Ngày xửa ngày xưa, trước khi loài người xuất hiện, đức hạnh và những thói xấu sống lơ lửng xung quanh nhau và cuộc sống đối với chúng vô cùng chán nản khi chẳng tìm thấy việc gì đó để làm.


Một ngày nọ, đức hạnh và thói xấu tập trung lại và bàn về một trò chơi nào đó. Thông Minh đề xuất: "Chúng ta cùng chơi trò trốn tìm nào!". Tất cả đều đồng ý và vui vẻ bắt đầu trò chơi. Lý Trí la lớn: "Này các bạn, tôi xung phong làm người tìm, các bạn trốn đi nhé!".

Lý Trí đứng tựa vào một gốc cổ thụ và bắt đầu đếm: "Một, hai, ba…"

Đức Hạnh và Thói Xấu cuống cuồng đi tìm chỗ để nấp.

Dịu Dàng nấp sau mặt trăng.

Phản Bội nấp sau những vườn bắp cải.

Yêu Mến cuộn tròn giữa những đám mây.

Nồng Nàn trốn ngay giữa trung tâm của trái đất.

Nói Dối giấu mình phía sau của tảng đá nằm bên dưới của một hồ lớn.

Tham Lam trốn trong một bao tải…

Và Lý Trí đã đếm đến bảy mươi… tám mươi… chín mươi.

Lúc này, tất cả đều tìm được một chỗ ẩn nấp cho mình, ngoại trừ Tình Yêu. Tình Yêu không thể tìm cho mình một chỗ để trốn. Và đó cũng lý giải vì sao thật khó khăn để che giấu Tình Yêu trong trái tim mình.

Khi Lý Trí đếm tới một trăm, Tình Yêu nhảy đại vào một bụi hoa hồng gần đó và bị những gai nhọn đâm. Tình Yêu cố nén đau mà không lên tiếng nhưng lại được tận hưởng hương thơm quyến rũ của từng đóa hồng…

Lý Trí bắt đầu tìm kiếm. Lười Biếng được tìm thấy đầu tiên bởi vì Lười Biếng không có đủ năng lượng để tìm cho mình một chỗ nấp tốt.

Sau đó lần lượt Dịu Dàng, Nói Dối, Nồng Nàn, Yêu Mến… cũng được tìm thấy, chỉ trừ Tình Yêu.

Ghen ghét với Tình Yêu, Ghen Tỵ đã thì thầm vào tai của Lý Trí: "Tôi biết bụi hoa hồng đang ẩn giấu bạn Tình Yêu đấy".

Lý Trí bước đến gần và tìm kiếm. Lý Trí đã xới tung cả bụi hoa mà chẳng thấy bạn mình đâu bèn sử dụng một cành cây để tìm kiếm và dừng lại khi trái tim của Lý Trí bị những gai hoa hồng làm cho rỉ máu.


Tình Yêu xuất hiện với hai tay ôm mặt và hai dòng máu chảy ra từ đôi mắt. Trong lúc tìm kiếm, Lý Trí đã làm hỏng đôi mắt của Tình Yêu. Lý Trí khóc thét lên: "Tôi phải làm gì đây? Tôi phải làm gì đây? Tôi đã làm cho bạn mù. Làm cách nào khiến cho bạn thấy đường trở lại bây giờ?"


Tình Yêu nói: "Bạn chẳng có cách nào làm cho tôi thấy đường lại. Bây giờ nếu bạn muốn giúp tôi, hãy làm người dẫn đường cho tôi". Và đó là lý do vì sao Tình Yêu là mù quáng và luôn đồng hành với Lý Trí.

1011










"Lạy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ"
Hai câu nói trên đã được truyền miệng qua các cụ, qua miệng mẹ tôi như kinh tụng hằng ngày, lúc đó tôi chưa hiểu đời, hiểu người cho lắm, thành ra câu nói trên hình như không nhập tâm tôi cho mấy, cho dù trong lòng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lấy một anh chàng ngoại đạo nào đó khi lớn lên.



Ngày xửa, ngày xưa, ngày mà tôi chỉ là một thiếu nữ ngây thơ, thánh thiện, thánh thiện vô cùng để có thể trở thành một nữ tu như bao nhiêu nữ-tu khác trong tu-viện. Thế nhưng, đời không như là mơ nên đời đã giết chết giấc mơ của tôi, giấc mơ trở thành nữ-tu mà tôi hằng ao ước. Cũng vì trời không chiều lòng nên tôi đã trở nên Tôi của hiện tại, nghĩa là tôi của những bổn phận, của những trách nhiệm như bao nhiêu người đàn bà chung quanh.


Ngày ấy quen nhau, nhà tôi biết tôi là con chiên ngoan đạo, biết tôi là thiếu-nữ thánh-thiện ngây thơ, biết tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên đã cám dỗ tôi bằng mọi cách, đã bao quanh tôi bằng những chiếc vòng đủ màu sắc làm tôi mờ mắt, làm tôi quên mất những điều tâm-niệm khi tôi trưởng thành.


Nhà tôi lúc ấy chỉ là anh chàng ngoại đạo biết yêu người có đạo nên tôi đoán sau một đêm mất ngủ, sau một đêm tính toán cộng trừ, nhân chia cuộc đời, đã xoay ngược cái kim đồng hồ, xoay hẳn 180 độ để bước trên con đường từ Chùa dẫn đến nhà thờ một cách thật la ngay ngắn, trang nghiêm, đàng hoàng. Nhà tôi đã tự tham dự những khoá học giáo-lý ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế mà tôi không hề hay biết, vì cái chiêu bài dụ dỗ của nhà tôi lúc đó nên... "Ngây thơ tôi nào có biết gì, đến khi tôi hiểu thì tôi đã... làm lỡ đời tôi...". Thật đấy quý vị ạ, chàng lúc đó rất siêng năng đi nhà thờ, rất siêng năng tham dự những buổi tĩnh tâm trong mùa Chay Thánh. Chàng đưa tôi đi hết nhà thờ này đến nhà thờ khác, từ những Thánh lễ cổ-truyền ở nhà thờ Đắc-Lộ đến những buổi giảng phòng ở nhà thờ Huyện-Sĩ, nếu quý vị ở vào địa vị tôi lúc đó chắc cũng như tôi chứ chẳng khác gì.


Sáng Chủ-nhật nào chàng cũng đạp chiếc xe đạp lóc-cóc từ Khánh Hội sang mãi bên Trương Minh Giảng, con đường thật xa để đưa tôi đi lễ. Một hôm con bé còn đang say sưa ngủ, bỗng bị Mẹ gọi dậy vì chàng của tôi đã đến. Nhìn đồng hồ trên tường... trời ơi! mới có 4g sáng mà chàng đã đến để đưa tôi đi lễ, rõ khổ cho tôi vì chàng chẳng nhớ đến giờ giấc của các Thánh lễ. Tôi, Mẹ nhìn nhau lắc đầu. Mặc chàng ngồi ở phòng khách tôi lên lầu ngủ tiếp mặc kệ Mẹ cằn nhằn, lúc ấy tôi vẫn là con bé thích ăn, thích ngủ nên cái sự "ngoan đạo" quá đáng của Chàng làm tôi bực mình. Những lúc như vậy, tôi có cằn nhằn, thì chàng lại lên giọng đạo đức một cách thật dễ thương:


- Tại anh thích đưa em đi lễ thật sớm, sáng sớm đi lễ mình cầu nguyện Chúa dễ nhậm lời hơn...


Trời ơi! nghe một người ngoại đạo nói như thế làm sao mà không thương cho được? không rung động cho được phải không quý vị? Cái điệu này các Cụ còn bị lầm huống gì tôi. Đã vậy lúc đó cái gì chàng cũng cho tôi là Nhất, nào là Em ngoan nhất, em hiền nhất và em cũng dễ thương nhất nữa...


Cuộc đời là những gì không trọn vẹn, cuộc đời là những gì không như ý, cho dù tôi vẫn không nghĩ đến chuyện trăm năm gá nghĩa cùng chàng. Nhưng rồi định mệnh đã đẩy đưa chúng tôi ra đi, đưa chúng tôi đến một chân trời mới. Trước khi đến chân trời mới, chúng tôi đã dừng chân ở đảo Pulau Bidong. Ở đây, mọi người đều phải tham gia những công tác của đảo trước khi đi định cư ở một nước khác. Vì có giọng nói ngọt ngào chứ không chua như bây giờ nên lúc đó tôi đã được chọn làm xướng ngôn viên của đảo, với sáng đọc tin tức, chiều đọc bản tin nhắn người vượt biển, trong khi chàng của tôi sau giờ làm việc ở văn phòng, chàng đã học thêm giáo-lý ở một nhà thờ bé nhỏ trên đồi. Cứ thế, gần 3 tháng chúng tôi rời đảo để sang Mỹ với nhiều mộng mơ nơi vùng đất Tự-do mà biết bao nhiêu người đang ước ao đặt chân đến.


Như tôi đã nói, "đời không như là mơ nên đời thường giết chết mộng mơ", thật đúng như câu hát mà tôi thường nghe ngày xưa. Từ Los Angeles, chúng tôi đi Dallas, từ đó chúng tôi về Lawton bằng một loại máy bay nhỏ như một loại xe bus dưới đất vì thỉnh thoảng phải hạ cánh để bỏ khách xuống. Đến phi-trường Lawton, nhìn quanh thật ngỡ-ngàng, phi-trường vắng vẻ tiêu điều như một phi-trường Pleiku mà tôi đã ghé đến ngày xưa. Chúng tôi được một Linh-Mục VN ở nhà thờ Lawton đi đón, tôi lúng-túng bước xuống trong chiếc áo dài may trên đảo dùng để mặc trong ngày đi định cư. Gió lồng-lộng, tà áo tôi bay phất phới như bay mất những ý nghĩ đẹp mà tôi đã có trong đầu trước khi đặt chân đến bên này.


Vị LM đưa chúng tôi đến căn nhà mà nhà thờ đã thuê cho chúng tôi trong những bước đầu ở đây. Bước vào trong, tôi thất vọng, chán nản, nhìn giường chiếu, đồ đạc chung quanh làm tôi buồn muốn khóc nhưng không dám khóc vị sợ làm nản tâm hồn chàng. Cái nóng ở đây không giống cái nóng ở Saigòn nên làm tôi khó chịu, cái quạt nước dưới cửa sổ chạy ầm-ĩ làm tôi trằn trọc mãi. Chàng nằm dưới đất, tôi trên giường, đêm đêm có tiếng dế mèn, có tiếng ếch nhái kêu inh-ỏi làm tôi buồn não-ruột, đã vậy thỉnh thoảng lại có tiếng nổ ầm đâu đó từ một căn cứ quân-sự làm tôi hoảng hốt giật mình, cứ tưởng như mình còn đang ở VN, đang sống trong thời gian chiến tranh pháo-kích.


Một vài ngày sau đó, chàng được rửa tội để chính thức là người có đạo như tôi, để chính thức cùng tôi bước vào nhà thờ một cách đàng hoàng không e-ngại.


Chúng tôi may mắn được nhà thờ chuẩn bị mọi thứ cần thiết mà một đám cưới phải có tại Thánh đường, cũng như tiệc mừng mà bất cứ đám cưới nào cũng có. Xúng-xính trong chiếc áo cưới rộng hơn mình đã được những người khéo tay thâu hẹp lại làm tôi cay đắng. Trong Thánh lễ, Cha giảng gì tôi chẳng nghe rõ, tôi chỉ biết tôi đang cô đơn, tôi chỉ biết tôi và chàng là 2 kẻ lạc-lõng không người thân. Cha mẹ tôi đó, anh chị em tôi đông lắm, họ hàng tôi thật nhiều, bạn bè tôi cũng thật là đông, nhưng sao không một ai bên cạnh? Tôi tủi thân, mũi tôi cay nồng, nước mắt tôi bắt đầu rơi từ từ xuống má, xuống môi. Khi Cha bảo chúng tôi nắm tay nhau, chàng xiết nhẹ tay tôi, cái xiết tay của chàng như an-ủi, như vỗ-về từ nay chỉ còn có tôi và chàng sánh bước trên đường đời đã làm tôi khóc sướt mướt%
2C tôi không kìm được những giòng nước mắt rơi như suối đổ, tôi không kìm hãm được những tiếng nấc nghẹn-ngào tấm tức từ ngày tôi ra đi. Tôi khóc đến nỗi Cha phải ngừng giảng, mọi người bàng hoàng lo lắng nhìn chúng tôi kinh-ngạc. Tôi khóc như chưa bao giờ tôi khóc, tôi khóc như bị cha mẹ ép duyên... Nhưng rồi, Thánh lễ cũng qua đi, tôi đã là của chàng, chúng tôi là của nhau, mọi người ân-cần đến ôm chúng tôi với những lời chúc tốt đẹp nhất. Họ hàng, anh em chúng tôi bây giờ là những người xa lạ, là những người không ruột thịt, là những người chúng tôi chưa hề quen biết, họ đã bao bọc chúng tôi qua sự trìu mến, qua tình con người giữa con người, qua tình anh em cùng một Chúa trên cao.


Tiệc cưới của chúng tôi gồm những món ăn do một nhà hàng Tàu đảm trách mà nhà thờ đã bỏ tiền ra để khoản đãi trong đám cưới của chúng tôi. "Ơn ai mang lại từ trời..." Vâng, ơn ai mang lại từ trời!..."


Sau đám cưới chúng tôi là vợ chồng, sáng sáng đi học anh-văn, chiều thả bộ đến nhà những người VN mới quen biết. Nhưng có những sáng Chủ-nhật trời mưa thật to, mưa tầm mưa tã, không áo mưa, không dù che, chúng tôi đành phải ở nhà đọc kinh. Bởi tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên cảm thấy không yên lòng những sáng như vậy. Nhà tôi đã phải ngồi đọc với tôi đúng 150 kinh tức 3 chuỗi tràng hạt trước khi bước xuống giường. Nhà tôi lúc đó ngoan lắm nên bảo sao nghe vậy. Hai chúng tôi cùng đọc, nhưng không biết đọc được bao lâu, được bao nhiêu lần tôi cũng quên không đếm và khi nhớ lại thì nhà tôi đã quên hết mọi kinh, chẳng còn nhớ được kinh nào. Tôi cũng không còn cái uy của người vợ mới cưới hay của người yêu bé nhỏ như xưa nên nhà tôi hình như quên cả con đường dẫn đến nhà thờ... Nhưng, tôi vẫn là tôi, dù con đường từ nhà đến nhà thờ có xa cách mấy, dù tay bồng tay bế, tôi cũng không bao giờ bỏ một Thánh Lễ nào nên tôi tự hào tôi là người ngoan đạo, cho dù tôi hiểu cái ngoan đạo của tôi không giống với cái ngoan đạo của quý vị, nhưng tôi đã tìm về tôi của những ngày xưa cũ.


Bởi thế, những lúc giận nhau, những lúc giận nhà tôi đến tím gan, tím ruột nhưng vẫn cứ phải bấm bụng làm lành để "chúng mình" cùng nhau dắt con đến nhà thờ tham dự Thánh lễ cho phải phép đạo. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, tôi thấy tôi tức nhà tôi, tức tôi, tức luôn cả đời, chỉ vì cái giáo lý mà nhà tôi học ngày xưa không đủ vững, chỉ vì cái kim đồng hồ của nhà tôi quay ngược quá nhanh thành ra ngày hôm nay tôi mới khổ đến như thế. Đã vậy, những lúc đi nhà thờ, gặp điều gì không vừa ý là về nhà hết ý-kiến này đến ý kiến nọ làm tôi nhức cả đầu, làm tôi phát giận để 2 đứa cãi nhau chí-choé. Những lúc như thế, nhà tôi phân bua:


- Có vậy mà em cũng giận, anh chỉ nói sự thật chứ anh đâu có bôi bác gì mà em nổi nóng. Chúa đâu có bảo mình phải đồng loã với những gì mà mình cho là không đúng đâu? Em rõ là vô lý.


Đấy, nhà tôi là một trong những ông chồng theo đạo vòng vòng như vậy đấy quý vị ạ. Bởi thế, biết tính nhà tôi không còn "ngoan đạo" như xưa nên tôi cũng chẳng dám để nhà tôi ngồi gần ba tôi vào những sáng Chủ-nhật sau Thánh lễ bao giờ, vì ba tôi cũng là người có nhiều ý-kiến, cho dù Ba tôi chẳng thuộc cái loại "Lậy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ" như nhà tôi, nhưng sáng Chủ-nhật nào sau khi đi lễ về đều nghe Ba Mẹ tôi cằn-nhằn nhau:


- Khiếp, sáng nay Cha giảng gì mà lâu thế không biết, Ba đếm đúng 120 chữ "Tôi" trong bài giảng của Cha, Cha giảng gì lung-tung, Ba chẳng hiểu gì cả.


Mẹ tôi tức lắm kêu lên:


- Cái ông này rõ hay, chẳng có ai như ông cả, không có lần nào đi lễ về mà đừng có bới móc hay châm biếm, lần nào đi lễ về cũng có chuyện để nói, đi lễ vậy thì ích gì?


Khi tôi nhắm mắt đưa chân đi với nhà tôi trên con đường mà tôi hy-vọng và cứ nghĩ tôi có thể giúp nhà tôi tìm ra chân lý, hoặc cải hoá được nhà tôi theo cái định-lý ngoan đạo mà tôi ước mong. Nhưng thật khổ cho tôi với cái đạo tự tâm mà nhà tôi đã tự vạch cho riêng mình. Quý vị không thể nào hiểu nổi những đau khổ của tôi khi phải đương đầu với những chuyện lười biếng của nhà tôi. Nếu có bảo nhà tôi đi xưng-tội, nhà tôi lại oang-oang:


- Anh thấy anh đâu có tội gì mà phải xưng?


Tôi nhăn mặt:


- Sao lại không? này nhé! tội nói dối vợ, tội xạo với con, tội ăn vụng, tội lười biếng, thiếu gì tội phải xưng...


Nhà tôi cười vớt vát:


- Ừ, thì em biết hết tội của anh rồi, em xưng tội giùm anh đi, nhưng nhớ đừng có xưng tội ăn vụng đó, anh không có ăn vụng bao giờ cả, ăn vụng là chết với bà làm sao anh dám.


Nghe nhà tôi nói tức anh-ách. Ngày xưa chưa lấy nhau, nhà tôi đâu có ngại đường xa, dù có phải qua mấy cái dốc cầu vẫn cứ thấy nhẹ nhàng như thường, vẫn cứ năn-nỉ để đưa tôi đi lễ, đi nhà thờ, đi nghe giảng... thế nhưng, khi lấy được vợ rồi thì con đường có gần cũng hoá xa, mà mình thì cứ phải mỏi miệng dịu dànng như Thánh nữ để năn-nỉ ỉ- ôi, lôi kéo để dẫn bằng được "Sa-tăng" đến nhà thờ nhờ Chúa cảm hoá. Nhiều lúc giận quá tôi phải nói:


- Mình kỳ ghê đi, hồi chưa lấy người ta mình đâu có lười như vậy? Lấy được rồi quên hết nhà thờ, nhà thánh. Biết mình như thế, có trải chiếu hoa, có lót vàng dưới chân cũng không thèm lấy mình đâu. Người gì mà lười như vậy không biết nữa. Mai mốt chết, người ta lên thiên đàng đừng có nắm chân người ta đó, nắm chân người ta đạp xuống cho mà coi.


Vâng, đấy là cái sai lầm mà tôi không thể làm lại từ đầu. Đấy là cái vấp ngã mà tôi không thể đứng lên để quay đầu lại. Bởi thế tôi cứ hỏi lòng, lấy phải ông chồng theo đạo vòng-vòng như tôi đã là một vấn đề nhức đầu huống gì lấy phải ông chồng ngoại đạo, mỗi người một bàn thờ, mỗi người một lời kinh thì làm sao hạnh-phúc? thì làm sao hợp ý trong cuộc sống hằng ngày? Bởi cái lỗi lầm không bao giờ sửa được như một vết chàm in đậm trên da thịt đã đưa tôi đến kết luận sau cùng, nếu sau này, các con tôi lớn lên, chắc chắn tôi sẽ bảo các con đừng nên lấy người theo đạo vòng-vòng như bố và cũng đừng lấy người khác miền như Mẹ mà hãy "Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn"... phải thế không quý vị?...

2705





Một nhà sư và một cao bồi chơi golf với nhau, mỗi lần đánh trượt, tay cao bồi lại chửi thề. Ông sư tức lắm, mấy lần nhắc nhở mà hắn vẫn quen miệng, cuối cùng ông quở hắn:
- Anh mà còn chửi thề nữa là Ngọc hoàng sẽ giáng sét vào anh đấy! Ở gậy sau, tay cao bồi chưa dứt tiếng chửi thì một tiếng sét vang lên... Ông sư lăn ra chết. Trên trời vọng xuống tiếng lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, lại đánh trượt rồi!
1723





Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (1); bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:


- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?


Anh lính lệ trả lời:


- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!


(1) trát: cũng như ngày nay ta nói công văn

852




Gặp lúc hỏng thi, Xiển và mấy anh em bạn đồng môn ngồi buồn mới giở trò bù khú với nhau. Anh em biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc.

Bấy giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển bắt anh em giao kèo: nếu xin được tiền thì anh em cứ tính một đền thành ba, nghĩa là anh em sẽ phải trả cho Xiển một số tiền gấp ba số tiền Xiển xin được của quan. Bằng không dám xin, hoặc xin không được thì Xiển phải thết anh em một bữa no say. Tưởng đùa vui, nào ngờ Xiển vào tận dinh quan. Ai nấy chắc phen này Xiển sẽ làm ma không đầu.

Một buổi sáng nọ, quan vừa mở mắt ra công đường đã thấy Xiển quỳ ở ngoài sân. Quan quắc mắt hỏi:

- Thằng kia! Mày tới đây có việc gì?

Xiển thưa:

- Bẩm cụ lớn, con muốn nhờ tay cụ lớn hóa kiếp cho con.

Quan quát: - Thằng này muốn chết à?

Xiển trịnh trọng nói:

- Bẩm chính thế à. Con nghe nói lưỡi gươm cụ lớn sắc lắm, nên muốn xin cụ lớn một nhát để hồn về chín xuối cho được mát mẻ.

Quan gắt:

- Thật là đồ điên, cuồng, ngu, ngộ. Vì sao mày lại muốn chết?

Xiển đáp:

- Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa.

Quan thấy Xiển dáng người học trò nho nhã, lại đối đáp đâu ra đấy một cách bình tĩnh liền bảo:

- Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là "điên cuồng ngu ngộ" ta xem.

Xiển vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:

Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên.
Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh hiền


Nghe nói xong, quan biết Xiển có ý xỏ ngọt mình, song thấy Xiển là kẻ xuất khẩu thành chương, kính điển lau làu, văn thơ hàm súc, tỏ ra là người học thức rộng, lại có khí phách, liền thưởng cho ba chục quan tiền và bảo lui về.

Thế là từ đó, ngoài cái tên Xiển Bột còn có một cái tên nữa là Xiển Ngộ.2696






Hằng năm đến ngày chủ nhật thứ ba của tháng tư, vị cố đạo già đi thanh tra các ruộng rẫy của con chiên trong họ đạo. Mỗi lần viếng thăm như thế, cố đọc một bài kinh cầu cho mùa màng tốt đẹp.

Năm ấy, cố dừng chân trước đám lúa của một tín đồ. Lúa mọc không nổi, lá úa héo cằn. Người tín đồ nhìn cố, ngắm đám lúa, rồi nhìn cố.

Cố tỏ vẻ " thông cảm" mà rằng:

Con ơi! Cha biết lắm, ở đây lời cầu nguyện không ăn thua gì cả, con cần phải bỏ phân mới được.

2751





Hai người bạn ngồi trong một quán bar đang kể cho nhau nghe về những giấc mơ của họ.

- Tôi mơ thấy mình đang đi nghỉ mát - Một người nói - Chỉ có tôi, cái cần câu và một cái hồ lớn tuyệt đẹp. Thật thơ mộng làm sao.

- Tối qua, tôi cũng có một giấc mơ đẹp - Người kia kể - Tôi mơ thấy mình đang trong vòng tay của hai cô gái xinh đẹp và cả ba đã có một đêm thật tuyệt!

Người đầu tiên mở to mắt nói:

- Cái gì, anh ở với hai cô gái xinh đẹp mà lại không gọi cho tôi à?

- Ồ có chứ - Người kia trả lời - Tôi đã gọi nhưng vợ anh nói anh đi câu cá rồi!!!

1021




Cùng tột điều thiện không gì hơn Hiếu,
Cùng tột điều ác không gì hơn Bất hiếu.

Xưa có vị hoàng tử tên là Nhẫn Nhục, tướng mạo khôi ngô, trí rất thông minh, lòng rất nhân đức. Ngài đem lòng thương xót hết cả mọi người, nên rất được mọi người thương mến. Ðối với Vua cha và Hoàng hậu, Ngài rất kính yêu và hiếu thảo, không bao giờ từ chối một việc gì mà Ngài có thể làm cho cha mẹ vui lòng.

Một ngày kia Vua cha đau nặng, thuốc thang chạy chữa đã hết phương mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Hoàng tử lo buồn lắm. Ngài hội các đình thần lại để hỏi xem ai có cách gì cứu chữa cho Vua cha. Trong triều có một kẻ gian thần, vì muốn giết Thái tử để cướp ngôi sau khi vua mất, liền đứng dậy thưa rằng: "Thưa Thái tử bệnh của Hoàng đế chỉ có một thứ thuốc có thể chữa được, nhưng khó kiếm". Hoàng tử tỏ vẻ vui mừng, vội hỏi: "Chẳng hay thứ thuốc ấy là thuốc gì thế? Nếu chữa được bệnh cho Phụ vương tôi, thì dầu khó thế nào, tôi cũng cố tìm cho được". Bẩm, ấy là cái não của một người trẻ tuổi mà từ nhỏ đến lớn rất hiếu thảo với cha mẹ và nhân đức với mọi người". Hoàng tử hỏi: "Vậy não của tôi có thể đem dùng để làm thuốc được không?". Kẻ đại thần nghe nói, trong lòng lấy làm mừng rỡ, nhưng giả vờ buồn bã mà thưa rằng: "Thưa chắc được, vì còn ai hiếu thảo và nhân đức hơn Ngài. Nhưng chúng tôi không dám và cũng không nỡ làm một việc nhẫn tâm như thế". Hoàng tử khẳng khái trả lời: "Nếu tôi chết mà cứu sống được Phụ vương tôi, thì tôi rất sung sướng. Xin các Ngài đừng lo ngại".

Nói xong, Ngài liền truyền đem cắt đầu mình, lấy não đem hòa với thuốc để Vua cha uống. Lòng hiếu thảo của Thái tử động đến trời đất, nên khi vua uống xong chén thuốc thì bệnh liền thuyên giảm ngay.

Hoàng tử hiếu thảo trên đây, chính là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca.


Hết
491


Powered by Blogger.