1. Dung nói, bằng một dáng vẻ vui mừng thái quá, khác hẳn với thói quen e dè thường ngày : "Em vừa chích ngừa xong, thứ hai đến là lấy vé máy bay. Anh mừng cho em đi !". Tôi nghe bằng một cảm giác nhạt nhẽo, không buồn không vui, trong đầu đang có một tiếng nói rã rời : thế là hết, hết thật rồi, tự hỏi : việc gì mà Dung phải tỏ ra vui mừng thái quá như vậy, tôi và Dung hiểu nhau quá rồi mà ! Con đường dẫn đến công viên bờ sông buổi chiều nay sao vắng vẻ quá, lặng lẽ quá. Tôi muốn la hét hay làm một điều điên khùng nào đó vì những ý nghĩ không nói ra được, nhưng rồi lại gật gù : "Anh chúc mừng Dung !". Chợt thấy đau lòng : bây giờ Dung, cả tôi nữa, cũng khác trước lắm rồi, hình như đã bắt đầu sống không thật lòng với nhau như những người xa lạ rồi thì phải...



Mùa hè, trời oi bức, ở chiếc ghế đá nhìn ra sông không có một ngọn gió. Chúng tôi đến đây, chỗ hẹn cũ, bằng hai chiếc xe máy đời mới bóng loáng, sao có chút gì lạt lẽo, không hề giống như cái thời tôi đèo Dung đi khắp nơi bằng chiếc xe đạp cà tàng của tôi. Cũng chiếc ghế đá này, ngày xưa chúng tôi đã háo hức gặp nhau đến bao nhiêu, lúc này đang là chứng nhân của một cuộc chia tay, dù lòng chẳng muốn, một cuộc chia tay mà Dung đã chuẩn bị hàng năm trời, với một quyết tâm tưởng như không có gì lay chuyển nổi. Trời nóng quá, hình như Dung hơi căng thẳng thì phải. Trên trán Dung lấm tấm mồ hôi, tôi những muốn đưa tay lên lau trán Dung, chợt nghĩ : mình bây giờ có còn được phép nữa đâu, lại thôi. Tôi định nói một câu thật cay độc với Dung, có gì mà em vui vẻ thế, nhưng rồi lại buông một câu hiền lành : "Sang bên đó nhớ viết thư về cho anh.". Có lẽ suốt đời, tôi là một thằng chẳng làm được điều mình muốn, luôn luôn để tuột khỏi vòng tay những cái tưởng đã của mình vì cái tính lần khần, thiếu quyết đoán ở những lúc cần thiết...

2. Dung gởi cho tôi tờ lịch ngày Dung lên máy bay, như một lời từ giã, không kèm theo một dòng nào, chữ ký cũng không, khác hẳn thói quen thường lệ của Dung. Tôi cầm tờ lịch săm se, cũng giống như bao tờ lịch khác, in hình một cánh hoa chìm, màu sắc loang lổ nhòe nhọet, tôi không nhận ra là loại hoa gì, trên nền cánh hoa là con số 23 to tướng, 23 tháng 6, ngày Dung đi. Chợt nghĩ : suy cho cùng, cũng là một tờ lịch vô tri thôi, bỗng dưng trở thành kỷ vật, thành đồ quý giá. Trên tờ lịch có in một câu danh ngôn, như muôn ngàn câu danh ngôn khác được in trên lịch kèm với những từ "lập xuân", "tiểu thử" dự báo thời tiết : "Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm.". Có một lần Dung hỏi tôi : "Anh tính sao chuyện của tụi mình ?", tôi đã cười bâng quơ như thể chuyện đùa. Ngày đó tôi ngây ngô quá, chưa quyết định được những sự kiện lớn lao của cuộc đời mình nên đã khỏa lấp cho qua, đâu biết bây giờ tôi phải trả giá đây, tôi hối hận lắm rồi đây. Dung như một cánh chim chỉ đậu xuống một lần thôi, rồi đi, không hề quay trở lại dù sau này tôi có nhiều lần nói chuyện nghiêm chỉnh với Dung. Câu cửa miệng của Dung là : "Mọi chuyện lỡ hết rồi !", sao tôi thấy sao Dung tỏ ra cố chấp quá mức, sao yêu thương nhau mà người ta cứ luôn thích làm khổ nhau...

3. Dung viết thư về cho tôi, thăm hỏi ân cần, cuối thư khuyên bằng một giọng khá chân thành : "Anh lo cưới vợ đi, đừng lông bông nữa ! Anh cũng lớn rồi, không chần chừ được, rồi thì ai cũng thế cả.". Một kiểu khuyên bảo của người lớn dành cho trẻ con, không phải là câu nói của một người yêu dành cho người yêu. Vậy thì thứ tình cảm lâu nay giữa tôi và Dung, cái quan hệ mà lâu nay tôi vẫn luôn gìn giữ đó là gì ? Dung vẫn biết mà, tôi đâu có yêu thương ai ngoài Dung. Hay hớm thật ! Bất chợt tôi nhận ra chuyện của mình bây giờ cũng gần na ná như mấy chuyện tình vớ vẩn trong phim Hồng Kông mà ngày xưa mình ghét cay ghét đắng. Tương tự mấy câu hát rẻ tiền vẫn hay hát trêu nhau : "Về đi, kẻo người ta chờ, kẻo người ta mong. Kìa một chiếc xe hoa đang chờ em đó...". Mới thấy đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng rõ ràng như một cộng với một bằng hai được...



Dung bây giờ xa xôi quá, thư từ thì chậm như rùa bò, lương của một nhân viên văn phòng mèn như tôi đâu cho phép một cú điện thoại sang Mỹ nói toạt với Dung mọi chuyện. Tôi vẫn thường nghĩ tình yêu không phải là một thứ để cầu xin, cục tự ái trong tôi luôn luôn cao như cái núi, vậy mà bây giờ lại có cảm giác sau này, mình chẳng thể nào gặp ai được như Dung, bây giờ không làm cho Dung hiểu mình được thì sau này chẳng còn lúc nào nữa. Tôi tự tin lắm, bao nhiêu cô sẵn sàng chờ tôi nói một câu đấy thôi, sao trong chuyện này vẫn thấy mong manh quá. Tôi đâu nghĩ mình sẽ cầu xin Dung, mà chỉ thấy mình phải làm một điều gì đó để giữ tình yêu lại, bàng hoàng nhận ra đã khá lâu, hình như không còn là của mình, cho mình. Lần đầu tiên tôi có được cảm giác của một người đang chạy đua trên chặng đường dài, mệt mỏi, cạn kiệt, thấy đích đó mà không sao vươn tới được...

4. Tôi đã từng mơ mộng nhiều về một cuộc hôn nhân vì tình khá lý tưởng, vợ chồng yêu nhau, cho dù có gặp bất kỳ khó khăn trở ngại nào thì vẫn yêu nhau. Đoàn cười : "Mầy sống trên mây vừa vừa, có chết già cũng không tìm đâu ra được vợ.". Tôi không tin Đoàn, không bao giờ tin lời Đoàn nói, khi ngày ngày, tôi vẫn chứng kiến bao nhiêu cặp yêu nhau đến thế. Lại băn khoăn, liệu với tình cảnh như hiện tại, sau này cưới nhau, tôi và Dung có tìm được hạnh phúc... Dường như trong tôi luôn có những ước muốn trái ngược nhau, nửa thế này, nửa thế kia, chẳng thể nào rạch ròi được, muốn được cả mà không dám dấn thân. Như trong bóng đá, tôi chỉ luôn luôn có thể là khán giả, ngồi trong khán đài hò hét, thèm muốn, nhưng lại không dám nhận lãnh chiếc áo cầu thủ bước ra sân. Phải chăng, tôi là người không có khả năng mang lại hạnh phúc cho ai khác ?



Tôi vẫn đi về trên những nẻo kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình, không còn Dung ở gần bên, cuộc sống tưởng khác đi nhiều mà thực ra chẳng khác trước là mấy. Thảng hoặc, không rõ ràng lắm, trong tôi vẫn vấn vít cái cảm giác hình như tôi đã tự huyễn hoặc về những điều Dung mang lại cho đời sống của mình. Ngày có Dung, cảm giác cô đơn trong tôi đôi lúc vẫn tràn ngập, chỉ có khác đi, ngày đó, tôi còn có được viễn cảnh hạnh phúc cùng Dung chờn vờn trước mắt. Bây giờ thì cái viễn cảnh ấy cũng không còn, nỗi trống vắng trong tôi ngày càng dày thêm. Tôi kiêu ngạo lắm, luôn giấu kín nỗi trống vắng cho riêng mình. Để thấy ngày mình càng già cỗi đi, chấp nhặt và cầu toàn hơn mà chính mình cũng đâu phải là khối hoàn hảo...

5. Ngày đầu năm, Dung điện thoại về chúc Tết, lần đầu tiên Dung điện thoại về, tiếng cười trên phone vễn thế, trong vắt và ngọt ngào : "Em nhớ Đà Nẵng lắm, nhớ bạn bè lắm.". Có một nỗi gì đó thật ngọt ngào len lỏi trong tim tôi. Còn anh thì sao ? Đây có phải là điềm báo tốt lành trong ngày đầu năm ? "Em ở bên này buồn lắm, lạc lõng lắm. Ra đi, mới thấy mình mất nhiều thứ quá !". Thì anh vẫn còn đây, nguyên vẹn như ngày xưa, đang nghe em nói ! "Sao anh chẳng kể gì về anh cho em nghe cả ? Anh có còn giữ tờ lịch em tặng anh ?". Vẫn còn y nguyên, vẫn nhớ y nguyên : Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm. Dung cúp máy rồi, tôi vẫn không nói được với Dung một lời cho ra hồn. Rồi không dưng thấy mắt mình cay cay, đừng mà, hôm nay là ngày đầu năm, có Dung phone về chúc Tết !



Tôi ngồi lần hồi giở từng kỷ vật của Dung ngày xưa, nâng niu trong bàn tay. Đây là chiếc ví da Dung tặng trong dịp sinh nhật, kia là mảnh giấy nhỏ Dung viết hồi mới quen nhau : "Anh nhớ rửa rau sống bằng thuốc tím trước khi ăn", đây nữa, cuốn nhạc Phú Quang nhân lần Dung đi Hà Nội chơi và gần nhất là tờ lịch ngày Dung đi, không một dòng, không chữ ký, ngày cuối cùng Dung còn ở Việt Nam, mà bây giờ tôi mới hiểu. Chợt thấy chùng lòng, có một thời, tôi nghiễm nhiên đón nhận những săn sóc của Dung như một bổn phận phải có, lâu lắm rồi, cuộc sống tôi dường như không còn những điều nhỏ nhặt nhưng quý giá như thế này. Mới thấy, nếu không biết nâng niu, rồi mọi điều quý giá cũng sẽ bỏ ta mà đi. Tôi lần giở từng trang cuốn nhạc Phú Quang, bắt gặp bài hát ngày xưa Dung thích, cứ bắt tôi tập để hát cho Dung nghe : "Người yêu ơi, dù mai này cách xa. Mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta...", cố nén một nhịp tim đang run lên nhè nhẹ. Em có còn điều kỳ diệu nào dành cho anh không Dung ? Bây giờ đang là mùa xuân, sáng nay, hiên nhà anh nắng vàng lắm, rực rỡ lắm. Anh ngồi đây, mơ về một nơi xa lắc, và nắng, nắng sẽ làm cho băng giá trong tim em tan đi ?

1101




Nhân kỷ niệm 10 năm ngày cưới, chồng âu yếm hỏi vợ:
- Em có thích một chiếc áo bằng lông thú không?
- Không.
- Anh sẽ mua tặng em một chiếc Mercedes nhé?
- Không.
- Hay là anh cho em một ngôi nhà nghỉ mát trên núi?
- Không... Người chồng chịu thua:
- Vậy em hãy nói thẳng, em thích cái gì, chúng ta sẽ giải quyết nhanh.
- Em muốn ly hôn.
- Trời! Anh đâu có dự kiến sẽ chi nhiều như thế!

1742






Ðể nhớ lại những ngày tại trại tỵ nạn Songkhla.



Hồi mới nhập trại Songkhla, chị Năm được phân phối cho một khoảnh nhỏ ở cuối một dãy lô lều. Thấy chị độc thân, đi một mình, ông trưởng ban tiếp cư ghép thêm vào form của chị một con bé lên sáu. Chị Năm vui vẻ nhận ngay:

- Con bé này đi cùng ghe, tôi biết. Gia đình nó lúc lên ghe đâu ba bốn người. Bây giờ chỉ còn mỗi một mình nó, tội nghiệp!

Trên giấy tờ, mọi sự dàn xếp như thế là ổn thỏa. Ông trưởng ban Tiếp cư xoa tay hài lòng về phương cách giải quyết hữu hiệu của mình. Trong vòng hai tháng qua, có nhiều trường hợp tương tự như thế xảy ra. Chưa bao giờ có một sự khiếu nại nào về chuyện nơi ăn, chốn ở. Ðồng bào mới ở ghe lên, ít nhất cũng được ban Tiếp cư chiếu cố giải quyết một lần. Còn sau đó, có những vụ sang đi, bán lại chỗ ở trong lô lều là do ý thích riêng của từng người. Ðã tới bến bờ Tự do rồi mà ! Mà nói cho ngay, những vụ sang, bán lén lút này dù có muốn theo dõi để nắm vững nhân số trong từng lô lều, nhưng ban Tiếp cư dẫu có tài thánh cũng chẳng thể kiểm soát nổi. Sổ sách của Ban Ðiều Hành trại do đó chỉ có giá trị thực tế trong vòng một, hai tuần lễ, còn sau đó thì vô phương có thể chiếu theo sổ sách để điều hành nhân sự trong trại được.

Nhưng dù như vậy, thì chiếu theo sổ sách của Ban Tiếp Cư, con bé lên sáu tuổi, tên Nguyễn thị Bích Loan đang sống chung với bà Phan thị Năm, hai mươi tám tuổi tại sạp số 18, thuộc dẫy A, khu lô lều số 17. Lý lịch của nó được ghi là :

- Ði ghe Rạch Giá, mang số EQ 1246.

- Bố mẹ, anh chị em đều chết trên biển.

- Không còn ai thân nhân. Chị Nguyễn thị Năm nhận về coi sóc.

Cuộc sống ghép chung như thế kể là tạm ổn.

Cái điều mà mọi người lo lắng về nó nhất là sợ con bé nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ chị sẽ khóc dai làm phiền lòng hàng xóm, vậy mà lại không xẩy ra. Hình như cái thời gian kêu gào thảm thiết, gọi tên người thân đã qua đi từ hồi còn lênh đênh trên thuyền và ở phòng tạm trú của trụ sở Cảnh sát Thái lan. Vào đến đây, con bé đổi tính, suốt ngày chỉ ngồi lì và câm như một con hến. Hôm dẫn nó về khu sạp của mình, chị Năm dặn dò, hơi lớn tiếng một chút cho mọi người nghe thấy:

- Theo tao, ngoan ngoãn, tao nhận làm con nuôi.

Nhiều bà con cùng lềâu, thấy hoàn cảnh của nó, đem lại cho bao nhiêu là thứ : quần áo, chăn mền, bánh kẹo và những gói mì ăn liền. Chị Năm xếp dọn riêng cho nó một góc ở đầu giường. Chị dặn dò:

-Ðây là chỗ để kem đánh răng, bàn chải. Ngủ dậy thì xếp gọn cái mền lại để ở góc này. Còn những gói mì thì tao để trong cái túi giấy chỗ ni, hễ đói thì đi xin nước sôi ngoài quán mà bỏ mì vô. Chả có nước sôi thì xé cái bao ra mà ăn khô cũng được. Ăn xong nhớ đem bát đũa ra giếng bơm mà xin nước rửa cho sạch sẽ. Còn đôi dép này, tối đi ngủ nhớ nhét lên đầu sạp kẻo có đứa nó thò tay ở ngoài vào lấy đi thì chỉ còn nước dẫm đất ....vân... vân...

Sự chu đáo của chị làm mọi người mừng thầm cho con bé. Như thế chả hơn một lũ lau nhau tối ngày chạy đầu lều, cuối bãi, cũng toàn là những đứa thất lạc gia đình, bơ vơ, lạc lõng cả, mà đâu có ai đoái hoài tới.

Câu chuyện đau thương của chiếc tàu nhập trại trong đó có "một con bé lên sáu bị chết hết cả gia đình" gây xôn xao trong dư luận bà con được vài hôm thì lại có những chuyến ghe khác nhập trại. Ðau thương lại dồn dập, chồng chất, nhiều đến nỗi vùi lấp luôn cả hình ảnh của một con bé, loắt choắt như một con chuột, suốt ngày ngồi ở dưới chân chõng nhà chị Năm, hỏi năm bẩy câu mà cũng không hề hé răng. Riết rồi chẳng còn mấy ai bận tâm đến nó, trừ những con ruồì cứ lăn xả vào, bám riết lấy mái tóc rối két lại của nó, khuôn mặt nhếch nháp có hơi hướm cái vị mặn mặn của mồ hôi hay mì gói, và nhất là ở những vết trầy trụa trên cánh tay, bàn chân có chỗ vẫn còn mưng mủ chưa lành.

Buổi tối đến chị Năm ôm một tấm chăn, nằm khoanh tròn quay ra mé cửa lô lều vừa nghe nhạc, vừa ngủ lơ mơ. Con bé cũng rúc đâu đó ở dưới chân chị, nhiều hôm ngủ mê, nó đạp chân ra khỏi cái mùng tùm hụp, bị muỗi nó đốt đỏ cả cẳng chân như bị lên sởi.

Rồi có một hôm trời trở lạnh, buổi tối sắp đến giờ trại tắt đèn, con bé đang ngủ thì bị chị Năm lay dậy, ghé vào tai nó thì thào:

- Xí! Cái con bé này! Mầy mắc cái giống gì mà ham ngủ quá vậy? Ðây tao cho hai đồng chạy ra ngoài quán mua cái kẹo mà ngậm chơi, chừng nào tao "hú" thì hãy về.

Nói rồi, chị Năm kéo hai tay con bé, dựng nó dậy và dúi cho nó một đồng Bạt (tiền Thái) lẻ. Con bé mắt nhắm, mắt mở cứ như một cái máy, loạng choạng chui ra khỏi cửa lều. Làn cát ẩm dưới chân làm nó tỉnh hẳn ngủ và nhớ ra rằng mình còn chưa kịp xỏ chân vào đôi dép nhật xinh xinh màu đỏ mà trước khi lên chõng, nó vẫn có thói quen nhét ở đầu giường. Nó cũng nhớ mang máng rằng đồng bạc mà dì Năm vừa dúi cho nó cũng đã bị văng đâu đó ngay ngoài cửa lều. Nhưng làm sao kiếm vì trời tối thui. Dưới ánh sáng đục lờ lờ của bầu không khí bao phủ một làn sương mỏng phản chiếu ánh trăng suông xuyên yếu ớt qua những lớp mây mù chỉ thấy hiện ra mờ mờ những sô nước, những dây phơi quần áo, những cột hàng rào chăng kẽm gai và những mái lô lều nhấp nhô cao thấp.

Nhưng rồi bằng cách nào đó, con bé cũng mò được tới bên hông nhà thờ, một ngôi nhà gỗ được xây cất thô sơ như cái nhà lồng chợ nơi thôn dã. Ấy vậy mà ở đây cũng lổng chổng đủ thứ bàn ghế thấp tè đặt ở mé ngoài, ngay sát vách gỗ. Nó thuộc quyền sở hữu của một hai quán cà phê, sau khi tan lễ nhà thờ thì chủ nhà bầy biện bánh trái, nước ngọt, cà phê ra bán. Ban ngày khách ra vô cũng khá tấp nập, đến khuya tới giờ Trại bắt tắt đèn đi ngủ thì những cái bàn được xếp ngay ngắn lại và vẫn có nhiều người lui tới, vừa dựa lưng vào vách gỗ của ngôi giáo đường, vừa ngó đăm đăm ra bãi biển có tiếng sóng vỗ rì rào ngay phía trước mặt. Trong khi ấy, ở bên trong nhà thờ, những chiếc ghế gỗ dài đã trở thành chỗ ngả lưng của những kẻ lang thang, có người mới nhập trại chưa được ban Tiếp cư xếp chỗ cho vào lô lều, cũng có nhiều đứa trẻ không thân nhân, chẳng được ghép vào form nào thì thỉnh thoảng cũng tụ tập trò chuyện rỉ rả với nhau.

Con bé Bích Loan cũng biết mò tới nơi đó mỗi lần bị chị Năm dựng dậy một cách bất tử. Tình trạng nó bị gọi dậy đang khi ngủ, trước thì chỉ họa hoằn đôi ba bữa, sau trở nên thường xuyên hơn. Mà mỗi lần chị Năm cần sự tự do thoải mái trên chiếc sạp buông cái màn tùm hụp của mình, chị cũng chẳng thấy cần thiết phải dúi cho con nhỏ đồng bạc ăn kẹo nữa. Chị chỉ ghé vào tai nó, nói một câu gọn lỏn:

- Tối nay ra ngoài chơi như bữa hổm, nghe mầy!

Thế là con bé nhỏm dậy. Bây giờ thì nó không quên xỏ chân vào đôi dép Nhật màu đỏ và ôm theo cái mền chưa một lần được giặt kể từ ngày nhập trại. Những hôm như thế nó hay ngồi ở bên hông nhà thờ, mặt quay về phía bãi biển mênh mông mà vào ban đêm nom như một cái miệng hang khổng lồ, tối thăm thẳm và có chiều sâu hun hút.

Biển. Cái danh từ nghe khủng khiếp thật, nhưng ít ra là nó cũng còn gợi nhớ được ở đấy những hơi hướm của người thân với những hình ảnh không bao giờ có thể phai mờ: người này chới với trên mặt sóng trước khi bị nhận chìm, kẻ kia bị chém, máu loang lổ làm át cả màu xanh của nước lóng lánh như ngọc bích. Và trong tiếng sóng ầm ì từ xa vẳng lại, nó như còn nghe rõ tiếng mẹ và chị của mình la thất thanh giữa đám đông lố nhố.

Con bé thường hay ngủ gục ở bên vách gỗ nhà thờ giữa những hình ảnh và âm thanh lộn xộn đó. Vào một đêm mưa rả rích, nó choàng dậy trong những tiếng ồn ào ở bên kia vách gỗ. Nó leo lên mặt bàn để nhìn qua những chấn song gỗ của ngôi giáo đường. Nó trông thấy trên bục giảng, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn yếu ớt hắt xuống từ cây thập tự giá ghép lại bằng hai mảnh gỗ thùng đã được bào cho nhẵn bóng, một lũ trẻ nằm ngồi lố nhố.

A! Thì ra ở bên lề cái xã hội khốn cùng này, không chỉ có một mình nó! Trời mưa làm lũ nhỏ như những con chuột rời bỏ hang ổ, kéo nhau về đây tụ tập. Có đứa ở trần. Có đứa khoác những chiếc áo tây rộng thùng thình. Có đứa cuộn tròn trong những tấm mền, có đứa chỉ đeo đúng một mảnh quần lót.

Con bé cảm thấy gần gũi ngay với bầu không khí ồn ào vô trật tự diễn ra ở ngay cái chỗ mà ban ngày thì được dùng làm nơi chốn trang nghiêm, thờ phụng này. Có lẽ vì đa số đều lau nhau ở cùng cỡ tuổi nhóc tì, thằng lớn nhất chỉ khoảng mười ba, mười bốn, đứa nhỏ nhất bé bé, xinh xinh còn hơn cái Loan nữa kìa. Chúng nó chỉ chung nhau ở có mỗi một điểm. Ðó là tất cả những người thân đều đã mất tích hay trôi giạt đâu đó ngoài biển khơi. Hình ảnh mấy đứa bé nằm ngủ khoèo, đầu đứa này gối lên cẳng chân của đứùa khác, làm cho cái Loan cảm thấy mình bớt bơ vơ. Nó tụt xuống khỏi cái bàn thấp và lẻn vào đứng dựa lưng, cạnh một chiếc cột tre.

Con nhỏ cũng khôn ra gì, nó ướm sẵn, nếu lũ trẻ trên bục gỗ biểu lộ một cung cách gì dữ dằn, độc ác thì nó dư sức để ù té chạy. Nó biết một chỗ thứ hai có thể ẩn núp một cách an toàn, đó là cái vỏ thuyền của dân tỵ nạn nằm phơi những mảnh ván mục đầy rêu phong ở ngoài bãi cát phía cuối trại. Nhưng lũ nhỏ không thấy có dấu hiệu gì gọi là sẵn sàng gây hấn với nó cả. Nó mon men tiến lên một hàng cột nữa, và lần này thì có đứa lên tiếng:

- Cho nó lên đây nằm, ở ngoài mưa tạt ướt.

Một đứa con gái dễ lớn hơn Loan đến bốn năm tuổi, xòe bàn tay ra. Thế là con bé chạy ù lên nhập cuộc.

Trời rả rích mưa buồn. Gió từ bãi biển lùa qua khuôn cửa tuềnh toàng tứ phía làm mấy đứa rên lên kêu rét. Một cuộc "góp chăn" đắp chung được bầy ra và con bé cũng gỡ cái chăn vẫn đang đeo dính trên vai của nó đem trao cho thằng lớn nhất. Bây giờ cả đám chúng nó trở thành những đống lùng bùng, co quéo dưới lớp chăn mỏng.

Ðấy là một buổi tối vui nhất của con bé kể từ ngày nhập trại. Nhiều hôm sau đó, chúng nó trở nên thân thiết với nhau hơn. Nếu trong trại, người lớn thường tổ chức làm chung, góp chung để mời nhau tham dự những buổi ăn cháo, ăn chè thì lũ nhỏ cũng có hôm sì sụp, nhai nhá chung với nhau những tấm bánh, gói kẹo. Rồi chúng nó kể với nhau um sùm đủ thứ chuyện: chuyện công an, bộ đội, chuyện Tổ trưởng dân phố, Tổ phó an ninh, có cả chuyện kinh nghiệm nằm tù vì vượt biên bị đổ bể (trong số này ít nhất cũng có năm, sáu đứa đã theo gia đình nếm mùi nhà tù trong trại giam ở quê nhà), rồi chuyện hành trình trên biển, chuyện sinh hoạt ở các quán cà phê, các sạp bán đồ ở khu chợ của người Thái Lan phía ngoài cổng trại.

Con bé Loan thì chẳng có chuyện gì để kể, nhưng nó lãnh phần ôm một con nhỏ lên bốn vào lòng để cho thằng anh của nó vừa kể chuyện, vừa múa may chọc cười cho cả lũ. Trong cả bọn, thằng nhỏ này láu lỉnh và có máu giễu nhiều nhất. Nó tên Lâm, vượt biển với bố mẹ và đứa em gái. Lúc ra bến bãi, động ổ thế nào mà công an bắn loạn xạ. Thế là cả đám chạy tứ tán và chiếc ghe chưa kịp lên hết người đã rồ máy bỏ chạy. Thằng Lâm cùng con em gái lạc tuốt bố mẹ, qua được tới đây. Hôm nhập trại, nó đứng chung form với ông chủ ghe để được điều vào ở trong lô lều. Trong cái áo lót nó mặc, bố nó còn ghi được địa chỉ của bà cô họ của nó ở bên Huê kỳ.

Ông chủ ghe xúi nó viết thư cho bà cô để bà chuyển tiền về trại trả nợ cho chuyến vượt biển mà anh em nó còn thiếu. Thằng Lâm không chịu. Thế là cãi nhau tán loạn cả lên và nó ôm phứt con em ra khỏi lô lều.

Càng sướng! Càng rộng cẳng, muốn làm chi thì làm. Nó mới mười hai mà khôn tổ. Nó lén lên gặp anh Dư ở ban Tiếp Cư để đòi phát gạo cho riêng nó một "phom". Rồi nó lại ngoại giao được với cụ lô trưởng để mỗi khi có đồ ăn phân phối thường là cá, những con cá to bằng vài đốt ngón tay với vài củ su su thì cũng đừng quên phần của anh em nó. Có gạo, có đồ ăn, nó gửi bà bán quán cho anh em nó được góp phần gạo nấu ăn ké. Bù lại, nó cũng lăng xăng rửa được cho bà chồng bát, bó đũa. Lâu lâu nó không quên "chọt " của bà chủ quán một gói kẹo, một bọc xôi hay lon chè đem về cho con em gái. Lũ trẻ thèm ăn chè lắm. Nói cho ngay, ai mới ở ghe lên cũng đều thèm của ngọt hết. Kẻ có tiền, nấu chè ăn rả rích cả tháng mới đã thèm. Còn những đứa nhỏ không thân nhân, lâu lâu mới có dịp chia nhau sì sụp một, hai túi chè, vị ngọt ngọt của đường, vị béo ngậy ngậy của đậu xanh, đậu đỏ hay bột lọc có pha thêm mùi vanille, bao giờ cũng là những điều mà chúng nó mơ ước.

Ngoài món chè ra, nhiều đứa còn thèm đủ thứ đồ ăn bầy la liệt ở quán hàng hay sạp chợ. Ngôi chợ nhỏ xíu bằng cái vạt của một khu gò thấp nằm ở phía bên ngoài hàng rào kẽm gai được dựng lên hàng chục khung lều nhỏ. Vào mỗi buổi sáng, dân địa phương thường đem đến bầy bán đủ loại mặt hàng. Chợ họp mỗi ngày có hai tiếng đồng hồ, nhưng người ra vô đông nghìn nghịt vì tiếng là dân tỵ nạn nhưng khối người rủng rẻng vì có thân nhân ở ngoại quốc gửi cho qua hình thức International Money Order và trong trại có hẳn một dịch vụ đổi qua tiền Thái.

Mấy thằng nhỏ trong đám trẻ lang thang, tuy chẳng có tiền cũng chen chân vô đó để nhìn, ngắm, tò mò coi cái này, cái kia, và cũng có hôm cơn thèm lên bất tử, có đứa chơi càn chọt cái áo thung, đôi dép Nhật hay nải chuối, miếng thịt. Một lần thằng Cư xui xẻo, vừa thò tay vô sọt trứng đã bị chủ hàng rình sẵn túm lấy nó, la rầm rĩ lên. Mọi người xúm xít lại, có anh tỵ nạn nóng nẩy táng cho thằng nhỏ ba bốn cái bợp tai về cái tội "làm mất thể diện quốc gia". Nhưng có người lại nói:

- Chuyện đâu còn có đó, ai có quyền gì mà đánh nó. Cứ giao nó cho cảnh sát Thái Lan là xong hết.

Thế là chỉ nhấp nháy, một viên cảnh sát xuất hiện. Ông ta mập như một con heo, trên tay lúc nào cũng lăm le cái roi tre sẵn sàng quất lên đầu lên lưng dân tỵ nạn, tác phong không khác gì một anh cập-rằng ngày xưa cai trị dân thuộc địa bằng roi vọt. Thằng nhỏ bị xách lên như một con mèo ốm, rồi vừa dẫn nó đi, viên cảnh sát vừa quất vào đít thằng bé những lằn roi đến nơi đến chốn khiến nó cảm giác như có những dòng nước sôi nóng bỏng đang chảy trên mông của mình.

May cho nó, trụ sở cảnh sát chỉ ở phía bên kia lề đường. Tuy chưa hưởng thụ được trái trứng nào, nhưng tội danh của nó được ghép là "ăn trộm trứng ngoài chợ". Ở trạm cảnh sát, người ta giao nó về cho Văn Phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Từ văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, nó được chuyển xuống Ban Ðại Diện trại. Từ Ban Ðại Diện trại nó lại bị giải xuống Tiểu ban An Ninh để lập lý lịch, hồ sơ. Thì cũng lại : Ði ghe mang số...nhập trại ngày...Bố chết. Mẹ chết...chứ còn cái gì khác hơn ?

Mãi đến chiều tối, lệnh phạt về tội "ăn cắp trứng" của nó mới được ban hành trên loa phóng thanh treo ở khắp mọi nơi trong trại. Trong lệnh cũng "chiếu điều này", "chiếu điều kia", sau khi kể rõ tội trạng, "đương sự" phải nhận lãnh một số ngày phạt phải đi làm vệ sinh trong trại.

Chiếu trên giấy tờ thì nó phải lãnh đủ tới mười lăm ngày cọ cầu tiêu công cộng lận. Làm mất thể diện quốc gia, đâu phải chuyện rỡn. Nhưng nhìn cái vẻ loắt choắt của nó, một ông trong Ban Ðại Diện kéo anh trưởng ban An ninh, Trật tự lại rỉ tai:

- Hù nó đôi ba ngày cho nó tởn vậy thôi, cái ngữ đó, làm sao nó xách nổi xô nước mà cọ cầu tiêu.

Anh Trưởng ban An ninh Trật tự lúc thi hành chỉ thị, đã hù thằng nhỏ rất tận tình:

- Mầy không thấy dân ở đây nó dữ lắm sao? Lần này nó thương tình giải mày qua "Liên Hiệp Quốc", chứ lần sau ý à, cứ lẳng lặng đem mày ra mà cắt cu!

Thằng nhỏ chẳng những không sợ lại còn toe ra cười. Nó xăng xái đi trước một anh an ninh áp tải để xuống khu nhà cầu. Hôm nay án phạt có một anh can tội băng hàng rào đi mua mai- coỏng tức là rượu đế lậu, hai anh khác đã can tội đánh bạc lại còn xoay ra đấm đá nhau, ngoài ra còn một chị nữa thì bị bắt quả tang đem gạo dư, ăn không hết bán lại cho dân địa phương, vi phạm nội quy của Cao Ủy.Trong cả bọn bị phạt làm vệ sinh, chỉ có nhà chị này là nom ăn diện bảnh bao nhất. Chị ta nhìn thằng Cư đang nhanh nhẩu kỳ cọ cái bồn cầu ra dáng một thằng bị phạt chuyên nghiệp, bèn cà kê với nó:

- Ê nhỏ ! Nghe nói mày bị ốm đòn mà chưa rớ được tới trái trứng nào, phải vậy không?

Thằng Cư chỉ đáp lại bằng cách ném cho chị ta một cái nhìn hậm hực. Nhưng chị ta vẫn ỉ ôi tiếp :

-Mày chọc vô bọn nó làm chi. Ðói khát gì một trái trứng !

Anh đánh bài đứng gần đó nghe lóm được, ngứa mồm nói chen vô:

- Thôi đi bà ơi! Bà có tiền, ních đủ thứ nên mới nói được câu "đói khát gì". Nó tứ cố vô thân, có họ hàng thân thích gì cho được đồng bạc cắc nào đâu.

Chị đàn bà kêu lên:

- Không có đồng cắc nào thì làm việc đi! Bộ cứ nghèo rồi đi ăn cắp, ăn trộm hả? Này nhỏ! Mầy muốn có tiền ăn trứng, hãy cọ phần cầu tiêu của tao đi. Tao trả cho hai chục!

Rồi chị chóp chép cái miệng;

-Ái chà, hai chục Bạt tiền Thái chớ chẳng phải chơi đâu nhá. Làm đi, "lao động là vinh quang" mà !

Thằng Cư đang hôi hám sẵn, lại thấy được trả tới hai chục Bạt, liền ngẩng đầu lên cất tiếng Ô Kê liền. Thế là nó lụi đụi kỳ cọ một hơi mười cái bồn cầu, chung quanh vương vãi những tờ giấy báo chùi trên in toàn một thứ chữ gì mà nom y như những con cung quăng và khắp mọi chỗ, ở xó xỉnh nào cũng văng vãi tung tóe vì cả trại ai cũng thích ăn chè!

Tuy nhiên thằng Cư vẫn cứ vừa huýt sáo vừa làm việc vì trong lòng nó cũng đang vui vẻ khi nghĩ tới hai chục Bạt tiền Thái được lãnh lúc đã lao động xong. Trong khi ấy thì chị đàn bà ngồi vắt vẻo trên chiếc trụ hàng rào kẽm gai, hai mắt lim dim, cặp môi son đỏ chót ngậm phì phèo điếu thuốc lá Samit, loại thuốc thơm có đầu lọc. Ðến lúc xong việc, thằng Cư được chị dúi cho hai chục đồng đúng theo hợp đồng đã quy định. Cu cậu sướng mê tơi, để nguyên cả bộ quần áo lẫn bàn chân, bàn tay hôi hám, chạy biến ra khu hàng quà. Ở đấy, nó ních một hơi hai cái bánh rán, một tô chè và một ly nước ngọt. Vậy mà tiền vẫn còn dư để mua thêm một chục trứng gà.

Ðến tối, lúc cả trại đã tắt đèn, Cư khuân lên bục giảng nhà thờ một bọc trứng đã luộc sẵn.Thằng Lâm trông thấy thế kêu lên:

-Ê! Mày ăn cắp trứng bị nhừ đòn mà vẫn không chừa sao?

Cư nhìn nó vênh mặt lên:

-Tao ăn cắp được quả trứng của đứa nào, mày nói nghe coi? Cái này là công sức của tao làm ra, thằng nào chê, cứ việc ngồi đó.

Trong cả bọn, chả có đứa nào chịu ngồi đó cả. Chúng nó xúm lại chia nhau bóc trứng ăn ngồm ngoàm. Ðứa bé nhất cũng được ăn riêng một quả trứng. Ăn xong, cả lũ nằm ngổn ngang kể chuyện gẫu hay hát hỏng um sùm.

Thật ra, trong bụng áo của thằng Cư còn nguyên một túi ny-lông đựng chè đậu xanh còn nóng hổi. Nó định tâm, chốc nữa cả lũ ngủ hết, sẽ đánh thức con bé Bích Loan dậy để cho nó ăn riêng một gói chè. Con bé vẫn bị dì Năm đánh thức dậy lúc đang giở giấc, đã quen rồi nên chắc là không cằn nhằn gì đâu. Hơn nữa. nó mà nghe nói đến chè là tỉnh như sáo ngay.

Cư vui vui khi nghĩ đến cái lúc dúi vào tay con bé gói chè nấu bột lọc và hình dung đến cái miệng chúm chím của nó lúc ăn những muỗng chè. Nhưng cu cậu nằm nghĩ ngợi lơ mơ thế nào ngủ khò, quên bẵng ngay cái chuyện khều chân con bé tỉnh dậy.

Sáng sớm hôm sau, lúc cả bọn nháo nhào bảo nhau thức dậy rút ra bãi ngoài để trả lại khu tôn nghiêm cho ngôi giáo đường thì thằng Cư phát giác ra đêm qua, nó đã ngủ quên đè lên, làm túi chè bục rách cả ra khiến ngực áo của nó trở thành một mảng bầy nhầy, nhão nhoẹt...

1001




Ông chủ nọ gọi về cho vợ biết là phải làm việc trễ tối nay. Gọi xong, ông mời cô thư ký xinh đẹp đi ăn và ông ta gặp may được cô ta rủ về phòng mình!

Hai tiếng sau, ông vào phòng tắm sửa soạn lại để trở về nhà mình. Bỗng ông ta hoảng hồn vì thấy trên cổ mình có một vết cắn bầm do cô thư ký để lại. Ông hoang mang vì không biết phải nói sao nếu bị vợ hỏi.

Ông mở cửa vô nhà và con chó becgiê nhảy chồm lên mừng chủ. Ông lanh trí vội vàng ôm lấy con chó làm bộ vật lộn với nó rồi la toáng lên và chạy vào phòng. Ông ta một tay lấy ôm cổ ra vẻ đau đớn nói với vợ:

- Em xem nè! Con chó quỷ cắn bầm cổ anh này!

Vợ ông ta vội phanh áo mình ra phân bua liền:

- Anh coi đó! Nó cũng cắn tím bầm mình mẩy em này!!!
1546









Ngày xửa ngày xưa, trước khi loài người xuất hiện, đức hạnh và những thói xấu sống lơ lửng xung quanh nhau và cuộc sống đối với chúng vô cùng chán nản khi chẳng tìm thấy việc gì đó để làm.


Một ngày nọ, đức hạnh và thói xấu tập trung lại và bàn về một trò chơi nào đó. Thông Minh đề xuất: "Chúng ta cùng chơi trò trốn tìm nào!". Tất cả đều đồng ý và vui vẻ bắt đầu trò chơi. Lý Trí la lớn: "Này các bạn, tôi xung phong làm người tìm, các bạn trốn đi nhé!".

Lý Trí đứng tựa vào một gốc cổ thụ và bắt đầu đếm: "Một, hai, ba…"

Đức Hạnh và Thói Xấu cuống cuồng đi tìm chỗ để nấp.

Dịu Dàng nấp sau mặt trăng.

Phản Bội nấp sau những vườn bắp cải.

Yêu Mến cuộn tròn giữa những đám mây.

Nồng Nàn trốn ngay giữa trung tâm của trái đất.

Nói Dối giấu mình phía sau của tảng đá nằm bên dưới của một hồ lớn.

Tham Lam trốn trong một bao tải…

Và Lý Trí đã đếm đến bảy mươi… tám mươi… chín mươi.

Lúc này, tất cả đều tìm được một chỗ ẩn nấp cho mình, ngoại trừ Tình Yêu. Tình Yêu không thể tìm cho mình một chỗ để trốn. Và đó cũng lý giải vì sao thật khó khăn để che giấu Tình Yêu trong trái tim mình.

Khi Lý Trí đếm tới một trăm, Tình Yêu nhảy đại vào một bụi hoa hồng gần đó và bị những gai nhọn đâm. Tình Yêu cố nén đau mà không lên tiếng nhưng lại được tận hưởng hương thơm quyến rũ của từng đóa hồng…

Lý Trí bắt đầu tìm kiếm. Lười Biếng được tìm thấy đầu tiên bởi vì Lười Biếng không có đủ năng lượng để tìm cho mình một chỗ nấp tốt.

Sau đó lần lượt Dịu Dàng, Nói Dối, Nồng Nàn, Yêu Mến… cũng được tìm thấy, chỉ trừ Tình Yêu.

Ghen ghét với Tình Yêu, Ghen Tỵ đã thì thầm vào tai của Lý Trí: "Tôi biết bụi hoa hồng đang ẩn giấu bạn Tình Yêu đấy".

Lý Trí bước đến gần và tìm kiếm. Lý Trí đã xới tung cả bụi hoa mà chẳng thấy bạn mình đâu bèn sử dụng một cành cây để tìm kiếm và dừng lại khi trái tim của Lý Trí bị những gai hoa hồng làm cho rỉ máu.


Tình Yêu xuất hiện với hai tay ôm mặt và hai dòng máu chảy ra từ đôi mắt. Trong lúc tìm kiếm, Lý Trí đã làm hỏng đôi mắt của Tình Yêu. Lý Trí khóc thét lên: "Tôi phải làm gì đây? Tôi phải làm gì đây? Tôi đã làm cho bạn mù. Làm cách nào khiến cho bạn thấy đường trở lại bây giờ?"


Tình Yêu nói: "Bạn chẳng có cách nào làm cho tôi thấy đường lại. Bây giờ nếu bạn muốn giúp tôi, hãy làm người dẫn đường cho tôi". Và đó là lý do vì sao Tình Yêu là mù quáng và luôn đồng hành với Lý Trí.

1011










"Lạy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ"
Hai câu nói trên đã được truyền miệng qua các cụ, qua miệng mẹ tôi như kinh tụng hằng ngày, lúc đó tôi chưa hiểu đời, hiểu người cho lắm, thành ra câu nói trên hình như không nhập tâm tôi cho mấy, cho dù trong lòng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lấy một anh chàng ngoại đạo nào đó khi lớn lên.



Ngày xửa, ngày xưa, ngày mà tôi chỉ là một thiếu nữ ngây thơ, thánh thiện, thánh thiện vô cùng để có thể trở thành một nữ tu như bao nhiêu nữ-tu khác trong tu-viện. Thế nhưng, đời không như là mơ nên đời đã giết chết giấc mơ của tôi, giấc mơ trở thành nữ-tu mà tôi hằng ao ước. Cũng vì trời không chiều lòng nên tôi đã trở nên Tôi của hiện tại, nghĩa là tôi của những bổn phận, của những trách nhiệm như bao nhiêu người đàn bà chung quanh.


Ngày ấy quen nhau, nhà tôi biết tôi là con chiên ngoan đạo, biết tôi là thiếu-nữ thánh-thiện ngây thơ, biết tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên đã cám dỗ tôi bằng mọi cách, đã bao quanh tôi bằng những chiếc vòng đủ màu sắc làm tôi mờ mắt, làm tôi quên mất những điều tâm-niệm khi tôi trưởng thành.


Nhà tôi lúc ấy chỉ là anh chàng ngoại đạo biết yêu người có đạo nên tôi đoán sau một đêm mất ngủ, sau một đêm tính toán cộng trừ, nhân chia cuộc đời, đã xoay ngược cái kim đồng hồ, xoay hẳn 180 độ để bước trên con đường từ Chùa dẫn đến nhà thờ một cách thật la ngay ngắn, trang nghiêm, đàng hoàng. Nhà tôi đã tự tham dự những khoá học giáo-lý ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế mà tôi không hề hay biết, vì cái chiêu bài dụ dỗ của nhà tôi lúc đó nên... "Ngây thơ tôi nào có biết gì, đến khi tôi hiểu thì tôi đã... làm lỡ đời tôi...". Thật đấy quý vị ạ, chàng lúc đó rất siêng năng đi nhà thờ, rất siêng năng tham dự những buổi tĩnh tâm trong mùa Chay Thánh. Chàng đưa tôi đi hết nhà thờ này đến nhà thờ khác, từ những Thánh lễ cổ-truyền ở nhà thờ Đắc-Lộ đến những buổi giảng phòng ở nhà thờ Huyện-Sĩ, nếu quý vị ở vào địa vị tôi lúc đó chắc cũng như tôi chứ chẳng khác gì.


Sáng Chủ-nhật nào chàng cũng đạp chiếc xe đạp lóc-cóc từ Khánh Hội sang mãi bên Trương Minh Giảng, con đường thật xa để đưa tôi đi lễ. Một hôm con bé còn đang say sưa ngủ, bỗng bị Mẹ gọi dậy vì chàng của tôi đã đến. Nhìn đồng hồ trên tường... trời ơi! mới có 4g sáng mà chàng đã đến để đưa tôi đi lễ, rõ khổ cho tôi vì chàng chẳng nhớ đến giờ giấc của các Thánh lễ. Tôi, Mẹ nhìn nhau lắc đầu. Mặc chàng ngồi ở phòng khách tôi lên lầu ngủ tiếp mặc kệ Mẹ cằn nhằn, lúc ấy tôi vẫn là con bé thích ăn, thích ngủ nên cái sự "ngoan đạo" quá đáng của Chàng làm tôi bực mình. Những lúc như vậy, tôi có cằn nhằn, thì chàng lại lên giọng đạo đức một cách thật dễ thương:


- Tại anh thích đưa em đi lễ thật sớm, sáng sớm đi lễ mình cầu nguyện Chúa dễ nhậm lời hơn...


Trời ơi! nghe một người ngoại đạo nói như thế làm sao mà không thương cho được? không rung động cho được phải không quý vị? Cái điệu này các Cụ còn bị lầm huống gì tôi. Đã vậy lúc đó cái gì chàng cũng cho tôi là Nhất, nào là Em ngoan nhất, em hiền nhất và em cũng dễ thương nhất nữa...


Cuộc đời là những gì không trọn vẹn, cuộc đời là những gì không như ý, cho dù tôi vẫn không nghĩ đến chuyện trăm năm gá nghĩa cùng chàng. Nhưng rồi định mệnh đã đẩy đưa chúng tôi ra đi, đưa chúng tôi đến một chân trời mới. Trước khi đến chân trời mới, chúng tôi đã dừng chân ở đảo Pulau Bidong. Ở đây, mọi người đều phải tham gia những công tác của đảo trước khi đi định cư ở một nước khác. Vì có giọng nói ngọt ngào chứ không chua như bây giờ nên lúc đó tôi đã được chọn làm xướng ngôn viên của đảo, với sáng đọc tin tức, chiều đọc bản tin nhắn người vượt biển, trong khi chàng của tôi sau giờ làm việc ở văn phòng, chàng đã học thêm giáo-lý ở một nhà thờ bé nhỏ trên đồi. Cứ thế, gần 3 tháng chúng tôi rời đảo để sang Mỹ với nhiều mộng mơ nơi vùng đất Tự-do mà biết bao nhiêu người đang ước ao đặt chân đến.


Như tôi đã nói, "đời không như là mơ nên đời thường giết chết mộng mơ", thật đúng như câu hát mà tôi thường nghe ngày xưa. Từ Los Angeles, chúng tôi đi Dallas, từ đó chúng tôi về Lawton bằng một loại máy bay nhỏ như một loại xe bus dưới đất vì thỉnh thoảng phải hạ cánh để bỏ khách xuống. Đến phi-trường Lawton, nhìn quanh thật ngỡ-ngàng, phi-trường vắng vẻ tiêu điều như một phi-trường Pleiku mà tôi đã ghé đến ngày xưa. Chúng tôi được một Linh-Mục VN ở nhà thờ Lawton đi đón, tôi lúng-túng bước xuống trong chiếc áo dài may trên đảo dùng để mặc trong ngày đi định cư. Gió lồng-lộng, tà áo tôi bay phất phới như bay mất những ý nghĩ đẹp mà tôi đã có trong đầu trước khi đặt chân đến bên này.


Vị LM đưa chúng tôi đến căn nhà mà nhà thờ đã thuê cho chúng tôi trong những bước đầu ở đây. Bước vào trong, tôi thất vọng, chán nản, nhìn giường chiếu, đồ đạc chung quanh làm tôi buồn muốn khóc nhưng không dám khóc vị sợ làm nản tâm hồn chàng. Cái nóng ở đây không giống cái nóng ở Saigòn nên làm tôi khó chịu, cái quạt nước dưới cửa sổ chạy ầm-ĩ làm tôi trằn trọc mãi. Chàng nằm dưới đất, tôi trên giường, đêm đêm có tiếng dế mèn, có tiếng ếch nhái kêu inh-ỏi làm tôi buồn não-ruột, đã vậy thỉnh thoảng lại có tiếng nổ ầm đâu đó từ một căn cứ quân-sự làm tôi hoảng hốt giật mình, cứ tưởng như mình còn đang ở VN, đang sống trong thời gian chiến tranh pháo-kích.


Một vài ngày sau đó, chàng được rửa tội để chính thức là người có đạo như tôi, để chính thức cùng tôi bước vào nhà thờ một cách đàng hoàng không e-ngại.


Chúng tôi may mắn được nhà thờ chuẩn bị mọi thứ cần thiết mà một đám cưới phải có tại Thánh đường, cũng như tiệc mừng mà bất cứ đám cưới nào cũng có. Xúng-xính trong chiếc áo cưới rộng hơn mình đã được những người khéo tay thâu hẹp lại làm tôi cay đắng. Trong Thánh lễ, Cha giảng gì tôi chẳng nghe rõ, tôi chỉ biết tôi đang cô đơn, tôi chỉ biết tôi và chàng là 2 kẻ lạc-lõng không người thân. Cha mẹ tôi đó, anh chị em tôi đông lắm, họ hàng tôi thật nhiều, bạn bè tôi cũng thật là đông, nhưng sao không một ai bên cạnh? Tôi tủi thân, mũi tôi cay nồng, nước mắt tôi bắt đầu rơi từ từ xuống má, xuống môi. Khi Cha bảo chúng tôi nắm tay nhau, chàng xiết nhẹ tay tôi, cái xiết tay của chàng như an-ủi, như vỗ-về từ nay chỉ còn có tôi và chàng sánh bước trên đường đời đã làm tôi khóc sướt mướt%
2C tôi không kìm được những giòng nước mắt rơi như suối đổ, tôi không kìm hãm được những tiếng nấc nghẹn-ngào tấm tức từ ngày tôi ra đi. Tôi khóc đến nỗi Cha phải ngừng giảng, mọi người bàng hoàng lo lắng nhìn chúng tôi kinh-ngạc. Tôi khóc như chưa bao giờ tôi khóc, tôi khóc như bị cha mẹ ép duyên... Nhưng rồi, Thánh lễ cũng qua đi, tôi đã là của chàng, chúng tôi là của nhau, mọi người ân-cần đến ôm chúng tôi với những lời chúc tốt đẹp nhất. Họ hàng, anh em chúng tôi bây giờ là những người xa lạ, là những người không ruột thịt, là những người chúng tôi chưa hề quen biết, họ đã bao bọc chúng tôi qua sự trìu mến, qua tình con người giữa con người, qua tình anh em cùng một Chúa trên cao.


Tiệc cưới của chúng tôi gồm những món ăn do một nhà hàng Tàu đảm trách mà nhà thờ đã bỏ tiền ra để khoản đãi trong đám cưới của chúng tôi. "Ơn ai mang lại từ trời..." Vâng, ơn ai mang lại từ trời!..."


Sau đám cưới chúng tôi là vợ chồng, sáng sáng đi học anh-văn, chiều thả bộ đến nhà những người VN mới quen biết. Nhưng có những sáng Chủ-nhật trời mưa thật to, mưa tầm mưa tã, không áo mưa, không dù che, chúng tôi đành phải ở nhà đọc kinh. Bởi tôi là nữ-tu không mặc áo dòng nên cảm thấy không yên lòng những sáng như vậy. Nhà tôi đã phải ngồi đọc với tôi đúng 150 kinh tức 3 chuỗi tràng hạt trước khi bước xuống giường. Nhà tôi lúc đó ngoan lắm nên bảo sao nghe vậy. Hai chúng tôi cùng đọc, nhưng không biết đọc được bao lâu, được bao nhiêu lần tôi cũng quên không đếm và khi nhớ lại thì nhà tôi đã quên hết mọi kinh, chẳng còn nhớ được kinh nào. Tôi cũng không còn cái uy của người vợ mới cưới hay của người yêu bé nhỏ như xưa nên nhà tôi hình như quên cả con đường dẫn đến nhà thờ... Nhưng, tôi vẫn là tôi, dù con đường từ nhà đến nhà thờ có xa cách mấy, dù tay bồng tay bế, tôi cũng không bao giờ bỏ một Thánh Lễ nào nên tôi tự hào tôi là người ngoan đạo, cho dù tôi hiểu cái ngoan đạo của tôi không giống với cái ngoan đạo của quý vị, nhưng tôi đã tìm về tôi của những ngày xưa cũ.


Bởi thế, những lúc giận nhau, những lúc giận nhà tôi đến tím gan, tím ruột nhưng vẫn cứ phải bấm bụng làm lành để "chúng mình" cùng nhau dắt con đến nhà thờ tham dự Thánh lễ cho phải phép đạo. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, tôi thấy tôi tức nhà tôi, tức tôi, tức luôn cả đời, chỉ vì cái giáo lý mà nhà tôi học ngày xưa không đủ vững, chỉ vì cái kim đồng hồ của nhà tôi quay ngược quá nhanh thành ra ngày hôm nay tôi mới khổ đến như thế. Đã vậy, những lúc đi nhà thờ, gặp điều gì không vừa ý là về nhà hết ý-kiến này đến ý kiến nọ làm tôi nhức cả đầu, làm tôi phát giận để 2 đứa cãi nhau chí-choé. Những lúc như thế, nhà tôi phân bua:


- Có vậy mà em cũng giận, anh chỉ nói sự thật chứ anh đâu có bôi bác gì mà em nổi nóng. Chúa đâu có bảo mình phải đồng loã với những gì mà mình cho là không đúng đâu? Em rõ là vô lý.


Đấy, nhà tôi là một trong những ông chồng theo đạo vòng vòng như vậy đấy quý vị ạ. Bởi thế, biết tính nhà tôi không còn "ngoan đạo" như xưa nên tôi cũng chẳng dám để nhà tôi ngồi gần ba tôi vào những sáng Chủ-nhật sau Thánh lễ bao giờ, vì ba tôi cũng là người có nhiều ý-kiến, cho dù Ba tôi chẳng thuộc cái loại "Lậy Đức Chúa Trời Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ" như nhà tôi, nhưng sáng Chủ-nhật nào sau khi đi lễ về đều nghe Ba Mẹ tôi cằn-nhằn nhau:


- Khiếp, sáng nay Cha giảng gì mà lâu thế không biết, Ba đếm đúng 120 chữ "Tôi" trong bài giảng của Cha, Cha giảng gì lung-tung, Ba chẳng hiểu gì cả.


Mẹ tôi tức lắm kêu lên:


- Cái ông này rõ hay, chẳng có ai như ông cả, không có lần nào đi lễ về mà đừng có bới móc hay châm biếm, lần nào đi lễ về cũng có chuyện để nói, đi lễ vậy thì ích gì?


Khi tôi nhắm mắt đưa chân đi với nhà tôi trên con đường mà tôi hy-vọng và cứ nghĩ tôi có thể giúp nhà tôi tìm ra chân lý, hoặc cải hoá được nhà tôi theo cái định-lý ngoan đạo mà tôi ước mong. Nhưng thật khổ cho tôi với cái đạo tự tâm mà nhà tôi đã tự vạch cho riêng mình. Quý vị không thể nào hiểu nổi những đau khổ của tôi khi phải đương đầu với những chuyện lười biếng của nhà tôi. Nếu có bảo nhà tôi đi xưng-tội, nhà tôi lại oang-oang:


- Anh thấy anh đâu có tội gì mà phải xưng?


Tôi nhăn mặt:


- Sao lại không? này nhé! tội nói dối vợ, tội xạo với con, tội ăn vụng, tội lười biếng, thiếu gì tội phải xưng...


Nhà tôi cười vớt vát:


- Ừ, thì em biết hết tội của anh rồi, em xưng tội giùm anh đi, nhưng nhớ đừng có xưng tội ăn vụng đó, anh không có ăn vụng bao giờ cả, ăn vụng là chết với bà làm sao anh dám.


Nghe nhà tôi nói tức anh-ách. Ngày xưa chưa lấy nhau, nhà tôi đâu có ngại đường xa, dù có phải qua mấy cái dốc cầu vẫn cứ thấy nhẹ nhàng như thường, vẫn cứ năn-nỉ để đưa tôi đi lễ, đi nhà thờ, đi nghe giảng... thế nhưng, khi lấy được vợ rồi thì con đường có gần cũng hoá xa, mà mình thì cứ phải mỏi miệng dịu dànng như Thánh nữ để năn-nỉ ỉ- ôi, lôi kéo để dẫn bằng được "Sa-tăng" đến nhà thờ nhờ Chúa cảm hoá. Nhiều lúc giận quá tôi phải nói:


- Mình kỳ ghê đi, hồi chưa lấy người ta mình đâu có lười như vậy? Lấy được rồi quên hết nhà thờ, nhà thánh. Biết mình như thế, có trải chiếu hoa, có lót vàng dưới chân cũng không thèm lấy mình đâu. Người gì mà lười như vậy không biết nữa. Mai mốt chết, người ta lên thiên đàng đừng có nắm chân người ta đó, nắm chân người ta đạp xuống cho mà coi.


Vâng, đấy là cái sai lầm mà tôi không thể làm lại từ đầu. Đấy là cái vấp ngã mà tôi không thể đứng lên để quay đầu lại. Bởi thế tôi cứ hỏi lòng, lấy phải ông chồng theo đạo vòng-vòng như tôi đã là một vấn đề nhức đầu huống gì lấy phải ông chồng ngoại đạo, mỗi người một bàn thờ, mỗi người một lời kinh thì làm sao hạnh-phúc? thì làm sao hợp ý trong cuộc sống hằng ngày? Bởi cái lỗi lầm không bao giờ sửa được như một vết chàm in đậm trên da thịt đã đưa tôi đến kết luận sau cùng, nếu sau này, các con tôi lớn lên, chắc chắn tôi sẽ bảo các con đừng nên lấy người theo đạo vòng-vòng như bố và cũng đừng lấy người khác miền như Mẹ mà hãy "Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn"... phải thế không quý vị?...

2705





Một nhà sư và một cao bồi chơi golf với nhau, mỗi lần đánh trượt, tay cao bồi lại chửi thề. Ông sư tức lắm, mấy lần nhắc nhở mà hắn vẫn quen miệng, cuối cùng ông quở hắn:
- Anh mà còn chửi thề nữa là Ngọc hoàng sẽ giáng sét vào anh đấy! Ở gậy sau, tay cao bồi chưa dứt tiếng chửi thì một tiếng sét vang lên... Ông sư lăn ra chết. Trên trời vọng xuống tiếng lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, lại đánh trượt rồi!
1723





Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (1); bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:


- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?


Anh lính lệ trả lời:


- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!


(1) trát: cũng như ngày nay ta nói công văn

852




Gặp lúc hỏng thi, Xiển và mấy anh em bạn đồng môn ngồi buồn mới giở trò bù khú với nhau. Anh em biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc.

Bấy giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển bắt anh em giao kèo: nếu xin được tiền thì anh em cứ tính một đền thành ba, nghĩa là anh em sẽ phải trả cho Xiển một số tiền gấp ba số tiền Xiển xin được của quan. Bằng không dám xin, hoặc xin không được thì Xiển phải thết anh em một bữa no say. Tưởng đùa vui, nào ngờ Xiển vào tận dinh quan. Ai nấy chắc phen này Xiển sẽ làm ma không đầu.

Một buổi sáng nọ, quan vừa mở mắt ra công đường đã thấy Xiển quỳ ở ngoài sân. Quan quắc mắt hỏi:

- Thằng kia! Mày tới đây có việc gì?

Xiển thưa:

- Bẩm cụ lớn, con muốn nhờ tay cụ lớn hóa kiếp cho con.

Quan quát: - Thằng này muốn chết à?

Xiển trịnh trọng nói:

- Bẩm chính thế à. Con nghe nói lưỡi gươm cụ lớn sắc lắm, nên muốn xin cụ lớn một nhát để hồn về chín xuối cho được mát mẻ.

Quan gắt:

- Thật là đồ điên, cuồng, ngu, ngộ. Vì sao mày lại muốn chết?

Xiển đáp:

- Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa.

Quan thấy Xiển dáng người học trò nho nhã, lại đối đáp đâu ra đấy một cách bình tĩnh liền bảo:

- Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là "điên cuồng ngu ngộ" ta xem.

Xiển vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:

Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên.
Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh hiền


Nghe nói xong, quan biết Xiển có ý xỏ ngọt mình, song thấy Xiển là kẻ xuất khẩu thành chương, kính điển lau làu, văn thơ hàm súc, tỏ ra là người học thức rộng, lại có khí phách, liền thưởng cho ba chục quan tiền và bảo lui về.

Thế là từ đó, ngoài cái tên Xiển Bột còn có một cái tên nữa là Xiển Ngộ.2696



Powered by Blogger.