Ngày mình mới đặt chân đến đây, cái thành phố ở góc nước Mỹ này, mình thấy rất nhiều hoa. Hoa mọc hầu như khắp nơi, đến nỗi mình cứ tưởng ở đây hoa dại cũng đẹp đến vậy... Sau này mình mới biết rằng, từng khóm hoa ở đây đều có bàn tay người quan tâm chăm sóc; ngay cả những bụi hoa mọc ra từ những kẽ đá chung quanh nhà ai, cũng không phải mọc lên một cách tình cờ, như một loài hoa dại.
Năm đó mình học lớp mười, một cái lớp thật đặc biệt, chì có ba thằng con trai. Một thằng thì lúc nào cũng như ở trên mây; chẳng thèm ngó ai; nên mình cũng không thèm ngó hắn. Một thằng nữa thì trông yểu điệu thục nữ, phát ngán. Thằng thứ ba là mình, từ hồi học lớp chín đã được bọn cùng lớp đặt cho cái nick công tử bạc liêu. Mình không chơi với hai tên có tài, nhưng quái dị kia. Còn lại mười đứa con gái, thì khỏi nói - phá như qủy!
Ngày đầu tiên mình vào lớp, một nàng nghênh mặt lên, phán một câu: "Có vô lộn chuồng không đó?" Thú thực, ngoài những năm tiểu học ngây thơ, đây là năm đầu trung học, mình học chung với con gái, nên hơi mắc cỡ, chẳng nói năng gì, đi thẳng đến chỗ ngồi của hai tên cùng phái. Sau này, mình biết tên của nàng đó là Nhiên. Cũng dân số trong lớp như vậy, bọn mình học chung với nhau hai năm nữa; và cùng trải qua những kỳ thi của quận, của thành phố, rồi lên đến cấp quốc gia. Thân nhau hơn, vui hơn. Ừ, tuổi học trò dường như chỉ có vui; buồn có chăng, chỉ để trang điểm cho ra vẻ cuộc đời.
Và mãi đến những ngày cuối cùng của năm mười hai, mình và Nhiên mới có cái hẹn đầu tiên. Gọi là hẹn hò, phải không, vì đó là lần đầu chỉ có hai đứa với nhau. Hôm đó, không phải là chiếc áo dài trắng Nhiên vẫn mặc đến lớp hàng ngày, mà là một chiếc áo đầm với những chiếc bông to màu sáng thanh nhã. Đó là một buổi sáng cuối tuần bình yên, nắng dịu, mặt đất âm ẩm mát mẻ sau cơn mưa đêm hôm trước. Đó đây, lẩn khuất trong những đám cỏ xanh ven đường, là những cánh hoa dại.
"Nhân hái cho Nhiên mấy cành hoa dại kia đi" Vậy là những cánh hoa đầu tiên mình tặng một người con gái lại là những cánh hoa dại. Bây giờ, nghĩ lại, sao thấy mình dạo đó khờ qúa, chưa biết mua hoa để tặng người ta. "Nhân ơi, ở đó có nhiều hoa dại không?" Trong lá thư gửi cho mình mới đây, Nhiên đã hỏi mình như vậy.
Trả lời sao đây nhỉ?
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Suối Trường Sinh
Miya Jima nước Nhật Bản xưa kia là một hòn đảo nổi tiếng linh thiêng. Dân ở đảo này hầu như không ai có quyền chết.
Đảo này là một trong ba thắng cảnh đẹp nhất xứ Phù Tang. Toàn đảo có một ngôi đền danh tiếng ở ngay trên bờ biển. Cửa chính của đền hướng ra biển. Những lối đi trong đền dựng không biết bao nhiêu những cây đèn bằng đá, liên tiếp từ cửa này đến cửa khác. Nơi đây có những con nai đi lại nhởn nhơ không chút sợ sệt sự qua lại của những người mộ đạo. Không khí rất trong lành, biện một màu xanh biếc. Bên kia eo biển, xa xa hiện lên những dãy núi tim tím, những cánh buồm rơm vuông vắng của những chiếc thuyền đánh cá phản chiếu ánh sáng mặt trời, trông như những đám lửa nhỏ nổi lên mặt nước.
Trong số dân cư ngụ tại đảo nầy có hai vợ chồng người tiều phu già, hết sức già. Chồng là Yoshida, vợ là Fumi. Họ được cả làng yêu mến vị nể. Ai nấy đều khen sự kiên nhẫn chịu đựng mọi sự mà họ đã trải qua, và ca tụng sự trung thành của hai người đối với nhau trên sáu mươi năm chung sống.
Họ không quen nhau mấy, hồi mà cha mẹ họ quyết định sự hôn nhân. Yoshida chưa bao giờ dám nói chuyện với Fumi, nhưng khi gặp nhau trên bãi biển thì chàng cứ nhìn nàng bằng cặp mắt trìu mến và cứ nhìn theo nàng mãi. Nàng đi thong thả, hơi cúi về phía trước(đó là lối đi của những thiếu nữ có giáo dục). Những ngày hội, chàng thích tìm nàng trong đám đông để thấy khuôn mặt trái soan của nàng, có cặp má đào đỏ hây, cái áo dài màu ngọc trai xám có thắt ngang một cái thắt lưng lớn, gấu áo viền bằng lụa nâu có thêu những bông cúc trắng.
Fumi cũng không khao khát ngày cưới lắm, vì nàng biết đời nàng đã được định đoạt rồi, và mấy tháng trước ngày cử hành hôn lễ, nàng đội cái mũ "mũ cưới" tượng trưng cho người con gái sắp thành hôn. Bản tính Fumi dịu dàng, mà nàng vẫn sợ trước những sự nghiêm khắc, những sự bất hòa có thể xảy ra giữa vợ chồng. Nàng nghĩ đến câu phương ngôn: "Lòng người đàn ông dễ thay đổi như trời thu". Nhưng nàng sẽ nhất định giữ được tình yêu của chồng bằng sự kiên nhẫn, dịu dàng và sự âu yếm kín đáo của nàng. Nàng có biết câu phương ngôn: "Nếu người ta ngồi ba năm trên một tản đá đó cũng sẽ nóng..."
Cuộc hôn nhân của Yoshida và Fumi đã được cha mẹ định đoạt đúng luật lệ cổ truyền, nên được vui vẻ và tồn tại giữa hai vợ chồng. Ngay từ buổi đầu, Yoshida yêu Fumi với tất cả mối tình nồng thắm của tuổi trẻ và Fumi đền đáp lại bằng sự yêu kính chồng rất mực.
Họ được hưởng những lúc vui sướng cũng như những hồi buồn bã. Vui, là họ sinh liên tiếp ba trai. Rất buồn là ba con lúc đã trưởng thành lại bị chết một ngày vì nghề đánh cá. Một hôm ra khơi, biển đã cướp mất cả ba người con. Yoshida và Fumi trong lòng tan nát, cố chịu đựng trước bạn bè, gượng cười ra vẻ thản nhiên. Nhưng khi chỉ có riêng họ, họ khóc sướt mướt. Tay áo họ luôn luôn đẫm lệ đau thương. Họ đặt bài vị ba con trên một cái bàn nhỏ bằng gỗ quý, tại một căn phòng đẹp nhất để ngày đêm tưởng niệm. Mỗi ngày trước bữa ăn, họ đặt thức ăn lên một cái bàn bằng gỗ sơn, đốt hương để khấn các con về thụ hưởng. Những lúc đó họ ngồi hàng giờ để nghĩ tới những người con đã mất.
Bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng, họ lấy sự kính yêu nhau làm nguồn an ủi duy nhất. Mỗi người đều muốn làm cho người kia bớt đau khổ, họ tìm đến cách âu yếm lẫn nhau. Dần dần tâm hồn họ bình thản trở lại, và họ trở nên kiên nhẫn. Họ lấy câu tục ngữ sau đây để tự an ủi: "Khi hoa anh đào đã tàn, không phải lấy sự tiếc thương mà làm cho hoa anh đào nở được"
Giờ đây họ đã già lắm, già như những con đồi mồi cổ kính. Yoshida thì nhăn nheo, khô héo, chân tay run rẩy, Fumi thì tóc và lông mày đã rụng nhẵn.
Người ta gặp họ đi chơi với nhau, bước chân chập chạp, vợ đi sau chồng một chút (vì tập tục như vậy) Thỉnh thoảng đôi cvợ chồng già này đi đến tận ngôi đền nguy nga làm cho hòn đảo nổi tiếng khắùp nước.
Ở nhà, dù Fumi đã nhiều tuổi, vẫn cố gắng giữ gìn nhà cửa được sạch sẽ, xinh xắn. Bà ưa màu trắng của bức tường bằng giấy và ánh sáng của chiếc chiếu mới với một ý nghĩ rất tế nhị hòa hợp tình cảm, bà thường thay đổi sự trang trí tùy theo thời tiết, tùy theo từng mùa hoặc tùy theo màu sắc của từng ngày, tùy theo nỗi buồn trong tâm tưởng khi treo những bức tranh lụa trên tường, một trong cái bình bằng đồng bà cắm ba cành hoa rất khéo léo mỹ thuật.
Đôi khi cạnh lọ hoa, bà đặt hai pho tượng nhỏ, tượng trưng cho hai ông bà già đang quét là thông. Đó là tiêu biểu tình nghĩa vợ chồng những cặp vợ chồng già được ví như hai cây thông đã mật thiếc mọc liền thân với nhau đến nỗi trông như một và cùng già bên nhau.
Cũng có khi Fumi đặt trên bàn một pho tượng sơn, tượng một vị thần mà bà thích nhất, một vị thần rất ngộ nghĩnh, có bộ râu dài, đội một cái mũ kỳ lạ, tay cầm một cái gậy, còn tay kia cầm một quyển kinh, đó là một trong bảy vị linh thần, mà là vị thần tượng trưng cho hạnh phúc của tuổi già.
Yoshida và Fumi kể là đôi vợ chồng già sung sướng, biết gác ra ngoài những nỗi khổ cực của loài người để hưởng sự yên tĩnh và thương yêu lẫn nhau.
Nhưng dù sao họ vẫn có một mối sầu vương vấn. Bây giờ họ đã quá già, lòng luyến tiếc thời trẻ trung xưa kia đã quá xa. Người nào cũng nghĩ rằng: Khi mà một trong hai người chết đi, người còn sống sẽ đau khổ biết chừng nào, cô đơn biết chừng nào! Giá bây giờ họ còn trẻ cả hai, họ sẽ hưởng được một cuộc sống lâu dài bên nhau. Đời sống họ sẽ trở nên thơ mộng biết bao, êm đềm biết bao!...
Một buổi thu, trời trong sqng, Yoshida như có một cảm hứng huyền bí gì, đi về phía rừng một mình. Nơi đây, trước kia ông đã làm nghề đốn củi rất cần cù, bây giờ trước khi chết muốn nhìn lại cây cối mà ông đã sống gần suốt đời.
Nhưng khi đến nơi, ông không còn nhận ra phong cảnh xa xưa kia nữa. Ngay cửa rừng ông không còn thấy cây Phong to lớn lá đỏ của mùa thu, nổi bật giữa đám lá thông xanh thẫm. Ông không nhận thấy cả cái suối nước trong, trong một cách lạ lùng, màu xanh lơ...
Sau khi đã ngồi, ông thấy khát nước, thấy có một núi trong xanh ngay cạnh lối đi. Với hai lòng bàn tay, ông bốc nước lên, uống thông thả...
Nào ngờ? Khi nhìn bóng mình trong suối nước, ông thấy
thay đổi hết: Tóc đã trở n%C 3?n đen nhánh, mặt hết nhăn nheo, trong người các bắp thịt có một sức mạnh đang vươn lên. Yoshida đã trẻ lại như người mới hai mươi tuổi, ông đã vô tình được nước suối "trường sinh".
Khỏe mạnh, tươi vui, đầy nhựa sống, ông già Yoshida bây giờ là một chàng thanh niên trẻ trung yêu đời. Anh ta sung sướng chạy về nhà.
Bà già Fumi trông thấy một thanh niên đẹp trai đi vào nhà. Bà thốt lên một tiếng: "Ồ" rồi từ ngạc nhiên đến sợ hãi, làm bà chết đứng như người mất trí.
Yoshida vội an ủi vợ và giải thích rõ ràng sự may mắn vừa đến với anh.
Bây giờ đến lượt bà lão đáng thương vừa cười vừa khóc vì sung sướng. Sáng mai bà cũng sẽ ra cái "suối tiên" đó. Uống nước rồi, khi về, bà cũng sẽ trẻ lại như một thiếu nữ hai mươi.
Hai vợ chồng sẽ lại sống cuộc đời tươi đẹp, với bao sự vui thú của tuổi trẻ và sẽ hài lòng khi nghĩ đến những kỷ niệm đã qua.
Sáng hôm sau khi nắng hồng mới hé, sau làn không khí trong trẻo. Fumi vội vàng đi ra cái suối nước trong... Yoshida ở nhà, anh ta đợi, không có gì sốt ruột. Anh biết rằng phải mất độ hai giờ cho một người già để đi đến suối, và lúc về sẽ mau hơn.
Vậy mà đã hơn hai giờ, Fumi vẫn chưa về. Yoshida ngạc nhiên: Từ suối về có bao xa, mà sao lâu đến thế? Rồi những giờ phút trôi qua, sự sốt ruột của anh càng lúc lại càng tăng.
Thời giờ cứ tiếp tục trôi đi một cách tàn nhẫn, chậm chạp. Đã ba giờ qua, bốn giờ qua, năm giờ qua... Sự gì đã xảy ra?
Yoshida không còn kiên nhẫn hơn được nữa, vì sự sợ hãi cứ tăng dần lên. Anh đóng cửa lại rồi chạy ra rừng.
Anh chạy vội đến chỗ "suối tiên". Anh nghe thấy nước chảy hòa lẫn tiếng lá reo trên cành. Chú ý im lặng tìm kiếm một vùng rộng, mà vẫn không thấy vợ đâu, anh bắt đầu thất vọng.
Bỗng một tiếng kêu, một tiếng rên, có lẽ một con vật bị thương... làm cho anh chú y.
Yodhida đã đến gần bờ suối... Khi đến tận bờ, anh đứng lại, ngạc nhiên trông thấy giữa đám cỏ cao, có một bé con... một đứa bé gái độ chừng vài tháng, chưa biết nói, chỉ giơ tay về phía anh với vẻ thất vọng...
Yoshida bế đứa bé lên. Nhìn vào mắt đứa bé, cặp mắt lạ lùng! Cặp mắt đó làm cho anh nghĩ đến những kỷ niệm xa xôi của đời anh. Sao lại có cặp mắt giống hệt cặp mắt vợ anh một cách lạ lùng đến thế? Anh đã nhận được cặp mắt của người vợ anh: Khóc khi anh buồn, cười khi anh vui. Lòng anh xúc cảm mạnh.
Rồi đột nhiên anh hiểu được tất: À, ra chính đứa bé này là vợ anh, là bà vợ già của anh, là Fumi đáng thương đã trẻ lại. Và đã trẻ quá, vì nó muốn trẻ lại hơn chồng, nên đã uống quá độ, nên đã biến thành một đứa hài nhi...
Yoshida thở dài, bồng đứa nhỏ lên và mang nó sau lưng, như bà mẹ thường địu con... Anh buồn bã trở về, nghĩ rằng, từ đây anh sẽ phải như một người cha săn sóc và nuôi dưỡng dạy bảo đứa bé mà trước đây là vợ mình: Người bạn trung thành của anh trên đường đời.
Lời bàn:
Văn u mặc bao giờ cũng trang nghiêm nhẹ nhàng... tuyệt nhiên không có giọng hề chọc cười thiên hạ một cách rẻ tiền. Bài văn trên đây là một ví dụ điển hình
Yoshida là một tượng trưng của một hiền giả Đông phương, biết "tri túc, tri chỉ" (biết đủû biết dừng lại), mặc dù cái mộng của con người, ai cũng muốn sống lâu mà không chịu già.
Nàng Fumi là đại diện tâm hồn thiết thực của loài người nói chung, nhất là người đàn bà muôn thuở nói riêng. Có người đàn bà con gái nào mà không sợ cảnh già, mặc dù đã da mồi tóc bạc. Trẻ mãi là cái mộng duy nhất của người đàn bà để được yêu thương. Sự quá đà của nàng Fumi trong vấn đề "phản lão hoàn đồng" là cái bệnh chung của loài người. Bởi vậy, câu chuyện u mặc trên đây làm cho người ta lỡ cười lỡ khóc
Đáng thương hại là "anh chồng" lại trở thành "ông cha", "chị vợ" lại biến thành "đứa con" để cho người đàn ông đến bao giờ phải đóng vai của một người bảo hộ mà tạo hóa dường như đã an bài? Đây là cái hài kịch của thiên thu: Người chồng nào cũng phải là cha nuôi dưỡng và che chở cho người đàn bà đã trao thân gởi phận cho mình. Và chính thế mà người đàn bà và con gái nào cũng yên chí thiết một "ông" chồng có đủ điều kiện để vừa làm một người chồng và một người cha với nghĩa thiêng liêng của nó.559
1. An nhớ lần đầu tiên An biết Oanh là qua lời chị Huệ : ''Thôi, An lông bông tìm kiếm đâu cho xa, ở lớp ngoại ngữ ban đêm của chị có một con nhỏ tên Oanh, hiền lắm, lại chăm học. An để chị làm mai cho!''. Lúc đó, An vừa ở bộ đội xuất ngũ về, chưa tìm được việc làm, một mảnh tình vắt vai cũng chưa. Con gái hiền thì được chứ hiền lắm như lời chị Huệ nói thì An không ham. Nhưng cũng cười: "Ừ, thì hôm nào có dịp, chị làm mai con nhỏ đó cho em !''.
Chị Huệ chưa kịp tạo ra một dịp nào để làm mai thì một buổi sáng đi uống cà phê, An gặp Oanh đi với Thảo. Thảo là con nhỏ gần nhà An, hồi nhỏ chảnh chọe kinh khủng, lớn lên tự dưng thấy đằm thắm hẳn. Thảo gọi : ''Anh An ngồi cùng bàn với tụi này cho vui !'', chỉ cô gái đang ngồi bên cạnh, giới thiệu : ''Ðây là Oanh, bạn học bên trường Kinh tế với em''. Oanh nói giọng nhỏ nhẹ : ''Chào anh !'', rồi cười, nụ cười mỏng mảnh như sương. An nhìn Oanh, nhìn đôi mắt trong veo của Oanh, như có sợi gì đó đang vấn vít trong tim mình, thật nhẹ. Rồi Thảo chợt nhớ ra: "À, Thảo quên, Oanh học Anh văn ban đêm chung lớp với chị Huệ!''. À, thì ra là người quên. Panh tủm tỉm cười: ''Chị Huệ hay kể về anh An em chị hiền lắm. Oanh không ngờ được hân hạnh gặp người hiền ở đây''. An kêu thầm : ''Oan gia, chị Huệ ơi là chị Huệ!''.
2. An không nhớ mình bắt đầu chơi thân với Oanh và Thảo từ lúc nào. Chắc là nhờ chị Huệ đánh tiếng nhờ vả : ''Thằng em tao về đây chưa có bạn bè gì, hai đứa bây đi đâu, rủ nó đi với !''. Thật ra thì cũng chẳng ai rủ ai, chỉ toàn là tình cờ thôi. Chị Huệ bảo An ở nhà rảnh rỗi làm gì cho phí, đi học Anh văn đi, sau này sẽ có lúc cần dùng. An cắp sách đi học Anh ban đêm, lớp bằng A, tức là sau Oanh và chị Huệ một lớp. Thảo cũng đi học ở trung tâm ngoại ngữ này. Buổi tối tan học, An hay gặp Oanh và Thảo, ba anh em rủ nhau đi uống sữa đậu nành, hoặc ăn chè. Vì An chưa có việc làm nên đi ăn chè hoặc uống sữa đậu nành, có lúc An trả tiền, có lúc Oanh giành trả. An tỏ ra băn khoăn thì Oanh cười : ''Anh An đừng lo, tụi em giàu lắm !''. Chơi với nhau một hồi, An mới nhận ra, Oanh không hiền lắm như lời chị Huệ quảng cáo, chỉ ít lời thôi. Oanh cũng nói là hồi mới gặp Oanh thấy An hiền lắm rồi bỏ lửng câu ở chỗ này. Vậy là sao ? Buổi tối về nhà nằm mơ màng, An nhớ nhất là cặp mắt trong veo của Oanh. Trong veo đến mức, An không dám nói gì, làm gì để tiến đến gần Oanh hơn, vì sợ mình không khéo sẽ làm tổn thương đến cái tình bạn trong veo vừa mới chớm.
Rồi An cũng xin được việc làm, một chân lễ tân khách sạn do Oanh giới thiệu, vì chủ khách sạn là bạn thân với ba Oanh. Tháng lương đầu tiên, ba anh em rủ nhau đi lòng vòng suốt buổi chiều đến tối, đi ăn, rồi đi hát karaoke. Trong phòng karaoke, Thảo có vẻ vui lắm, nói cười nhiều lắm, nhưng đến lúc An tình cờ bấm bài Lời của gió, cười cười nói là để tặng Oanh thì không dưng, Thảo lặng lẽ hẳn, Oanh cũng im lặng làm An thấy áy náy vô cùng. Mình đã làm một điều gì không phải lúc ?
3. Oanh hẹn An đi uống cà phê riêng. Lần đầu tiên được hẹn đi uống cà phê riêng, An choáng người vì hạnh phúc. Ngồi trong quán vắng, Oanh nhìn thẳng vào mắt An, giọng nghiêm trọng hơn thường ngày : ''Anh An thấy Thảo thế nào ?''. Không dưng An cảm thấy có một điều gì đó, dè dặt : ''Thảo là một cô bạn tốt!''. Oanh cúi mặt, dùng ngón tay thấm nước vẽ mấy vòng tròn trên mặt bàn, ngọ ngoạy không yên, rồi ngập ngừng : ''Em cũng không biết nói sao nữa, Thảo mến anh lắm !''. Ðó không phải là điều An chờ đợi được nghe từ chính miệng Oanh. Bao nỗi hồi hộp, bối rối trong An tan biến đi hết, An thấy mình bình thản, như là đang nghe một câu chuyện không hề liên quan gì đến mình, buông một câu vô thưởng vô phạt : ''Anh cũng mến Thảo''. Oanh nhìn An thật lạ rồi lắc đầu : ''Nhưng cái cách anh nói không hề giống cái cách em vừa nói. Thôi, quên chuyện này đi, coi như em chưa hề nói gì với anh''. Im lặng một lúc lâu, rồi An rụt rè nhìn Oanh, nói một câu dò hỏi : ''Sao em cứ lo chuyện của Thảo mà không nghĩ gì đến mình ?''. Oanh cười cười : ''Anh đừng lo cho em. Em có bạn trai rồi''. An bất ngờ đến chẳng nói được câu nào. Một trò đùa với An, có phải ?
Không phải là chuyện đùa ! Thảo cũng công nhận : ''Oanh có bạn trai rồi!'' nhưng chị Huệ thì khăng khăng khẳng định : ''Con gái nói mà, tao học cùng lớp Oanh, tao biết, nó chưa có gì đâu ! Bồ bịch gì mà tối thứ bảy nào cũng thui thủi đi về một mình''. Rồi chị Huệ khuyên An : ''Mày cứ tiến tới đi!''. An thấy buồn và hoang mang. Mình thân với Oanh là thế, Oanh tốt bụng là thế, sao tình yêu vẫn mãi là một điều khó nói.
4. Bẵng đi một thời gian dài, có đến cả tháng, không thấy mặt Oanh, Thảo thì đi học một mình. Hai anh em vẫn hay đi uống sữa, ăn kem sau giờ tan học. Một bữa, An làm như vô tình : ''Sao lâu nay không thấy Oanh hở Thảo ?''. Thảo cười : ''Bây giờ thì Oanh quên anh em mình rồi. Bồ nó về!''. Giọng An nghe thật lạ: ''Ở đâu về?''. ''Ở Mỹ. Oanh với anh Phong quen nhau hồi còn đi học, anh Phong đi Mỹ bốn năm nay, bây giờ mới về''. Thảo còn làm như vô tình kể thêm vài chuyện vu vơ nữa về Oanh, về Phong, nhưng An không nghe được gì, hai tai An như ù đi. Không phải là lần đầu tiên An biết yêu nhưng cảm giác này thật khó mà chịu đựng nổi ! Ngốc thật!
Có một buổi chiều chạy xe trên phố, an gặp Oanh. Áo đầm trắng, tóc xõa bay bay, mắt môi ngời ngời hạnh phúc, Oanh ngồi sau xe máy của một gã con trai mặt trắng bệch, ria mép tỉa tót cẩn thận. Giọng Oanh nghe vui lạ lùng : ''Chào anh An ! Ðây là anh Phong, bạn em. Còn đây là anh An!''. Gã con trai cười chào An bằng một vẻ lịch sự dễ ghét. An khách sáo : ''Chà, lâu quá không gặp Oanh!''. Oanh cười rất tươi : ''Tụi em đang định hôm nào ghé mời anh đi uống cà phê với tụi em cho vui''. Rồi Oanh vội vã : ''Em đi đây, hôm nào gặp lại nghe anh An!.
5. Rồi chẳng có buổi cà phê nào để Oanh giới thiệu bạn trai như Oanh hứa hết. Khi An gặp lại Oanh, Phong đã trở về Mỹ. Oanh cười nói suốt ngày, giỡn cũng mạnh mồm hơn, thỉnh thoảng lại khoe về một đám cưới đã dự tính ngày. Cũng là Oanh, nói nửa như muốn tâm sự, nửa như muốn phân trần với An : ''Tụi em quen nhau từ hồi còn đi học, sau đó anh Phong mới đi H.O. Ảnh thương em lắm, tuần nào cũng điện thoại về cho em!''. Oanh kể về Phong nhiều lần đến nỗi An có linh cảm là Oanh làm thế một phần cũng để tự huyễn hoặc mình. Có phải hạnh phúc phải mang dáng vẻ mong manh như thế mới thật sự là hạnh phúc!
Một tuần trước khi đám cưới Oanh, ba anh em mới lại có dịp ngồi uống cà phê với nhau. Không khí lần này trầm lắng hẳn, không như mấy lần vẫn ngồi với nhau. Thảo khoác một dáng vẻ buồn rầu không thèm giấu. Oanh trông có vẻ mệt mỏi, dù vẫn cười nói nhiều. An thì không thể giữ được thái độ vô tư như nhau với hai cô bạn thân. Oanh mào đầu, giọng đùa cợt : ''Oanh cho anh An một cơ hội cuối đây. Anh An có thương một trong hai đứa em thì nói đi, chỉ còn một tuần nữa thôi. Anh không nói sau này hối hận không kịp, ráng chịu đó !''. An nhìn thẳng vào mắt Oanh, cái nhìn nói lên nhiều điều nhưng Oanh lảng mắt đi. Vậy là rõ ! An buông một câu nói đùa mà nghe rất thật : ''Anh thương cả Oanh với Thảo!''. Thảo đột nhiên gắt gỏng : ''Thảo không cần đâu. Thảo nhường hết cho Oanh đó !''. Ðêm trôi thật khẽ và sâu. An có cảm giác như đây là lần cuối cùng ba anh em ngồi với nhau. Ngồi vẩn vơ một lúc, Thảo đứng dậy trước, nhìn đồng hồ : ''Thôi, khuya rồi, mình về đi !''.
Ðám cưới Oanh, An xung phong lên hát Lời của gió, mắt cố không nhìn cô dâu, chú rể tay trong tay, đi vòng quanh chào quan khách. Oanh đã chẳng hề nghe được lời gió nói, cũng như lời An muốn nói, chỉ cho mình Oanh nghe.
6. Oanh theo chồng đi Mỹ được gần hai năm, trong hai năm đó, An cũng có gặp gỡ một vài người nhưng rồi chẳng đi đến đâu. Mối tình tưởng chừng thoảng qua với Oanh không ngờ lại làm An nhớ lâu đến thế. Gặp một cách hành xử nào đó của các cô gái từng quen biết, An vẫn nghĩ giá đó là Oanh, thì Oanh sẽ xử sự thế này, Oanh làm thế kia và dĩ nhiên là Oanh hay hơn nhiều. Từ ngày Oanh đi, An cũng ít gặp Thảo, nếu có gặp thì cũng chỉ là nụ cười xã giao hờ hững của hai người quen biết cũ. Rồi thôi. An muốn biết tin tức về Oanh biết bao nhưng lại không dám gặp hỏi thăm Thảo.
Rồi Oanh đột ngột trở về. Ðẹp, sang trọng hơn ngày xưa nhưng có những nét từng trải hơn. Và buồn. Nỗi buồn không thèm giấu giếm. Gặp lại An, Oanh vẫn tỏ ra vô tư, như không hề thay đổi chút nào sau ngần ấy thời gian xa nhau. Oanh nói mình đã ly dị chồng, nói về đổ vỡ của chính mình một cách bình thản, nhẹ nhàng như chuyện của ai đó không hề liên quan đến Oanh, càng không liên quan đến An. Như là những buồn vui trong Oanh, An chưa bao giờ được phép dự phần. Như là những ngọn gió suốt mùa chỉ thổi lớt phớt bên ngoài, có hay không thì người ta cũng không biết sự hiện diện của nó. Oanh không biết, hay không muốn biết ?
Những ngày Oanh ở Việt Nam rồi cũng qua mau. Rồi Oanh cũng sẽ ra đi, kỷ niệm về một tình yêu thầm lặng với Oanh trong An rồi cũng sẽ qua đi, sẽ phai mờ dần theo ngày tháng... An sẽ phải cố mà quên Oanh đi, như một giấc mơ không có thật. Tình yêu của An không có thật. Chỉ có nỗi buồn trong An là có thật, An không thể nào quên được, cứ ngày càng đầy...242
ÕÕ Có nhà giàu nọ đãi khách trọng thể đến đâu, tiền đi chợ cũng chỉ năm hào trở xuống. Một lần, lão mắc bệnh nặng, không chịu mất tiền uống thuốc, chỉ mua mấy tờ giấy vàng bạc, rước thầy cúng về cúng, may ra uống tàn hương nước lã mà lành. ÕÕÕ Thầy cúng đến, trông lên bàn thờ thấy chẳng có gì có thể bỏ vào đãy mang về được, đã chán ngán, nhưng vẫn cứ nổi trống, mõ lên thỉnh hết thần bên Tàu, bên Xiêm. Lão nằm trong giưưòng nghe khấn như thế, liền bảo con ra nói với thầy: ÕÕÕ - Sao thầy không thỉnh thần sở tại cho gần mà lại thỉnh các vị ở xa lắm vậy? ÕÕÕ Thầy cúng trả lời: ÕÕÕ - Các vị thần ở gần đều biết tiếng nhà ông rồi, thỉnh sao được.
Mười năm nhìn lại trường xưa
Đôi hàng phượng vĩ đong đưa đón chào
Vẫn tà áo trắng xuyến xao
Bóng hình thầy cũ dáng cao lưng trời
Vầng mây xưa vẫn nghiêng trôi
Vẫn làn gió mát của thời mộng mơ
Nhìn em áo trắng bây giờ
Hỏi mùa hạ trắng còn chờ đợi nhau
Mười năm thầm lặng nỗi sầu
Rồi đây áo trắng qua cầu đổi thay
Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy
Làm sao sánh được ơn dầy tựa non
Nước xuôi sông cạn đá mòn
Cuộc đời thành đạt ấy công ơn thầy
Mười năm trường cũ giờ đây
Tóc thầy nay đã pha đầy tuyết sương.1285
2638
Quỳnh đi đò ngang thường chịu tiền, lâu quá hóa nhiều, không trả được.
Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ đợi đấy, mai ta trả.
Rồi mua tre nứa, lá gồi làm một cái nhà bè ở giữa sông, trong để một câu: Đ... mẹ thằng nào bảo thằng nào!
Và phao ầm lên rằng đó là lầu yết thơ của Trạng.
Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô nức kéo nhau đi xem. Đi đò ra đến nơi, thấy độc một câu như thế, chán quá liền đi đò về. Người khác gặp hỏi thì chỉ trả lời: "Ra mà xem!"
Thế là thiên hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. Anh lái đò chở hết chuyến nọ đến chuyến kia không kịp, trong ba bốn ngày, được không biết bao nhiêu tiền.
Được mấy hôm, Quỳnh dỡ nhà bè, bán lại cho anh lái đò. Anh lái đò trừ nợ. Quỳnh mắng:
- Anh còn nợ ta thì có, ai làm cho anh mấy hôm chở được bấy nhiêu tiền?
Anh lái đò mới nhận ra, liền cám ơn Quỳnh rồi rít và xin trả đủ tiền.
Có nhiều quyết định tưởng dễ nhưng khó vô cùng. Cắt hay không cắt tóc.
Mái tóc tôi có từ ngày còn con gái, đến mãi bây giờ. Người ta thi vị hóa mái tóc trong nhạc, trong thơ. Với tôi tóc là bạn, là một phần thân thể cha mẹ cho tôi và tôi qúy nó.
Tôi còn giữ tấm hình thẻ học sinh năm học lớp nhất. Tóc tôi dài hơn vai một chút, đường ngôi chẻ giữa. Tấm hình năm học xong trung học, đi thi tú tài, mái tóc dài hơn thắt lưng vẫn đường ngôi chẻ giữa.
Nhớ ngày còn học tiểu học, một lần tôi bị lây chấy (chí), cảm giác ngứa ngáy sau khi chơi nhảy dây, chân tóc ướt mồ hôi đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ và ghê ghê sống lưng. Lần ấy khi me tôi biết tóc tôi bị chấy, bà dùng lược dầy, bắt tôi cúi đầu xuống tờ giấy trắng, để bà chải cho tôi. Mấy con chấy đực màu đen, mập máu, bị bà dùng móng tay cái, dí xẹp giết chết, trên tờ giấy, chấy cái nhỏ hơn màu xám, có mấy con chí mén mới nở nhỏ như đầu tăm màu trắng, me tôi bảo:"nó nhỏ nhưng cắn đau phải biết"
Vừa chải đầu bằng lược dầy, vừa phải tước những cái trứng "chắc" chưa nở bám trên tóc mỗi ngày cho tôi chưa đủ, bà còn phải nướng trái bồ kết, nấu nước và gội đầu cho tôi nữa. Me tôi còn vắt vào thau nước sau cùng vài giọt chanh, bà bảo :"chanh làm cho mướt tóc". Kể từ ngày ấy, mái tóc tôi được gội bằng bồ kết. Đến năm mười hai tuổi, tôi đã tự nấu bồ kết, và gội tóc lấy một mình.
Trái bồ kết, có người gọi là chùm kết, hình dạng như trái điệp tây, dài khỏang gang tay. Khi trái khô trở thành màu đen, đem nướng vừa đủ để tươm nhưa bóng, lấy hột ra bẻ nhỏ, thả vào nước đem nấu. Sau khi sôi khỏang mươi phút, màu nước trong chuyển thành mầu nâu sóng sánh. Mùi thơm của bồ kết sau khi nướng, quyện bốc theo hơi nước thanh thanh. Lọc nước sang chậu, pha thêm nước lạnh để nước ấm lại, là gội tóc được. Có lần bận học quên gội đầu,tôi để nước bồ kết qua một đêm, bị me tôi mắng :"để nước thiu mới gội còn gì là hương bồ kết"
Tôi nhớ cái thau đồng dùng riêng để gội đầu, vành chậu có chạm hình kỷ hà. Mỗi khi cúi xuống cho mái tóc chảy dài vào chậu, tôi thấy lấp lánh chính khuôn mặt tôi.
Mua bồ kết dễ lắm, trong tiệm chạp phô nào cũng có bán.Ngày còn dùng than nấu cơm, thường thì sau khi làm cơm trưa xong, tôi đặt nồi bồ kết lên cái bếp còn than dư, cứ để đấy. Than vừa tàn là bồ kết đủ cho hết tinh túy của nó hòa vào nước. Cơm nước dọn dẹp xong, cả nhà đi nghỉ là giờ tôi gội đầu. Giờ ấy nắng rất hanh, gió rất vừa, để hong khô mái tóc dầy của tôi. Tôi không biết vì gội đầu bằng bồ kết mà tóc tôi dày hay vì tôi giống bên nội. Bà nội, bác, bố, chú, cô tôi, ai cũng có mái tóc dầy, nhất là bác gái của tôi, tóc đã dầy còn chảy dài xuống tận gót chân. Gội đầu xong bác phải đứng lên cái ghế đẩu cao để chải tóc. Bố tôi hay xin tóc rối của bác để đánh gió. Tôi nhớ có lần tôi than đau đầu, bố tôi lấy gừng giã nhỏ trong cái chén sành, vắt vào ít chanh, đổ vào tị rượu trắng, xong xuôi ông lấy nùi tóc rối vo tròn khỏang qủa chanh, nhúng vào dung dịch ấy, day vào hai bên thái dương và xoa dọc hai bên sống lưng cho tôi. Bác thích nghịch tóc của tôi lắm. Mỗi khi bác đến chơi, thế nào tôi cũng tìm dịp mon men lại gần bác, để bác vừa nói chuyện với mẹ, vừa chải đầu kết bính tóc cho tôi. Bác kết được bính năm, thay vì bính ba như tôi thường kết lấy một mình. Bác vấn tóc trần khéo khéo là, mỗi khi bác vấn tóc, tôi chống cầm ngắm bác mải mê. Bác nghiêng đầu sang phải, dùng lược chải hết tóc sang một bên vai.Bác có một đọan dây vải màu đen dùng để cột bó tóc lại, trên vành tai,sau đó bác xoắn đều tóc và vấn tròn lên đầu. Vòng thứ nhất tròn trĩnh quanh đầu, vòng thứ hai mỏng hơn nằm bên trong được gài khéo léo bằng vài cái kim gút, đọan đuôi tóc dư bác khéo léo nhấc vòng tóc lên để nó thò ra khỏi vành, như cái đuôi gà.
Bà tôi không vấn tóc trần, mà vấn bằng khăn nhung. Cùng một điệu bộ như thế, nhưng sau khi bó tóc bằng dây vải, bà dùng một miếng nhung đen ngang bằng một gang tay, dài non một thước, bọc tóc lại, dùng kim gút gài mối khăn vào tóc, sau đó khéo léo gói hết tóc vào khăn, bà cần khỏang bốn cái kim để gài cách khỏang tóc vào khăn, sau đó quấn tròn lên đầu. Bà ngọai tóc ít nên bà phải dùng thêm một cái độn tóc, may bằng vải đường kính khỏang 3 cm, dồn vải vụn vào, sau đó dùng dây vải quấn tóc chung cái độn, và sau cùng vấn khăn. Bác tôi hay bảo : "cháu nuôi tóc cho dài rồi bác bảo cho vấn tóc, tóc cháu mà vấn đẹp lắm, mày có những hai cái đuôi rùa con ạ ".
Đuôi rùa bác bảo là những ngọn tóc măng mọc ngay đằng sau ót, người ta hay nhìn tóc con nít có đuôi rùa sau ót hay không mà đóan nó có nhiều anh chị hay không. Nghe bác nói tôi có hai cái đuôi rùa, tôi hỏi
:" ở đâu cái nữa hả bác?"
Bác chỉ ngay giữa trán của tôi, nếu vuốt hết tóc ra sau sẽ thấy chân tóc vẽ thành cái góc của hình trái tim. Tôi thích lắm, vì các cô đào cải lương hay vẽ thêm thật đậm cái đuôi rùa ấy.
Nỗi ham muốn được vấn tóc khiến tôi chiều chuộng mái tóc của tôi hết mực. Ai chỉ cách gì để tóc dài nhanh như : mỗi đêm phải chải tóc nhẹ nhàng, mỗi tháng phải dùng kéo nhấp đầu ngọn tóc, tôi đều làm theo cả.
Đến mùa Hè nóng nực, nghe mẹ bảo phải cắt bớt tóc là tôi sợ lắm, luôn đi trốn.Mẹ bảo
:"Không cắt phải buộc tóc cho cao"
Hứa với mẹ,nhưng mẹ vừa xoay đi là tôi lại tháo sợi thun vứt đi, tôi thích cảm giác tóc vướng vào mặt khi chơi nhảy dây, nhảy lò cò.
Đi học lớp hè với cô giáo Trinh người Nam, dưới căn nhà mái tôn, cả thầy lẫn trò đều thấy nóng, cô bảo tôi cột tóc lên cao, tôi nghe lời cô giáo nhưng không vui. Đằng sau lưng tôi có mấy tên con trai, tụi nó hay lén bứt tóc tôi để đá dế, tụi nó rình cô giáo đang giảng bài bứt đại,tôi giật mình la lên. Cô giáo bắt tên giựt tóc tôi qùi trên vỏ mít. Nó giận tôi không cho tôi xem tóan đố nữa. Sau này khi nó xin là tôi tự bứt một sợi tóc cho nó ngay và giao hẹn nó phải cho tôi xem đáp số của những tóan đố.
Tôi ghét trò đá dế mà tôi phải cho nó tóc của tôi vì tôi nghĩ đến những bài tóan khó. Tôi tội nghiệp con dế lửa có cái cánh màu vàng, bị cột vào sợi tóc, xoay vù vù cho chóng mặt trước khi thả vào đấu trường "đá lộn".
Đấu trường là cái hộp nhỏ bằng giấy bồi, hay sang hơn là cái hộp thiếc dùng đựng bánh quy hay bánh trung thu, bỏ một lớp cát mỏng, vài nhánh cỏ. Hai con dế cụng đầu vào nhau, con nào chạy vòng vòng sát thành hộp, không cụng đầu vào con kia nữa là thua. Thằng có con dế thua, nắm râu con dế lên thổi phù phù, hay dùng tóc của tôi đụng vào râu của con dế để con dế chịu nhào vào đá lại. Chỉ có thế mà có khi mấy đ1003
Cái nhìn khắc khoải Khoa điện thoại cho tôi từ phòng lab:
- Hình xong rồi, đã lắm. Mày kiếm đâu ra ông già ngon vậy?
Tôi cười, gác máy rồi xách xe chạy lại chỗ Khoa. Những tấm ảnh đen trắng treo trên dây còn đọng nước, giọt rất tròn và trĩu. Khoa nghiêng đầu ngắm:
- Mày coi, hình như, trong mắt ông già này có nước.
- Mày cận bao nhiêu độ rồi?
Khoa mắc cở tháo cặp kính ra, đôi mắt đờ đẫn.
- Hôm trước ba rưỡi, bây giờ chắc ba tám rồi.
- Mắt mày cũng còn ngon lắm.
Khoa lại hỏi tôi cái câu ban nãy, "mày kiếm ông này ở đâu mà thần thái vậy?". Tôi không trả lời, ngước mắt nhìn về những bức ảnh của tôi. Trong mảng tối sáng trong vắt, khuôn mặt một người đàn ông hiện lên, trầm lặng mà sâu sắc.
Và tôi lại thấy mình ở trong một căn chòi chăn vịt cất dựa mé kinh Chiếc. Căn chòi đầy khói. Cái mẻ un ám khói chất đầy giỏ dừa khô. Khói ngùn ngụt khói. Ngồi trên cái sạp ghe đóng thưa bằng tre chẻ thẻ, một người đàn ông ngồi nhìn ra cửa. Cô độc. Gió vụt vụt vô chòi. Ông làm nghề nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nay ở đồng Rạch Mũi, ngày mai ở Nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa vừa mới chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cặm ở đâu cũng được, miễn có chỗ khô ráo cho ông nằm. Buổi sáng, ông lùa bầy vịt ra đồng, tay cầm cây trúc không róc đọt, bù xù. Bầy vịt ngàn hai trăm con, ngoi quẫy, vẫy vùng, rúc vào những nùi rạ mới, nhặt từng hột lúa. Con vịt xiêm tên Cộc cũng ào ra cùng bọn chúng, những lúc đó, không phải vì bụng đói, mà vì mùi rạ thơm quá, ngọt quá, ngụp mỏ vào thấy sướng người. Ông ngồi bệt trên bờ mẫu, khăn sọc cũ quấn đầu, nón vải nâu lốm đốm mủ chuối. Ông ngó lũ vịt và vấn điếu thuốc châm lửa, phà khói lên trời. Và trời rất xa xanh, trong. Ông kêu :
- Cộc, biểu!
Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông. Buổi tối buồn lắm. Đêm nào cũng như đ
êm nấy, lùa vịt vô chuồng, tắm táp qua loa, ông khom lưng thổi phù phù vô cái bếp un cho căn chòi đầy khói rồi nằm đưa võng. Gió vụt vụt vô chòi. Con Cộc lò mò ra đống rơm dập dềnh dưới mé kinh, vùi mình vào đó ngủ một giấc. Nó tưởng lâu vậy, dài vậy mà lúc ngó lên vẫn thấy chao chát ngọn đ
èn đỏ lòm. Ông kêu:
- Cộc, giận gì mà xuống đó vậy mậy?
Cộc lạch bạch đi lên. Nó ghé ngang cái lưới bao rào vịt, thò mỏ vào mổ một con vịt ta khác. Gây chuyện chơi cho vui. Nó là con vịt chúa gây chuyện. Ngoài những lúc này, nó khá cộc cằn, tư lự. Mấy người bạn lang bạt của ông chụm lại nhậu lần nào cũng nhằn: "Cha nội sống như vầy rầu thấy mẹ, mai mốt con vịt xiêm đó chết rồi, cha sống với ai". Ông cười, "còn thằng con tao". Nó ở chợ. Lâu lắm mới về thăm ông một lần, về tới, ngoài việc kêu ông bán bầy vịt ra ngoải sống với nó, còn chuyện ông cưới vợ, nó nói, nó con trai, biết cô đơn là cái gì rồi, khổ lắm, buồn lắm. Nó giục ông từ năm nó mười hai tuổi. Ông ngạc nhiên lắm. Nhưng rồi ông biết rằng, nó đã học được ông cái tánh rộng lòng đồng khơi, như trời cao. Ông vò đầu nói với nó, cũng khó khăn thiệt, nhưng ông quen rồi. Nghề nuôi vịt mà, nghèo, lang thang, đeo mang người nữa, không đành.
Tháng Tám. Ông trở về kinh Mười Hai, quê ruột của ông. Chèo gần tới nhà ông thấy một người phụ nữ ngồi dưới bực cỏ đợi tàu. Chiều rồi, tàu cuối chạy lúc ba giờ rưỡi đi qua đã lâu lắm. Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết. Ông chèo lựng khựng cho ghe đi tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị nọ đi đâu, chị khóc như mưa bấc, "Tôi cũng không biết mình đi đâu". Lãng xẹt vậy đó. Ông ngại ngần ngó những tia nắng đỏ cuối cùng đậu phía dưới đám dừa nước:
- Cô có sao không?
Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc.
- Tôi biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay ... làm ơn cho tôi theo anh đêm nay nghen. Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu trong khi tụi vịt đạp đầu chen nhau dưới sạp ghe bằng tre đóng thưa thớt rộ lên lạc cạc inh ỏi. Đôi chân đ
àn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cuối đầu không nói không rằng lùi lụi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: "Cộc! Bị đòn nghe mậy". Nó dừng lại, đủng đỉnh qua đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt kêu: "Trời, vịt gì mà khôn quá vậy?". Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, Vịt Xiêm chứ vịt gì, thiệt tình.
Qua thêm ba đám lá dày nữa là về tới nhà ông. Nhà vắng, vườn hoang, lúc chạng vạng buồn hiu hắt. Ông đi năm ba tháng về một lần, về đúng vạt đồng sau vừa chín. Hồi đi, con tắc kè ễnh bụng kêu è è, hồi về đã thấy đeo trên cột nhà mấy con tắc kè con, da chưa bông chưa hoa, mốc cời, đầu chờ vờ như cá lóc gặp nước mặn. Ông đẩy cửa bước vô trước, tay quơ mớ váng nhện lùng nhùng, đốt cái đèn, thổi lù lù mớ củi ướt. Chị ôm cặp đồ ngồi gá nhẹ mép ván, ngó quanh. Ông lượng xượng, "Nhà bỏ lâu, bê bối quá chừng". Rồi khói bay lên, ấm áp.
Ở căn nhà lá cũ mèm này, ông có nhiều kỷ niệm. Mỗi khi trở về nó lại chảy thành dòng dịu ngọt trong ông, nó chảy khẽ giửa những mạch máu. Những ngày thơ ông có ba má, những ngày trẻ ông có người chăn gối cùng. Có cây lụa bên hè làm chứng, mỗi lần nhà đổ bánh xèo, vợ ông ra hái đọt lụa, đứng tần ngần, "phải ảnh có nhà
để ăn". Chiến tranh, ông đi biền biệt. Ngày về, chỉ còn đứa con trai. Nó khóc, kể, "Bửa đó cúng đình, có cải lương, má rũ con đi. Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn đó ba. Hát chưa xong khúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa Châu Tuấn nghe, thì pháo đằng đồn Ch%
E123
Nghe tin vợ sinh con, chồng vội vã đến bệnh viện. Cô y tá mang tới một đứa bé da đen thui, ngại ngùng nói:
- Xin hãy bình tĩnh, da cháu bé... không được trắng như của ông. Ông chồng trấn an ngay:
- Đây là chuyện bình thường, vợ tôi có thói quen để mọi thứ bị cháy khét.
1790
Một cô chủ nọ có con vẹt biết nói tiếng người giỏi, lại khôn, nên cô ta rất quý và chăm sóc nó từng ly từng tí một. Một hôm, trong lúc tắm cho vẹt, vì vẹt đùa nghịch làm ướt hết quần áo nên cô nhân thể tắm luôn.
Thấy vậy, con vẹt đậu trên giá quần áo liền kêu lên: "Thấy hết rồi nhé, thấy hết rồi nhé..." Tức quá, cô ta liền nhổ trụi lông đầu con vẹt để nó chừa tính nói bậy.
Bẵng đi một thời gian, một hôm ông giám đốc của cô gái nọ đến thăm. Ông này đã luống tuổi nên đầu bị hói. Trong lúc cô chủ lúi húi trong bếp pha đồ uống mời khách, con vẹt lấm lét nhìn quanh và hỏi vị giám đốc: "Chắc ông cũng thấy hết rồi chứ gì?".
1368