Mấy hôm nay tôi thèm viết ghê lắm, bởi trí óc tôi dạo này lộn xộn, không thứ tự, ngổn ngang. Có lẽ tại cái nắng nơi đây đã làm gẫy vụn, làm tê liệt giây thần kinh chữ nghĩa trong tôi, đã biến đầu óc tôi như một căn nhà trống rỗng, kín mít, không cửa sổ để có thể thoát ra ngoài. Cái nắng hạ chói chang, nắng như thiêu như đốt nơi này đã làm cong queo những nỗi buồn, khiến chúng chênh vênh, rời rạc. Để tôi thèm một cơn mưa đi về cho ẩm đất, cho tươi cây cỏ. Cho tôi ngồi móc lại, nối lại thành một chuỗi dài để bỏ lên trang giấy, để thả vào hư không cho quên đi nỗi đau mình.
Điện thoại cell phone rung lên chưa kịp mở máy, tiếng rung tắt lịm. Điện thoại trên bàn chợt reo:
- Ti ơi, Ti biết chuyện gì chưa?
- Dạ chuyện gì hả chị?
- Chị mới nghe tin chồng của Linh vừa mất nên gọi cho Ti hay...
Tôi lặng người chết điếng trong lòng, không thốt nên lời. Chỉ trong vòng mấy tháng hè mà đã có 3 người bỏ đi... những người tôi quý mến. Họ đi nhanh quá, đi không kip từ giã nên tôi cũng không kịp một lời nhắn nhủ theo họ về bên ấy, nơi chỉ có bình an, nơi không suy tư khốn khổ, nơi đã quên hẳn nơi này.
Bạn bè mới ngày nào, như những con chim ríu rít bên nhau, ngây thơ chưa biết đời, biết người. Thoảng như một giấc mơ đã bay tản mác khắp nơi, tám phương, mười hướng. Mỗi đứa một cảnh đời, mỗi đứa một đường đi, không biết đến khi nào mới có cơ hội gặp nhau. Vừa rồi may mắn được gặp lại Trang, để nhớ đến những đêm Noel nói dối mẹ đi lễ nhưng thật ra đã cùng bạn bè tham dự những party bỏ túi, với những bước chân e thẹn ngập ngừng trên sàn nhảy. Để nhớ đến con chim giấy ngày nào được phóng từ đầu bàn bên kia lớp học bay đến chỗ tôi ngồi, con chim giấy cầm chơi trong tay, ngắm nghìa, mân mê chán định vo tròn vứt vào hộc bàn, bỗng Trang hét lên quên mình đang ở trong lớp học..."Ê mày, đừng vứt đi, thư anh tao trong đó..." tiếng hét của Trang làm cả lớp giật mình, làm tôi ngượng đỏ mặt. Gặp nhau mừng rỡ tưởng chừng như một phần đời của mình sống lại. Vừa xuống xe, Trang đã đứng chờ trước cửa tiệm cười thật là tươi:
- Trời ơi Ti, Ti vẫn vậy, Ti không thay đổi mấy.
Tôi vẫn vậy sao? hay Trang lịch sự nói cho tôi vui lòng? tôi bây giờ đã khác xưa nhiều chứ, tôi bây giờ buồn hơn xưa, không còn líu lo như chim mà mẹ tôi vẫn than buồn khi không có tôi ở nhà... Tôi bây giờ có còn là tôi ngày xưa không?... Những câu hỏi tới tấp không kịp trả lời nhau, khuôn mặt vẫn còn giữ được phần nào nét của ngày xưa để khỏi phải ngỡ ngàng nhận diện. Hai đứa gặp nhau, tíu tít đủ chuyện, chuyện của áo trắng thuở nào. Chuyện của những lần trốn học đến nhà bạn bè tập nhảy, chuyện cúp cua những giờ học khô khan khó nuốt để chui vào rạp Cine vừa xem vừa thút thít, ra khỏi rạp đứa nào mắt cũng đỏ hoe, phải dán lên mặt cái kính đen cho không ai để ý. Nhắc đến Noel năm nào, cả đám con gái mặc mini ngồi gác chân dựa vào tường, đâu ngờ tường chỉ là một tấm màn sau lưng nên cả đám ngã kềnh đưa chân lên cao cho mọi người được dịp cười thỏa thích, trong khi cả đám mắc cỡ không dám bước ra ngoài...nhắc lại cả tôi và Trang đều tưởng như mới xảy ra cho hai đứa cười khúc khích. Hai đứa nói đủ chuyện... Trang kể tôi nghe chuyện của Trang, chuyện ba chìm bảy nổi. Tôi kể Trang nghe chuyện của tôi, chuyện đã cũ thế mà mắt vẫn ướt, môi vẫn run...kể chuyện mình chán đến chuyện bạn bè. Chuyện có đứa gẫy gánh giữa đường, có đứa hạnh phúc bầm dập, có đứa bỏ học ngang lấy chồng ra tận ngoài Huế, sanh 1 lượt 7 nàng công chúa chỉ vì cứ ráng tìm một hoàng tử nối ngôi, thế mà cũng đành chịu thua trong khi có đứa mong mỏi 1 lần làm mẹ cũng không được. Có đứa vừa tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình, có đứa vừa cùng chồng sang được bên này nhưng các con còn lại...
Hai đứa nói chuyện suốt mấy đêm liền, chuyện dài chuyện ngắn, nhớ được chuyện gì kể hay hỏi chuyện ấy, chẳng cho nhau lấy một giờ nhắm mắt dù chỉ còn vài tiếng nữa phải ra phi trường. Thế mà bây giờ ngồi đây lại chợt nhớ những điều quên nói, quên hỏi. Giờ nghe tin con bạn bên kia trời đông đang quằn quại, đang đau đớn với khăn trắng trên đầu. Nghe chị tôi báo tin mà chết lặng đến không thốt nên lời, nước mắt rơi xuống má ướt mặn môi lúc nào không hay. Con bạn tội nghiệp của tôi từ lúc biết yêu cho đến bây giờ hạnh phúc vẫn không tròn trịa... Tôi tìm số ĐT của Linh gọi về. Linh như chưa hoàn hồn với những gì mới xảy ra hay sao mà lại không nhận được giọng nói của tôi, cứ hỏi đi hỏi lại:
- Xin lỗi ai đầu giây đó?
- Linh ơi! Ti đây!
- Ti nào?
Tôi cố nói tên mình cả chục lần mà Linh bên kia đầu giây vẫn không nhận ra, cứ hỏi mãi, tức quá tôi gắt lên trong điện thoại:
- Con khỉ, tao Ti đây chứ ai mà cứ hỏi hoài.
Lúc đó Linh mới nhận ra, hay lúc đó mới tỉnh người vì cái hét của tôi trong máy. Nhận ra tôi, Linh mừng quýnh:
- Ồ, mày hả? vậy mà tao cứ tưởng cô nào, giọng mày nghe như giọng con gái.
Tôi kêu lên:
- Rõ vô duyên, thế giọng như thế nào thì mới là giọng bà già? nãy giờ tao gọi mấy lần mà không ai bắt phone.
Thế là hai đứa cứ mày tao như xưa. Giọng Linh sũng nước mắt:
- Mày biết ông xã tao vừa mất không?
Nghe Linh hỏi, mắt tôi cay cay:
- Biết, chị tao mới cho hay nên gọi về cho mày đây, anh ấy sao vậy?
- Bị ung thư nhưng không biết, lúc biết thì muộn rồi, không kịp nữa.
- Gia đình anh ấy có biết tin chưa? có ai về không?
- Biết nhưng không về được
- Vậy mày lo cho anh ấy đến đâu rồi?
- Mời đưa đi xong, tao vừa bước vào nhà là mày gọi.
Im lặng một lúc, Linh tiếp:
- Mày có biết ông xã tao không?
Nghe Linh hỏi ngớ ngẩn, tôi nhíu mày tưởng như Linh có thể thấy được:
- Mày nói gì lạ vậy? Chuyện mày với ông ấy quen nhau sau khi ông ấy đi học tập về sao tao lại không biết? Lúc đó tao vẫn còn ở nhà mà. Sau đó năm 96 tao có về VN thăm gia đình. Ông ấy chở mày đến, Trong tiệc giỗ, mời anh ấy 1 lon bia, anh ấy từ chối nói: "Anh không dám uống đâu, anh mà uống là anh gục luôn, không dậy nổi, anh thèm ngủ lắm mà không có thì giờ ngủ, anh thèm một giấc ngủ dài..." mày nhớ chưa?
Nhắc lại với Linh lời của chồng Linh mà lòng tôi xót xa, cổ tôi như muốn nghẹn...Ừ anh thèm một giấc ngủ dài, bây giờ anh toại nguyện rồi nhé, anh ngủ có ngon không? anh có biết là bạn em đang quằn quại, khốn khổ vì mất anh không? anh có tội nghiệp nó không?... Giọng của Linh cất lên làm tôi giật mình:
- Ừ nhỉ, tao quên, dạo này tao hay quên quá.
Tôi an ủi:
- Tao cũng vậy, có khi tao chẳng nhớ hôm qua đi làm mặc gì, màu gì nữa.
Tiếng Linh buồn rũ:
- Tao nhiều lúc không nhớ được là mình đã ăn cơm hay chưa...
Nghe giọng Linh tôi thấy thương bạn vô cùng, chồng Linh cũng có bố mẹ anh em ở Canada
thế mà không bảo lãnh gia đình Linh sang, chỉ có ông bà thỉnh thoảng dắt nhau về... Tôi chẳng hiểu vì sao, chỉ biết có lần anh tâm sự khi em tôi sang Mỹ, sang Canada thăm gia đình trở về:
- Anh cũng có gia đình ở Canada, thế mà anh lại không may mắn được như cậu, anh thèm và ước ao được gặp lại các em anh...
Linh như quên đi cái đau trong chốc lát, hay có lẽ mấy hôm nay vật vã, khóc lóc nhiều nên không còn nước mắt để khóc, hay cái đau đã tận cùng nên không còn đau hơn được nữa. Hai đứa nói đủ chuyện, hỏi thăm về gia đình, con cái, hỏi thăm về bạn bè. Hứng chí tôi nói với Linh:
- Khi nào retired, tao về VN ở luôn.
Linh mừng rỡ kêu lên:
- Ừ, mày nhớ về ở với tao, nhà tao bây giờ rộng quá, tụi nhỏ rồi cũng đi hết, chỉ còn mình tao thôi.
Tôi bốc đồng trong giây lát quên cả suy nghĩ, nhưng khi nghe Linh nói, tôi định hỏi Linh "Tao về ở với mày, thế ông xã tao thì sao?" nhưng thấy Linh cứ ríu rít nên tôi im, tôi không dám lên tiếng bởi bạn tôi đang lẻ loi, đang một mình. Hỏi địa chỉ của Linh, Linh dẫy nẩy:
- Mày hỏi địa chỉ làm gì? mày định gởi gì?
Tôi nói quanh:
- Gởi gì? hỏi để biết thôi.
- Mày định gởi tiền cho tao chứ gì? đừng gởi, tao chưa cần, khi nào cần tao sẽ xin.
- Mày đừng có vớ vẩn, lúc mày xin tao không có thì sao? đưa địa chỉ lẹ lên. À này, mày có địa chỉ e-mail không? thỉnh thoảng nhớ viết thư cho tao.
- Tao không biết dùng e-mail, con tao nó chỉ mấy lần mà cứ quên tuốt. Mày chịu khó viết bằng tay cho tao đi.
Tôi kêu lên:
- Trời ơi, bây giờ mà mày bảo tao viết thư bằng tay thì bao giờ mới có thư cho mày đọc? Gõ thì tao gõ còn lẹ chứ ngồi viết nắn nót rồi chạy đi bưu điện gởi coi bộ chẳng bao giờ mày có thư đọc quá, vả lại thì giờ đâu mà ngồi viết?
Linh băn khoăn:
- Nếu thế mày cứ viết thư cho tao qua địa chỉ e-mail của em mày, nhận được tao đưa ra ngoài thuê họ viết thư trả lời cho mày ngay.
Nghe Linh nói, tôi thắc mắc:
- Mày nói thuê cái gì?
- Thuê người ta viết thư hộ, bên này bây giờ có dịch vụ viết thư giùm, lẹ lắm.
Tôi ngẩn người ngạc nhiên:
- Nhưng sao mày lại phải thuê người ta viết thư cho tao? Để làm gì?
Linh vẫn thản nhiên như không biết cái hoang mang, cái thắc mắc của tôi:
- Thì thuê họ viết thư trả lời cho mày, chỉ có 3000 đồng thôi.
Nghe Linh nói, tôi kêu lên như không tin những gì tôi vừa nghe:
- Cái gì? mày nói thật hay nói đùa? tay chân chữ nghĩa mày đâu hết rồi mà đến nỗi phải bỏ tiền thuê người viết? mày sao vậy? điên hả?
- Thật chứ đùa gì, tao bây giờ đầu óc mụ đi không viết được nữa, nhờ con cái thì tụi nó sức mấy mà ngồi yên cho mình nhờ.
Tôi lặng người, tôi không ngờ Linh ngày nay lại như vậy. Tôi không thể tin được con bạn của tôi ngày nào, Linh ngày xưa tự tin, dáng đẹp, hát hay, văn chương giỏi, là một trong những cây viết bích báo trong trường thế mà hôm nay lại bị tuột dốc một cách thảm hại như vậy sao?... Có phải bạn tôi đang lăn xuống triền dốc cuộc đời của mình không?... tai tôi ù đi, tôi nghe Linh cắt nghĩa vì sao, vì sao mà lòng tôi đau, tim tôi nhói, nước mắt tôi long lanh, tôi thấy nghẹn ở cổ, tôi thấy thương và tội nghiệp Linh, tôi ước tôi có thể về VN ngay lúc này để ôm Linh trong tay, để được khóc với Linh, để cùng chia sẽ những nỗi bất hạnh mà Linh đang cưu mang, để hâm nóng lại thời con gái đã qua, để làm sống lại một tiềm thức đang ngủ mê cho bạn tôi tỉnh táo hơn ra... Nhưng tôi không về được.
Tôi cầm điện thoại cố nén tiếng nấc mà nước mắt tuôn dài. Bạn của tôi thê thảm đến thế sao?... còn những người bạn khác của tôi hiện giờ sống ra sao? Đang tản mạn nơi nào? có hạnh phúc? có bình an hay cũng lao đao lận đận? Thời gian đi nhanh quá, như những bánh xe quay càng lúc càng nhanh. Tôi không dám đứng lại, tôi sợ mình bị nghiền nát bởi những vòng quay vô tình ấy. Những vòng quay của giòng đời đang biến đổi chúng tôi thành những người đàn bà khác biệt nhau, những con đường riêng rẽ mà tất cả chúng tôi đều phải đi tới với con đường trước mặt. Trái tim tôi đau vô cùng. Tôi vội bỏ điện thoại xuống, quay sang nhà tôi đang đứng gần, bật khóc:
- Anh, sao bạn em kỳ vậy? sao nó có thể biến thành một người như vậy được?... Tại sao?2063
Người phụ trách ký túc xá nói với các sinh viên mới: - Tôi nhắc lại, nam ở khu A, nữ ở khu B. Anh nào léng phéng qua khu B, lần đầu phạt 100 USD, lần 2 phạt 500 USD, lần 3 phạt 1.000 USD. Còn ai có ý kiến gì không? - Xin hỏi, đóng trước tiền phạt cả năm là bao nhiêu ạ?
Tôi chẳng khi nào lưu lại vùng quê một thời gian dài. Ở đó thật buồn. Tôi muốn đi đây đi đó, muốn thấy những miền đất lạ, gặp gỡ mọi người. Nhìn chung, đó là một cuộc sống dễ chịu. Khi cần tiền thì tôi kiếm việc làm. Tôi có thể làm đủ thứ - từ việc nhà hàng, khách sạn, đến xây dựng và thu hoạch trái cây. Ở Châu Âu người ta có thể thu hoạch trái cây hầu như quanh năm. Tất nhiên, bạn cần có mặt đúng nơi, đúng lúc. Đấy không phải là công việc nhẹ nhàng, tuy nhiên cũng kiếm được kha khá.
Mùa đông tôi thích đi về phương nam. Sinh hoạt dưới ánh mặt trời thật dễ chịu, còn Bắc Âu mùa đông vô cùng lạnh giá. Tháng 10 năm ngoái tôi ở Venice. Ba tuần liền tôi làm vài việc lặt vặt tại một khách sạn, sau đó tôi nhẩn nha dời xuống phương nam. Khi nào có thể tôi luôn luôn đi tàu. Tôi thích tàu hoả. Trên tàu người ta có thể đi lại, có thể gặp gỡ nhiều người.
Tôi rời Venice và đi Trieste. Tôi mua vé loại thường đi tàu chậm tới Sofia. Chuyến tàu này qua Nam Tư và mất khá nhiều thời gian - một ngày rưỡi cả thảy. Nhưng với tôi việc đó chẳng thành vấn đề.
Tàu rời Trieste lúc 9 giờ sáng thứ năm. Lúc đầu khách vắng hoe, nhưng tới Zagreb khách lên đông hơn. Hai cô gái đi dọc hành lang qua khoang của tôi. Họ dòm qua cửa nhưng lại bỏ đi. lát sau một phụ nữ đứng tuổi bước vào. Tìm được chỗ của mình bà liền lăn ra ngủ. Hai cô gái đi ngược dãy hành lang và lại nhìn vào khoang. Tàu dời Zagreb. Tôi nhìn qua cửa sổ chừng mươi phút rồi cũng chìm vào giấc ngủ.
Khi tôi thức giấc, hai cô đã có mặt trong khoang. Trông họ có vẻ thân thiện vì thế tôi lên tiếng:
- Chào các cô.
- Chào anh! - họ đáp lại.
- Các cô là người Mỹ - tôi nói - Hoặc người Canada, phải không?
- Người Mỹ - cô cao hơn đáp và nở nụ cười - Còn anh 23 tuổi, tên anh là Tom Walsh, anh có cặp mắt xanh và mẹ anh sống ở Bumham bên Anh chứ gì?
- Làm sao cô biết tất cả những thông tin đó? - tôi hỏi. Cô thứ hai phá lên cười: " Thì người ta xem hộ chiếu. Nó nằm trong túi áo khoác của anh đấy thôi" .
" Ồ, phải rồi" . Chiếc áo khoác nằm trên ghế sát bên tôi. Tôi lấy cuốn hộ chiếu ra khỏi túi và nhét vào trong túi xách - Thế các cô là ai? - Tôi hỏi.
Họ đáp lời tôi. Melanie và Carol quê Los Angeles. Họ nói thích Châu Âu. Họ nói đã đến nhiều xứ sở: Anh, Hà Lan, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Đan Mạch, Nam Tư, Bulgaria, Hy Lạp...
- Tôi đang trên đường tới Bulgaria - tôi nói - Ở lại đó khoảng một tháng. Sau đó tôi sẽ rời xuống miền nam sống qua mùa đông. Tôi sẽ đến Síp, cũng có thể là Bắc Phi" .
- Ồ, vậy sao? Chúng tôi yêu đất nước Bulgaria. Sofia là một thành phố tuyệt vời" .
- Các cô làm gì để kiếm tiền nào?
- À, anh biết không - Carol mỉm cười - Đôi khi chúng tôi kiếm một việc vặt vãnh nào đấy. Thôi thì đủ cả. Thế còn anh?
- Phải đấy - Melanie xen vào - Kể cho chúng tôi nghe về anh đi - chàng Tom Walsh có cặp mắt xanh. Anh đang làm gì vậy hả?
Thế là tôi kể cho họ nghe. Họ là những cô gái tốt. Họ lớn tuổi hơn tôi, có lẽ độ 27, 28 gì đó, nhưng tôi mến họ. Chúng tôi chuyện phiếm và cười đùa hàng tiếng đồng hồ. Tôi kể họ nghe nhiều chuyện về đời mình. Một số chuyện là có thật, một số thì không. Tuy nhiên cả hai đều cười và bảo rằng tôi là một gã cừ. Tôi hỏi họ về Bulgaria bởi tôi không biết gì về xứ ấy. Họ nói họ biết rõ Sofia.
" Này Carol - Melanie cất lời - Chúng mình sẽ ở Bela Palanka một hai ngày rồi cuối tuần này qua Sofia gặp Tom. Chúng mình có thể gặp cậu ấy vào đêm thứ bảy tại khách sạn Marrmara" .
" Tuyệt! Đó là một khách sạn ngon lành - Carol bảo tôi - Rẻ nhưng tốt. Anh nghĩ sao hả Tom?" .
- Còn gì bằng! - Tôi đáp - Cứ thế nhé.
Tàu đi rất chậm. Mãi sáu giờ tối chúng tôi mới đến Belgrade. Nhiều hành khách xuồng tàu. Lúc này trong khoang chỉ còn tôi và hai cô gái. Trưởng tàu đi tới kiểm tra vé của chúng tôi rồi lại bỏ đi.
Carol đưa mắt nhìn Melanie: " Này Mel, sao cậu và Tom không xuống toa hàng ăn nhỉ? Mình không thấy đói và mình muốn chợp mắt khoảng một tiếng đồng hồ" .
- Ờ... đồ ăn trên tàu đắt lắm - tôi nói - Lúc này tôi lại chẳng dư dả gì cho lắm. tôi sẽ kiếm việc làm ở Sofia.
- Ôi, Tom! - Melanie thốt lên - Sao anh không nói với chúng tôi? Xem này, anh là một chàng trai tử tế phải không nào? Chúng tôi còn đủ tiền cho tuần này. Chúng tôi có thể đãi anh mà.
- Tất nhiên rồi - Carol tán thành - Mà này, đến Sofia, chúng tôi có thể đưa anh vào một nhà hàng sang trọng nhất thành phố. Đó là một nơi hết ý. Chúng tôi thích chỗ đó lắm.
Tôi còn có thể nói gì chứ? Tôi đang đói. Họ lại có tiền còn tôi thì không. Thế là tôi và Melanie xuống toa hàng ăn lót dạ. Khi chúng tôi quay lại, Carol vẫn ở một mình trong khoang. Melanie thả chân lên ghế và thiếp đi.
Đến Nis thêm một số hành khách lên tàu. Có hai ông lão vào khoang chúng tôi. Họ vừa nhìn chân Melanie đặt trên ghế vừa nói chuyện ầm ĩ. Carol phì cười, còn Malanie mở mắt và ngồi bật dậy:
- Chúng mình sắp đến chưa? - cô hỏi Carol và nhìn ra ngoài cửa sổ.
- Sắp đến rồi. Khoảng nửa tiếng đồng hồ nữa, mình nghĩ gì vậy.
- Tại sao các cô lại xuống Bela Palanka? - tôi hỏi - Các cô sẽ làm gì ở đó?
Malanie mỉm cười: " Tìm một khách sạn rẻ tiền, gặp gỡ mọi người, thăm thú thành phố... anh biết đấy" .
- Chỉ một hai ngày thôi mà - Carol nói.
- Nhưng có quái gì ở đấy đâu!
- Ồ, anh chẳng biết được đâu - Malanie cười - Gặp anh ở Sofia, được chứ? Đêm thứ bảy đấy.
- Khách sạn Marmara. Lúc 8 giờ" , Carol bổ sung - Đừng quên nhé!
- Nhất định rồi - tôi đáp - Hẹn gặp lại hai cô ở đó.
Tàu vào ga Bela Palanka và dừng bánh. Hai cô gái xuống tàu và đứng lại trên sân ga. Qua cửa sổ họ mỉm cười với tôi. " Thứ bảy. Lúc 8 giờ" , Malanie hét lên. " Nhớ rồi" , tôi đáp. Họ không nghe được lời tôi bởi tiếng ồn ào trên sân ga. Họ mỉm cười, nhấc túi xách và bước đi. Quả là những cô gái tuyệt vời. Tôi nghĩ mình sẽ có những phút giây thú vị tại Sofia.
o0o
Tàu rời Nam Tư và vượt qua biên giới vào Bulgaria lúc 2 giờ sáng. Sau đó dừng lại tại một làng nào đó mà tôi không nhớ tên. Tôi ăn một quả táo và ngó qua cửa sổ. Bỗng nhiên có nhiều cảnh sát xuất hiện trên tàu. Hành khách trên khoang đứng cả dậy và bắt đầu xầm xì.
- Chuyện gì đang xảy ra thế? - Tôi hỏi ông lão ngồi bên bằng tiếng Italia.
- Tôi không biết - Ông trả lời bằng thứ tiếng Italia tệ hại - Có lẽ họ tìm một người nào đó. Xem kìa. Cảnh sát đang hỏi một số người vừa xuống tàu.
Lát sau hai viên cảnh sát bước vào khoang của chúng tôi, một người cao gầy còn người kia thì thấp béo. Họ nhìn chăm chú vào từng người... và rồi lại hướng vào tôi.
- Làm ơn đi theo chúng tôi - Gã mập nói bằng tiếng Anh.
Tôi mở miệng nhưng cảnh sát có bao giờ thích những câu hỏi của đám thanh niên tóc dài. Vì thế tôi im lặng, xách túi và đi theo họ. Trong nhà ga có rất nhiều cảnh sát và một số người vừa xuống tàu. Tôi nhận thấy tất cả bọn họ đều còn trẻ. Một số tỏ ra sợ hãi, một số có vẻ rầu rĩ. Cảnh sát khám xét từng chiếc túi, và sau đó mọi người lại lên tàu. Hai viên cảnh sát dẫn tôi đến bên một chiếc bàn. " Làm ơn cho xem hộ chiếu của anh - gã mập nói. - Và làm ơn mở túi xách ra" . Họ kiểm tra hộ chiếu của tôi và mở túi. Bàn bên có một nữ cảnh sát trẻ có mái tóc đỏ. Cô ta có khuôn mặt dễ thương, vì thế tôi mỉm cười với cô ta và cô ta cười đáp trả.
- Aaah! - Gã cảnh sát cao kều bỗng reo lên. Tất cả mớ quần áo dơ của tôi đã được trút ra bàn. Gã nhấc chiếc túi của tôi lên và dốc xuống. Từng bó đôla Mỹ rơi khỏi túi xuống mặt bàn. Toàn những tờ đôla mới cứng. Những bó lớn toàn tờ 50 đô. Nhiều tiền quá.
Tôi há hốc mồm không thể thốt lên lời. Bỗng chốc tôi trở thành một người được quan tâm. Rất nhiều cảnh sát chạy đến đứng sau tôi.
- 50.000 .... 100.000 .... 150.000... Ở đây có đến 200.000 đôla - gã cao kều nói. - Chiếc túi mới tuyệt vời làm sao, thưa ngài Tom Walsh!
Tôi nhanh chóng hoàn hồn. " Nhưng đây đâu phải là túi xách của tôi!" - tôi hét lên.
Gã ngoác miệng cười đắc chí: " Lạ nhỉ. Có tên anh trên đó cơ mà. Nhìn xem!" .
Tôi đưa mắt nhìn, tất nhiên là có tên tôi, và đương nhiên đấy là túi của tôi. Làm thế nào mà 200.000 đôla lại chui vào đó được?
- Anh không được mang đôla Mỹ vào đất nước chúng tôi - gã mập nói. Gã có mái tóc xám cắt ngắn và đôi mắt đen ti hý. Gã ta không hề cười cợt.
- Nhưng tôi không mang chúng - tôi nói nhanh. - Chúng không phải là tiền của tôi. Trước đây tôi chưa từng nhìn thấy chúng, và...
Có nhiều tiếng ồn ào ngoài sân ga, tôi nhìn qua cửa sổ thấy con tàu. Nó bắt đầu từ từ lăn bánh.
" Này! - Tôi la lên. - Đấy là chuyến tàu của tôi..." .
Gã cao kều phá lên cười. Đây là một ngày trọng đại của gã. " Ồ không - gã nói. - Anh sẽ không lên chuyến tàu đó nữa, sẽ phải ở lại đây với chúng tôi, tại đất nước xinh đẹp này" . Gã cười đắc chí.
Thế là tôi không đến được Sofia vào ngày thứ bảy. Tôi rất tiếc vì điều đó. Tôi muốn nói đôi điều với Melanie và Carol, hỏi họ một hai câu. Anh là một tràng trai tử tế, Tom ạ. Hẹn gặp anh ở Sofia, được chứ? Đưa anh đến khách sạn sang trọng nhất thành phố. Phải. Tuyệt lắm.
Và tôi không đến được Síp cũng như Bắc Phi mùa đông năm ấy. Tôi phải đi cải tạo. Trong tù cuộc sống đâu có an nhàn. Tuy nhiên mùa đông ấy khá ấm áp và đồ ăn không đến nỗi tệ. Tôi gặp một số người thú vị. Có một người quê ở Georgia, một nơi bên bờ biển Đen, tên anh là Boris. Một gã rất cừ. Khi ra tù tôi và anh sẽ sang Australia... có lẽ đến Brisbane hoặc Sydney. Kiếm một việc làm trên tàu và bắt đầu một cuộc sống mới. Hy vọng mọi chuyện sẽ tốt đẹp.266
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Trào Lộng U Mặc Là Gì?
Một nhà văn tây phương có viết:
"Tình yêu là một vị thần bất tử,
U mặc là một lợi khí,
Cười là một sự bổ ích.
Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười
đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.
Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!"
Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".
U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.
Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!
Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.
Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.
Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu...
Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...
Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện.
Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!
Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững.
Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối.
Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.
Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc.
Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào!
Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"
<
BR>U mặc là ngọn t hanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!
Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".
Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.
Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"
Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông Khổng "tòng ngô sở hiếu"!
Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.
Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến. Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc, Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc thượng thừa.
Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.
Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng, biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thu. Kết quả là cuối đời Tấn, một nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm, thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"
So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ" của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ, nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.
Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục, Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!
Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.
Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.
Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết. Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"
Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu, mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà thôi.
Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù, thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém thành thật đối với mình.
Trước khi rút xương sườn của Adam để làm cho anh ta một người đàn bà, Thượng đế đã đánh thuốc mê cho Adam rồi thở dài:
- Tội nghiệp, đây là lần cuối cùng con được ngủ yên.
2368
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Cầu Cho Bạo Chúa Sống Lâu.
Có một lão bà ở Syracuse. Lúc bấy giờ vua Dennys trị dân tàn bạo một cách không thể nói.
Thiên hạ đều cầu khẩn cho vua chóng chết.
Thế mà lão bà sáng nào cũng vào giáo đường cầu nguyện cho bạo chúa sống lâu. Hơn nữa lại còn vái lạy thần linh, nếu có làm chết xin làm chết mình thay cho hôn quân.
Vua biết tin lấy làm lạ lùng quá, bèn vời lão vào hỏi cho rõ lý do. Lão bà nói:
- Tôi nay không có xuân xanh nữa! Trước đây, khi tôi còn trẻ, nước tôi đã phải gặp hôn quân vô đạo, thật là khổ sở vô cùng. Tôi cầu nguyện cho nước thoát khỏi hôn quân. Sau đó kẻ hành thích vua khác lên kế nghiệp. Ngờ đâu lại tàn bạo hơn vua trước. Tôi lại nghĩ, giả sử vua này chết đi, thì có lẽ nhân dân thoát khỏi lầm than. Hay đâu vua ấy qua đời, thì đến bệ hạ lên ngôi, thiên hạ lại lầm than nhiều hơn các đời vua trước nữa. Lấy đó mà suy, thì đời sau chắc hẳn vua lại còn tàn ác hơn đời này. Sở dĩ tôi cầu nguyện đem thân này thế cho nhà vua được trường thọ là để trì hoãn được cuộc thay đổi ấy ngày nào hay ngày đó!
Lời bàn:
Câu chuyện bắt đầu là đã có sự bất ngờ. Và từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, ta đi đến một bất ngờ vô cùng hài hước này: Trong khi ai ai cũng đều cầu mong cho bạo chúa chết đi, lại có một bà lão vái van cho bạo chúa sống lâu, và nếu cần, chết thế cho bạo chúa.
Nhất là câu giải thích cuối cùng của lão bà, thì quả là điều mà không ai tưởng tượng. Phải chăng đó là lời nói của một tâm hồn tuyệt vọng hay một tiếng cười nghịch ngợm chua chát, vô cùng can đảm, để mà đùa cợt với cuốc đời?
Sau hồi ngạc nhiên và thỏa mãn với câu "chửi" táo bạo vào mặt hôn quân, ta cảm thấy có một ý vị sâu sắc trong lời nói đầy kinh nghiệm và "khôn ngoan" của lão bà. Lúc bà còn trẻ tuổi, bà cũng tin rằng hễ giết được bạo chúa thì thay đổi được cuộc diện xã hội tức khắc. Nhưng, qua bao nhiêu lần thay đổi, bà lại thấy xã hội này càng điêu linh thống khổ hơn. Nay bà đã già rồi, với bao kinh nghiệm đã trải qua, bà không còn ảo vọng nữa.570
Quỳnh Hoa yêu thương,
Suốt tuần lễ nay anh như lên cơn sốt mỗi khi nghĩ đến phải viết bức thư này cho em. Anh muốn quên đi điều này, tránh né điều mà anh thật lòng muốn mất đi trí nhớ để không còn một chút gì trong ký ức nữa... Nhưng rồi anh phải đối diện với sự thật. Có nghĩa là anh phải viết lá thư này đến em...
Quỳnh Hoa em,
Anh không biết phải đặt em vào cương vị nào trong đời anh? Người vợ ư? Người tình ư? Hay thôi, anh tạm gọi em là cố nhân đi em nhé! Khi đã gọi em hai chữ “cố nhân” tức là anh đã quyết định chấm dứt cuộc tình của chúng mình rồi!
Anh tự động dứt khoát chưa có sự đồng ý của em nhưng anh tin em đọc kỹ thư này rồi sẽ hân hoan chấp nhận vì biết rằng anh vẫn kính yêu em.
Cho anh nhắc lại một lần kỷ niệm êm đềm của chúng mình Quỳnh Hoa nhé!
Lần đầu tiên theo bạn bè về thăm lại quê hương sau hai mươi năm trời xa cách. Bỏ bạn bè lại Saigon, anh len lỏi về quê thăm gia đình, ngang qua bờ sông đầy sỏi trắng, anh như bị chôn chân lại ở dòng sông nhỏ khi thấy em đang ngồi ngâm hai chân xuống nước với dáng vẻ trầm tư. Anh bị thôi miên bởi những ngón chân đỏ hồng của em dưới dòng nước đang xuôi chảy. Em hoảng hốt, lúng túng khi bất chợt nhìn thấy anh đang đăm đăm đứng lặng người nhìn... Rồi anh cũng hoảng hốt xin lỗi sự có mặt đường đột ấy. Người ta gặp gỡ thường tương tư nét đẹp và thanh tú của người thiếu nữ. Riêng anh, anh cũng lấy làm lạ vì sự tương tư khác thường của chính mình.
Rồi vì cùng xóm, ta quen nhau dễ dàng. Bạn bè anh về thăm quê hương hầu như với những ước mơ hưởng thụ. Anh suýt có lần đánh lộn với một người bạn khi nó bảo: “Hãy hưởng thụ để trả thù dân tộc”. Dân tộc mình có gì để mà trả thù? Câu nói vô ý thức ấy đã khiến anh tách rời lũ bạn để về ở hẳn với gia đình. Trong vòng một tháng, một tháng ấy anh không khai thác gì thêm được nơi em ngoài vẻ trầm mặc, ngoan hiền và có vẻ chịu đựng; ba em, một phế binh QLVNCH cụt hai chân, ngồi lê lết trên chiếc mo dày, mẹ em lao lực quá sức đã ho suốt đêm, suốt ngày, phần em từ khi đổi đời đã cởi bỏ chiếc áo mô phạm để buôn tảo bán tần nuôi cha, nuôi mẹ. Gặp em, anh cảm tưởng như là định mệnh vì từ lâu rồi, từ lúc tình đầu anh dang dở, anh quyết không lập gia đình... Nhìn em trong hoàn cảnh thương tâm ấy, anh càng yêu quý em hơn. Anh đã xin phép mẹ anh ngỏ lời xin cưới em.
Đêm tân hôn vui vẻ, tiếp đãi bạn bè nhưng anh vẫn không ngừng theo dõi những diễn tiến nội tâm em... Mặt em trắng bệch, môi em run run khi đứng trước mặt Duy, em nâng ly rượu uống cạn như uống hết đắng cay cuộc đời. Em cám ơn từng người, riêng Duy em không nói lời nào chỉ quay nhìn hướng khác.
Lần đầu tiên uống rượu nên em đã ngủ say đêm ấy. Sự ghen tuông, ích kỷ khiến anh không ngủ được khi nhớ lại thái độ em và ánh mắt buồn diệu vợi của Duy. Anh tò mò lục lạo tìm kiếm dấu tích về quá khứ của em. Không khó khăn gì: trong chiếc vali lớn đựng quần áo mang sang nhà anh trong ngăn vải nhỏ em giấu một bức thư gửi cho Duy nhưng chưa kịp trao. Đọc một lần nhưng anh vẫn nhớ mãi nội dung, anh đã cầm bức thư ấy về Mỹ, anh ghi lại đây để em được đọc lại những gì em đã viết cho Duy: “Duy! Tha thứ cho em và hãy cố quên đi kẻ bội tình. Tuy tha thiết yêu anh nhưng mẹ bệnh quá nặng, nếu không có tiền trị bệnh, mẹ có thể mất. Em không nở nhìn Ba lê lết trên tấm mo cau mỗi ngày, bữa đói, bữa no. Anh thì không làm gì ra tiền, vì sự bất công của xã hội sau khi anh đi cải tạo về, ước mơ sang Mỹ với diện H.O. cũng tan thành mây khói vì anh không hội đủ điều kiện. Em nhận lời cầu hôn của anh Đỗ ở Mỹ về là có lỗi với anh khi bội ước lời thề, nhưng xin anh hãy tha thứ và thông cảm cho em. Ngoài sự lựa chọn này, em không còn có một con đường nào khác. Và em cũng cảm thấy có lỗi với anh Đỗ, do đó em nguyện với lòng giữ mãi sự thủy chung để đáp lại ơn nghĩa. Cúi xin anh lượng thứ cho em.”
Trong đêm khuya, đọc lá thư em anh đã tự trách mình quá hấp tấp, không chịu tìm hiểu sâu vào quá khứ của em. Anh vô tình cướp đi một mối tình của chiến hữu. Đã làm khổ em. Anh thấy Duy xứng đáng để hưởng tình yêu của em hơn anh. Bao nhiêu năm cải tạo về, không còn một chút gì để bám víu ngoài tình cảm của em. Anh lại “cướp” em đi, anh biết Duy sẽ đau khổ lắm. Với ý nghĩ ấy, nên anh đã bảo em rằng anh giữ gìn trong trắng cho em chờ ngày đón em qua Mỹ. Em lại tin anh, vì sự thánh thiện của em nên ngay hôm sau anh đã hấp tấp nhờ người đổi vé máy bay để về sớm hơn dự định vì anh không biết gần gũi em lâu, anh sẽ thế nào...
Đến Mỹ, hình dáng em, tính tình em lại càng nung nấu anh hơn. Những ngày phép còn lại, chiều chiều anh lái xe ra biển nhìn vọng về quê hương... Anh lại chui vào vỏ ốc cô đơn của mình, anh buồn và nhớ em lắm nhưng anh chấp nhận sự hy sinh này vì dù gì anh vẫn còn diễm phúc hơn Duy nhiều.
Anh kèm theo thư này với số tiền hai ngàn đô. Với số tiền này, anh xin làm quà cưới cho em và Duy. Em sẽ cười anh “quân tử Tàu”. Nhưng Quỳnh Hoa ơi! Cho anh được làm một điều mà anh cảm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của anh: xoa dịu phần nào khổ đau của dân tộc mình. Một điều anh tha thiết nhất. Hãy quên anh và mong em cũng như Duy được an vui hạnh phúc, đó là trả ơn anh.
Vẫn thương em như người em gái.
Trong phòng thử quần áo, một phụ nữ mặc chiếc áo măng tô sang trọng lên người. Cô ta hơi vén tấm rèm phòng thử ra hỏi người bán hàng:
- Cô có nói giá tiền cho chồng tôi biết không?
- Có ạ, thưa bà.
- Phản ứng của ông ấy ra sao?
- Ông ấy ngất đi.
- Cô biết câu tục ngữ "Im lặng là đồng ý" rồi chứ. Tôi lấy chiếc áo này.
Chẳng có kết quả
Tên ăn trộm lần thứ 6 ra tòa.
- Anh có điều gì nói để biện hộ cho mình không?
Quan tòa hỏi:
- Có, thưa ngài chánh án. Tôi muốn đề nghị các ông đừng đưa tôi vào tù nữa. Đã 5 lần người ta cho tôi đi tù mà chẳng đem lại kết quả gì cả.
Tặng quà
Một chàng trai Scotland hỏi người yêu:
- Sinh nhật này em muốn tặng cái gì?
- Em không biết, em chưa nghĩ đến điều đó.
- Được, anh gia hạn một năm để em suy nghĩ cho kỹ.37
Giám đốc ngân hàng thố lộ nỗi lo lắng của mình với viên trợ lý:
- Trưởng phòng kế toán làm tôi lo lắng. Đã hai tuần nay hắn ta nghiên cứu mọi chuyến bay của tất cả các hãng hàng không quốc tế.
- Có lẽ ông ấy chuẩn bị đi nghỉ chăng?
- Nhưng anh hãy giải thích cho tôi tại sao hắn ta lén lút ôm vợ tôi và thì thầm vào tai cô ấy: "Gắng chút nữa, cố bình tĩnh chờ đợi".1929
Tèo đứng ở ngưỡng cửa nói với chàng trai đến tán tỉnh chị gái. - Em nhìn thấy anh ôm hôn chị em. - Nói bé thôi, cho em 10.000 đồng. - Cảm ơn anh, trả lại anh 5.000 đồng. - Thằng này ngoan thật. - Không, em chỉ muốn công bằng, các anh khác cũng chỉ trả em có 5.000 đồng.
Quả trứng Người Ai Cập cổ và người Hồi giáo cho rằng trứng là sự sinh sản dồi dào, biểu hiện cho sự tái sinh của mọi loài vật. Vì thế nó tượng trưng cho đôi vợ chồng mắn con hơn là cho tình yêu đôi lứa. Hoa hồng Theo những triết gia xưa, đây là hình ảnh của tình yêu mẹ con giữa thần Vệ Nữ và con trai, thần Cupid (thần tình ái nam). Hoa hồng cũng tượng trưng cho hòa bình và sự tha thứ. Ngày nay hoa hồng là biểu hiện cho tình yêu đôi lứa. Đôi môi Là dấu hiệu của tình yêu thể xác (theo các nhà nghiên cứu). ở người đàn bà, đôi môi được xem là gợi tình khi đỏ mọng, dầy và hơi hé mở. Trong khi ở đàn ông, môi phải hơi mỏng và mim mím. Nhẫn cưới Sự kết hợp giữa cô dâu và chú rể bằng chiếc nhẫn là một phong tục cổ xưa, có xuất xứ từ thành Rome cổ đại. Chiếc nhẫn như lời hứa với tất cả mọi người về cuộc sống đôi lứa vĩnh cửu. Thời kỳ đầu, nhẫn chỉ được làm bằng loại thép đơn giản, sau này người ta mới dùng vàng. Đến thế kỷ 15, kim cuơng bắt đầu xuất hiện và phổ biến đến nay. Nguời công giáo rất trân trọng nghi thức trao nhẫn, và nó đã trở thành một khoảnh khắc thiêng liêng trong ngày hôn lễ. Hoa Súng Được xem là dấu hiệu của sự mong muốn và sức mạnh về tình dục. Dân địa phương ở miền Bắc nước Mỹ ăn loại hoa này để cảm thấy sảng khoái, quên đi những ưu phiền, bực bội trong lòng. Mặt trăng Sự bình an sẽ có mỗi khi ta nghĩ đến hoặc ngắm trăng. Người châu á thường cầu nguyện đến mặt trăng cho những ước muốn về cuộc sống hạnh phúc. Trai gái hay lấy vật này để làm chứng cho tình yêu chân thành. Con Rồng Theo người Trung Hoa, rồng là hình ảnh của sự phồn vinh, thịnh vượng. Còn trong tình yêu, nó lại là biểu hiện của sự đam mê mạnh mẽ không gì lay chuyển nổi. (thế giới Phụ nữ) Trái tim Thần ái tình luôn đóng một vai trò không thể thiếu được trong các ngày l540
Những biểu tượng tình yêu
Cảm xúc là những xúc cảm mà chúng ta cảm nhận được như tình yêu, hạnh phúc, tức giận hay sợ hãi (hỉ , nộ, ái, ố). Từ cách đây rất lâu, người ta đã tin rằng tất cả những cảm xúc này đều bắt nguồn từ trái tim. Những năm sau đó, người ta chỉ nghĩ đến sự liên hệ giữa cảm xúc tình yêu và trái tim. Trái tim vẫn được coi là biểu tượng của tình yêu và bởi vậy nó cũng là biểu tượng của ngày Tình Yêu.
Ðăng ten
Ðăng ten là một loại vải rất đẹp được tạo ra bằng cách đan những sợi chỉ mảnh với nhau. Cách đây hàng trăm năm, phụ nữ mang những chiếc khăn choàng bằng đăng ten. Nếu một người phụ nữ đánh rơi chiếc khăn choàng của mình, người đàn ông đứng gần đó sẽ nhặt nó lên và đưa lại nó cho cô. Ðôi khi người phụ nữ gặp được người đàn ông của cô. Cô có thể giả vờ đánh rơi chiếc khăn choàng để làm một cuộc hẹn hò lãng mạn. Thế rồi chẳng mấy chốc người ta nghĩ đến sự lãng mạn khi họ nghĩ đến đăng ten. Họ bắt đầu sử dụng những loại đăng ten bằng giấy để trang trí cho các hộp Sôcôla và bưu thiếp Valentine.
Tất tay
Cách đây nhiều năm, khi một người đàn ông ngỏ lời cầu hôn với một người phụ nữ anh ta thường yêu cầu được hôn tay người phụ nữ đó. Bàn tay trở thành một biểu tượng của tình yêu và hôn nhân. Những chiếc tất tay cũng nhanh chóng trở thành biểu tượng của tình yêu.
Nơ tình yêu
Một dải nơ tình yêu gồm một loạt các nút thắt và đường cong bằng vải không có đầu mà cũng không có cuối. Ðó là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Người ta tạo ra những dải nơ từ những dải ruy băng hay vẽ chúng lên trên giấy. Thông thường, người ta viết lên dải nơ tình yêu một bức thông điệp. Bức thông điệp không có bắt đầu mà cũng không có kết thúc. Nó có thể được lặp đi lặp lại mãi.
Chim uyên ương và bồ câu
Chim uyên ương thường là những chú vẹt sặc sỡ thường thấy ở châu Phi. Phần lớn đều có mỏ đỏ. Chúng được gọi là chim uyên ương bởi lẽ chúng thường đứng sánh đôi bên cạnh nhau. Người ta cho rằng bồ câu là loài chim yêu thích của thần Vệ Nữ. Chúng thường chung sống với người bạn đời của mình suốt cả cuộc đời. Cả chim trống và chim mái đều chăm sóc cho những đứa con của mình. Bởi vì chim bồ câu biểu tượng của sự thủy chung và tình yêu nên người ta cũng xem chúng như là biểu tượng của ngày Tình Yêu.
Thần ái tình - Biểu tượng truyền thống của ngày Tình yêu
Con trai của thần Vệ Nữ, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Thần ái tình có thể khiến cho người ta yêu nhau bằng cách bắn thủng trái tim họ với một trong những mũi tên kì diệu của mình.
Chàng nọ đi dạo chơi, vui chân đi quá xa, trời đã tối thấy mỏi chân, muốn quay về nhưng sực nhớ mình không mang tiền để đi xe về nhà. Chàng bèn gọi taxi , lên ngồi đàng hoàng ở ghế phía sau. Gần tới nhà, chàng bảo anh tài xế:
- Anh làm ơn đỗ lại, tôi muốn vào tiệm kia mua bao diêm, tôi vừa mới đánh rơi tờ 100 đô trên xe, nhưng tối quá tìm mãi không thấy. Anh chờ một chút nhé!
Chàng nọ xuống xe vờ đi vào một cửa hàng. Khi quay ra, chiếc xe đã phóng đi đằng nào mất.
Đi đài nào?
Bà mối đang thuyết phục ông nọ gả con gái cho Đài Loan:
- Ba đứa con gái của anh mà gả qua Đài Loan là hết ý!
- Hết ý chỗ nào?
- Nè tôi nói cho anh nghe: Hai đứa đầu anh gả ở Đài Bắc, đứa út ở Đài Trung. Mai mốt anh đi thăm chúng một lèo, có phải tiện hơn không; vừa mang tiếng đi nước ngoài, vừa có tiếng đi thăm con. Sang hết biết!
- Ờ gả xong có nước tui đến đài phát thanh chớ đi Đài Loan nỗi gì?
- Sao kỳ dzậy?
- Tôi già yếu vầy làm sao đi nổi qua tới Đài Loan? Chỉ có nước tới đài phát thanh để phát tin tìm con nuôi chăm sóc, hủ hỉ lúc tuổi già...
Nếu không dùng được...
Tại một quầy bán đường sữa, khách mua một hộp sữa Ông Thọ, thấy trên vỏ đã hết hạn, liền nói:
- Ông làm ơn đổi cho tôi hộp sữa khác, hộp này quá đát rồi!
- Đó là hộp sữa cuối cùng đấy ạ.
- Nếu tôi không dùng được thì sao?
- Nhà có chó không ạ, nếu không thì mèo mới đẻ...
- ???
1950