Một hôm, nhà có giỗ, làm thịt lợn mời khách khứa đông lắm. Thấy Quỳnh hay nghịch, ai cũng chòng ghẹo chơi.

Đương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có một ông Tú tên lá Cát thường tự phụ hay chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối được tao tha cho:
- Lợn cấn ăn cám tốn (1)
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn (2)
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ý tự phụ mình là ông Tú:
- Trời sinh ông Tú Cát (3)
Quỳnh lại đối:
- Đất nứt con bọ hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. Mọt người cười ầm cả lên.


(1) Cấn là quẻ cấn, Tốn là quẻ tốn trong bát quái . Đây lấy nghĩa lợn cấn (chửa) mà ăn tốn cám.
(2) Khôn là quẻ khôn, Càn là quẻ càn cũng trong bát quái, đây lấy nghĩa con chó khôn chớ cắn càn, cắn bậy .
(3) Cát còn có nghĩa là tốt; hung còn có nghĩa là xấu.

2642




Một người đi truyền giáo nói những là tô tượng, đúc chuông làm cầu làm nhà thờ, kỳ thực được đồng nào, bỏ vào túi hết. Lúc chết xuống âm phủ, Diêm Vương bắt bỏ ngục tối. Anh ta vừa bước vào cửa ngục, đã bảo những người bị giam trong ngục:


- Các người ở đây tối thế này mà chịu được à? Mỗi người cùng cho ít nhiều, tôi sẽ thuê mở một cái cửa sổ thật to thông lên trên trời cho nó sáng ra chứ!

2544




Bố em mất sớm vì một bệnh hiểm nghèo. Thương người vợ trẻ, nhà nghèo một nách hai con nhỏ, trước khi nhắm mắt bố em căn dặn lại:

- Số anh đen bạc không thể cùng em chung sống nuôi con đến ngày đầu bạc. Em mới ngoài ba mươi, nếu có ai thương yêu nên sớm đi thêm bước nữa cho các con có chỗ nương tựa. Có như thế vong linh anh mới thanh thản được.

- Dở hơi! Anh phải yên tâm thuốc thang, còn nước còn tát, chưa chi đã gở mồm gở miệng!

- Bệnh máu trắng đến thời kỳ hung phát có ai qua được đâu, không dặn trước sợ phút lâm chung luống cuống quên mất.

Mẹ tôi ôm mặt khóc òa.

- Con đẻ đứt ruột nuôi đến chín mười tuổi bỗng dưng đem cho một người chưa biết tâm tính họ ra sao để đi lấy chồng, có khác gì bỏ mồi bắt bóng. Em không nghe anh đâu!

- Thương chồng quý con em nói thế, nhưng phải nghĩ đến mình nữa chứ... Chị Bao không chồng không con, sống độc thân muốn có đứa con nuôi. Chị ấy bóng gió xin chúng mình một đứa. Nếu em thấy có thể thì nhận lời.

- Ôi cái bà giám đốc không có trái tim đó! Em hận bà ấy!

- Chị ấy khô khan, nhưng thẳng thắn, cho hay không là quyền em, anh chưa hứa hẹn gì đâu.

Cha tôi qua đời, nỗi đau cũng dần dần nguôi ngoai theo năm tháng. Bà giám đốc thỉnh thoảng đến thăm hỏi cho chút quà bánh lặt vặt nhưng không dám đặt vấn đề xin con nuôi với mẹ em. Còn em thì chẳng thích thú gì những cuộc viếng thăm đó. Bà Bao tuổi ngoài bốn mươi, vóc dáng đẫy đà oai vệ. Trong cặp kính trắng, đôi mắt bà tinh anh nghiêm trị đầy lý trí. Tính khí thâm trầm điềm đạm, buồn vui không biểu lộ làm bà thiếu đi cái duyên dáng đa cảm của phái yếu. Có lẽ vì thế mà đàn ông sợ không dám gần (?).

Có một ông ngoài sáu chục tuổi, tên là Quang, góa vợ, cũng hay đến thăm mẹ em. Trai gái, dâu rể ông đều ở lớp tuổi bố mẹ em. Họ thành đạt, khá giả, con cái đông đúc. Ông Quang nhàn rỗi dong chơi nên lúc nào cũng hồn hậu vui tươi yêu đời. Tuy tóc bạc phơ nhưng vẫn nhanh nhẹn, phóng xe máy veo veo, cười nói hóm hỉnh. Có lẽ vì đoán ra động cơ "không trong sáng" của ông nên mẹ em cũng có ý lẩn tránh.

Một bữa ông xuất hiện ngoài cửa, mẹ vội bảo hai chị em:

- Ông Quang hỏi mẹ, các con bảo đi vắng nhé.

Ông khóa xe bước vào, hai chị em chắp tay lễ phép:

- Chúng cháu chào ông ạ!

- Chào các cháu. - Ông cười. - Trông ta giống ông già Nô-en lắm phải không?

Thằng Tuấn, em em liến láu trêu ông:

- Chẳng giống tí nào! Ông già Nô-en mỗi năm đều đến cho quà một lần vào đêm Giáng Sinh. Còn ông tuần nào cũng đến, lần nào cũng cho quà. Mẹ cháu ái ngại vì sợ ông làm hư chúng cháu!

Nét mặt ông Quang bỗng ỉu xìu.

- Có đúng là các cháu đã hư đi từ ngày ta đến thăm không?

Thằng Tuấn lúng túng không biết nói sao, em đành trả lời thay:

- Thưa ông, ấy là mẹ cháu lo xa. Lần nào đến ông cũng tốn tiền quà cáp. Các cháu quen thân, đến khi ông nghèo không có quà cho thì sao? Liệu chúng cháu có trách móc, vòi vĩnh không? Tình cảm dựa trên sự ban phát sợ không bền!

Ông Quang vừa ngạc nhiên vừa thất vọng.

- Xin lỗi các cháu, ta hoàn toàn chưa nghĩ đến điều đó. Ta cứ quan niệm là các cháu còn bé, mồ côi và thiếu thốn. Còn ta thì khá giả và những chi tiêu đó chẳng thấm tháp gì. Ta muốn chia sẻ niềm vui dư dật của mình cho ba mẹ con thôi. Không ngờ các cháu đã thực sự lớn khôn nhạy cảm, hiểu biết lẽ đời, tự trọng chín chắn hơn ta tưởng. Ta nghĩ chuyện tặng quà cho trẻ không hẳn là xấu. Có lẽ ta phải xin phép mẹ trước khi đưa cho các cháu! Hôm nay cũng có quà đây, nhưng đành chờ thôi!

Nói rồi ông quay sang chuyện học hành của hai chị em. Thằng Tuấn đem mấy bài toán hắc búa nhất ra "thử tài" ông già. Ông giương mục kỉnh xem kỹ rồi kiểm tra nó trước. Sau đó ông mới gợi ý cho nó tự đi tới đích. Thằng bé phục quá hỏi.

- Ông ơi, ông có làm thầy giáo bao giờ chưa mà ông nhớ dai thế?

- Ta là kỹ sư như bố cháu. Nhưng ta phải giúp đỡ cho các con rồi cả lũ cháu học hành nên không quên.

Rồi đến lượt em cũng đem bài ra hỏi ông, thời gian kéo dài, mẹ em không đủ kiên nhẫn trốn trong bếp mãi, đành xuất hiện.

- Cháu chào bác ạ!

- Chào cô Yên! Sao các cháu bảo cô đi vắng?

Mẹ em cười lúng túng như thú tội.

- Cháu có chút việc định đi, dặn các cháu nói thế để dãn khách! không ngờ...

- Không ngờ lại vớ được ông khách ngồi dai hơn đỉa! Xin lỗi cô Yên nhé! Nếu vội sẵn xe để tôi lai cô đi cho nhanh.

- Dạ cũng không vội lắm, cháu đạp xe đỡ phiền bác.

- Tôi chỉ rong chơi chứ có bận việc gì đâu mà ngại phiền?

Thấy mẹ lưỡng lự em khuyến khích:

- Nhờ ông lai đi cho nhanh. Cơm nước ở nhà chúng con lo cho. Ông và mẹ về là vào bàn ăn được ngay!

- Cảm ơn cháu Hiền! Mẹ chưa mời mà ta đã muốn nhận lời rồi đấy!

Khi hai người đi rồi thằng Tuấn hỏi em:

- Xui ông Quang lai mẹ đi không sợ à? Ông ấy muốn lấy mẹ mình đấy!

Em ngạc nhiên về nhận xét của thằng bé. Em mười ba nên đã có chút hiểu biết về đàn ông, đàn bà. Còn bé mới mười tuổi, sao đã nhạy cảm thế! Em mắng át đi.

- Ranh con! Không được ăn nói lung tung! Mẹ mình không lấy chồng đâu. Nhưng mẹ cũng cần có những người bạn tốt giúp đỡ.

- Chị có nghĩ ông Quang là người bạn tốt bụng?

- Cũng chẳng tồi. Ông ấy quan tâm đến chúng mình đấy chứ. ít ra chị em ta cũng có thể hỏi bài. Mày kết bạn với ông ấy được đấy!

- Hí hí! Kết bạn với ông già khốt-ta-bít! Liệu em có thể búng tai, béo mũi, chơi trò cưỡi ngựa với ông ấy được không?

- Ðối với ông bạn già đùa nhả như vậy là hỗn láo, thiếu tế nhị. Song em có thể nghe truyện cổ tích, đánh cờ, hỏi bài hoặc đi chơi công viên.

Thằng bé ngẫm nghĩ rồi nói:

- Nhưng sợ mẹ lại cấm như chuyện nhận quà mất thôi. Em về phe mẹ, em nghe lời mẹ!

*
* *

Xe lăn được một đoạn ông Quang mới quay lại hỏi.

- Cô Yên định đi đâu bây giờ?

Chị giật mình vì chẳng có chỗ nào cần đến. Chuyện nói dối cứ theo đà lao đi một cách tùy hứng.

Thấy cô lúng túng chưa hỏi được địa chỉ, ông Quang liền đề nghị.

- Hôm nay chủ nhật mọi việc đều xếp lại, cho phép tôi đưa cô đi Hồ Tây ăn bánh tôm!

- Cháu xin khất bác bữa khác. Các cháu đã nấu cơm chờ ông con mình về. Ăn bánh tôm ngang dạ bỏ cơm các cháu không bằng lòng đâu.

Ông Quang rất thích câu nói đó. Ông đang muốn gây được mối thiện cảm ấm áp trong cái gia đình bé nhỏ này. Ông liền chuyển chủ đề.

- Em có lũ con ngoan quá. Anh cho quà hai đứa không nhận lại còn cho anh một bài học đấy!

- Nhóc con mà dám "lên lớp" cho ông thì hư quá, cháu xin lỗi bác!

- Không có lỗi gì đâu! Chúng nó thật thông minh và đáng yêu...

Ông kể lại câu chuyện buổi sáng khiến chị cũng phải bật cười. Một loáng họ đã đến đường Thanh Niên. Ông dừng xe đưa chị vào nhà hàng nhưng chị nhất định từ chối.

- Thôi đi dạo mấy phút rồi về.

Ông Quang thỏa hiệp, gửi xe cùng Yên sóng đôi tản bộ ven hồ. Họ đến một ghế trống. Ông ngồi còn Yên vẫn đứng thơ thẩn nhìn trời nhìn nước. Ông Quang giục.

- Ngồi xuống đi cô. - Ông nói vui. - Ðứng thế có người đến chiếm mất chỗ đấy.

- Bác yên vị rồi còn ai dám đến!

- Có đấy! Không tin cô cứ ngồi đây, tôi lảng ra chỗ kia mấy phút. Sẽ có vài anh đến bám quanh cô ngay cho xem.

Yên mỉm cười nhẹ nhàng ngồi xuống bên ông.

- Bác có vẻ quen thuộc chỗ này lắm.

- Quen chứ! Tôi sống tự do, đâu vui thì đến, thích chỗ nào thì ngồi. Cô cũng tự do, chỉ có điều là không tận dụng hoàn cảnh của mình thôi.

- Cháu ạ? Một mình quần quật nuôi hai con ăn học, làm gì còn thời gian nghĩ đến tự do!

- Tự do giống như con mồi khôn ngoan, phải săn lùng, tìm kiếm mới thấy được. Ngồi chờ nó săn mình thì khó gặp!

- Nghe bác nói rất hay nhưng cháu tối dạ không hiểu được.

- Hãy làm bạn săn với tôi đi. Mọi chuyện sẽ trở thành dễ hiểu.

Chị Yên cúi đầu yên lặng vân vê tà áo. Thực lòng chị cũng đã hiểu những lời ẩn dụ của ông Quang. Ông ngồi nhích lại gần Yên và tiếp tục câu chuyện.

- Yên xưng cháu, lũ trẻ gọi bằng ông làm tôi già đi. Liệu có thể "tân trang, hạ cấp" được không?

Chị bật cười khúc khích.

- Quen mồm rồi, gọi khác thì ngượng lắm. Biết nói với lũ trẻ thế nào?

- Chỉ cần Yên chấp nhận thôi, với lũ trẻ anh sẽ có cách!

Chị ngước mắt nhìn ông nói nhỏ:

- Thực ra... cháu cũng chỉ bằng con đầu của bác thôi.

- Yên chê anh già chứ gì? - Ông cười. - Ðến khách sạn vẫn được mấy cô tiếp viên trẻ măng kêu bằng "anh" ngọt xớt!

Chị Yên bỗng cau mày, vẻ khó chịu.

- Bác coi cháu như mấy cô hầu phòng sao?

- Ôi xin lỗi, tôi kể lại sự thật chứ không có ý gì xúc phạm em.

- Xem ra bác cũng sành sỏi chuyện nhà hàng quán trọ lắm!

- Từ ngày vợ mất, đi du lịch, nghỉ mát nơi đâu cũng chỉ có một mình. Người đàn ông độc thân thường là vị khách dễ được mời chào săn đuổi. Ðêm đêm có nhiều cú điện thoại nặc danh gọi đến chào hàng... (ông thì thầm vào tai Yên làm chị đỏ mặt quay đi). Không ai quản nên dễ hư thân lắm Yên ạ!

Chị mỉm cười chua chát:

- Cháu không ngờ bác cũng là tay ăn chơi có hạng, là gã nguyệt hoa sành sỏi đấy!

- Chưa sành sỏi nhưng cũng chẳng ngù ngờ. Tuy nhiên không bao giờ sa đà trụy lạc thiếu nhân cách. Em có tin tôi không?

- Sao bác không kiếm lấy bà hai? - Yên trả lời bằng một câu hỏi. - Nếu muốn cháu làm mối cho. Gái tân hẳn hoi nhé!

- Ai thế?

- Chị Bao, giám đốc xí nghiệp cháu đấy!

- Thôi tôi xin lạy cả nón! Bà ấy làm sếp giỏi, nhưng không biết làm vợ! Người giàu quyền lực thường lại nghèo tình cảm!

- Ðã thử đâu mà vội kết luận! Có khi bác chưa biết làm chồng lại hay kén chọn!

- Ðúng là anh kén mãi và giờ đây quyết định chọn Yên. Em bằng lòng lấy anh không?

- Cháu trai gái đủ rồi, lấy chồng đẻ thêm khổ lắm, cháu không muốn.

- Ðúng là con cái chúng ta đều đầy đủ. Nhưng em còn trẻ, không nên phí hoài tuổi xuân. Chúng ta cam kết không sinh con nữa!



Khi biết mẹ em đã có bạn tình, bác Bao mới ngỏ lời xin em về làm con nuôi. Mẹ em nói mình không có quyền, cần phải hỏi họ hàng nhà chồng và ý kiến em. Bác Bao phải bàn thêm.

- Yên ạ, mình không có tham vọng biến con bạn thành con mình. Cháu mười bốn tuổi rồi, nó đủ lý trí để xét đoán thân phận, dòng dõi huyết hệ. Mình cô đơn, nếu được sống với cháu mình sẽ hạnh phúc hơn. Và mình cũng có điều kiện để nuôi dưỡng dạy dỗ để cùng bạn bồi đắp cho tương lai Thu Hiền. Mình cam kết sẽ bàn bạc với Yên mọi chuyện lớn liên quan đến cuộc đời cháu. Mình hy vọng nó sẽ mãi mãi yêu mến cả hai chúng ta. Ðây không phải cho đứt mà phải hỏi gia tộc. Chỉ cần cháu bằng lòng là đủ.

Khi mẹ gợi ý em chấp nhận ngay. Em vâng theo lời bố trăng trối. Em muốn mẹ thanh thản đi thêm bước nữa. Mình Tuấn ở với bác Quang là đủ.

Em sẽ yêu quý bác Bao nếu bác thực sự thương em như con. Em cũng sẽ tận tụy nếu bác xem em như đứa trẻ giúp việc. Em cần vừa học vừa làm để đỡ lấy gánh nặng cho mẹ. May sao những ngày đầu đi làm nghề nghĩa nữ, mọi chuyện đều êm xuôi. Thực ra bác Bao không phải con người không có tim! Bác nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng tuân thủ lý lẽ, không đổi trắng thay đen, tiền hậu bất nhất! Hiểu tính bác là rất dễ sống. Biết em nhớ mẹ thương em, tuần nào bác cũng kèm xe về nhà. Bác ngồi chơi chốc lát rồi cáo từ hẹn giờ đến đón. Bác muốn em nói chuyện riêng tư với mẹ, với dượng, với Tuấn được thoải mái tự nhiên. Chính mẹ em cũng phải thay đổi định kiến với bác.

Bác Bao đã dồn hết tâm sức cho em thi vào đại học. Em đỗ khiến mẹ đẻ, mẹ nuôi, bố dượng, em trai đều rất vui mừng. Tối hôm đó bác Bao đến ngồi bên và quàng tay lên vai em khiến em vô cùng xúc động. Tuy nói là con nuôi nhưng em vẫn chưa bao giờ gọi bác là mẹ. Có đôi lần bác gọi em là con nhưng em vẫn xưng là cháu nên bác đành đổi lại như cũ. Có lẽ vì em cố giữ khoảng cách nên bác cũng không chầm vập vỗ về âu yếm như mẹ em ở nhà. Bác nhẹ nhàng nói với em:

- Hôm nay cháu đã đi được một đoạn đường quan trọng, bác cứ lo lắng phấp phỏng mong chờ, nhưng bữa nay bác yên tâm vì đã làm được một phần lời hứa với bố cháu. Cũng phải nói năm năm qua bác đã cố gắng kèm cặp nuôi dưỡng cháu, nhưng về mặt tình cảm bác chưa xứng đáng thay vị trí một người mẹ...

Em vội vàng ôm chặt và gục đầu vai bác.

- Ôi không phải thế đâu bác ơi! Bác đã chăm sóc thương yêu con hơn rất nhiều người mẹ thông thường. Trong thâm tâm con cũng yêu quý bác như mẹ Yên con. Chỉ có điều trước khi đến đây mọi người đều nói bác là người nghiêm khắc, khó tính. ấn tượng đó in hằn vào tâm trí trẻ thơ của con khiến con không dám biểu hiện lòng mình bằng những cử chỉ chầm vập sôi nổi. Con muốn lấp bằng cái hố ngăn cách tình cảm đó nhưng không dám. Xin bác tha thứ cho con!

Cánh tay bác xiết chặt vai em, những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên trán em. Lần đâu tiên em thấy bác khóc.

- Bác mới chú ý nuôi dưỡng dạy dỗ chứ chưa quan tâm đến cách ăn mặc, chăm chút nhan sắc, chưa yêu chiều con như những bà mẹ khác vì bác nghĩ con còn bé. Nay con đã thực sự thành cô gái, bác hứa sẽ lo cho con bằng chị bằng em, bác yêu con, Hiền ơi! - Mẹ không sinh ra con, nhưng nghe con gọi, mẹ cảm thấy thực sự hạnh phúc như những bà mẹ khác. Ðêm nay con gái ngủ với mẹ nhé!

- Vậy con sẽ ngủ bên mẹ!

Ðây cũng là đêm đầu tiên em nằm chung giường với bà. Hai mẹ con chuyện trò rất khuya. Em bạo dạn hỏi bà.

- Con có điều thắc mắc muốn hỏi. Mẹ và mẹ Yên con hình như có chuyện gì lấn cấn với nhau nên mẹ con có định kiến không hay với mẹ?

Mẹ Bao thở dài suy nghĩ rồi nói.

- Có đấy. Mẹ không định nói nhưng con đã lớn khôn nên mẹ cũng muốn tâm sự cùng con. Xưa kia bố con và mẹ yêu nhau tới mức (như người ta nói) già nhân ngãi, non vợ chồng, chỉ chờ ngày cưới. Lúc đó mẹ Yên là thư ký giúp việc cho mẹ. Có thể Yên cũng tình cờ bắt gặp những trò âu yếm lả lơi giữa mẹ và bố con. Rồi một lần khám bệnh bác sĩ phát hiện chứng vô sinh của mẹ. Ông khuyên không nên lập gia đình nếu muốn tránh những trục trặc về sau. Mẹ rất đau khổ, vừa thương mình vừa thương bố con. Cuộc sống càng buông tuồng, ân tình càng sâu nặng. Nếu cứ lặng lẽ đi đến hôn nhân thì mẹ vẫn lừa dối được bố, nhưng nỗi ân hận sẽ theo mẹ suốt đời. Nói thực ra để rút lời đính ước sợ bố không nghe. Còn như bố thấy mẹ vô sinh mà bỏ cuộc thì còn đau đớn cho mẹ hơn. Thế là mẹ đành dứt tình với bố. Ðầu tiên là thờ ơ rồi lánh mặt. Mẹ đẩy cô thư ký ra tiếp. Nhiều lần như thế khiến bố con nghi ngờ dò hỏi cô Yên xem mẹ có kiếm được đám nào "thơm" hơn không! Dĩ nhiên cô Yên chẳng biết gì nhưng lại thấy thương thương anh chàng kỹ sư thất tình. Khi nhận thấy mối giao cảm giữa hai người đã khá nồng thắm mẹ mới vờ nổi cơn ghen đẩy bố ra khỏi cuộc đời mình. Mẹ còn viết luôn quyết định điều mẹ con xuống đơn vị sản xuất làm thợ học việc. Dù có vô sinh dị tật thì mẹ cũng là người đàn bà. Mẹ có thể hy sinh hạnh phúc của mình giải thoát cho người tình. Nhưng mẹ vẫn ghen tuông khi nhìn thấy các cô gái khác nép mình trong vòng tay người mình yêu. Có lẽ vì thế mà cho tới ngày sinh con hai người không bao giờ muốn gặp mẹ.

- Con nghĩ bố không đến nỗi tệ bạc như mẹ nghĩ đâu. Trước khi chết bố cũng muốn cho con về với mẹ.

- Ðúng thế! Khi sinh con rồi, một lần gặp nhau trong công việc mẹ hỏi thăm gia đình, bố mới trách mẹ hành sự độc đoán, phi lý khiến cuộc tình tan vỡ. Mẹ chỉ cười. Bố căn vặn tại sao chưa lấy chồng mẹ đành kể chuyện vô sinh ra để thanh minh cho mọi hành vi trong quá khứ. Bố con ôm lấy mẹ ứa nước mắt và trách mắng mẹ mãi. Mẹ cầu mong bố hạnh phúc và sinh giúp mẹ một đứa! Bố con đã nhớ điều này đến phút lâm chung. Bố giấu kín chuyện bệnh tật hy vọng mẹ không bị ế chồng! Ðôi lần bố lén lút đến thăm người tình cũ nhưng không qua được mắt mẹ Yên. Ghen tuông thù hận biến thành định kiến cũng là chuyện thường tình. Nhưng mẹ con cũng biết nghe lời chồng nên mới chịu cho con về với mẹ.

Một buổi tối em lai xe mẹ Bao về thăm nhà. Mọi người vui mừng ngạc nhiên. Dượng Quang reo lên.

- Ôi Thu Hiền! Con thực sự là cô gái khôn lớn rồi! Ðã biết lai mẹ đi chơi kia đấy!

Mẹ Bao trả lời thay em:

- Xưa đi xe mẹ, mẹ phải lai con. Nay đi xe của con, con phải lai mẹ. Có thế mới an toàn!

Em khoe:

- Con thi đỗ nên mẹ Bao thưởng cho con chiếc Dream mới nguyên đấy mẹ ạ!

- Chúc mừng con!

Nói rồi mẹ Yên quay đi để che giấu nỗi buồn. Có thể bà tủi thân vì nghèo chẳng có gì cho con.

Cũng có thể bà tưởng đã hoàn toàn mất em về tay người mẹ nuôi mà bà không mấy thiện cảm.

Chờ cho mẹ Bao mải chuyện với dượng Quang, em kéo mẹ vào buồng kể hết câu chuyện ngày xưa cho mẹ nghe. Sắc mặt bà bỗng bái nhợt. Bà chạy ra ôm lấy mẹ Bao khóc òa.

- Chị Bao ơi, em xin lỗi chị. Gần hai chục năm qua do hiểu lầm nên em đã hận chị. Nay nghe con em nói mới thấy hết nỗi đau, lòng vị tha và đức bao dung của chị. Xin chị hãy tha thứ cho em.

- Nín đi Yên! Chị vẫn yêu em như xưa chúng ta sống bên nhau. Có lúc chị tưởng mình đã mất hết. Mất tình yêu, mất em, mất cả tương lai. Nhưng giờ đây chị đã có Thu Hiền, có Tuấn, có em...

Dượng Quang ngạc nhiên trước cảnh tượng vô thường này.

- Có chuyện gì thế hai bà? Bố con tôi không sao hiểu nổi.

Mẹ Bao gạt nước mắt mỉm cười:

- Không sao đâu anh Quang ạ. Chắc thấy "người đàn bà không tim" này chảy nước mắt anh lo có chuyện động trời! Phái yếu chúng tôi đau buồn khóc, vui mừng cũng khóc. Nhưng hôm nay là những giọt nước mắt hạnh phúc!

- Ðúng thế đấy dượng ạ. - Em vui mừng khẳng định. - Dượng kiên nhẫn đợi chờ, đêm nay thế nào mẹ con cũng chia vui với dượng!

- Ôi con gái của hai bà mẹ tuyệt vời làm sao!

- Anh Quang ạ, chúng ta đều không có diễm phúc sinh ra Thu Hiền. Nhưng cả hai đều có quyền tự hào vì con đấy!

Nhận những lời khen em hơi ngượng nhưng cũng rất sung sướng. Em cố sao cho cả nhà không bao giờ thất vọng vì mình.



Tr. H
1671






Chỉ mãi cách đây không lâu, sau mười năm từ ngày ba tôi mất đi, tôi mới kịp nhận thấy lòng thương yêu của người trao cho thằng cháu đích tôn là hợp lẽ. Và, càng chân nhận cái giá trị của tấm lòng yêu thương ấy, tôi càng cảm thấy mình là nhỏ nhen, ích kỷ.

Nó lớn hơn tôi năm tuổi, và mồ côi từ ngày mới biết đi. Đó là một tâm hồn rất lạ, tôi có thể nói là lạ hơn mọi tâm hồn tôi gặp từ trước đến nay. Đó là một đứa trẻ sinh ra trong cảnh túng thiếu, gạo ít, khoai nhiều, để rồi lớn lên dưới một trời binh lửa. Trong cặp mắt thâm và sắc của nó, tôi thoáng thấy vẻ cương quyết thầm kín của một tấm lòng phơi ra trước sự tàn ác của số mệnh, thử thách những nỗi khe khắt nhất đời.

Một người khác vào tuổi thằng cháu tôi không thể nào sống hơn những cảnh gian nan như thế: nó đã từng nhịn đói ròng rã trong sáu ngày trời để tránh loạn, và đã từng thăm viếng cảnh mất còn của gia đình sau bao ngày giặc giã.

Cuộc Cách mệnh vĩ đại của đất nước Trung Hoa tôi tin như thế, nếu đã tạo ra những Tôn Dật Tiên, Uông Tinh Vệ, thì nó cũng đã tạo nên thằng cháu tôi, một tâm hồn dạn dầy và đau khổ. Có khác là những bộ mặt trên được sáng ngời qua lịch sử, còn cái dưới thì bị chìm đắm trong tối tăm.

Vậy trải những nỗi gian nan quá lớn lao cho một tâm hồn còn bé bỏng, thằng cháu ấy đã đặt chân lên đất nước Việt Nam của tôi - tôi viết rõ: đất nước Việt Nam của tôi - với cái thân hình thô bỉ, tâm tính cục cằn.

Tôi thì còn đương ở thời kỳ yêu những cái gì mảnh dẻ, bé nhỏ, và những bước chân đầu tiên của thằng cháu tả trên dội xuống thềm gạch nhà tôi, đem lại ngay cho tôi sự khó chịu của một người thốt nhiên thấy mình bị ngáng trên con đường đi. Thủa ấy, tôi sống gần như lơ đãng hẳn, nên tôi chưa từng để ý đến những dòng máu thân thiết đương còn chảy trên một mảnh đất khác đây. Hồn tôi chỉ đầy đủ khi nào nó có lẫn một phần lớn linh hồn Việt Nam. Tôi yêu nhớ nước tôi thật, nhưng tình yêu ấy, trước khi gieo vào tôi, phải được lọc qua mầu cây xanh thắm vây kín lấy những làng mạc thân yêu. Đôi phen lòng tôi se lại, nhưng sự se lòng vì một tình cảm khác lập tức được hòa vào trong âm điệu của một thứ tiếng nói âu yếm, cái tiếng nói của trái tim tôi. Ngày xưa, cho đến bây giờ nữa, hồn tôi nhiều lúc bỏ tôi đi, và áng chừng không tìm thấy phương trời nhất định, lại trở về với tôi, để lại rời xa tôi như thế mãi. Nếu vào những lúc bị phân chia trong cảm tình như thế, có ai hỏi tôi yêu nước Nam hay nước Trung Hoa, thì tôi chỉ còn biết... khóc! Tôi khó mà nói ra đây, cái tâm trạng phức tạp của một người mà huyết quản chứa đựng hai thứ tinh hoa, ngoài sự để cho lòng mình rung động, rung động đến tận cùng vì một tấm tình nghìn đời không có lời phân giải.

Tôi còn nhớ rõ hôm đó, sau buổi học chiều, về nhà, tôi đã thấy cái con người là lạ ấy ngồi xếp bằng tròn lên tấm phản, gần bàn thờ, vây chung quanh là họ hàng, thân thích. Không hiểu sao tôi nghĩ ngay đến một trò lạ mắt, thứ trò vẫn diễu ở ngoài đường của mấy người Tàu mãi võ. Đôi mắt thâm của thằng cháu xa lạ bật lên nhìn tôi, khiến tôi lùi lại. Thấy dáng điệu sợ sệt của tôi, anh tôi cười:

- Ông cháu của chú đấy! Thằng Quắn đấy mà!

Thằng Quắn! Thằng Quắn là thằng nào?

Tôi nhìn anh tôi, ngờ vực:

- Anh đừng nói dối nữa, ai đấy anh?

- Con anh chị ở bên Tàu đấy. Ba yêu nó hơn mày kia!.

Biết không ai nói dối tôi nữa, tôi mới tin. Nhưng lúc tôi tin là lúc tôi ghét. Một sự ghen tuông nổi dậy, xâm chiếm lấy tôi. Tôi vất sách ra giường, làu nhàu:

- Cháu với chả cháu!

Chạy xuống bếp, tôi phụng phịu hỏi mẹ:

- Sao anh Hai lại bảo ba yêu nó hả mẹ?

Mẹ tôi cười:

- Vì nó là cháu!

- Thế mẹ cũng yêu nó à?

Mẹ tôi biết tôi ghen, nên vừa dịu giọng, vừa lấy tay đánh vào má tôi:

- Con chó con của mẹ thì ai mà ghét được!

Vẫn chưa yên lòng, tôi còn hỏi gặng người thêm:

- Mẹ đừng yêu nó nhé, mẹ yêu con kia! Mẹ thề đi!

Mẹ tôi vụt cười, nhưng cũng chiều lòng tôi:

- Nào, thề nào. Đứa nào mà yêu nó hơn con thì đứa ấy... không ăn cơm nữa!

Từ đấy, tôi gieo cái ác cảm vô lý xuống đầu thằng cháu xa lạ. Tôi hạch sách nó, kèn cựa nó, nhưng vẻ mặt thiết bì lạnh lùng kia vẫn không vì thế mà thay đổi. Mỗi lần tôi có làm quá lắm, thì nó chỉ:

- Chú hay ghẹo cháu lắm!

Đến thế mà vẫn cho là ghẹo, thì chỉ có một mình thằng cháu tôi mới nghĩ được sự đó. Đôi khi tôi gắt lên:

- Cút, cút về Tàu đi! ở đây làm hại ông!

Nhưng nó vẫn lầm lì, suốt ngày. Mẹ tôi bảo nó thâm. Ba tôi cho là nó biết nghĩ. Hình như ba tôi có lý hơn. Nó đi thơ thẩn hết trong sân lại ra đường, mồm lẩm nhẩm đọc những gì không rõ. Tôi hỏi mãi nó mới đáp:

- Cháu học bài!

Tôi lườm lườm:

- Mày thì có mà học ăn!

Tôi gắt, nó im lặng. Và sự này càng làm tôi thêm tức. Thậm chí tôi ngờ nó nịnh ba tôi, để người yêu nó. Nhiều lần đi học về, lên gác, tôi thấy nó nằm sóng xoài bên cạnh khay đèn của ba tôi, không để hút mà để trò chuyện. Những lúc ấy, nó tươi cười, vui vẻ, nhưng hễ thoáng thấy tôi, là im bặt.

Ba tôi thường bảo tôi:

- Con làm gì mà xung khắc với nó thế. Chú cháu không biết thì dạy bảo nhau mới phải chứ.

Tôi vâng dạ cho có chuyện. Tôi không dám làm nũng ba tôi nhiều, vì người nghiêm, vì người ít nói. Ba tôi là nước Tàu, nước Tàu bí mật. Lòng mẹ tôi mới thật là cái địa hạt tình cảm của tôi.

Sống với chúng tôi được một năm, khi đã nói hơi thạo tiếng Việt Nam, thằng cháu tôi bắt đầu đi học. ý kiến ấy là của ba tôi. Ba tôi cho rằng nó thông minh, có thể học chữ Pháp được. Hẳn là tôi không thích có người bạn đồng học và đồng hành như thế. Tôi bảo mẹ tôi:

- Nó thì học gì được chữ Tây, mẹ nhỉ?

Mẹ tôi gật đầu đồng ý.

Từ đấy ngày bốn lần, chúng tôi men theo con đường nhỏ hẹp đến nhà trường. Tôi không phải cắp sách nữa. Tôi lấy sự đi tay không là một cái thú của những người trịch thượng và kiêu căng. Thằng cháu tôi không bao giờ biết thẹn. Hắn ứng đáp mạnh bạo những câu hỏi của thầy giáo, giữa bao nhiêu cặp mắt nghịch ngợm mở to ra vì tò mò.

Có nó đi bên cạnh, tôi được cái lợi là thấy lảng ra xa những người bạn trước kia làm tôi kinh hãi nhất.

Tôi ngồi ở lớp ba và cháu tôi, lớp bét. Tôi học hơn nó hai lớp nên tôi nói tiếng Pháp có cơ thạo hơn. Hồi đó, vì chương trình ban sơ học chưa đổi m1116




Quả phụ trẻ tuổi cho ghi lên tấm bia mộ của người chồng vắn số:

- Nỗi đau khổ của em quá lớn, em không thể chịu đựng nổi.

Ít lâu sau, người ta thấy nàng lập gia đình và đọc được trên tấm bia:

- Nỗi đau khổ của em quá lớn, em không thể chịu đựng nối một mình.
1435




Ai đã tạo cảnh đời thảm khốc ?
Nước mắt nhiều hơn biển và sông.
Nhân sinh kẻ đợi người mong
Phước phần mệnh số đục trong đâu ngờ.

Ai đã tạo cảnh đời ngang trái ?
Lắm khổ sầu đeo mãi vào thân.
Lòng người sao biết đo phân.
Đổi thay, thay đổi ái ân quên rồi.

Ai đã tạo cảnh đời lừa dối ?
Khéo mưu mô khuấy rối hại người.
Gạt thầy, phản bạn mỉm cười.
Diển tuồng nhân ái dối lừa dân gian.

Kẻ bạc tình, tào khang chẳng kể
Nỡ lòng nào để khổ cho người
Say mê hoa lạ vui cười
Mặc cho con, vợ giữa đời bơ vơ !


*



Giữa mùa hè năm 1976. những Thuyền-Nhân Việt Nam tị-nạn tại Pháp mới bắt đầu ra khỏi trại tạm cư để chánh-phủ cho đi định cư rải rác khắp nước Pháp. Và cũng có rất nhiều gia đình người Pháp hoặc Việt có quốc tịch Pháp hồi-hương. Ngoại trừ những ông Tây, chức giám-đốc có trách nhiệm cho hãng xưởng là phải ở lại bảo vệ tài sản theo lệnh của Tổng Thống Pháp V. Giscar d’Estaing. Phần nhiều những ông giám-đốc ấy, họ cho vợ con về Pháp trước...
Trong những ngày tháng ở lại Sàigòn, những ông giám-đốc sống một mình cô độc thì có biết bao đàn bà con gái đeo theo "bám víu" các ông, để có chút hy vọng dược các ông bảo lãnh đem ra khỏi ngục tù cộng-sản. Dù là Thánh đi nữa cũng khó tránh nổi những cành hoa tươi đẹp nhỡn nhơ gợi tình trước mắt các ông. Có ông "đi" qua đường rồi còn nghĩ nhớ đến vợ con, và cũng có những ông thay lòng đổi dạ đam mê bị "dính" luôn mà không màn gì đến vợ con đang bơ vơ trên xứ lạ quê người. Sau khi Sài Gòn thay tên đổi chủ thì cũng có biết bao cảnh đời biến đổi; từ hạ, trung hay đến thượng lưu cũng không tránh khỏi. Thật là một cuộc đổi đời lớn nhứt trong lịch sử Việt Nam !


*

Line, người thiếu phụ lai hai giòng máu Á-Âu, tuổi ngoài ba mươi, dáng vóc trung bình, khuôn mặt đẹp hao hao giống nữ tài tử Grace Kelly. Line khóc ! Đôi mắt hiện lên sự lo lắng, đang ngồi dưới hầm métro Saint-Michel với ba đứa con ; đứa con trai lớn 11 tuổi, đứa kế 9 và con gái út 7 tuổi, xung quanh năm sáu chiếc valise khá lớn và mấy xách nylon bên trong đựng những đồ lỉnh nghỉnh...
Christophe, đứa con trai lớn thấy mẹ chậm nước mắt :
- Sao má khóc ? Ba nói đi lên mua thuốc lá sẽ trở lại liền. Mà sao lâu quá vậy má ?
Hai đứa kia cũng hỏi theo... Line nhìn các con, nàng trấn an :
- Chắc ba con ghé uống cà-phê nên mới lâu vậy !
Một tiếng đồng hồ đã trôi qua, trong lòng Line có linh cảm là chồng nàng sẽ không trở lại. Nhưng nàng chẳng biết phải làm sao, mà chỉ kiên nhẫn ngồi chờ đợi. Thời gian trôi qua thêm hơn một tiếng đồng hồ nữa cũng chẳng thấy ông chồng đâu. Mấy đứa nhỏ mắc tiểu, chúng ngồi tè đại bên đường mương nhỏ. Bao chuyến métro đã ngừng và chạy qua. Mấy đứa nhỏ bắt đầu đói bụng đòi ăn. Đã hơn tám giờ tối rồi. Line soạn trong bịt còn bao bánh Lu mở ra đưa cho các con ăn, và mở chai nước cho chúng uống.
Trời vào mùa hè nên ở trên đường còn nắng sáng. Métro thưa dần thỉnh thoảng mới có một chuyến. Line chẳng biết về đâu đêm nay nếu chồng nàng đi luôn ! Vì giữa Paris nàng không quen ai cả. Một mình với ba đứa con. Nàng quên nghĩ đến chuyện mướn khách sạn. Mấy đứa nhỏ ăn hết gói bánh nhưng không đủ no. Chúng đòi ăn nữa... Line vừa khóc vừa nói với con nửa tiếng Pháp nửa tiếng Việt... Một ông hành khách người Pháp trạc tuổi bốn mươi, trên gương mặt hiền từ đến ngồi kế bên băng chờ xe. Ông nghe thoang thoáng và hiểu được những lời tiếng Pháp xen kẽ với tiếng Việt. Ông quay lại hỏi Line :
- Chào bà ! Bà và các cháu từ đâu đến vậy ? Bà có quen ai ở trên này không ?
Line nhìn người đàn ông lạ, nàng rụt rè trả lời :
- Tôi ở Nice ! Tôi chẳng quen ai ở đây cả.
Người đàn ông ngạc nhiên thốt lên :
- Nice ! Mà sao bà và các cháu... đồ đạc nhiều như vầy ? Bà lên đây làm gì ?
Mấy đứa nhỏ ngồi cạnh mẹ, mắt nhìn người đàn ông lạ không chớp. Chỉ có Christophe là hiểu và biết nói tiếng Pháp. Còn hai đứa kia thì hiểu và nói rất ít. Christophe trả lời thay mẹ :
- Má cháu, và tụi cháu chờ ba !
- Ủa ! Ba của cháu đâu ?
- Ba cháu nói, lên trên đường mua thuốc lá, rồi trở xuống liền. Nhưng đã mấy tiếng đồng hồ rồi mà ba cháu chưa trở lại.
Line nghe con nói, cổ họng nàng như bị nghẹt, nước mắt trào ra và lắc đầu :
- Không biết chồng tôi có bị chuyện gì không mà đi lâu quá ? Từ hồi sáu giờ đến giờ đó ông à !
Métro dừng và chạy qua hai ba chuyến rồi mà người đàn ông lạ ấy không màn. Ông lại lo lắng cho thân phận bốn mẹ con của Line. Ông nghĩ : "Nhà mình chỉ có một phòng làm sao chứa hết đây ? Nhưng mình thấy hoàn cảnh của kẻ bơ vơ thì làm sao làm ngơ được. Trông người đàn bà này cũng hiền, mấy đứa con cũng ngoan. Chắc không phải là thành phần xấu ? Mình phải cứu người nhất thời mới được !’’. Ông nghĩ xong, liền quay lại hỏi Line :
- Bà và các cháu có thể đến ở tạm nhà tôi, nếu chút nữa chồng bà không đến. Bà có tin tưởng tôi không ?
Line nghe người đàn ông hỏi thế. Nàng lại nghĩ : "Không còn cách gì hơn ? Người này, chắc là Quới-Nhân đến độ mẹ con mình rồi !". Line nhìn người đàn ông, nàng gật đầu và nói :
- Cám ơn ông có lòng tốt muốn cứu mẹ con tôi. Tôi bằng lòng đến nhà ông ở tạm vài ngày, rồi sẽ tính sau...


*

Tất cả khệ nệ những chiếc valise lên từng lầu ba, nằm trên đường Monge quận 5 Paris. Vào nhà của người đàn ông lạ. Thật sự căn phòng nhỏ hẹp cỡ ba chục thước vuông, nhưng đầy đủ tiện nghi. Ông bảo Line cho mấy đứa nhỏ tắm rửa thay quần áo xong ông sẽ dẫn xuống đường ăn Pizza. Vì nhà ông chẳng có món gì ngoài phó-mát.
(...)
Ăn xong tất cả trở lên. Người đàn ông lạ trải mền dưới sàn nhà cho bốn mẹ con của Line ngủ. Còn ông thì để nguyên canapé-lit (sofa) không mở ra, ông nằm trên đó ngủ.
Vì suốt ngày ngồi xe lửa từ Nice lên Paris, và mấy tiếng đồng hồ ngồi dưới métro. Hơn nữa, trời nóng nực nên bốn mẹ con của Line mệt đừ. Line nghe ông chủ nhà đã ngáy khò khò. Ba đứa nhỏ cũng đã ngủ. Chỉ có Line là còn nằm thao thức mà nước mắt cứ tuôn trào... Rồi nàng cũng thiếp luôn một giấc tới sáng.

Ông Paul, người chủ nhà thức dậy trước. Ông bấm nút nấu nước pha cà-phê rồi mở cửa nhè nhẹ đi xuống đường mua bánh mì. Khi trở lên thì mấy mẹ con của Line cũng đã thức dậy và đang xếp mền. Nét mặt hiền từ của ông Paul làm mấy dứa nhỏ không sợ sệt. Ông đến gần con bé Annie hỏi :
- Sao, cháu ngủ ngon không ?
Bé Annie gật đầu. Còn bé Éric thì lõ hai con mắt to tròn nhìn ông Paul mà mỉm cười. Line phụ dọn mấy cái tô nho nhỏ để trên bàn nhỏ bên góc. Ông Paul đem hộp sữa, ca-cao và bơ ra. Tất cả cùng nhau ăn điểm tâm...

Đến trưa trưa, Line hỏi ông chủ nhà :
- Ở gần đây có khách sạn nào rẻ tiền không vậy ông ?
Ông Paul trả lời không cần suy nghĩ :
- Có nhiều lắm.
- Nhờ ông dẫn tôi đi mướn một phòng ở đỡ trong thời gian này.
Ông Paul ngập ngừng rồi nói :
- Bà và các cháu cứ ở tạm nhà tôi. Rồi từ từ tìm nhà mướn, chứ mướn khách sạn mắc tiền lắm !
- Cám ơn ông đã giúp đỡ mẹ con tôi. Ở đây nữa làm phiền ông quá.
- Bà đừng ngại.


*

Thế rồi, bốn mẹ con Line ở nán thêm mấy ngày. Khi ông Paul đi làm thì ông giao nhà cho mấy mẹ con Line. Và ông cũng thăm hỏi bạn bè ông trong hãng, coi ai có phòng cho mướn không. Cuối cùng ông có người bạn có căn "appartement" hai phòng đang bỏ trống ở quận 18, bằng lòng cho Line mướn hai ngàn quan mỗi tháng, với điều kiện phải đưa ông trước sáu tháng tiền nhà. Line nghe vậy, nàng mừng quá và vội vàng đi đổi tiền đô-la ra tiền pháp. Cũng may là Line có tiền !
Line cùng ba đứa con dọn đi. Line kín đáo đưa cho ông Paul một ngàn quan để gọi là tạ ơn trong một tuần lễ ăn ở tạm nhà ông. Nhưng ông Paul từ chối nhứt định không lấy.
Sau đó, Line liên lạc được người em gái tên Céline đang ở Genève (Thụy-Sĩ). Céline tưởng chị mình yên thân, nhưng không thể nào ngờ chị mình lại bị ông chồng tàn nhẫn bỏ rơi giữa thủ đô Paris đầy nguy hiểm. Nghe thế, nàng tức tốc thu xếp đi qua Paris sống chung cùng chị và các cháu.
Hai chị em Line tuổi vừa ngoài ba mươi sắc vóc còn trẻ đẹp. Céline đi tìm việc làm trong những hộp đêm, nhà hàng và những quán cà-phê ở trung tâm Paris. Cuối cùng hai chị em được việc trong một nhà hàng sang trọng. Line tiếp viên, đưa khách vào bàn, còn Céline thì giữ áo. Line lo cho các con vô trường học đàng hoàng.

Một năm sau, có ông khách "đa tình" bằng tuổi Line, chàng thương yêu Line tha thiết. Một thời gian ngắn Line đệ đơn ly dị chồng, rồi được người tình mới cưới Line làm vợ. Céline cũng được tương tựa chung hoàn cảnh như chị. Hai chị em đều có chồng rất khá giả.
Sau khi Line lấy chồng khác. Line nghĩ đến ông chồng cũ. Vì các con, nên Line liên lạc lại với ông cho các con gặp mặt cha.
Người đàn ông bạc tình kia, bị cô vợ sau bỏ rơi, nửa năm sau khi đem cô qua Pháp. Bởi cô mượn ông làm chiếc đò đưa qua mà thôi. Ông buồn tình, nên muốn gặp lại người vợ cũ, trong lòng ông hy vọng Line sẽ tha thứ để nối lại tình xưa... Từ Nice ông lù lù lên gặp Line và các con. Ông ngỡ ngàng thấy Line sống sang giàu trong căn nhà tại quận 16 Paris. Ông tự thấy lòng hổ thẹn và buông lời :
- Thật, anh là một thằng tồi, một thằng ngu, một thằng đàn ông bạc tình, bạc nghĩa. Chúc em được hạnh phúc mãi mãi.
Line mỉm cười, không một lời trách móc...


Thế mới biết trời cao có mắt
Oan oan, trái trái ắt trả vay
Người chồng bội bạc hôm nay
Một thân, một bóng đêm ngày ăn năn
2002






Ðiều đó, dẫu không thể thật, nhưng ai nghe ai cũng vui lòng. Tôi nuốt nước bọt, không nhìn Hương, mỉm cười đáp lại « ... chỉ Hương, Hương mới không có gì thay đổi. Còn Vinh, này nhìn xem, tóc Vinh chớm bạc mất rồi ! ». Tay vặn cửa kính xe, tôi ngửa mặt hứng gió và nắng vàng tươi. Vòng quanh hồ, xe qua góc chợ rồi từ từ lăn lên dốc Minh Mạng. « Vinh thấy có khác không ? » Tôi lắc đầu. Hương nói như than thở « Ở đây, hiện tại chỉ cách quá khứ bằng một chút tuyệt vọng ».

Tôi quay lại nhìn Hương, và có gì gần như một niềm bực bội sắp sửa tràn ra tựa nước rót quá tay vào một chén trà tầu hạt mít. Kềm lòng mình, tôi cố gắng lấy giọng thanh thản « Màu nắng vàng ở đây tươi như nắng ở Florence bên ý». Hương nhìn ra, bàn tay víu lấy mái tóc dài bay tung lên, mắt xa xôi. Gỡ dăm sợi tóc đen huyền vướng vào mặt, tôi quay kính xe lên khi xe đến đỉnh dốc.

Chiếc xe ngừng hẳn. Hương nói : « ... đến rồi, Vinh có nhận ra nhà mình không ? » Tôi nhìn quanh, ngỡ ngàng. Khi xưa, khu này chỉ dăm ba nóc nhà hiu quạnh. Nay thì khác, nhà đủ kiểu đủ cỡ san sát. Thản nhiên, Hương bảo « ... dân ngoài ấy vào đấy. Họ chia đất, thế là mạnh ai nấy xây». Tôi ngơ ngác xách vali theo. Hương đi trước, lấy chìa khóa mở chiếc khóa đồng treo trên sợi xích hoen rỉ buộc hai cánh cổng gỗ sơn đã rã ra loang lổ.

Chúng tôi lẳng lặng bước vào. Tôi dán mắt lên từng ô vuông trên mặt đất, rồi ngửng nhìn quanh vườn, mong tìm lại dấu vết thuở ấu thơ. Bên kia là cây đại, không cao hơn, chỉ thêm sần sùi. Bên này giàn dâm bụt vẫn thế. Trong sân, cỏ úa. Mảnh hồ bán nguyệt nay cạn nước nằm vênh vao mặc cho ông Lã Vọng bằng đất thó vẫn ngồi lì câu cá. Bước lên thềm, những chậu kiểng nay xác xơ. Ngay cửa ra vào, chỉ có một chậu cây, lá dài và dầy, đâm ra từ những cuộng cây màu nâu già, chĩa ngang chĩa dọc, ánh lên sắc ngọc bích dưới nắng. Tôi ngừng chân, tay để chiếc vali xuống. Hương mở cửa, giọng đều đều « ... Cây quỳnh của cậu đây. Hương vẫn chăm nom, và thế là nó đã được xấp xỉ ba mươi tuổi rồi.»

*

Hương dặn dò : « Có một đoàn người Pháp lên, Hương không xin nghỉ được. Chỉ độ sáu giờ là Hương về. Ở nhà, thức ăn đã sẵn, Vinh chỉ hâm lên thôi ! ». Vén vạt áo dài trắng, Hương lên honda, rồ máy, ngoái lại : « Vinh nghỉ ngơi trưa nay một tí đi nhé ». Ra khép cổng, tôi nhìn theo cho đến khi bóng Hương khuất nơi dốc đồi, rồi lững thững vào. Ði ngang chậu hoa quỳnh, tôi ngần ngừ, ngồi bệt xuống cạnh, lưng ngã dựa vào bức tường vôi vàng nhạt thếch.

Nhắm mắt lại, tôi thoáng ngửi thấy một mùi hương thơm. Thơm dịu, thơm ngọt, mùi hương chợt đến, chợt đi, như đùa nghịch với khứu giác. Tai tôi bỗng văng vẳng lời bác Ðản, giọng khàn khàn « Quỳnh mở vào độ chín giờ tối. Ðến nửa đêm thì mãn khai. Rồi tàn. Vào khoảng bốn giờ sáng thì hoa cụp lại, và thế là hết... ». Cha tôi kể người yêu đầu của bác tên Quỳnh. Bác gái không biết, cứ tưởng bác trai yêu hoa, chịu đặt tên hai cô gái song sinh đầu lòng là Quỳnh và Hương. Bác tiếp « ... Quỳnh là loài hoa hiếm, nhưng tối nở sớm tàn... Vinh lên nghỉ hè kỳ này gặp dịp hoa nở chắc sắp tới sẽ may mắn lắm đấy ! ».

Tối hôm ấy, bác tắm rửa, rồi pha trà tầu, sai người đi mua bánh đậu xanh và kẹo lạc. Quỳnh được bố yêu, nũng nịu « Quỳnh này thì không tối nở sớm tàn đâu nhé !» Nhìn mẹ, Quỳnh dỗi « ... hoa quí thế mà sao mợ lại cứ đòi đổi tên con.» Quả là bác gái có định thế, một phần là biết chuyện mối tình đầu của bác trai nên bác ghen, phần khác, bác nói ra miệng là do dị đoan, sợ cái kiếp tối nở sớm tàn vận vào đời con gái. Bác trai bảo « ... thiếu gì đàn bà tên Quỳnh. Với lại, mợ nhìn thử xem, cái nốt ruồi trên gò má con Quỳnh. Các cụ ví nó như giọt nước mắt, có tác động phá đi cái xấu của cái tên. Không phùng không, tắc minh. Nếu đổi tên, thì cũng phải tẩy cái nốt ruồi ấy ». Quỳnh la lên « Không được ! Mất cái nốt ruồi, thì con thành Hương à ? ».

Quỳnh và Hương đúng là hai giọt nước chỉ độc có một điểm khác biệt là vết nốt ruồi nhỏ bằng ba cái đầu tăm. Quỳnh nằng nặc đòi làm chị, lấy cớ là ra trước. Bẻm mép, nàng đọc « Ðầu lòng hai ả tố nga, Tú Quỳnh là chị, em là Tú Hương. Ðọc thế thì nghe lọt, chứ đổi Tú Hương là chị, em là Tú Quỳnh thì anh ác trái tai. Vì thế Quỳnh phải là chị, chứ em thế nào được ». Bác trai cười tán đồng. Bác vốn yêu thi ca, xưa đã xách túi giang hồ theo hầu cụ Tản Ðà cả hai năm trời. Nay, về ở ẩn, bác ngồi dịch thơ Ðường. Và dạy dăm giờ Pháp văn cho một trường trung học tư thục, đồng ra đồng vào tùy thuộc vào sự thu vén của bác gái. « Bác gái, mẹ tôi thì thầm dặn mỗi lần tôi lên nghỉ hè, có bệnh lao, chữa thì chữa nhưng khỏi thì ai mà biết được, con nhớ cẩn thận » Nhưng cẩn thận thế nào thì mẹ tôi không biết, chỉ cằn nhằn cha tôi chiều con. Với tôi, mẹ càu nhàu « ... cái thằng bé đến lạ, nghỉ hè năm nào cũng đòi lên bác Ðản ! Cho đi Vũng Tầu thì kêu sợ nắng ...». Mẹ nói thế, vì không biết vô tình hay cố ý, mẹ lờ đi điều bí ẩn trong lòng con trai mẹ.

Giọng bác lại khàn khàn cất lên « Khi cụ Tản mất, cụ Huỳnh Thúc Kháng có làm một câu đối, ví cụ như hoa quỳnh. Câu đối như thế này :

Không sắc nhất Quỳnh hoa, tiếu khứ hâu nhiêm, thiên thượng quần tiên đa quyến thuộc

Túy ngâm song bạch nhãn, hứng lai huy bút, nhân gian thiên thủ ngạo công hầu.

Nhìn ba đứa chúng tôi ngơ ngẩn, bác chậm rãi : « giảng nôm ra là Không sắc một đóa Quỳnh,về vuốt râu chơi, bạn tiên thượng giới thành quyến thuộc. Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ vung bút, tài hoa trời phú ngạo công hầu ».

Bác vừa dứt lời, chuông đồng hồ treo tường rền rĩ điểm mười một tiếng. Ðóa quỳnh to bằng hai bàn tay đã bung nở, nhị hoa màu vàng óng ánh ẩn trong những cánh hoa trắng tinh khiết, chung quanh lớp ngoài những cuống hoa màu tím hồng cong lên như râu. Bác Ðản xòe chiếc quạt giấy rồi phẩy nhẹ. Không gian bỗng thoang thoảng một mùi thơm dịu dàng nhưng đằm thắm. Bác ngẩn ngơ đưa chén trà lên miệng nhắp. Quỳnh lẳng lặng ra ngồi trước chiếc đàn dương cầm màu đen nháy. Nàng dạo nhẹ vài nốt, rồi chơi đoản khúc Ánh Trăng của Beethoven.

Tôi đứng dậy lững thững ra đứng cạnh cửa sổ. Trăng mười sáu đã lên cao, mây theo chiều gió chập chờn trôi từng tảng. Núi đồi ở tầm mắt nhuộm bạc, ẩn hiện, biến hóa như một sinh vật lẩn trốn trong màn đêm khi mờ khi tỏ. Mùi hoa quỳnh thỉnh thoảng lại ngát lên, ấp ủ gian phòng tràn ngập tiếng đàn đang nhỏ từng giọt âm thanh nghe hững hờ xa vắng. Quỳnh chập chờn trong ánh lửa lò sưởi, tóc dài ngang lưng xòa phủ một nửa mặt, ngón tay trắng muốt nhảy múa trên những phím ngà. %3
CBR>
Tôi quay về, ngồi cạnh bác Ðản, im lặng. Ngồi khuất trong bóng tối, Hương lẳng lặng đan áo. Chìm đắm vào cảm giác ngất ngây của nỗi đau khó gọi được tên, tôi như đánh mất một phần hồn mình mặc dầu lát sau tiếng đàn đã im bặt. Quỳnh đến đứng cạnh, nhẹ nhàng bảo : « Chị đánh tặng cho Vinh đấy... ». Từ năm ngoái, nàng xưng chị với tôi, chứ không gọi tên tôi như xưa. Hỏi, nàng bảo, hơn tuổi thì là chị. Ðúng là nàng hơn tôi vài tháng thật, nhưng tôi ấm ức, vẫn tiếp tục gọi nàng là Quỳnh.

Bác Ðản đợi đến nửa đêm, lúc hoa mãn khai, lộng lẫy như một nàng tiên đang tung giải áo trắng lên múa khúc nghê thường trên đài hoa cứ rung lên nhè nhẹ, đứng dậy bảo « Thôi cậu đi nằm ... » Hình như bác sợ, bác không muốn nhìn cảnh bông hoa bắt đầu tàn. Hương ngước nhìn bác, rồi lại cắm cúi tiếp tục đan. Tôi nhìn Quỳnh, hỏi « Quỳnh sao không đánh thêm một bản nữa ... ». Hương nhẹ nhàng, ngắt lời « Thôi, để cậu mợ ngủ chứ ! », và vẫn tiếp tục đan.

Lúc Quỳnh đòi đi ngủ, tôi giả vờ ngáp, rồi bước theo. Ði sau Quỳnh lên cầu thang, tôi thu hết can đảm, run giọng « Quỳnh ơi, lúc nào Vinh sống, Vinh sẽ nhớ mãi bản đàn đêm nay...» Quỳnh ngưng bước, quay lại, giọng hóm hỉnh « ... thôi đi cạâu em ơi, cứ qua đấy dăm tháng là quên chị ngay, nhớ gì nữa... Gặp một nàng đẹp như Gina Lolobrigida thì rồi cạâu quên hết ngay ấy mà ! » Tôi xót xa, bụng thắt lại, xây xẩm như bị tát vào mặt. Tôi nhìn Quỳnh, không thấy gì ngoài cái vết nốt ruồi trên gò má.

Ðêm hôm ấy, tôi không nhắm mắt nổi. Tôi biết chỉ có Hương thấy cảnh hoa tàn. Nàng thức đến sáng, đan cố cho xong chiếc áo len tôi mang theo từ ngày qua ý. Ði được hai năm, có tin báo là « chị » Quỳnh vừa lấy anh Thạc, sinh viên trường võ bị Ðà Lạt mới ra trường. Họ yêu nhau đã ba năm, có lẽ vào thời gian Quỳnh xưng chị với tôi.

*

Lên gác, tôi đẩy cửa phòng xưa bác Ðản dùng như phòng làm việc. Nay là nơi để bàn thờ hai bác. Ảnh cũ, nét đã vàng, khiến những người thân yêu nhợt nhạt đi như ở một thế giới khác. Tìm mãi tôi mới lấy được dăm cây hương. Châm lửa, vẩy cho tắt, tôi cắm vào lư, mắt nhắm lại, cố tìm ra hình ảnh hai bác sinh động hơn hai bức ảnh lạnh nhạt. Tôi cố, nhưng bất lực. Mở mắt, những đốm hương bỗng tự nhiên bắt lửa bùng lên. Lạ thật. Phòng kín, không một cơn gió nào lùa vào được. Tôi bỗng thấy lạnh xương sống. Tôi cúi mình chắp tay vái, mắt lại nhắm lại. Khi mở mắt, lửa đầu những cây hương đã tắt, ba chấm đỏ nhả những vân khói xanh thẫm lên không. Tai tôi bất chợt thoáng nghe một tiếng cười thân thuộc. Lúc ấy, tôi biết rõ ràng là bác Ðản từ cõi âm về đứng ngay sau lưng tôi, và không quay lại, tôi cảm thấy bác đang nhìn tôi trìu mến. Biên giới vô hình giữa bác và tôi được một thứ hấp lực giữ cân bằng khiến tôi chẳng thể xoay người để nhảy vào vòng tay bác như thuở còn thơ. Từ cõi dương, tôi để măïc mình thanh thản thả trôi tâm thức vào thế giới bên kia như xuôi dọc một dòng sông bình dị.

Mùi hương trầm dìm ý thức của tôi vào một niềm linh hiển đang chuyển hóa huyễn hoặc thành thực tại. Quá khứ ở đâu ùa về choáng ngợp. Tôi sống với cái cảm giác lần cuối lên nghỉ hè, xem hoa quỳnh nở, để chỉ tháng sau ra Tân Sơn Nhất bay đi một phương trời lạ. Tai tôi văng vẳng lời bác trai dặn dò ở bến xe Ðà Lạt cách đây hơn hai mươi năm « Vinh đi được, bác mừng. Ở đây rồi thì cũng lính tráng như mọi người, không chết thì cũng thương tật. Không thương tật phần xác, cũng thương tật phần hồn... ». Bác ngừng nói, chép miệng « về họa, bác chỉ biết mỗi Modigliami là người ý, nhưng với kiến trúc và lịch sử của họ, chắc họ có nhiều grands maitres đấy... ». Bác tần ngần, nắm tay tôi «... học vẽ, con chắc không thoát ra cái kiếp nghệ sĩ, vừa khó, lại vừa khổ. Khổ cái khổ con người, và khó là dùng nghệ thuật mang đến cho con người cái vượt lên sự khổ. Ðó phải chăng là hy vọng ? » Tôi nhìn bác. Vắng Quỳnh. Nàng bảo bận, không đi tiễn. Tôi nhìn Hương. Hương lẳng lặng nhìn tôi. Không nói. Không cười. Tôi nghẹn ngào, leo vội lên xe. Linh cảm là sẽ còn lâu, hoặc không bao giờ, tôi lại quay về sống những phút dịu dàng như những ngày tháng vừa qua, tôi ứa nước mắt.

Khi đưa tay lên quệt những giọt nước mắt hai mươi năm sau vẫn chưa khô, tôi buột miệng « ... thế mà cứ tưởng là thời gian có thật ! » . Hướng về phía bàn thờ, tôi vái thêm ba vái, rồi đóng cửa gian phòng, bỏ đi xuống. Ðẩy mấy thanh củi vào lò sưởi, tôi loay hoay nổi lửa. Mùi gỗ thoáng thơm nồng, tiếng củi khô lách tách, và ánh lửa bập bùng khiến tôi tìm lại được sự thanh thản an bình của tuổi thiếu thời. Tôi ngả lưng vào chiếc ghế bành đệm bọc nỉ, chợp mắt lúc nào không biết.

Lúc choàng dậy, ai đó ngồi trước mặt tôi, miệng mỉm cười. Tôi giụi mắt. Vết nốt ruồi trên má hiện rõ ra. Ðó là giọt lệ theo lời ví các cụ ngày xưa, và hẳn phải là Quỳnh. Tôi hỏi. Vẫn cái giọn hóm hỉnh, « Quỳnh đây !». « Thế là Quỳnh ư ? Quỳnh về lúc nào ? Sao không đánh thức Vinh ngay ? » « Thấy Vinh ngủ ngon quá, không nỡ. Ðợi cho Vinh dậy, đi xa về chắc mệt.». Tôi chồm dậy : « Không, không có gì mệt cả. Mà sao Quỳnh không xưng « chị », chị Quỳnh như thuở Vinh đi ?». Quỳnh cười, vẫn giọng cười ngày xưa, trong vắt và sắc cạnh : « Bây giờ, không cần. Ta lớn cả rồi. Quỳnh ba con, đứa lớn nhất mười tám, sắp gả chồng đấy ».

*

Quỳnh cau mặt, chân mày nhếch lên, vết nốt ruồi lăn như giọt lệ đang rơi, trề môi buông thõng « Từ tương lai, kẻ đi tìm quá khứ hẳn đang đặt một dấu hỏi với hiện tại của mình, phải không ? ». Tôi thầm nhủ, đâu phải là bay từ một phương xa về đáp xuống Tân Sân Nhất cách đây vài bữa mà tôi đến từ tương lai. Không lẽ tương lai với những người ở đây chỉ là đủ miếng ăn hôm nay và không sợ đói ngày mai ? Quỳnh hiểu gì về những đêm tôi một mình uống cho đến độ không còn biết mình là ai, chẳng phải vì ngậm ngùi với quá khứ mà là ngỡ ngàng rồi hốt hoảng cho phần đời còn lại. Tránh trả lời, tôi giả giọng trách móc « Sao Quỳnh không hỏi thẳng ? », lòng hy vọng Quỳnh sẽ nhắc tôi kỷ niệm đêm xem hoa nở và lời tôi nói lưng cầu thang với Quỳnh. Và tôi, tôi sẽ nhắc lại nguyên văn câu nói xưa. Cảm động, Quỳnh sẽ nhìn tôi, nước mắt ứa ra chảy dài xuống má. Tôi sẽ lẳng lặng lau nước mắt, nói nhỏ như an ủi một đứa bé vừa ngã « ...thôi mà, thôi xong rồi. Ðứng dậy đi, đứng dậy... ». Nhưng Quỳnh lại nhìn thẳng vào mắt tôi, diễu cợt « Hỏi gì ? Có những điều không nên hỏi thẳng - Quỳnh ngước lên, ánh mắt vẫn châm chọc, tiếp - chẳng hạn như Vinh về đây làm gì ? Có phải là Vinh đang tìm lời giải đáp cho cái câu hỏi đó ? ». Tôi khựng lại, chẳng nhẽ bây giờ không còn ai có thể nghĩ đến một ai khác ngoài chính mình, thậm chí cả đến khi đặt một câu hỏi cũng lại chỉ trong vòng ích kỷ quanh quẩn cái tôi, tôi là, tôi có... ? Bực mình, tôi sẵng « ...nếu tương lai là dấu hỏi, quá khứ đã và còn là dấu hỏi, thì hiện tại bị kẹp ở giữa ắt cũng là dấu hỏi. Cứ cho là Vinh đi tìm quá khứ để có lời giải đáp cho dấu hỏi với hiện tại đi. Nhưng đó cũng là lời giải đáp dấu hỏi của quá khứ, và biết đâu, đó cũng lại là lời giải đáp cho tương lai ? ». Quỳnh quay lưng, xuống thang, cười nhạt « ... lãng mạn thật, bây giờ người ta nói thế là cực lãng mạn ».

Ðến ngồi cạnh lò sưởi, Quỳnh cời than cho lửa bùng lên, đôi vai thon gầy nhô cao che đi phần cổ trắng nõn nà. Tôi quay nhìn về nơi đặt chiếc dương cầm đen nháy ngày xưa, mắt thoáng hiện mớ tóc dài, những ngón tay nhẩy múa, và ngửi thấy mùi hoa quỳnh đâu đây thoảng lại. Như đoán được câu tôi sẽ hỏi, Quỳnh lửng lơ « ...đàn bán rồi. Bán đàn nuôi được cả nhà này hai tháng cơm canh đấy ! ». Trạnh lòng, tôi nói như máy «...thế thì lâu lắm rồi Quỳnh không đàn nữa nhỉ ». Câu nói vừa thừa vừa vô duyên. Quỳnh nhún vai «...lâu lắm không sống nữa, nói chi đến chuyện đàn ! », chữ sống gằn xuống nghe nặng như chì đổ. Giọng bỗng vui hẳn lên, Quỳnh hỏi « còn cái sonate đó, Vinh có nhớ không ? ». Dẫu hiểu, tôi cố tình hỏi «...cái sonate nào ? ». Cười ròn, Quỳnh reo « Ðấy, đã bảo mà, sẽ quên ngay thôi. Cái sonate Ánh Trăng Vinh nghe trước khi về Sài Gòn rồi lên đường sang ý, Vinh không nhớ à ? ». Tự nhiên lòng căm lại thành một khối băng, tôi mím môi, lắc đầu. Quỳnh nhìn vào mắt tôi, hóm hỉnh « ...lắc đầu nhớ hay lắc đầu quên ». Tủi thân, tôi mỉa lại, « Quên, quên thật đấy, “chị” Quỳnh ạ ! ». Nghe đến đấy, Quỳnh phá lên cười, chạy ra mở tung hai cánh cửa sổ.

Quỳnh vẫn cười, tiếng cười như chuông ngân. Bên ngoài, nắng vẫn tươi rói trên dốc đồi soai soải mầu xanh chạm cạnh những vạt bóng chênh chếch dưới ánh mặt trời. Gió hiu hiu lạnh thốc vào, mái tóc Quỳnh như một giải lụa đen, bay tung ra sau. Tôi đến đứng bên cạnh Quỳnh. Những sợi tóc bay vướng vào mặt tôi như vuốt ve. Tay gỡ tóc, Quỳnh ngước mặt nhìn tôi khiêu khích.Vết nốt ruồi, giọt lệ mầu đen ấy, nhập nhòa trên má tựa ảo ảnh, lúc biến lúc hiện. Tôi nhắm mắt. Niềm lo sợ đánh vỡ, như thuở nhỏ, khi tay cầm một món đồ cổ của cha tôi bỗng ùa lại. Tiếng Quỳnh mơ hồ «...cái dấu hỏi đó, Vinh cứ hỏi đi. Câu trả lời nằm ngay trong hiện tại, ở trước mắt, có muốn trốn cũng chẳng được ! ». Ðầu óc choãi ra trống vắng rồi tê liệt đi, tôi nghe bên tai «...anh Thạc anh ấy chết rồi, chết thật rồi ! ». Tiếng Quỳnh nói nhẹ như thở, hơi nóng phà vào mặt tôi, đốt lên một ngọn lửa âm ỉ đến độ tôi tưởng nó đã tàn lụi như lòng núi lửa khi chết chỉ còn để lại chút khốc khô nham thạch. Không biết từ lúc nào, hai tay tôi áp vào má Quỳnh. Tôi nâng mặt nàng lên, hai môi tôi áp xuống. Tôi hôn, điên dại hôn. Tôi nghe tiếng vỡ của sành của sứ của đồ cổ va vào mặt đá. Nhưng tôi vẫn tiếp tục hôn. Hôn lấy hôn để. Hôn đến lúc Quỳnh mềm nhũn ra, không thở được, tay cứ bíu vào vai tôi, mắt nhắm nghiền, môi vẫn hé mở. Cứ thế, tôi hôn, tôi ghì lấy cái thân thể mỏng mảnh kia, ôm như bế bồng thuở thiếu thời của tôi, của Quỳnh, cho vào nhập với hiện tại để thành hiện tại, nhưng vẫn mơ hồ nỗi sợ những bẽ bàng không đoán trước.

Bế thốc Quỳnh lên, tôi vào phòng, đặt nàng xuống giường. Vẫn khuôn mặt hình trái soan, vẫn chiếc mũi dọc dừa. Vẫn đôi môi hơi vênh lên, nhưng nay không có vẻ thách thức, lại như chiều chuộng, như cam chịu, như bảo bọc. Vẫn cái vết nốt ruồi như một giọt lệ, giọt lệ đen có cái tác động giải đi sự bất hạnh của kẻ mang tên một loài hoa hiếm trắng tinh khiết nhưng cam cái phận tối nở sớm tàn. Tôi hôn lên má Quỳnh, mắt không nhìn thấy vết nốt ruồi đâu nữa. Lẳng lặng, tôi cởi hết quần áo cho Quỳnh, mơn trớn rồi hôn trên từng phân vuông lớp da trắng xanh, rúc mặt vào từng vùng lau lách, liếm láp từng ngõ ngách, thở bằng mùi phấn hương đóa trà mi nở căng bần bật trên cái đài hoa bỗng nhận ra mùa xuân về muộn. Tôi xông vào. Tôi mặc kệ, mặc tiếng rên, tiếng hổn hển, tiếng kêu trời, tiếng nghẹn thở. Quỳnh gọi tên tôi, hai tay cấu lấy mông, cắn vào vai, có lúc lại òa lên khóc. Tôi làm tình như một tên tù vừa sổng ngục, cứ thiếp đi thì thôi, nhưng tỉnh dậy là tôi lại mơn trớn Quỳnh, mơn trớn tôi, và không một lời, tôi chỉ để thân xác tôi nói cho Quỳnh hiểu hết những điều tôi ấp ủ từ những hai mươi năm qua. Và nói cho tận tiệt.

*

Nửa mơ nửa tỉnh, tôi quơ tay sang bên cạnh, thấy trống trơn hụt hẫng. Tôi hé mắt nhìn. Chỉ có chiếc gối và tấm chăn đơn. Cửa sổ vẫn khép, nhưng ánh nắng đã le lói hắt qua những chiếc then gỗ. Tôi vùng dậy, bước ra mở tung hai cánh cửa cho gió nắng tràn vào. Vừa huýt sáo nho nhỏ, tôi vừa nhìn đồng hồ tay. Tôi gọi. Không có ai trả lời. Tôi xuống cầu thang, miệng ngân nga một điệu hát không thuộc lời.

Mảnh giấy để trên bàn ghi « sẽ về ngay, đi mua xôi cho Vinh, cà phê đã pha, sữa đặc và đường trên bàn ». Mỉm cười, tôi mở cửa ngoài, ra ngắm chậu quỳnh ngày xưa. Lá quỳnh đâm ra như những mũi dáo xanh ngắt nhưng dưới gốc có dăm ba cuộng héo đi vì thiếu nước. Tôi vào múc nước, nhè nhẹ rót xuống đất trong chậu cây nay khô ran. Nhớ vế câu đối xưa, hình như là « Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ vung bút, tài hoa trời phú ngạo công hầu », tôi lẩn thẩn vào nhà, ngồi xuống ghế, tay mân mê hộp mầu tôi mang theo định thực hiện dự tính vẽ lên khung vải cái tôi tha thiết gọi là tâm tư miền núi.

Rót cà phê vào tách, trước sân nghe lạch bạch tiếng Honda. Mở cửa, Hương bước vào, tay xách gà- mèn, miệng reo « A, Vinh dậy rồi. Hương đi mua xôi, loại xôi lúa ngày xưa Vinh vẫn thích đấy ! ». Tôi chưa kịp nhớ ra xôi như thế nào thì Hương chìa cho tôi một mảnh giấy, nói nhanh «...Vinh có điện tín, bưu điện đưa lại sáng sớm hôm nay ». Ði xuống bếp, Hương nói với lại «... Hương xẻ xôi vào bát. Vinh rót cho Hương một tách cà phê nhé ! ».

Cầm bức điện tín chưa mở, tôi bỗng phập phồng lo ngại. Người thân của tôi ở đất nước này chẳng còn ai, bạn bè tôi lại không có, vậy thì ai biết được tôi lên đến đây để liên lạc. Ngần ngại, tôi mở bức điện, đọc

Vinh than Stop Anh Thac, chi va cac chau ve thu sau toi tuan nay Stop Mua duoc ve xe lua tu Danang Stop Chi Quynh

Tôi lặng người. Thế vết nốt ruồi ngày hôm qua không có thật à ? Cắn vào ngón tay mình, tôi vẫn thấy đau. Nghĩa là tôi vẫn còn đây. Ðúng, tôi còn. Nhưng sự linh hiển của một thế giới bên kia có không ? Tiếng cười thân thuộc của bác Ðản có không ? Và những cây hương bùng lên cháy, tôi nhìn thấy, nhưng có thật không ? Thật là gì ? Có phải cái ta gọi là thật chỉ loanh quoanh trong vòng ngũ uẩn - nhìn, ngửi, nghe, sờ, nếm - hay còn gì nữa ? Tôi nghiến răng, ngón tay tôi đau điếng, miệng mặn vị máu đang ứa ra. Vậy là tôi còn đây, cứ tin thế đi. Thế thì Vinh đêm qua, Vinh có là tôi không ? Còn người đàn bà, là Quỳnh hay là Hương ? Nếu tôi hôm nay không là Vinh đêm qua, người đàn bà đó ắt là Quỳnh, loài hoa tối nở sớm tàn. Nhưng nếu Vinh đêm qua chính là tôi hôm nay ? Câu hỏi xoáy vào óc tôi theo đường trôn như bị đuôi những con mực ma cuốn dìm xuống biển. Hoảng hốt, tôi vội vàng thọc bàn tay ngón bị cắn chảy máu vào túi quần.

Hương đi lên, tay bưng chiếc khay có hai bát xôi, dịu dàng «...chắc điện của Quỳnh ? ». Tôi gật đầu. Ðưa bức điện cho Hương, tôi thầm nhủ, thế là anh Thạc đâu có chết. Hương nói «... xe lửa chỉ đến Nha Trang. Từ đó lên đây, bắt xe hàng đi cũng mất thêm ba giờ. Chắc phải tối mịt mới tới được ». Tôi chăm chú nhìn Hương. Trên má nàng, đâu có vết nốt ruồi các cụ ngày xưa ví như giọt lệ màu đen nhỏ xuống. Thế thì giọt lệ màu đen không có thật ! Hoặc giả nó chỉ là điều thêu dệt cho Quỳnh khác với Hương. Và muốn Hương thành Quỳnh thì thật dễ, chỉ cần chấm vào má một chấm bút con gái dùng để kẻ chân mày !

Ðể bức điện tín xuống bàn, Hương giục tôi ăn rồi bảo « Hôm qua, đoàn người Pháp có hẹn nhưng lại không lên vào phút chót. Vì thế, khách sạn không cần người thông dịch nên mới để Hương về sớm. Ðoàn đó mai sẽ lên, họ đặt phòng và trả tiền rồi nên thế nào mai Hương cũng bận buổi chiều ». Tôi nhìn xuống đất, bỗng bối rối, thậm chí có chút gì như là sự xấu hổ.

Tôi cố nhớ lại, từ lúc lên vái bàn thờ hai bác cho đến khi nhìn thấy vết nốt ruồi, và sau đo,ù tất cả đã xẩy đến như một giấc mơ. Giấc mơ đó, chẳng cũng là hiện thực, nhưng phát sinh từ một động cơ huyền diệu hơn năm giác quan sao? Tôi ngước mắt nhìn Hương. Cũng một khuôn mặt hình trái soan, chiếc mũi dọc dừa, và đôi môi vênh lên hơi thách thức. So với Quỳnh, đúng là một giọt nước, chỉ khác là thiếu một giọt lệ đen nhỏ bằng ba cái đầu tăm. Nhưng tôi băn khoăn tự hỏi, tại sao tôi cứ lại là người đi tìm thêm một giọt nước mắt ?

Nhìn nắng vàng đậu trên mái ngói màu đỏ tươi của ngôi nhà bên cạnh, lòng tôi chợt trôi hững vào một cõi an bình như khi gặp lại một cái bút chì, một cục gôm, một mảnh ký họa bỏ quên trong gầm bàn, hốc tủ. « A, tí nữa lại quên », tôi nói rồi mở vali, đưa cho Hương tất cả quà cáp tôi mang về. Trừ món quà nhỏ dành cho Hương, tôi bảo «...nhờ Hương sắp đặt quà cho chị Quỳnh, anh Thạc và các cháu. Hình như cháu gái lớn sắp lấy chồng, phải không ? ». Hương cười, đáp «...hôm qua Hương chẳng nói rồi còn gì !».

Bây giờ, thật chẳng còn gì để ngạc nhiên nữa. Quỳnh hôm qua là Hương hôm nay. Còn tôi, ở giây phút này, tôi liệu có thể khác với Vinh mới một ngày trước không ? Cái gạch nối liền quá khứ vào hiện tại đâu có phải cứ dứt là đứt ra đâu. Tôi nắm tay, bàn tay có ngón tay bị cắn đau điếng. Thì ra phải chẩy máu mới biết được mình là ai. Ngẫm nghĩ rồi lẳng lặng lục đáy vali, tôi lôi ra cái áo len Hương đan cho hai mươi năm trước, tay run run đưa cho nàng. Chiếc áo nay đã sờn vai, và hơi chật. Hương lại cười, lùi xa ngắm tôi, nói nhỏ «... Vinh chắc nặng thêm năm bẩy kí chứ ít gì ! ». Tôi cũng cười. Tôi có cảm tưởng đây là lần đầu tôi thực sự cười từ ngày đặt lại chân trên mảnh đất tôi gọi là quê hương của tôi. Hương bảo « ..để Hương móc lại chỗ vai áo bị sờn nhé ».

Trả tôi bức điện, Hương nói « ..chỉ ba ngày nữa, nhà mình tha hồ đông ». Tôi nhận ra giọng nàng có một thoáng ngậm ngùi. Ðọc lại bức điện, tôi quả quyết « Thôi, em đi điện cho chị Quỳnh, bảo đừng vào vội! ». Nói xong, chính tôi , tôi ngạc nhiên. Em là tôi, ngôi thứ nhất, hay là Hương mà tôi buột miệng gọi bằng em. Hương nhỏ nhẹ « Dạ, em sẽ điện, nhưng nói thế nào ? ». Tôi lại quả quyết «... thì mình cứ nói là mình bận. Vả lại, mình đâu còn bao nhiêu thì giờ với nhau...».

Chữ mình bây giờ rõ ràng chỉ Hương và tôi. Ðó là điều khó ai lầm lẫn được. Nhưng tôi vẫn chưa biết Hương hiểu thế nào về cách tôi giải đáp dấu hỏi của hiện tại, tôi, một kẻ từ tương lai đi tìm quá khứ. Tôi chỉ cảm thấy một bàn tay bé nhỏ bíu chặt vào tay tôi, cái bàn tay không có ngón cắn đến chảy máu, và một tiếng thì thào «... sắp hết thì giờ rồi ! ».

Ðiều đó, Hương ơi, tôi biết. Biết như chính sinh mạng tôi vậy.

1259




  Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

      Khi sinh ra Dung, mẹ nàng vì bận buôn bán, giao phó nàng cho người u già trông nom. Người u già này ở nhà Dung đã lâu lắm, đã nuôi và săn sóc tất cả anh chị Dung từ lúc bé. Nhưng, không biết vì có phải thấy Dung ra đời trong sự lãnh đạm, mà u già đem bụng thương yêu Dung chăng. U săn sóc, bế ẵm nàng, và chăm chút nàng quý như con đẻ vậy, tuy Dung lúc bé ốm yếu khó nuôi và lại ghẻ lở bẩn thỉu nữa.

      Cha Dung chẳng làm gì cả. Từ xưa đến nay vẫn thế. Hình như ông ta sinh ra đời là chỉ để ngồi ở nhà cho lúc nào cũng có người và để những ngày giỗ tết trong họ, khăn áo chỉnh tề đi ăn cỗ mà thôi. Không ai thấy ông ta làm một việc gì, mà cũng không ai nghĩ đến sự ông ta phải làm một việc gì.

      Ông lúc nào cũng ngồi rung đùi bên cạnh cái điếu ống mà ông sửa chữa rất kêu, thỉnh thoảng hút một điếu, rồi lại trầm ngâm như đang nghĩ ngợi một sự gì quan trọng. Những lúc ấy u già biết là ông chẳng nghĩ sự gì quan trọng cả, bèn đem Dung đến cho ông bế. Ông giơ hai tay ẵm Dung vào lòng, hôn hít, rồi xốc Dung lên trên đùi, ngoáy bụng cho nó cười, rồi lại trịnh trọng đưa trả u già. Xong, Ông lại ngồi nghĩ ngợi.

      Có lẽ ông nghĩ tình cảnh nhà ông, hồi còn ông cụ đi làm việc quan, rất giàu có và hách dịch suốt một vùng này. Từ khi cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà thành ra sa sút, chỉ còn cái danh không.

      Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

      Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu" cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

      Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

     - Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

      Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

      Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

      Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ta thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:

     - May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

      Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

      Cuộc đời cứ đi như thế trong cái xó chợ cỏn con ấy. Thấm thoát Dung đã mười bốn tuổi, nhưng ai cũng tưởng là hãy còn trẻ con, mà tính tình nàng như đứa trẻ con thật. U già đã có khi phải gắt lên với nàng:

     - Bây giờ cô phải đứng đắn lên một tí chứ. Nhiều tuổi rồi còn gì nữa.

      Dung ngây thơ hỏi:

     - Đứng đắn là thế nào cơ, u?


Đứng đắn là đứng đắn chứ còn thế nào nữa, cô hỏi lẩn thẩn lắm. Cô không có vẻ người lớn một tí nào cả.

     - Ừ, thì tôi không người lớn. Nhưng không người nhớn thì làm sao hở u?

      U già vác quạt đánh, Dung chạy lại ôm lấy, rồi âu yếm ghé tai u già nói khẽ:

     - Tôi có người lớn, cậu mợ cũng không yêu hơn cơ mà.

      Thế là hai u cháu lại lặng yên không nói gì nữa.

      Một hôm mẹ Dung đưa một bà ở trên tỉnh về chơi. Thấy người lạ, nhất là cách ăn mặc thị thành của bà khách. Dung cứ đứng dán mắt lên nhìn. Mà lạ thay, lần này Dung không thấy mẹ quát mắng bảo lui đi như mọi bận có khách khác. Mà bà khách lạ cũng chăm chú nhìn Dung từ đầu đến chân, lại hỏi han Dung nữa.

      Sau hai bà thì thầm với nhau mãi. Mẹ Dung mời bà khách ở lại ăn cơm, rồi thân hành tiễn bà ra ga.

      Bẵng được ít lâu, một hôm mẹ Dung bổ hàng về, gọi Dung lại gần, lấy ra một gói bọc giấy mà bảo:

     - Đây là áo mới của cô đây. Lấy ra mà thay, chứ ai lại ăn mặc rách rưới thế kia bao giờ.

      Dung se sẽ cầm gói giấy mở ra, thấy hoa cả mắt: nào áo nhiễu trắng, áo bom bay hồng, áo lụa màu hoa lý. Lại mấy chiếc quần lụa cạp đỏ, mấy cái áo cánh phin, mấy cái cổ yếm máy và mấy chục thước vải. Dung cất tiếng run run hỏi:

     - Của những ai đấy, mẹ?

     - Không, riêng của con đấy thôi.

      Dung sung sướng mân mê các cúc áo. U già cũng lại gần xuýt xoa khen.

      Từ hôm ấy, mẹ Dung chiều chuộng Dung lắm, không ghét bỏ như trước. Bà bắt Dung ăn mặc chỉnh tề, tập đi giầy nhưng vắng mặt mẹ, Dung lại vất giày đi chơi, vì nàng không quen đi bắt vấn tóc, và nhuộm răng.

      Cuối tháng tám năm ấy, bà khách lại xuống chơi ở lại ăn cơm. Mẹ Dung gọi Dung vào buồng, đóng cửa rồi thì thào với con đến hơn một tiếng đồng hồ.

      Sau cửa mở, thấy Dung bước ra mắt đỏ hoe như mới khóc, và bẽn lẽn không dám trông bà khách. Nhưng u già dỗ dành ít lâu, Dung lại vui vẻ và cười đùa như cũ. Hễ trẻ láng giềng có chế nhạo, Dung chỉ mỉm cười.

      Thế là Dung đi lấy chồng.

      Nàng đi lấy chồng cũng bỡ ngỡ và lạ lùng như người nhà quê lên tỉnh. Dung coi đi lấy chồng như một dịp đi chơi xa, một dịp rời bỏ được cái gia đình lạnh lẽo và cái xóm chợ quen mắt quá của nàng. Đi lấy chồng đối với nàng là hưởng một sự mới.



Vì thế, khi bước chân lên ô tô về nhà chồng, Dung không buồn bã khóc lóc gì cả. Nàng còn chú ý đến những sự lạ mắt lạ tai của nhà giai, không nghe thấy những lời chúc hơi mát mẻ và ganh tị của hai chị và em bé nàng nữa.

      Về đến nhà chồng, Dung mới biết chồng là một anh học trò lớp nhì, vừa lẫn thẩn vừa ngu đần. Nàng đã bé mà chồng nàng lại còn bé choắt hơn. Nhưng bà mẹ chồng với các em chồng nàng thì to lớn ác nghiệt lắm.

      Qua ngày nhị hỉ, Dung đã tháo bỏ đôi vòng trả mẹ chồng, ăn mặc nâu sồng như khi còn ở nhà, rồi theo các em chồng ra đồng làm ruộng. Nhà chồng nàng giàu, nhưng bà mẹ chồng rất keo kiệt, không chịu nuôi người làm mà bắt con dâu làm.

      Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

      Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

      Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

      Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

      Một hôm tình cờ cả nhà đi vắng, Dung vội ăn cắp mấy đồng bạc trinh lẻn ra ga lấy vé tàu về quê. Đến nơi, mẹ nàng ngạc nhiên hỏi:

     - Kìa, con về bao giờ thế? Đi có một mình thôi à?

      Dung sợ hãi không dám nói rằng trốn về, phải tìm cớ nói dối. Nhưng đến chiều tối, nàng lo sợ quá, biết rằng thế nào ngày mai mẹ chồng nàng cũng xuống tìm. Nàng đánh bạo kể hết tình đầu cho cha mẹ nghe, những nỗi hành hạ nàng phải chịu, và xin cho phép nàng ở lại nhà.

      Cha nàng hút một điếu thuốc trong cái ống điếu khảm bạc, rồi trầm ngâm như nghĩ ngợi. Còn mẹ nàng thì đùng đùng nổi giận mắng lấy mắng để:

     - Lấy chồng mà còn đòi ở nhà. Sao cô ngu thế. Cô phải biết cô làm ăn thế đã thấm vào đâu mà phải kể. Ngày trước tôi về nhà này còn khó nhọc bằng mười chứ chả được như cô bây giờ đâu, cô ạ.

      Sớm mai, bà mẹ chồng Dung xuống. Vừa thấy thông gia, bà đã nói mát:

     - Nhà tôi không có phúc nuôi nổi dâu ấy. Thôi thì con bà lại xin trả bà chứ không dám giữ.

      Mẹ Dung cãi lại:

     - Ô hay, sao bà ăn nói lạ. Bây giờ nó đã là dâu con bà, tôi không biết đến. Mặc bà muốn xử thế nào thì xử. Chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi.



 Bà nọ nhường bà kia, rút cục Dung được lệnh của mẹ phải sửa soạn để đi với mẹ chồng.

      Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hy vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

      Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy giòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi ước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

      Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     - Tỉnh rồi, tỉnh rồi, không lo sợ gì nữa. Bây giờ chỉ đắp chăn cho ấm rồi sắc nước gừng đặc cho uống là khỏi.

      Dung dần dần nhớ lại. Khi nàng mở mắt nhìn, thấy mình nằm trong buồng, người u già cầm cây đèn con đứng đầu giường nhìn nàng mỉm cười một cách buồn rầu:

     - Cô đã tỉnh hẳn chưa?

      Dung gật:

     - Tỉnh rồi.

      Một lát, nàng lại hỏi:

     - Tôi làm sao thế nhỉ...Bà cả đâu u? Bà ấy về chưa?

      U già để tay lên trán Dung, không trả lời câu hỏi:

     - Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.

      Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

      Dung buồn bã trả lời:

     - Con xin về.

      Khi theo bà ra ga, Dung thấy người hai bên đường nhìn nàng bàn tán thì thào. Nàng biết người ta tò mò chú ýđến nàng.

      Trông thấy giòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.

      Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo. Khi bà cả lần ruột tương gọi nàng lại đưa tiền lấy vé, Dung phải vội quay mặt đi để giấu mấy giọt nước mắt.



261




Một độc giả mặt hầm hầm bước vào toà soạn của tờ nhật báo và nói:
- Ký giả nào viết bài này đây? Tôi muốn nói chuyện với hắn một phút!
- Phiền ông đợi một lát. Tác giả bài báo đó đang băng bó cho một độc giả sau khi ông này cũng muốn "nói chuyện một phút" với anh ta.
2119





Nhà hắn hoa sứ rụng
Rắc thảm mảnh sân vuông
Hắn thản nhiên vô ý
Giẫm quanh khi hắn buồn.

Một chiều trèo cây mận
Mang theo vở học bài
Hắn ê a ngồi "tụng"
Rồi ... thăng một giấc dài ...

Ê ! Con nhỏ kẹp nơ !
(Hắn giật mình vờ quát)
Trộm hoa sứ phải không ?
Đây không cho, chỉ bán !

Bóng nơ xanh vội tan
Trên nền hoa trắng rụng
Và mỗi khi chiều sang
Hắn lại chờ ... "tên trộm".

Hắn chờ bao nhiêu năm
Người kể không biết nữa
Nhưng hắn rất nhẹ nhàng
Khi bước trên sân đó ...808





Dĩ nhiên có nhiều lối rẽ và vô số lý do xác đáng để có thể đi về phía ấy. Người ta bảo đấy là bãi biển tình yêu, chốn trú ngụ tuyệt vời cho những trái tim nổi loạn. Biển nhiều sóng đến thế. Biển thì không cụ thể mà sóng cứ cồn cào mong lấy bớt đi rêu phong muôn đời của vách núi. Có thể hàng triệu, triệu đôi lứa đã đến đây và găm kỷ niệm lại trên những tảng đá cuội cười chen nhau nằm lô xô trên bãi, trong những hang hốc bí ẩn mọc đầy loài muống hoang.

Sự gặp gỡ và bén nhau thật nhanh, hình như đã nằm ngoài khả năng dự cảm. Cứ như thể sinh ra đã là nó. Nhưng em và tôi lại là chuyện khác. Tình yêu lại là chuyện không thể nói giống nhau, như tôi, em và những góc trời thiêng liêng, không thể tỏ bày. Thế mà em cứ đến, cứ lẽo đẽo theo tôi tin và khẳng định mọi điều đều có thể.

Chuyện gì sẽ xẩy ra ? Chiều phóng túng buông mình trên cỏ. Phía cuối chân trời rập rềnh những ráng đỏ. Em và tôi trong hoàng hôn. “Cô ấy bỏ đi rồi, em quyết định ở lại”. Tôi ngẩn ngơ. “Em đi làm gì vậy”. Em giấu mặt vào hai bàn tay: “Chẳng biết nữa”, “vậy sao rồi?” “Cô ấy nói không trở lại.” “Chạy theo đi, giữ cô ấy rồi nói lời xin lỗi khi chưa thật muộn.” “Ðể làm gì?” “Em yêu cơ mà.” Mắt em mờ khói. “Ðã yêu”. Tôi bắt đầu yếu mềm, ấy là khi trào lên chút thương cảm: “Phải làm gì đi chứ?” “Vô ích.” “Không thể như thế.” Em thảng thốt: “Chúng em yêu nhau gần ba năm rồi.” Tôi gật đầu “Cô ấy xinh và ngoan.” “Thế mà chẳng bao giờ gần nổi nhau, giữa hai đứa khoảng cách cứ lùi xa không còn cách cứu chữa. Có bao giờ chị tự hỏi thói quen làm người ta lầm tưởng tình yêu ?” Tôi ngẩn ngơ thương cái dáng nhỏ liêu xiêu của em trên đá: “Chạy theo đi, giữ tình yêu của mình. Ðừng đánh mất.” Em xa xăm: “Ðể làm gì?” “Ðớn đau lắm.” Em ngạc nhiên nhìn tôi rồi đáp cộc lốc: “Còn em. Sự trống rỗng khi ở bên nhau thật đáng sợ. Em không cần, chúng em đều biết tự nó phải thế. Phá vỡ rồi làm lại còn hơn sai lầm cả đời.” Tôi van vĩ: “Thế còn cô bé ?” Em bình thản: “Sẽ hiểu.” Tôi thấy mình xót xa: “Em quá quắt lắm”.Mắt em nhìn lên rực nắng. Em bảo: “Bây giờ thanh thản”, Còn gió thì thốc vào ngực tôi buốt nhói …

Thế mà cái đuôi của tôi cứ mọc dài ra, là em cố tình làm tôi khó chịu. Ðêm cứ ngắn lại thăm thẳm. Em không chịu rời tôi. Làm sao có thể cắt nghĩa cho em hiểu tôi đã có gia đình, có người chồng hết mực chăm lo, có em bé đẹp như ao ước. Em lẳng nhẳng theo tôi như thưở tôi mười lăm, em mười sáu. Sắp bực mình thì cái mặt non choẹt ngây ngô của em lại nghệt ra. Rồi thôi. Tôi chẳng đủ sức đễ gieo mình trên con đường lối ra phía biển. Em như túi xách lỉnh kỉnh tôi muốn ném ở nhà để thơi thả thì lại phải mang theo. Và quan trọng là thời tiết biển những ngày này thật kinh. Biển như vũng nước ngòm đen lầy lụa. Quà biển đổ bờ nhiều quá thế, mặt ngư dân sáng trưng còn không gian đông quánh mùi vị tanh tưởi. Không nắng, không gió, bức bối và ngột ngạt.

Một đêm trở gió. Em đến và quây quả: “Ði biển”. Tôi hỏi: “Ðể làm gì?” Em nhỏn nhoẻn cười: “Chị thừa biết. Chơi thôi ! Biển đẹp lắm. Em chờ mãi mới có một hôm biển đẹp và yên tĩnh thế này.” Em không thèm quan tâm tới tôi có đồng ý không. Cứ như thế tất cả mọi điều đều có lý. Người ta có quyền đi mà không ngại suy nghĩ bởi ngoài kia có gì đấy rất đẹp. Cái đẹp luôn tự cho phép mình bào chữa mọi điều, và tất nhiên sự đi chơi của em và tôi là hồn nhiên. Gió thổi, ngực em phô phag đón gió rồi em nheo mắt cười thoảng nét kiêu hãnh. Tôi ngột ngạt: “Ngại quá !” “Không ngại.” “Ấy là mệt” . “Chẳng mệt”. “Em đi đi”. “Cả chị nữa.” “Có nghĩa gì?”. “Có”. “Chị không thích”. “Chị có thích”. “Chị nói dối thế làm gì ?” “Thôi mà em, đừng làm chị mệt. Chị có trẻ con nữa đâu với em thế. Chị bị đau tim đây này, đừng đi nữa”, “Chị van nài như thế để làm gì, chị đang đi đấy thôi. Rồi chị sẽ hết đau, hết mệt”. “Không”. “Có”. Em và tôi giằng co, gió trở mình làm run lên đám lá hờ trên cỏ. Tôi đưa chân mình thả bước dù cố không nghĩ tới, mà lối rẽ vẫn hiện ra. Gió thổi tung và ném lên cao những chiếc lá khô rồi lại ào ạt thả xuống vô số chiếc lá úa. Tóc trôi bung lên xao xác. “Lạnh thật.” “Không lạnh, đấy là chị rùng mình.” “Ði đâu thế này?”. “Như chị vẫn thường thích …”. Tôi lặp lại như cái máy: “Thường thích”. “Ừ, em ngắm chị chán vạn trên con đưòng này rồi. Chị có biết em nghĩ gì về sự đi được nửa chừng rồi quay về của chị không?” Tôi biện bạch: “Chị sợ”. Em lắc đầu. “Không”. “Thì gì nào?” “Chị không dám đấy thôi, người ta có thể đi một mình trên con đường, còn chị thì không. Tại sao không có ai đó đưa chị đi, không một ai ở bên chị?” Tôi cười: “À mọi người bận hết.” “Thế chị ốm à?”. “Ừ, chị hơi bị nhức tim”. “Tim chị không đau, em biết. Chị tự huyễn tưởng thế thôi. Ðể em chữa cho chị” “Bằng cách nào?”. “Bí mật. Nhưng chị phải tôn trọng em cơ”. “Như gì nào”. “Như một người đàn ông thực thụ, môt người đàn ông cao cả”. Tôi rục mặt vào cánh tay cười: “Ừ, thì cao cả. Nhưng cái trò này vớ vẩn không kém”. “Em ghét chị coi.” “Thì tốt”. “Sao?”. “Chẳng sao”. Chúng tôi nhón chân bước. Ðêm trải dài vô tận và con đường này hình như không còn chỗ dừng chân ? Những chiếc lá trở mình khẽ khàng dù muốn dù không. Em loay xoay vuốt tóc tôi. Tim tôi thắt lại,“Ðừng!” “Tóc chị đẹp quá”. “Không phải dành cho em đâu cậu bé ạ”. “Mặc kệ chị”. “Thằng ôn, mày làm sao rồi, đừng nghịch. Mày như con nít đáng mặt út tao.” “Không phải, em là người đàn ông cao cả. Em đang ở bên chị đây này, chị thì gì nào? Giống cô bé lọ lem, chị mong manh như thế kia, em cần phải giữ gìn”. “Thôi đi mày không sao cả. Cãi chị ngang ngang. Bực cả mình tao về đây.” “Ðừng ! Chị ngồi lại đi, em không thèm đụng vào tóc chị nữa: Tóc chị không mềm và thơm em biết rồi.” “Thế là tốt đấy. Ngoan đi nhé, kể chuyện vui vui của em xem nào”. “Chị thì hiểu gì mà kể. Mỗi cái đuôi tóc cũng giữ. Chị chẳng đáng
yêu, chị giống như vạn người đàn bà nhạt nhòa khác. Như người yêu của em, những người không có trái tim hoặc giả tim họ bị hư, và suốt đời họ không biết yêu đương, thực hiện bổn phận làm người như một cái máy. Chị thuộc loại người đó.”
Tim tôi thắt lại, nhịp đập yếu đi lữ lã. Người ta khuyên tôi đến đây để dưỡng bệnh. Anh bỏ ra một số tiền bằng cả năm dành dụm cho tôi mang đi. Tại sao anh không nhắc tôi. “Em đừng lang thang đi với ai đó, đừng xúc động”. Anh vốn thừa biết tôi đa mang. Cứ như thế tôi là thiên thần, và với món tiền này đến đây tôi sẽ mạnh khỏe. Anh có lường hết chuyện gì sẽ xẩy ra với tôi không ? Anh tốt với tôi quá, đơn giản quá mà con tim yếu đuối này lại chở nặng những vớ vẩn không đâu. Anh có bao giờ làm tôi phiền lòng chút nhỏ. Anh yêu tôi và tin tôi đầy ắp hạnh phúc, dù rằng tôi chẳng dám chắc hạnh phúc là cái gì đấy có thật và hiện hưũ bên mình. Chẳng lẽ với anh, không một lý do gì để tôi làm anh buồn hay cảm thấy bị thương tổn, phải không trái tim bé nhỏ. Có ranh giới giữa tôi, anh và một ai nào khác không ? Trái tim thì luôn thức đập mà những khoảng khắc sâu thẳm hẳn không dễ gì tới được. Em lại xoay sờ vào tóc tôi. Những ngón tay em gầy trong tóc tôi lơi lả. Thôi thì để yên. Không có gì là không có lý do. Tôi sợ tim mình lại không bình thường. Cơn đau có thể đến bất thần và quất ngã tôi xuống. “Tóc chị mềm và thơm lắm, sao chị trẻ con như vậy?” Em dụ dỗ tôi ? Hay em thấy tôi mong manh quá ? Tôi cười nhẹ: “Thật trẻ con.” “Thì người lớn”. “Không người lớn”. “Thì sao nào?”. “Chẳng sao cả.” Em và tôi cười phá lên. Phía xa kia là biển. Có nhiều lối rẽ. Ðường cứ thế bày sẵn ra mời gọi người đi. Em và tôi vòng vo mãi nhằm con đường ngập ngụa lá. Mùa thu như đang trú ngụ khắp mọi chỗ. Mưa sắp giăng nhạt nhòa ở phía xa. Tôi – Em – và những con đường cái cây đến mùa trở gió.

“Em có nghe không? Trong vô số đó người ta chỉ có thể chọn cho mình” …Em lại đụng vào vai tôi khẽ thôi nhưng sao tôi lại thấy da thịt mình tê dại. Hình như ở phía em ấm nóng hơn tôi tưởng. “Ðây…một con đường duy nhất mà thôi, người ta không thể có một lúc hai cái bến trú. Sự được là sự mất, sự hợp là sự chia…”. Tay em thít vào vai tôi mềm và khỏe. Tôi bơi trong trạng thái không trọng lượng, nếu em đặt tay lên ngực tôi sẽ thấy trái tim tôi đang đập dại điên, nếu em biết…Tôi khéo léo tuột ra khỏi tầm tay em giả bộ cười tinh quái. “Em sao thế, không muốn nghe chuyện nữa à !”. Em nó trong mơ màng: “Thôi ! Chị, lý dự quanh co để làm gì nào, chị đang ở bên đấy thôi, thế là đủ. Chị cứ vui đi nếu chị đang vui, đừng xưng tội để rồi phạm tội, chán lắm.” Tôi co ro dò dẫm trên những vệt cát thẫm ai đó vừa đi qua rồi ngẫm ngợi. “Em nói gì thế”. “Nói trái tim chị đấy”. “Chị sợ biển lắm”. “Biển về đêm thần bí như câu chuyện cổ tích: Chị là câu chuyện cổ tích em muốn đọc”. “Thằng điên”. “Phải vậy thôi, trẻ em thường mê chuyện cổ tích”. Vẫn biết điều đó sẽ đến sẽ xảy ra nhưng sao lại xảy ra nhanh thế này. Em sắp ôm lấy tôi rồi và tôi sắp buông mình vào vầng ngực thanh thản kia chăng ? Khoảng cách giữa em và tôi ngắn lắm, chấp chới lắm đủ để tôi nghiêng ngả. Tôi đứng yên bàng hoàng chờ đợi phút khủng khiếp ấy rồi sau đó sẽ tan ra bay vào trời xanh. Có thể gần lắm …môi em sẽ lướt trên môi tôi đờ đẫn. “Em chẳng biết gì đâu. Chị giống như hạt sương ban mai bỏ quên trên cỏ. Cho em được nâng niu một chút, chị nhé …”. Ngực tôi mệt lữ. Tôi sợ nhìn vào mặt em, sáng trong đến không nỡ - tôi sợ nhìn vào môi em, nồng nàn quá đỗi mà tôi lại mệt lã yếu mềm. “Chị ơi”. Mắt em gọi. Cúc áo ngực tôi sắp bị tung. Em ngước nhìn ngây ngô. Mặt em dài dại. “Em hôn chị nhé, một thôi, ở môi, ở mắt …thôi thì ở tóc”. Tôi cúi mặt lặng im. Thôi thì đừng tự dày vò mình. Một nụ hôn. Có thể con người ta luôn không có cái mình cần, có ai đó may mắn hơn được nhìn thấy một lần rồi tuột mất. Có phải thế mà suốt đời ta dằn vặt, đa mang, đau khổ, và loay hoay kiếm tìm…

Môi em miết trên bờ vai tôi run và khát. Tôi sợ mình sẽ đổi xuống cát, sẽ vỡ òa như một trái chín nẫu. Tôi xù long: “Em xấu quá. Tôi hơn tuổi em, em phải biết lịch sự chứ !” . Em ngước nhìn: “Em yêu chị”. “Mày điên rồi”. “Chị cũng điên rồi.” Tôi cuống quýt. “Chị không yêu mày, đồ con nít”. “Chị có yêu”. “Ðừng nói lung tung nào”. “Chị hèn thế”. “Thôi chị về đây”. “Vô nghĩa. Ra đến nơi rồi, sao chị không ngồi ở nhà từ đầu, đã đi rồi thì quay lại làm gì”. Tôi đáp hụt hơi: “Chị mệt”. “Ðừng trốn chạy chính mình. Thôi đừng nói gì nữa, yên đi để em yêu chị nhé”.

Tôi thấy quần áo mình rách bươm bay tả tơi trong gió. Em gần tôi quá thể mà sao tôi vươn mãi vẫn không chạm tới. Ngực em phô phang tóc em bay ngược chiều gió để lộ vầng trán cao và rộng. Tôi nhũn nhẽo trên cát, chân tay bần bật, và cát, gió bay quật vào mặt tôi mờ mịt. Tôi chống chọi, vật vã, cuống quýt. Em vẫn chập chờn ở xa tôi …

Rồi em đòi tôi dừng lại và ngồi xuống mấy mõm đá lô nhô trên bãi. Em không muốn đi nữa. Em rũ xuống như cái cây vừa chống chọi qua cơn bão. Tôi nao lòng. Biển đêm lập lòe ánh sáng xanh xao ma quái ở xa tít. Gió cứ thổi như thế quần đảo suốt đêm hòng làm bớt đi sự hoang vu yên lặng vốn có của khoảnh khắc giao ngày.

Mắt em hao gầy đi và đêm cứ xanh xao lên mãi. Thời gian vùn vụt trôi. Trái tim tôi đập buốt nhói. Là thằng đàn ông trẻ, bởi thế em dễ mệt mỏi và đổ vỡ. Cầu xin em đừng đụng vào tôi, bởi thêm chút nữa, tất cả sẽ vỡ tung. Nhưng tôi biết mình hoài công.

Những cái đèn như mắt biển dập dềnh ở nơi xa khơi. Biển rộn rực lên như thể nó vốn có những khoảng khắc yên tĩnh. Loang loáng những đôi vai trần nở nang vạm vỡ đang dang tay kéo lưới. Những đôi chân chắc đậm chạy đi vớt cá bỏ lại trên cát những vệt long lanh nước. Tôi thở sâu vào ngực. “Cầu mong cho cái lưới đầy cá”. Em thở dài. “Ước gì có thể phóng thích hết rồi thả chúng về với đại dương”. Tiếng gọi nhau I ới vang lên. Phụ nữ, đàn ông, con trai, con gái và đám trẻ nít liu chiu dậy sớm đổ ùa ra biển cắp những rổ con con rập rình ở hai bên mẻ lưới đang kéo. Một gia đình ngư dân đang chờ thành quả đầu tiên của một ngày đang tới. Tiếng nói, cười lao xao, nghe như tiếng cá quẫy …" Chị ngồi đây nhé, em ra kia xem có nhiều cá không ?”

Ðêm loãng dần …Có mỗt con cá nhỏ lạc vào bước chân tôi. Thân nó mỏng như một chiếc lá lấp loáng bạc. Tôi cúi xuống. Con cá thiếp ngủ, cứ như thể nó là sứ giả của đại dương mang đến sự bình yên của người. Tôi thầm thì, nước mắt lăn trên môi mặn đau. “Hãy đi đi, về với đại dương của mi”.

Mặt trời rạng lên ở phía đằng đông. Cái doi cát này không dài ra vô định như tôi nghĩ. Con đường này ngắn lắm - và tôi – em - một đêm trên như không thể gặp lại trong đời. Em có trở lại ? Hay chẳng bao giờ ? Em sẽ cuống cuồng tìm tôi hay em bình thản nhìn tôi xa hút ?

2060


Powered by Blogger.