao đâu. Hổm rầy cảm, ba có uống thuốc rồi.
Đã lâu lắm rồi, đây là lần đầu cha con nàng mới đối diện nói chuyện với nhau và cùng cảm thấy gần gũi, ấm cúng, thân tình.
Sau đó, nàng bận rộn lo chuyện đám hỏi, đám cưới. Dì Tuyết vui nhiều nhất. Dì chạy tới chạy lui lăng xăng. Dì gọi nàng là " con" . Kêu réo mấy đứa nhỏ phụ nàng, nhắc nàng đủ thứ sợ nàng quên.
Mọi việc tưởng đã xong. Bất ngờ cú phôn của chàng. Chỉ xin được nói chuyện với em lần cuối. Chàng chúc nàng được hạnh phúc. Cú phôn đó đã thay đổi tất cả. Thì ra nàng vẫn còn yêu Huy, và Ngọc không làm nàng quên được chàng.
Nàng bỏ nhà theo Huy, dì Tuyết tức tối mắng nhiếc:
-Tưởng ngon lắm! Ở đó mà chê. Nó vừa có tiền vừa có bằng cấp, khối người muốn nhào vô. Lại đi theo cái thằng có vợ con chẳng ra gì. Như là bị bùa mê cháo lú. Nuôi cho ăn học, để rồi bây giờ ngu như thế đó!
Ngọc là con một. Nhà Ngọc giàu nổi tiếng trong cộng đồng. Cha mẹ có dãy phố cho thuê ở khu Asian Plaza. Ông bố hồi ở Việt Nam làm bên quan thuế. Người ta đồn ông đã ăn hối lộ nên mới có tiền nhiều như vậy. Bà mẹ phốp pháp tốt tướng đeo hột xoàn đầy người, nghe nói tiệm vàng Ngọc Lợi là của bà, cho người cháu gái đứng trông coi. Bà siêng năng đi chùa không tuần nào là thiếu mặt. Dì Tuyết cũng hay đi chùa. Mẹ Ngọc và dì Tuyết thân nhau lắm. Chắc chắn lý do hai người thân nhau không phải là vì hay đi chùa, vì ở chùa cũng có nhiều cụ, nhiều bà chăm chỉ đi chùa. Mấy con mẹ ganh tị hay nhỏ to sau lưng nói là, mẹ Ngọc đi chùa để có chỗ khoe hột xoàn và kiếm vợ cho con, và dì Tuyết của nàng đi chùa để có chỗ chạy áp phe, nhận đô la bên này, đưa vàng bên Việt Nam - ở Mỹ mà còn chạy áp phe được, thế mới hay!
Ngọc học đàng hoàng, chớ không chép bài quay phim gì hết ráo, dù thành phần này bây giờ đầy rẫy, mỗi kỳ thi thầy giáo nghiêm khắc bắt đám Á châu ngồi xen kẽ với sinh viên Mỹ và canh kỹ càng ra mặt. Ngọc rụt rè, nhát gái, có hơi khờ khờ vì được chăm sóc quá, mặt mũi cứ đỏ rân khi gặp nàng. Anh là một người tốt, nàng chỉ thấy tội Ngọc, chứ không yêu, con tim có những lý lẽ quái gỡ riêng tư của nó, có vậy thôi. Ở Mỹ cũng lâu, nàng nghĩ:
-Không yêu thương thì lấy nhau làm gì?
Khổ là nàng đã không nghĩ đến điều này sớm hơn.
-Xứ này sống được mà, cô ấy không cần ai đâu!
Dì Tuyết dỗi hờn nói, rồi chửi xéo qua bố nàng:
-Sống sờ sờ cũng vô tích sự!
Ông có nghe nhưng không trả lời, vẫn im lặng ngồi uống trà nơi cái bàn quen thuộc, và nghĩ tới con. Không biết bây giờ nó trôi giạt về đâu?
Vừa tiếc vừa xấu hổ, sau đó dì Tuyết trốn đi chùa. Cũng không ai dám hỏi sao dì không đi chùa, mấy cái chương trình giúp chùa mà dì hứa sẽ lãnh một hai mục, bà con lờ con không ai muốn nhắc cả, để cho nghe mắng đó à? Họ chỉ xầm xì với nhau:
-Sợ người ta hỏi han...cũng quê biết không...mà ai dám hỏi gì?
Còn Ngọc, sau vụ cưới hỏi bị bể, hụt mất cô vợ, gặp lúc hãng đóng cửa để ăn lễ lớn từ mấy ngày trước Giáng Sinh qua hết tết Tây, anh bay liền qua Hawaii chơi để quên buồn, thì đường nào cũng đi Hawaii mà, dù chi tiết có thay đổi chút đỉnh. Hết lễ, anh đi làm lại bình thường, vốn sẵn ít nói, bây giờ có không thèm nói, cũng không ai ngạc nhiên, chỉ không biết anh ra sao.
Mẹ Ngọc thì nghĩ, thua keo này ta bày keo khác, bà vẫn còn đi chùa tuy có ít đi, vì bà còn bận đi...nhà thờ, làm quen với đám Tin Lành cũng với một mục đích...kiếm vợ cho con. Tội nghiệp mấy bà mẹ Việt Nam, lo cho con suốt đời - con có vợ có chồng cũng còn lo, rồi lo tới cháu với chắt nữa mà chính thân họ thì họ lo không xong!
Bầu trời lúc này thật xanh, có vài đám mây trắng, nắng dịu dàng. Xe lửa sắp vào thành phố Portland. Bà Eva cũng vừa mở choàng mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Đi hoài nên bà nhìn ra ngay:
-Gần đến Portland rồi. Nếu tôi nhớ không lầm, cô nhỏ về Portland, phải không? Gần về nhà rồi hồi hộp lắm nhỉ?
Vâng, nàng đang hồi hộp, nàng đang bối rối. Càng gần tới nhà, nàng càng bối rối. Chuyện tình cảm như dây nhợ, như tơ trời giăng lung tung, chằng chịt.
Phải gỡ từ từ, phải gỡ từ từ. Nàng mím môi thầm nhủ.
Ở trạm xe lửa Portland, nàng mua vé đi nữa. Nàng sẽ không về nhà. Nàng cũng không trở lại với chàng. Sẽ đi thật xa. Sống một mình. Sẽ không ai biết nàng ở đâu. Ít nhất là vài năm. Với ngày tháng trôi qua rồi mọi việc sẽ lắng đọng, sẽ phai mờ đi. Nàng không còn gì, chàng hay gia đình, nhưng nàng biết nàng có đủ thời giờ. Để quên. Cha nàng chắc chắn sẽ nhớ thương nàng. Chợt nghĩ tới mẹ, nàng biết là bà sẽ khổ lần nữa - cái số của người đàn bà đó...suốt đời cứ khổ vì chồng vì con!

2031




Con ạ.

Ông bố có tư tưởng chống bình quyền nam nữ khuyên con trong ngày cưới.

Chỉ có ba điều con phải làm để nắm chắc một người đàn bà: Tỏ ra cho cô ta thấy con là ông chủ, chứng minh cho cô ta thấy con là người đàn ông và khẳng định sự độc lập của con.

Khi cặp vợ chồng sau chuyến du lịch trăng mật trở về, ông bố hỏi con trai tình hình ra sao.

Tốt lắm, thưa bố.

Cậu con trai nói.

Ngay khi vào phòng khách sạn con xé toang quần áo của cô ấy để tỏ ra con là ông chủ. Liền đó con xé toang quần áo của con để khẳng định con là người đàn ông. Rồi con nhảy vào giường và chạy ra luôn để khẳng định tính độc lập của con!

2839




Một ông già nọ chết, vốn nhà cũng khá giả, nên khi tống táng xong, con cháu mới cử hành tế lễ. Trong cuộc lễ có đủ cả kèn trống. Các quan viên đến dự cũng khá đông.

Trên bàn thờ, ở trước bài vị ông, có một mâm cơm cúng. Vì ông mới chết, nên trên mâm cơm chỉ có một chén cơm, một đôi đũa, một chén nước mắm, một đùi gà luộc và một con cá rô.

Một ông quan viên nọ được cử vào tế và đóng vai "Tiến tửu".

Cuộc lễ bắt đầu, trống kèn nổi lên, ông thông xướng lên:

Cử ai! (bắt đầu làm lễ khóc)

Tang gia từ lớn chí nhỏ, ai nấy đều phục xuống mà khóc. Một lúc ông thông xướng lại xướng:

Chước tửu!

Nghe xướng vừa xong, ông quan viên nọ mới khệ nệ, mình mặc áo nhung đen, tay nâng bình rượu khuỳnh tay ngay và rón rén đi từ từ, từng bước vào chỗ bàn thờ để đặt bình rượu lên rồi rót vào cái ly ở trước chỗ bài vị ông già.

Rót rượu xong, ông quan viên thấy con cá rô mập quá, mới thò tay lấy trộm, trong lúc không ai để ý ông giắt vội giắt vàng con cá lên trên khăn quấn đầu, rồi trở về chỗ cũ.

Người con gái ông già đang làm "Lễ cử ai" trông thấy, nhưng trong nhà có việc, không lẽ lại đem ra mà nói khi đang có tế lễ.

Bởi thế chị ta mới phục xuống, vừa khóc cha, vừa kể:

Ôi! Cha ơi là cha, chabỏ chúng con, cha đi đâu giờ, để:

"Trời làm đại hạn mưa rào

Cá rô lách ngược lên đầu quan viên."

Cả đám tang, ai nghe chị khóc cũng lấy làm lạ không hiểu nghĩa gì. Cho mãi tới khi tế lễ xong, mọi người mới biết rõ chuyện, vì con cá rô ở mâm cơm cúng đã biến mất. Nó đã "Lách" lên đầu ông quan viên nọ.


2769




Một anh chàng tắm tiên trong hồ nước vắng vẻ, định lên bờ thì phát hiện ra bên cạnh đống quần áo của mình có một cô gái xinh đẹp. Bí quá, chàng trai lặn xuống đáy hồ tìm được một cái xô mà ai đó đã vứt bỏ, úp ra đằng trước và hùng dũng đi lên. Đến gần cô gái, anh ta đánh tiếng:
- Cô gái ơi, em đang đọc gì thế? Cô gái hoảng hốt nhìn cái xô:
- À... không... tôi nghĩ rằng...
- Thế em có đoán được tôi đang nghĩ gì không? Nói đoạn chàng liếc đầy ngụ ý vào đống quần áo. Mặt cô gái tiếp tục đỏ dần lên, sau vài giây lưỡng lự, cô trả lời thẳng vào câu hỏi:
- Anh nghĩ rằng chiếc xô có đáy phải không?
2275




Chàng thanh niên hỏi một cự phú cách làm giàu, lão này hạ giọng kể:

- Con trai à, đó là vào năm 1932, một thời kỳ khốn khó trong lịch sử, lão chỉ còn một xu cuối cùng trong túi. Lão bỏ ra mua một quả táo, dành cả ngày để lau cho nó bóng lên và vào cuối ngày, lão bán quả táo lấy 10 xu. Sáng hôm sau, lão đầu tư số tiền trên mua hai quả táo, lau chúng cho bóng và bán chúng lúc 5 giờ chiều được 20 xu. Lão tiếp tục cách kinh doanh này trong một tháng và cuối cùng tích lũy được một tài sản trị giá 1 đôla 37 xu. Thế rồi cha vợ lão đột ngột qua đời và để lại cho vợ chồng lão 2 triệu đôla.
1957




Chồng đi làm về, vợ săn đón:

- Anh dùng bữa nhé?

- Không, anh ăn ở chỗ làm rồi.

- Anh có đọc báo mới không?

- Chả có gì hay ho đâu, anh đọc hết rồi.

- Sao anh lại lạnh nhạt với em như vậy?

- Nếu về đến nhà mà vẫn phải tiếp tục dịu dàng, thì anh ở lại công sở cho xong.1045




Một nhà vô địch quyền Anh đang dạy đứa con trai 10 tuổi đấm bốc.

- Điều này sẽ có ích nếu như nó gặp phải một vụ ẩu đả.

- Nhưng nếu đối thủ mạnh hơn nó thì sao?

- Ồ! tôi đã nghĩ đến điều đó, và sáng nào tôi cũng bắt nó phải tập chạy.



o O o


Hai tên trộm đang hì hục mở một cái két sắt trong nhà băng. Thấy lâu, một thằng hỏi:

- Tại sao mày lại dùng chân để mở?

- Làm thế này lâu hơn vài phút nhưng sẽ khiến cho bọn chuyên gia về dấu tay phải phát điên lên đấy!



o O o


Người lính già đang thuật lại những cuộc phiêu lưu gay cấn trên chiến trường.

- Thế là sau đó, - ông kể - các bác sĩ giải phẫu nhấc tôi lên và đưa vào xe tải đạn, rồi...

- Này, này, - một thính giả ngắt lời, - bác định nói lad xe tải thương chứ gì ! Ðâu phải xe tải đạn !

- Không, - ông già khăng khăng, - người tôi thủng đầy đạn đến mức là họ quyết định tôi phải đi theo xe tải đạn.1925




Martina và Michael quen nhau từ trung học, nàng phục chàng chững chạc, đẹp trai, thông minh xuất chúng và có nụ cười tươi thắm bao dung không thể dùng lời diễn tả. Martina chỉ biết, mỗi khi nàng buồn, nàng thất vọng, nàng chẳng biết ngày mai sẽ về đâu ... thì nàng tìm tới Michael bộc bạch thổ lộ, Michael thường ít nói, chàng lắng nghe Martina kể lể, rồi chàng mỉm cười, nắm tay nàng, vuốt tóc nàng, rồi khẽ bảo: „Em an tâm đi, đâu cũng sẽ vào đấy cả thôi!“ Cần nghe lời nói trầm ấm ấy, môi cười bao dung ấy, một chút động chạm ấy ... Martina đã thấy lòng phừng lên ngọn lửa hạnh phúc vô biên. Ừ, dường như nàng yêu Michael!? Nhưng nàng chưa bao giờ thổ lộ, chưa bao giờ cho phép mình ngã người vào vai chàng để được chàng dỗ ngọt đúng nghĩa như nàng mong muốn. Dù sao, Martina cũng là cô gái Ý truyền thống, xinh đẹp, xuất thân từ giai cấp thượng lưu trí thức. Mẹ nàng là giáo sư Triết thuộc viện đại học Milano, còn ba nàng là bác sĩ phẫu thuật tim khoa trưởng tại Cantonspital St. Gallen. Vì truyền thống đó cho nên nàng được giáo dục kỹ lưỡng để trở thành người khoa bảng mai sau.

Còn Michael quyến luyến Martina bởi nàng rất đẹp, rất thông minh, rất đoan trang và đằm thắm. Nàng lãng mạn, song không hề sỗ sàng! Nàng là hiện thân của những gì tuyệt vời nữ giới thời xưa cũ, trong xã hội hiện tại, dường như rất hiếm những người con gái như vậy! Martina có mái tóc đen láy, chủng tộc thuần chất gốc Nam Ý, đôi môi chín mọng như trái cherry (Kirche), đôi mắt màu xanh thăm thẳm với hàng mi dài và cong vút! Nàng có cái nhìn vừa ngây thơ vừa đắm đuối. Chỉ nhìn màu mắt của nàng, Michael đã có thể đoán được những thay đổi trong tâm trạng của nàng. Martina thon gọn với những đường cong tuyệt mỹ, đôi chân dài rất xứng khi nàng mặc quần Jean. Michael chưa bao giờ nói yêu nàng, song từ trong tâm tưởng, chàng đã chắc chắn đời mình sẽ có nhiều gắn bó với Martina! Về gia thế, cũng như Martina, Michael là thanh niên ưu tú của một gia đình trí thức. Cha chàng là bác sĩ trưởng khoa tâm lý học bệnh viện Zug, mẹ chàng là nữ sĩ tiểu thuyết gia có tiếng tại châu Âu. Đến bên Martina, Michael luôn cảm thấy an ổn thoải mái vì sự tế nhị, tính tình đằm thắm của nàng.

Đến đêm liên hoan tốt nghiệp tú tài họ mới thật sự yêu nhau, cả hai cùng hết sức hạnh phúc về kết quả họ đạt được và họ sẽ cùng tới Fribourg Thụy Sĩ để học những năm đại học. Martina sẽ học văn chương cổ điển Nga, còn Michael sẽ học Y Khoa. Đi dưới hàng Phong cao vút, cả hai cùng im lặng, một thứ im lặng huyền diệu lâng lâng, tự lòng hiểu lòng … dường như phút quan trọng của cuộc đời đang từ từ lộ diện. Cơn gió hè thổi tới bay tung mái tóc dài ngang vai của Martina, có vài sợi vấn vào má Michael vì họ đi rất gần, Martina dừng lại, nhìn Michael như muốn tỏ lời xin lỗi. Michael nhìn sâu vào mắt nàng với cái nhìn kiên định, như thầm bảo: „Em có biết không, tôi đang muốn nói với em những điều thai nghén trong tim tôi từ bao lâu nay?“ Còn Martina nhìn lại chàng, ánh mắt nhu thuận cũng vang lên: „Em hiểu, em hiểu và đang đợi anh chuyển tâm tư thành ngôn ngữ!“ Màu mắt Michael thẫm hơn, đắm đuối âm hưởng: „Uh, vậy được rồi, tôi nói! Em có biết chúng ta sẽ có con đường chung trước mặt không? Em có biết những cảm giác yêu thương ấp ủ trong lòng tôi không? Chúng đang muốn cựa mình thăng hoa thành những nụ hôn đây!“ Martina trao tín hiệu trên khóe môi ngoan, làn mi như thu nhỏ lại như con chim xếp đôi cánh khi hạ xuống chóp núi. Nàng không còn nhìn Michael bằng đôi mắt nữa, vì đôi mắt cũng thừa, mà nàng gửi đến Michael những tín hiệu đồng thuận rất nữ giới, tín hiệu từ não bộ, từ màu hồng sáng trên môi, ửng đỏ trên má và mùi hương u nhã của thánh nữ thanh tân.

Ngôn ngữ: Thừa! Ánh mắt: Thừa! Tư tưởng: Thừa! Cảm nhận bằng con tim và da thịt: Ừa!

Vậy là hai cánh môi đã lần đầu giao tiếp, trong vô ngôn, tĩnh lặng! Đôi bàn tay duyên nghiệp chợt tìm nhau, những cảm xúc tuôn trào như suối. Hai con người chợt phá đi biên giới của mình, phá tan đi cái tôi cái người, trong tích tắc ấy tôi và người hoà thành cái chúng ta bất khả phân li!

Mùa thu tựu trường, đôi bạn trẻ dắt nhau về thành phố nhỏ Fribourg thuộc miền tây Thụy Sĩ, họ cùng nhau mướn căn hộ 2 phòng ngủ khang trang trong khu phố cổ. Ngôn ngữ vẫn thừa thãi đối với chàng và nàng! Họ có thể lặng lẽ ngắm nhìn nhau, hoặc lặng lẽ đọc sách bên nhau, cảm nhận được nhau mà không cần ngôn từ diễn tả! Kỳ diệu, khi Martina vừa có cảm giác khát, muốn đứng lên lấy chai nước, thì Michael đã đưa đến tay nàng li nước, hoặc khi Michael chợt thèm ôm tấm thân kiều diễm của nàng, nàng hiền ngoan như con mèo khoanh mình rúc vào lòng chàng. Đương nhiên, có những lúc các đề tài về chính trị, văn hoá, xã hội, luật pháp, kinh tế … được đôi bạn trẻ cùng nhau thảo luận say sưa.

Thế giới đẹp quá. Con người đẹp quá. Tình yêu diệu quá! Vâng! Nhưng …

Y Khoa là ngành học rất khó vì có quá nhiều môn, lại thêm nhiều từ ngữ Latine. Năm đầu tiên, sinh viên Y Khoa Thụy Sĩ phải học 16 môn: Mô Học (Histology), Thể Học (Anatomy), Di Truyền Học (Genetic), Vi Trùng Học (Micro Biology), Sinh Hoá (Biochemistry), Sinh Lý (Phisiology), Hoá Học cao cấp, Vật Lý cao cấp vv. Thêm vào đó, những ngày Michael phải thực tập trong phòng thí nghiệm, mổ xác… rồi cuối tuần đọc sách, viết tóm lược, lại nữa Michael là sinh viên giỏi, luôn niềm nở giúp đỡ mọi người, nên thời gian chàng giành để học và giảng giải cho bạn bè gần như 18-19 tiếng một ngày. Martina hiểu và nàng khuyến khích. Nàng lo quán xuyến tất cả mọi công việc chợ búa, nấu nướng, giặt ủi, chăm lo nhà cửa… Cuối tuần, nàng cũng chấp nhận một mình về thăm ba mẹ nàng ở thành phố khác, để Michael yên tâm tra cứu sách vở. Nàng luôn an ủi vỗ về khi Michael nản chí vì quá nhiều thứ cần biết.

Năm đầu trôi qua, Michael đậu thủ khoa với số điểm tối đa. Chàng bảo Martina: „Cám ơn em, nửa số điểm này là của em!“ Martina cười sung sướng và tự hào!

Năm thứ hai cũng vậy, các sinh hoạt không hề thay đổi, chỉ có cái Michael nổi tiếng khắp trường, các cô gái xinh tươi khác cứ lấy cớ hỏi bài để rề rà bên chàng! Martina biết, song không bao giờ ghen. Nàng tin tưởng Michael, tin tưởng tình yêu tuyệt đối vững chãi của nàng. Cuối niên khóa, Michael lại đỗ đầu với điểm tối đa.

Tên tuổi Michael Stonya không những ở y khoa đại học Fribourg, mà còn nổi tiếng ở các đại học khác nữa. Vì Y Khoa ở Fribourg chỉ đào tạo 2 năm, rồi sinh viên phải chuyển qua các đại học khác cho 4 năm kế tiếp. Nhiều trường gửi thư cấp học bổng cho Michael, nhưng cuối cùng chàng chọn đại học Bern, vì nơi ấy chỉ cách Fribourg 30 phút lái xe. Chàng bảo Martina: „Năm nay là năm đầu tiên tôi phải đi thực tập tại bệnh viện, em ráng chờ tôi một năm nay nữa, sang năm thong thả hơn tôi sẽ chia sẻ công việc nhà và cuối tuần với em.“ Martina đồng ý, mặc dù ngành học của nàng mang tiếng là học văn chương cổ điển Nga, song còn phải lấy thêm các ngành phụ như Báo Chí, Sư Phạm, Xã Hội Học, Tâm Lý Học… cũng rất bận mải, công việc nội trợ cũng khiến nàng mất nhiều thời gian. Thêm vào đó, nàng luôn quạnh quẽ cuối tuần khi đi cinê, coi kịch, nghe nhạc hay về thăm cha mẹ một mình, hoặc với cô bạn gái! Có những tiếng xì xầm trong cộng đồng sinh viên về quan hệ giữa hai người, họ bảo Martina ngu dại đi làm đầy tớ không công cho Michael. Rồi các cô từng theo đuổi Michael, tung ra những tin hết sức ác độc: „Michael chỉ đợi học xong y khoa, sẽ tính sổ với Martina.“ Ăn cơm hoài chán chết, phải đổi qua bánh mì, khoai tây chứ!? Họ còn ác miệng tuyên bố: „Michael hiện tại cần một con đần làm mọi, chứ sinh viên Y Khoa sáng giá như Michael phải có vợ là các luật sư, kinh tế gia… chứ cái ngữ đi học tiếng Nga cổ điển rẻ tiền, thì làm sao xứng với ông bác sĩ tương lai đầy hứa hẹn kia?“

Năm thứ ba qua đi, Michael lại dẫn đầu số điểm! Tên tuổi của chàng khiến giáo sư nể nang. Chàng được tổng hội Sinh Viên Y Khoa giao thêm chức „Chủ tịch hội sinh viên y khoa và cựu sinh viên y khoa Liên Bang Thụy Sĩ.“ Công việc không phải ít! Chàng nhận chức rồi mới báo cho Martina hay. Nàng gượng cười chúc mừng. Nhưng hình như có chút gì nghèn nghẹn nơi cổ nàng. Dù sao nàng cũng là cô gái mới 23 tuổi, sống trong nếp ấm của cha mẹ anh chị bảo bọc. Nay đã ba năm đảm đương quán xuyến tất cả, nàng cần sự chia sẻ hơn một chút. Có chút lo sợ vẩn vơ khi nàng nghe bạn bè nói mãi về viễn cảnh tương lai Michael sẽ bỏ nàng, khi chàng đã ra trường. Nàng không nói ra, nhưng nàng vẫn mong Michael hiểu được ý nghĩ của nàng như những ngày đầu. Song không đâu, chàng bây giờ quá bận rộn bởi danh vọng, với các tên thuốc, tên bệnh và với dự án nghiên cứu để viết luận án tiến sĩ trong năm thứ tư (thường thì sinh viên Y Khoa học sáu năm, ra trường đi làm trong bệnh viện thêm 5 năm nữa thì mới viết luận án tiến sĩ chuyên khoa, nhưng trường hợp của Michael đặc biệt, nên hội đồng giáo sư quyết định cho chàng viết sớm để sau này có thể nghiên cứu ngay và trở thành giáo sư Y Khoa tại trường của họ), nên chàng chẳng còn đọc được những thôi thúc trong tim của người yêu. Nhiều lần Martina muốn nói, song nàng vốn đằm thắm ít lời nên lại thôi.

Năm thư tư Y Khoa, có nhiều đêm Michael không về vì chàng phải trực bệnh viện, hoặc miệt mài trong phòng thí nghiệm. Khi chàng về nhà, chàng mệt mỏi lăn ra giường và ngủ như chết, tỉnh dậy lại đi, không trò chuyện thăm hỏi gì đến người yêu mong nhớ hàng giờ. Martina nghe chút gì oà vỡ trong lòng, cảm giác cô đơn thất vọng cứ như trào trên mi mắt, nàng tủi cho thân phận mình. Dù gì thì nàng cũng là cành vàng lá ngọc đấy chứ, hạ mình „làm tôi mọi“ (theo chữ của những kẻ xấu mồm) cho chàng, mà chàng nào có hiểu đâu. Nỗi uất ức ấy, trào dâng trong lòng… cho tới một hôm giáo sư nàng hỏi có xuất học bổng qua nghiên cứu văn hoá trung cổ của Nga tại Saint Peterburg trong vòng 9 tháng, nàng có muốn nhận không? Nàng suy nghĩ 3 ngày và xin giáo sư cho nàng xuất học bổng ấy. Nhưng nàng không báo cho Michael biết, nàng sẽ ra đi.

Trước ngày Martina lên đường, nàng viết cho Michael bức thư, phong kín để trên bàn học của chàng. Đêm đến, Michael trở về nhà lúc 2 giờ sáng, chàng tắm rửa rồi đi ngủ, không coi lại sách vở nữa, nên không khám phá ra bức thư.

Martina qua bên phòng ngủ của Michael vào lúc 4 giờ sáng, nàng rón rén bước nhẹ đến bên giường của chàng, ánh đèn vàng từ ngoài phố chiếu qua cửa sổ, để Martina ngắm nhìn chàng như con búp bê (bự) đang say trong giấc ngủ. Vầng trán cao sáng sủa thông minh, đôi mày rậm với ấn đường mở rộng, cái miệng thân thương với làn môi hồng đầy đặn gợi cảm. Hàm râu quai nón xanh xanh vài li, khiến gương mặt chàng rất đàn ông và thông thái.
Đứng nhìn chàng 30 phút trong tĩnh lặng, như để thâu vào lòng tất cả những hình ảnh dấu yêu của bao năm, của tình đầu đắm đuối đam mê.

Martina gọi chiếc taxi đến đón nàng vào lúc 5 giờ 30, nàng xách valis ra xe khi Michael còn ngủ, nàng bỏ chìa khòa vào thùng thư và để nước mắt tuôn rơi.

Michael thức giấc lúc 6 giờ 30, chàng vào bếp ăn sáng. Vẫn bánh mì, pho mát, mứt, nước trái cây… chàng ưa thích bày sẵn như mọi sáng. Duy thiếu ly Expresso (cà phê Ý) mà mọi sáng, Martina như trực sẵn làm cho chàng uống ngay cho nóng. Chàng nhủ thầm: „Chắc Martina đi đâu rồi, thôi ta pha ly cà phe Nestcafé uống tạm!“ Chàng bắt ấm nước, ngồi ăn sáng đọc báo, uống cà phê và có ý đợi Martina xin lỗi vì không pha Expresso cho chàng sáng nay. Đợi mãi chẳng thấy Martina xuống bếp, chàng bước vô phòng Martina thì thấy tất cả gọn ghẽ ngăn nắp quá và dường như có chút gì không ổn. Chàng bật điện, mở tủ áo thì than ôi tất cả đều trống rỗng. Trên bàn chỉ còn vài cuốn tiểu thuyết linh tinh, sách vở đã dọn sạch. Michael không thể tin ở mắt mình. Chàng chạy kiếm Martina khắp nơi trong nhà, hoài vọng!

Cuối cùng Michael cũng khám phá ra bức thư giã biệt Martina để trên bàn viết, chàng vội vã xé phong thư với đôi tay run run:

„Michael yêu dấu

Em ra đi, vì em nhận được học bổng của đại học cho chương trình nghiên cứu tại Saint Peterburg. Nhưng đó chỉ là lý do phụ, thật ra em có thể từ chối. Song em muốn rời khỏi nơi đây và muốn rời xa anh, anh ạ.

Em cám ơn anh, sự hiện diện của anh trong em là một ân điển, em không bao giờ quên được. Anh đã cho em mối tình đầu đắm say tuyệt diệu. Anh đã cho em nụ hôn đầu đắm đuối đam mê. Anh đã cho em những cảm giác ấm cúng thương yêu vô vàn và nhất là anh đã cho em mối tình tri kỷ vô ngôn mà em hằng mơ ước. Ta quen nhau 4 năm, chung sống 4 năm. Tám năm đã trôi qua. Ta đã gần 24 tuổi. Anh ơi, ta trưởng thành hơn và cuộc sống qua đó phức tạp hơn. Có những điều mà cuộc sống hiện nay khác hẳn với cuộc sống của 4 năm trước, em đã từng mong ước anh chia sẻ cùng em, song hoài vọng. Anh quá bận rộn với sự nghiệp và xã hội. Em nói ra đây không phải để trách cứ anh đâu, song em đã buồn quá, khi anh còn hiện diện bên em mà chẳng còn đọc được những uẩn khúc trong em … như ngày nào.

Thôi anh nhé, chắc duyên nghiệp của chúng ta chỉ có bấy nhiêu thôi. Anh nay đã vững vàng trong cuộc sống, anh được mọi người biết đến và nể trọng, còn em chỉ là chiếc bóng mờ lủi thủi cô đơn. Em sẽ nhận học bổng 9 tháng, nhưng sau đó em ở lại Nga thêm 3 tháng để du lịch. Đúng 1 năm sau em mới trở về. Đây là thời gian khá dài với lứa tuổi chúng ta, em dùng nó và mong anh cũng dùng nó để quên đi tất cả, để tạo dựng một cuộc sống mới có ý nghĩa và hợp với mình hơn.

Em đi nha. Xin anh bảo trọng, em chúc anh thật nhiều thành công trong đời sống.

Xin anh đừng tìm em nữa.

Fribourg 25.03.1995

Martina Marchione“

Michael chết lặng run rẩy khi đọc bức thư. Chàng đã mất Martina hẳn rồi sao? Trời ơi, tại sao nàng không nói, không trách, không than? Tại sao nàng im lặng đến tàn nhẫn thế này? Tại sao nàng còn lo cho ta bữa ăn sáng cuối cùng, trước khi nàng treo cổ ta lên? Martina! Martina! Bây giờ chàng mới ngẩn ngơ đau đớn: „Ta không biết quý những gì ta có, mà khi ta bị vuột khỏi tầm tay rồi mới khổ đau nuối tiếc!“ Michael đã nhận thấy điều này.

Những tháng ngày vật vã đến với Michael như người nghiện bị cai. Chàng chán nản ngủ li bì. Chàng bắt đầu hút thuốc, uống rượu và không đến đại học hay bệnh viện nữa. Chàng rũ rượi như chiếc lá salad héo quắt. Tự dưng chàng mất đi tổ ấm, nhà của thì bừa bộn sau 1 tuần Martina đi vắng. Tủ lạnh từ từ trống rỗng, chàng chẳng biết phải làm sao, vì khi xưa nhà chàng đã có người làm, hoặc ba mẹ, hoặc anh chị chàng lo. Đến Fribourg thì Martina lo mọi việc. Chàng chỉ ăn và học. Bây giờ thì … trơ ra cái thân chàng.

Cuối cùng Michael đến đại học nói với giáo sư, chàng tạm ngưng chương trình nghiên cứu cho luận án tiến sĩ. Chàng chẳng đi làm ở bệnh viện nữa, khi lục cá nguyệt mùa đông chấm dứt. Ngày tháng của chàng là những chuỗi đau đớn, cô đơn và suy tưởng. Chàng cũng không ghi tên cho lục cá nguyệt mùa hè.

Các cô gái theo đuổi chàng thì vô cùng hoan hỉ. Họ tìm cách tiếp cận và quyến rũ chàng, song chàng luôn tẻ nhạt từ chối.

Tháng 5 năm ấy, chàng khăn gói đi Roma. Nơi đây chàng có vị Linh Mục quen thân với gia đình chấp chứa, chàng muốn đời sống tôn giáo làm giảm bớt nỗi đau của chàng. Chàng chợt muốn xuất gia, muốn bỏ lại sau lưng tất cả. Đời sống của chàng bây giờ là hàng giờ cầu nguyện, lắng lòng nhìn ngắm hình ảnh Chúa Jesus chịu nạn trên Thánh Giá. Chưa bao giờ câu sám hối: „Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng“ lại đánh đập vào tâm thức chàng đến vậy. Nhưng những thời gian khác, khi lang thang trong cổ thành Roma, chàng thường quặn thắt niềm đau. Thấy các cô gái tóc đen, trạc tuổi Martina chàng thường hoa mắt lầm tưởng là nàng.
Nỗi nhớ không bớt đi mà lại gia tăng khủng khiếp. Martina ơi, Martina! Nàng ở đâu? Ở đâu? Cho đến khi chàng nhận ra, chàng đã lơ là với Martina, song không phải là chàng không cảm nhận và trân trọng tình yêu của nàng. Chàng đã coi nàng như hơi thở, như con tim đập trong lồng ngực. Có ai trong chúng ta luôn ý thức về mỗi hơi thở ra và vô không? Không! Có ai trong chúng ta luôn nghĩ đến con tim đang đập mỗi phút 72 lần không? Không! Vâng Martina đối với chàng cũng vậy. Chàng không ý thức được sự hiện diện của nàng từng giây từng phút, từng giờ, từng ngày... nhưng nay hơi thở đó ngưng, chàng chết! Con tim ngừng đập, chàng tiêu! Martina, anh không thể sống thiếu em! Không thể! Chúa không cứu rỗi được anh! Cha không làm cho anh bớt niềm đau khổ! Ai buộc người ấy cởi! Chỉ có em!

Michael gọi điện thoại xin vị giáo sư của Martina địa chỉ ký túc xá Martina ở trọ tại St. Peterburg. Giáng sinh năm ấy, chàng lấy máy bay từ Roma đi St. Peterburg với 24 hoa hồng trên tay, vì ngày Giáng sinh cũng chính là sinh nhật thứ 24 của Martina.

Họ gặp nhau trong phòng ăn của ký túc xá. Martina ngỡ ngàng sung sướng. Michael ôm bó hoa hồng đỏ thắm trao cho nàng và không nói lời nào. Martina đón nhận mà không lên tiếng cảm ơn. Họ đứng nhìn nhau. Lối đối thoại vô ngôn giữa đôi Bạn Thiết dường như đã lập lại từ bao giờ!

Tuyết phủ trắng trên các lâu đài ở thành phố cổ kính St. Peterburg! Kệ, nắng xuân vẫn tràn đầy tim của hai kẻ vừa tìm lại nhau trong tiếng hoan ca ... im lặng.
__________________________
Viết cho những người Bạn Thiết


Giáng Mi
1637




Lời hứa của dòng sông


Có nhiều khi tôi muốn bỏ đi thật xa. Tôi sẽ tìm đến một nơi mà ở đó chỉ có tôi cùng cây cỏ, thú rừng, sông suối. Buổi sáng, tôi có quyền ưỡn mình ngủ trễ trong mùi hương hoa buổi sáng. Trong cái không gian rất riêng của tôi đó, tôi có thể lắng nghe được tiếng các loại chim gọi bầy hót chào nhau. Tôi mường tượng ra một con chim công với bộ cánh màu trắng, đuôi công có màu đỏ tía xen lẫn với màu xanh biếc sẽ đậu ngay cửa sổ, nhìn ra là một khu rừng xanh nõn lá, gọi tôi: "Thức dậy đi, Di ơi".


Tôi sống lãng mạn như một con người không bận bịu áo cơm. Chẳng hề lụy gì hết với trăm nghìn bon chen của cuộc đời. Tôi sẽ ra dòng suối mát mà tắm. Dòng suối ấy trong veo đến độ tôi có thể nhìn thấy một cọng rêu nhỏ nằm lẫn trong kẽ đá. Những bông hoa từ những cây ven suối rụng xuống sẽ trôi cùng tôi. Thân thể tôi không cần che đậy, tôi trần truồng như khi Eva chưa ăn phải trái cấm. Tôi sẽ nhìn thân thể mình xuống tấm gương soi là mặt nước trong kia. Tôi sẽ vỗ từng vục nước vào đôi chân mình, tôi sẽ vỗ từng vục nước lên bộ ngực vẫn căng tròn nhựa sống. Rồi tôi sẽ hét to trong cái không gian chỉ có một mình tôi đó:


- Tôi tự do. Tôi tự do.


Nhưng tất nhiên, đó chỉ là sự tưởng tượng của tôi, sự tưởng tượng ấy Hà cho là chuyện lẩm cẩm. Ừ, thì tên anh cũng chẳng phải là tên của một dòng sông đó sao? Hà và tôi hoà hợp lại trong một lễ cưới. Lễ cưới tổ chức linh đình trong một nhà hàng lớn ở thành phố này. Mỗi bàn tiệc được cắm lên một ngọn nến. Điện vụt tắt và những ngọn nến thắp lên. Tôi nghĩ ra điều đó, vì tôi hoàn toàn không muốn có sự lặp đi lặp lại đến nhàm chán. Tại sao những lễ cưới đều giống như nhau? Những bàn tiệc mở đầu bằng món nem chả, món kết thúc là cà ry. Tại sao cô dâu lại thay đủ quần áo - mà quần áo thay đổi ấy lại không phải là của mình và cũng đã có một cô dâu nào đó đã từng thuê ở tiệm cho thuê. Tôi cũng vẫn tiếp tục đặt câu hỏi là tại sao con người ta không nghĩ cái gì khác, khác hơn cho việc cùng về chung với nhau, sống dưới một mái nhà cho đỡ nhàm chán!


Khi sinh tôi ra đời, ba mẹ thấy một đàn chim lạ từ phương Bắc bay về thành phố. Ba đặt cho tôi cái tên là Bắc Di. Hồi đi học, bạn bè khôi hài gọi tên tôi là hàng hiệu. Nghĩa "hàng hiệu" ấy cũng là độc quyền, không có cái thứ hai. Tôi cũng là một đứa con gái không giống một đứa con gái nào. Hà nhận xét khi tôi và anh quen nhau:

Cái tên Bắc Di giống như tên trong phim bộ HongKong. Em đúng là một cô gái phức tạp. Nhiều khi anh chả đọc được những suy nghĩ đang trôi trong đầu em.


Làm sao Hà đọc được? Bởi anh chỉ là dòng sông. Dòng sông thì cứ trôi, trôi trăm năm và trôi cả nghìn năm. Còn tôi là con chim phương Bắc. Nắng ấm lên rồi, chim phải về phương Nam.


Hôm ngồi ở một quán nhỏ dọc theo dòng sông. Buổi chiều tím ngắt một màu tím đến lạ kỳ. Hà nắm bàn tay tôi, anh lồng vào giữa ngón tay thứ tư một chiếc nhẫn nhỏ:


Anh quyết định lấy em làm vợ!


Đó là lúc tôi run lên. Tôi run thật sự khi tôi chợt chạm môi mình lên môi anh.


Lễ cưới xong, về với nhau là mất hết những hẹn hò. Bạn bè vẫn thường đùa với tôi là đàn ông có bản tính giống nhau, là khi chưa giữ được người đàn bà trong tay mình thì săn săn đón đón. Họ cảm ơn những quán cà phê khéo xếp đặt những chiếc ghế đôi nằm lúp xúp trong những lùm cây. Mỗi chiếc ghế dễ chừng là nhân chứng hàng trăm mối tình. Cặp tình nhân này đến, cặp tình nhân khác đến. Hò hẹn và chia tay không mệt mỏi. Nhưng tôi và Hà không cần hò hẹn và chia tay nữa. Tôi đã cùng anh ngủ chung giường, ăn chung bữa và chung một con đường. Nhưng rõ ràng là tôi và Hà vẫn có một cái không chung đời riêng.


Ngày xưa, ba mẹ tôi rất ghét nghề kế toán, Một cái nghề khô khan cộng trừ nhân chia mãi 9 con số, để bảng dự toán này khít khao với bảng dự toán kia. Những cuộc nhậu được hợp thức hoá thành những con số của công trình, những phong bì to nhỏ lót đường cũng bị xoá vết để thành những con số hợp lý. Hà là kế toán trưởng, và anh luôn luôn hợp lý những con số. Tôi cũng không thích những con số, dẫu rằng những con số do Hà ghi chép làm tròn trịa khiến cho cái tổ ấm nho nhỏ của hai đứa tôi mỗi ngày trở nên đẹp đẽ hơn. Anh khuân về hôm nay chiếc tivi 21 inch, hôm sau chiếc bếp gaz... Cứ lần lượt như thế tôi đâm ra thừa thải trong căn nhà toàn bấm nút. Nhiều khi Hà cười có vẻ tự phụ:


- Hàng quán ngoài đường thiếu gì? Phone một cú là món ăn ngon tới nhà.


Tôi phản đối:


- Nhưng đó không phải là do em nấu! Anh có ăn món canh chua cá lóc theo kiểu Bắc của em chưa? Ngon lắm!


Hà lại cười:


- Sao lại chưa? Hôm tới nhà em ăn cơm trưa, em nấu đó. Ngon


Hà chỉ nịnh tôi thôi. Anh không ăn món canh chua tôi nấu hôm đó. Dường như anh chê dở.


Đời sống vợ chồng là sum họp nhưng công việc của vợ chồng là chia ly. Tôi dạy vẽ ở nhà thiếu nhi: Những đứa trẻ ngoan, mắt to tròn nghe cô giảng. Cô dắt các cháu tới lầu Bảo Đại, nhìn ra biển vẽ những con tàu... Đôi khi, một mình tôi cầm giá vẽ, một mình vào tận Suối Tiên vẽ những người Rắc Lây. Tranh vẽ của tôi choán một góc phòng. Hoa cứ nở trong tranh. Khi tôi rời khỏi nhà là những bức tranh đi ngủ. Bởi Hà yêu tôi chứ không yêu một bức tranh nào của tôi.


Tấm bảng mica treo giữa phòng khách, cây viết mỡ được Hà cột dây treo. Hai vợ chồng nói chuyện với nhau theo kiểu mà tôi nghe những người bạn Việt kiều của tôi vẫn thường kể lại khi ở xứ người. Đó là vì không có điều kiện gặp nhau, nên phải "nhắn nhủ" với nhau bằng những dòng chữ như thế.


Hà viết: "Di ơi, tối nay anh phải ăn cơm khách với mấy người bên sở tài chính".


Tôi viết: "Lớp vẽ của em chuẩn bị đi dự thi ở Hà Nội. Hôm nay em về tối".


Hà viết: "Chiếc áo ngủ anh mua cho em đó. Đẹp không? Tối anh về, em nhớ mặc vào nhé!".


Tôi viết: "Em do dự khai mạc phòng tranh ở khu triển lãm...".


Thật là thú vị khi mình vẫn có một góc đời riêng thật sự của mình. Tôi không bị Hà kiểm soát, tôi cũng chẳng quan tâm đến chiếc ví của Hà có những hóa đơn tính tiền đáng ngại. Tôi hờ hững đọc những số điện thoại đầy bí ẩn trong cuốn sổ ghi chép của anh. Hôm về trễ anh nồng mùi rượu, tắm rửa xong anh lại sà vào lòng tôi: "Nhớ anh không? Anh nhớ em lắm" không cần tắt đèn. Chiếc CD cứ vang lên những bài hát như để lấp cho đầy không gian. Căn nhà chỉ có hai người. Rồi trút bỏ hết áo quần, hồn nhiên với nhau giữa tiếng nhạc xen tiếng chắc lưỡi của thạch sùng.


Cuộc sống trọn vẹn như thế tại sao tôi lại muốn bỏ đi thật xa? Đâu có ai xâm phạm khoảng trời riêng của tôi đâu? Hà đâu có ghen tuông, Hà cũng chẳng ngăn cản tôi thỏa ước nguyện của mình. Tôi có quyền vẽ, có quyền đi dạy. Nếu cần, tôi có quyền mời bạn bè tới nhà đùa giỡn, ăn nhậu một bữa ra trò. Tôi không phải vay tiền góp, chẳng chắt chiu từng đồng bạc lẻ. Và Hà cũng yêu tôi.


Khi còn ở với mẹ, mẹ vẫn thường dạy: "Con gái khi làm vợ người ta, không biết nấu nồi cơm, kho nồi cá thì người ta chửi mẹ mình không biết dạy con". Chiếc bếp gaz ấn nút lửa hồng trong nhà nhiều khi nguội lạnh. Nồi cơm điện đâu cần phải biết nấu, trã cá kho tộ ở tiệm ăn đã lấy phần nấu nướng của tôi. Như thế có phải là thiếu bổn phận làm vợ không? Hà chẳng hề trách móc tôi chuyện đó, anh dành cho tôi những khoảng riêng, anh dành cho anh một khoảng riêng. Thỉnh thoảng, nếu chợt nhớ ra là hai vợ chồng chưa hề đi uống chung một ly cà phê, Anh lại nói:


Ra phố với anh một tí đi, Bắc Di.


Trước kia, tôi không trang điểm chỉ một thỏi son hồng trong xắc, tô nhẹ. Giờ đây, tôi tô màu son đậm hơn nhiều, lại thêm lớp phấn hồng che giấu vết nhăn của cuộc đời đã bắt đầu xuất hiện. Dưới mắt tôi, đường phố là những gam màu, những gương mặt người cũng là những gam màu. Còn dưới mắt Hà, là đôi mắt của một kế toán trưởng, lại nhìn thấy mức thu nhập của chủ quán cà phê khi khách bước vào nườm nượp. Trong cái riêng của tôi, vũ trụ luôn tung tăng nhảy với những bài thánh ca. Trong cõi riêng của Hà, những tờ giấy xếp chồng dằng dặc những chữ số hiện lên. Đôi khi tôi chợt mỉm cười để điểm chung của tôi và Hà có phải chăng là bóng đêm, là chiếc giường lò xo êm, là mùi nước hoa đắt tiền. Chúng tôi đã đi ngược chiều để gặp nhau.


Giờ đây, tôi đang đứng ở bên bờ dòng sông này. Một mình tôi trọn vẹn với bềnh bồng mây trắng ngao du trên trời. Nước sông không có một bông hoa nào trôi, chỉ có những chiếc lá rơi rụng xoắn với nhau. Những chiếc lá tre sẽ trôi ra biển.


Dòng sông nói với tôi : "Đừng lãng mạn quá. Đừng đánh mất hạnh phúc trong tầm tay mình". Tôi lắng nghe tiếng của dòng sông. Tôi đưa tiếng của dòng sông vào tranh vẽ. Phía chân trời của bức tranh là Hà và tôi - hai người đang đi - nhưng đi về đâu?


Tôi xếp giá vẽ lại, trở về. Tôi trở về để đợi Hà. Tôi sợ mình sẽ ngã lòng vì một bóng hình khác. Điều đó đang đến mơ hồ chiều hôm qua - khi tôi đang vẽ. Tôi cảm thấy trái tim mình sai nhịp, khi người đàn ông ấy đứng sau lưng:


- Cô vẽ như thả hồn vào!


Tôi biết chiều nay người đàn ông đó sẽ tới, và sẽ còn tới nếu tôi còn tiếp tục vẽ. Người đàn ông đó thì thào như gió ru: "Tôi chỉ nhìn cô đã tràn ngập nỗi hân hoan".


Dù thế nào đi nữa thì tôi biết, người đàn ông có trái tim đẹp nhất không ai khác hơn là anh: Hà.

528




Trăm năm bến cũ con đò


     Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, và bức tranh biến đổi không ngừng, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao ngệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông, có lúc hình ảnh lại xa vắng với vài chiếc vỏ lãi dài nhằng, bé teo mong manh chở đầy nhóc dừa, chuối... Nhiều khi bức - tranh như bị trĩu xuống khi buộc phải vẽ mấy chiếc xà lan ngược nước è ạch khẳm lừ, gầm gừ... Nhưng cảnh có chuyển động thế nào, trong bức tranh cửa sau của tôi, vẫn luôn có hình ảnh một chiếc đò thầm lặng chờn vờn trên sóng nước.

Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác, tôi đã nghĩ, phải mình là đạo diễn, thể nào cũng làm phim về cái bến, con đò.

Trong hình dung, đó là bộ phim giàu hình ảnh hết biết.

Trèo lên một chỗ thật cao, tôi sẽ bắt đầu "bộ phim tưởng tượng" của mình bằng cảnh các con sông giao nhau cắt thành phố bằng năm ba mảnh, gặp chút đó rồi lại thao thiết chảy đi. Nằm rải rác dọc theo những khúc sông, khúc kinh có hàng trăm bến đò ngang dọc. Mỗi bến có một cái tên khác nhau như Đậu Đỏ, Cầu Chùa, Rạch Rập, Công Chánh... nhưng giống hệt ở lối đi xuống hẹp và hơi tối. Bậc lên xuống bằng bê tông bị sóng mài mòn phô lớp đá nhỏ bên trong, nhờ vậy mà đỡ trợt chân. Những người phụ nữ đi chợ sáng về, rôm rả chuyện trò trong lúc chờ qua sông, tôm cá quẫy trong giỏ lách tách.

Và con đò, nó tới kia. Một đám trẻ con vai quàng khăn đỏ đứng ngồi lóc nhóc đang qua bờ bên này. Những chiếc đò đóng theo kiểu tam bản vững chãi, ít chao lắc. Hai bên be, đằng mũi đều được bọc vỏ xe để khỏi sờn khi va vào bến. Có chiếc còn đỏ au lớp dầu trong, có chiếc đã nhiều năm dầm mưa nắng sạm đi, khô rốc, nứt nẻ. Chiếc đò cũng già đi như người chèo nó. Cũng buồn, cũng mệt mỏi, cũng làm công việc nặng nhọc, chở người đi, về.

Nhưng dòng chảy của sông đã làm công việc người chèo đò bớt đơn điệu. Sông quê tôi không rộng nhưng sâu, đôi khi nước đứng lờ đờ, lúc ròng lại nôn nao chảy xiết. Khéo lèo lái, chỉ cần khẩy nhẹ vài lát chèo là đã qua bờ, nên ngoài sức mạnh của đôi tay còn phải nương theo nước, theo gió. Cái "nghệ thuật" chèo đò cũng lắm công phu, đừng có ai dại dột cậy mình biết chút đỉnh chèo chống hồi còn ở quê rồi xung phong chèo đò thử, coi chừng quê độ à nghen.

Đôi lần, thử gồng mình thót lên đôi chèo dưới cái nắng Cà Mau rát, gió Cà Mau khô, tôi lại thương người chèo thêm một chút. Và hình ảnh họ trong "phim" tôi luôn mạnh mẽ, tươi tắn, dù khuôn mặt có đen sạm, dù đôi tay vồng lên những đường gân guốc, dù họ chỉ khoác một manh áo bạc, và lai quần xoắn tít vì không được ủi, lâu ngày.

Trong cái phim tưởng tượng đó, tôi ao ước được vào vai người ngồi trên bến thu tiền, một bà cụ còng queo, như hầu hết người làm công việc này đều già (nhận xét này cần được kiểm chứng lại, cả câu hồi trước tôi hay nói là tất cả cây cỏ dại mọc trên đất quê nhà đều trổ hoa màu tím biếc, tôi cũng không chắc đâu à nghen). Chỗ tôi ngồi có một chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước. Cái thùng đựng tiền đã lên nước bóng ngời đặt trước mặt, thùng ngăn làm nhiều ngăn nhỏ, mỗi ngăn đựng một loại giấy bạc hai trăm, hoặc năm trăm...

Không khó để tôi vào vai nhỏ đó, bởi buổi chiều nào giữa đời, tôi cũng nhìn thấy bà cụ ngồi thu tiền đò bên kia sông. Quen thuộc, đến nỗi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ cái cười móm mém và ánh mắt hóm hỉnh, tinh quái của bà. Hai mươi năm đưa đò, cái ngày không còn quạt nổi mái chèo, bà lên bến (chứ làm sao xa được khúc sông này). Ngày ngày, bà ngồi nhìn cuộc đời cuồn cuộn đi qua, chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi cuộc đời, người già già đi, bọn nhỏ lấy nhau sinh ra nhiều thiệt nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên ... Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò, cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những "chợ vợ", để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây. Bến đò, cũng là nơi anh cán bộ phường ngày xưa thường qua, rồi anh lên thị xã, ai đó mừng, "thằng chả mà làm lớn thể nào cũng bắc cây cầu qua xóm mình. Thì kinh nghiệm, ông lớn nào đường vô nhà cũng ngon hết". Ai dè, lúc anh "lên" tới tỉnh, anh qua đò rồi đi luôn một nước. Xóm bên sông nghèo vẫn hoàn nghèo, ọp ẹp và buồn hiu.

Mới lấy ví dụ có vài khuôn mặt người mà đã thấy cái bến đò sinh động biết bao. Và vai bà cụ tóc trắng ngồi miên viễn trên bến đáng cho tôi hoá thân vào biết bao (dù có một chút thiệt thòi là sẽ rất... xấu xí). Tôi mà được ngồi ngay cái võng đó, không cần diễn, sẽ ngấm ngay nỗi vui của một người lương thiện, vui vì không làm gánh nặng cho cháu con, vui vì được làm nhân chứng cho đời... Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt.. để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hỏng chừng...

Cửa sau nhà tôi vẫn ngó ra sông, tôi vẫn ngày ngày ghi vào lòng mình bộ phim tưởng xong mà hoá ra dang dỡ mãi. Người qua đò mỗi ngày mỗi khác, có người tốt lên, có người xấu đi. Làm sao ghi hết những hình ảnh đó ?

"Phim" chưa xong, vì bến đò vẫn còn, vì cầu xây lâu mà vẫn chưa xong. Để đêm đêm tiếng gọi đò lại cất lên, những âm thanh ồn ào của đô thị lập tức ngưng phắc, chết ngắc, dường như một nửa thành phố - mấy rẻo đất buồn bên kia những dòng sông vừa lên tiếng...

NT>



Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư

63


Powered by Blogger.