Trong giờ học lý, Mai quay sang mượn tập lý của Hoa chép bài, sau đó không hiểu chuyện gì cô ôm mặt cười, và đưa tập cho Nam chỉ dòng chữ, Nam cũng cắn chặt môi cười đỏ cả mặt.

Bỗng nghe thầy gọi trả bài, Hoa giật tập về, đi lên bảng. Thầy giáo coi tập Hoa trợn mắt, rồi viết lên bảng dòng chữ "Cảm Ứng Từ", và nói:

- Các em xem bạn Hoa viết tắt chữ này nhé: C.Ứ.T, cả chương này chỗ nào tôi cũng thấy chữ đó, em Hoa sáng tạo thật.

Cả lớp được một trận no cười.

Lời nhắn với các học trò: Muốn sáng tạo, hãy cẩn thận!
1109




Accađi Gaiđa là nhà văn viết cho thiếu nhi nổi tiếng của Liên Xô (cũ). Ông hay lui tới những vườn trẻ ở ngoại ô Matxcơva chơi với các em. Một lần, tiễn Gaiđa ra ga, các em đua nhau xách hộ ông chiếc vali. Đến nơi, một em hỏi nhà văn:

- Thưa bác, tại sao bác là người nổi tiếng mà chiếc vali của bác lại nhẹ và rỗng như thế này?

Gaiđa suy nghĩ rồi trả lời:

- Ồ! Không sao, bác chỉ sợ chiếc vali của bác nổi tiếng còn bác thì lại... nhẹ và rỗng!2456




Hai cô bạn đồng nghiệp ngồi tán dóc:


- Này, cậu không biết là chồng tớ đãng trí tới mức nào đâu!


- Có chứ! Đêm qua, tôi đã phải nhắc đi nhắc lại là anh ấy kết hôn với cậu chứ


không phải là với tớ mà.


 


Sau một đêm say đắm bên nhau, chàng hỏi nàng:


- Anh có phải là người đầu tiên của em không?


- Cũng có thể, em thấy anh quen quen.

  413




Có một nhà hàng thường đông khách, vì vậy việc nấu nướng phải thuê rất nhiều người và phải được chuyên môn hóa công việc. Một hôm, trên bảng phân công làm món thịt chim bồ câu, người đầu bếp đã ghi như sau:

"Cô Lan cắt tiết anh Hùng nhổ lông cô Ngọc luộc trứng anh Sơn mổ bụng cô Đào lột da anh Hải rửa chim cô Lài bóp mềm cô Thắm bằm nhừ cô Tuyết xào giòn".

Nhìn bảng, mọi người cười vỡ bụng. Chỉ vì thiếu các dấu phẩy.


2742




Một đêm Ban-dăc quên không đóng cửa, ông đã vào nằm nhưng chưa ngủ. Một tên ăn trộm vào không thấy ai, bèn đi đến cái tủ, khẽ mở ra và lục tìm tiền. Bỗng tên trộm nghe nhà văn cười nói:

- Anh bạn ơi, mắc sai lầm lớn rồi. Anh đã đến vào đêm tối như bưng để tìm tiền ở nơi chính tôi, giữa ban ngày chói chang tôi cũng không bao giờ tìm thấy!2481




Người lười nhất


Bố hỏi con:

- Lớp học của con, bạn nào lười nhất?

- Con không biết bố ạ!

- Bố nghĩ con phải biết chứ. Con nghĩ xem, trong khi tất cả các bạn đều chăm chú làm bài, thì ai ngồi ngó nghiêng nhìn ra ngoài?

- Thầy giáo ạ!



o O o


Cô giáo nói với phụ huynh học sinh:

- Anh ạ, con trai anh học rất yếu môn địa lý.

Ông bố trả lời:

- Thế thì càng tốt! Nó sẽ không tìm thấy chỗ chúng tôi giấu tiền.
30




Châm ngôn thời @


1. Tôi cưỡng lại được trước mọi thứ, trừ những cám dỗ.

2. Có tiền thì sướng hơn là nghèo, nếu xét về mặt tài chính.

3. Tôi nghĩ là tôi nên bắt đầu đọc thơ Shakespeare. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, tại sao tôi phải làm thế? Hắn ta chưa bao giờ đọc một bài thơ nào của tôi cả.

4. Tôi từng có nhiều ham muốn, ham muốn quá nhiều thứ. Bây giờ tôi chỉ có một ham muốn, là làm sao loại bỏ được những ham muốn đó.

5. Vì tình yêu, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh mình, còn đàn ông thì sẵn sàng hy sinh những người phụ nữ khác.

6. Nếu ta phải trả tiền cho người đẹp thì người đẹp ấy chẳng đáng giá một xu.

7. Tôi không hiểu dịch cúm gia cầm có ảnh hưởng thế nào tới những tin vịt?

8. Câu nói "không" vẫn là phương tiện tránh thai truyền thống tốt nhất.

9. Cái cười thành thực nhất là cười ruồi.

10. Thà để họ cười ta hơn là để họ khóc ta.

11. Thà nhận một ít tiền hơn là lời "cảm ơn nhiều".

12. Rượu vang có lợi cho sức khỏe, còn sức khỏe cần để uống rượu vodka.

13. Tất cả những gì báo chí viết đều là sự thật trăm phần trăm, ngoại trừ những sự cố mà quý vị trực tiếp chứng kiến.

14. Báo chí nói cho độc giả biết điều mà người ta không hiểu và dạy cho hiểu điều mà người ta không biết.

15. Báo lá cải có ích ở chỗ chúng dạy ta không nên tin vào chúng.

16. Trí tuệ nhân tạo chẳng là gì so với sự ngốc nghếch tự nhiên.

17. Người thông thái viết những câu châm ngôn, kẻ ngu dốt lặp lại chúng.

18. Người hiểu biết thì nói chuyện với anh, người thông thái thì lắng nghe anh.

19. Cho anh ta một con cá, anh ta sẽ ăn trong một ngày. Dạy anh ta câu cá, anh ta sẽ không làm phiền anh suốt một tuần.

20. Mỗi khi tôi buộc phải chọn lựa giữa hai tật xấu, tôi thường chọn cái mà tôi chưa bao giờ được thử.
26







1. Dung nói, bằng một dáng vẻ vui mừng thái quá, khác hẳn với thói quen e dè thường ngày : "Em vừa chích ngừa xong, thứ hai đến là lấy vé máy bay. Anh mừng cho em đi !". Tôi nghe bằng một cảm giác nhạt nhẽo, không buồn không vui, trong đầu đang có một tiếng nói rã rời : thế là hết, hết thật rồi, tự hỏi : việc gì mà Dung phải tỏ ra vui mừng thái quá như vậy, tôi và Dung hiểu nhau quá rồi mà ! Con đường dẫn đến công viên bờ sông buổi chiều nay sao vắng vẻ quá, lặng lẽ quá. Tôi muốn la hét hay làm một điều điên khùng nào đó vì những ý nghĩ không nói ra được, nhưng rồi lại gật gù : "Anh chúc mừng Dung !". Chợt thấy đau lòng : bây giờ Dung, cả tôi nữa, cũng khác trước lắm rồi, hình như đã bắt đầu sống không thật lòng với nhau như những người xa lạ rồi thì phải...



Mùa hè, trời oi bức, ở chiếc ghế đá nhìn ra sông không có một ngọn gió. Chúng tôi đến đây, chỗ hẹn cũ, bằng hai chiếc xe máy đời mới bóng loáng, sao có chút gì lạt lẽo, không hề giống như cái thời tôi đèo Dung đi khắp nơi bằng chiếc xe đạp cà tàng của tôi. Cũng chiếc ghế đá này, ngày xưa chúng tôi đã háo hức gặp nhau đến bao nhiêu, lúc này đang là chứng nhân của một cuộc chia tay, dù lòng chẳng muốn, một cuộc chia tay mà Dung đã chuẩn bị hàng năm trời, với một quyết tâm tưởng như không có gì lay chuyển nổi. Trời nóng quá, hình như Dung hơi căng thẳng thì phải. Trên trán Dung lấm tấm mồ hôi, tôi những muốn đưa tay lên lau trán Dung, chợt nghĩ : mình bây giờ có còn được phép nữa đâu, lại thôi. Tôi định nói một câu thật cay độc với Dung, có gì mà em vui vẻ thế, nhưng rồi lại buông một câu hiền lành : "Sang bên đó nhớ viết thư về cho anh.". Có lẽ suốt đời, tôi là một thằng chẳng làm được điều mình muốn, luôn luôn để tuột khỏi vòng tay những cái tưởng đã của mình vì cái tính lần khần, thiếu quyết đoán ở những lúc cần thiết...

2. Dung gởi cho tôi tờ lịch ngày Dung lên máy bay, như một lời từ giã, không kèm theo một dòng nào, chữ ký cũng không, khác hẳn thói quen thường lệ của Dung. Tôi cầm tờ lịch săm se, cũng giống như bao tờ lịch khác, in hình một cánh hoa chìm, màu sắc loang lổ nhòe nhọet, tôi không nhận ra là loại hoa gì, trên nền cánh hoa là con số 23 to tướng, 23 tháng 6, ngày Dung đi. Chợt nghĩ : suy cho cùng, cũng là một tờ lịch vô tri thôi, bỗng dưng trở thành kỷ vật, thành đồ quý giá. Trên tờ lịch có in một câu danh ngôn, như muôn ngàn câu danh ngôn khác được in trên lịch kèm với những từ "lập xuân", "tiểu thử" dự báo thời tiết : "Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm.". Có một lần Dung hỏi tôi : "Anh tính sao chuyện của tụi mình ?", tôi đã cười bâng quơ như thể chuyện đùa. Ngày đó tôi ngây ngô quá, chưa quyết định được những sự kiện lớn lao của cuộc đời mình nên đã khỏa lấp cho qua, đâu biết bây giờ tôi phải trả giá đây, tôi hối hận lắm rồi đây. Dung như một cánh chim chỉ đậu xuống một lần thôi, rồi đi, không hề quay trở lại dù sau này tôi có nhiều lần nói chuyện nghiêm chỉnh với Dung. Câu cửa miệng của Dung là : "Mọi chuyện lỡ hết rồi !", sao tôi thấy sao Dung tỏ ra cố chấp quá mức, sao yêu thương nhau mà người ta cứ luôn thích làm khổ nhau...

3. Dung viết thư về cho tôi, thăm hỏi ân cần, cuối thư khuyên bằng một giọng khá chân thành : "Anh lo cưới vợ đi, đừng lông bông nữa ! Anh cũng lớn rồi, không chần chừ được, rồi thì ai cũng thế cả.". Một kiểu khuyên bảo của người lớn dành cho trẻ con, không phải là câu nói của một người yêu dành cho người yêu. Vậy thì thứ tình cảm lâu nay giữa tôi và Dung, cái quan hệ mà lâu nay tôi vẫn luôn gìn giữ đó là gì ? Dung vẫn biết mà, tôi đâu có yêu thương ai ngoài Dung. Hay hớm thật ! Bất chợt tôi nhận ra chuyện của mình bây giờ cũng gần na ná như mấy chuyện tình vớ vẩn trong phim Hồng Kông mà ngày xưa mình ghét cay ghét đắng. Tương tự mấy câu hát rẻ tiền vẫn hay hát trêu nhau : "Về đi, kẻo người ta chờ, kẻo người ta mong. Kìa một chiếc xe hoa đang chờ em đó...". Mới thấy đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng rõ ràng như một cộng với một bằng hai được...



Dung bây giờ xa xôi quá, thư từ thì chậm như rùa bò, lương của một nhân viên văn phòng mèn như tôi đâu cho phép một cú điện thoại sang Mỹ nói toạt với Dung mọi chuyện. Tôi vẫn thường nghĩ tình yêu không phải là một thứ để cầu xin, cục tự ái trong tôi luôn luôn cao như cái núi, vậy mà bây giờ lại có cảm giác sau này, mình chẳng thể nào gặp ai được như Dung, bây giờ không làm cho Dung hiểu mình được thì sau này chẳng còn lúc nào nữa. Tôi tự tin lắm, bao nhiêu cô sẵn sàng chờ tôi nói một câu đấy thôi, sao trong chuyện này vẫn thấy mong manh quá. Tôi đâu nghĩ mình sẽ cầu xin Dung, mà chỉ thấy mình phải làm một điều gì đó để giữ tình yêu lại, bàng hoàng nhận ra đã khá lâu, hình như không còn là của mình, cho mình. Lần đầu tiên tôi có được cảm giác của một người đang chạy đua trên chặng đường dài, mệt mỏi, cạn kiệt, thấy đích đó mà không sao vươn tới được...

4. Tôi đã từng mơ mộng nhiều về một cuộc hôn nhân vì tình khá lý tưởng, vợ chồng yêu nhau, cho dù có gặp bất kỳ khó khăn trở ngại nào thì vẫn yêu nhau. Đoàn cười : "Mầy sống trên mây vừa vừa, có chết già cũng không tìm đâu ra được vợ.". Tôi không tin Đoàn, không bao giờ tin lời Đoàn nói, khi ngày ngày, tôi vẫn chứng kiến bao nhiêu cặp yêu nhau đến thế. Lại băn khoăn, liệu với tình cảnh như hiện tại, sau này cưới nhau, tôi và Dung có tìm được hạnh phúc... Dường như trong tôi luôn có những ước muốn trái ngược nhau, nửa thế này, nửa thế kia, chẳng thể nào rạch ròi được, muốn được cả mà không dám dấn thân. Như trong bóng đá, tôi chỉ luôn luôn có thể là khán giả, ngồi trong khán đài hò hét, thèm muốn, nhưng lại không dám nhận lãnh chiếc áo cầu thủ bước ra sân. Phải chăng, tôi là người không có khả năng mang lại hạnh phúc cho ai khác ?



Tôi vẫn đi về trên những nẻo kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình, không còn Dung ở gần bên, cuộc sống tưởng khác đi nhiều mà thực ra chẳng khác trước là mấy. Thảng hoặc, không rõ ràng lắm, trong tôi vẫn vấn vít cái cảm giác hình như tôi đã tự huyễn hoặc về những điều Dung mang lại cho đời sống của mình. Ngày có Dung, cảm giác cô đơn trong tôi đôi lúc vẫn tràn ngập, chỉ có khác đi, ngày đó, tôi còn có được viễn cảnh hạnh phúc cùng Dung chờn vờn trước mắt. Bây giờ thì cái viễn cảnh ấy cũng không còn, nỗi trống vắng trong tôi ngày càng dày thêm. Tôi kiêu ngạo lắm, luôn giấu kín nỗi trống vắng cho riêng mình. Để thấy ngày mình càng già cỗi đi, chấp nhặt và cầu toàn hơn mà chính mình cũng đâu phải là khối hoàn hảo...

5. Ngày đầu năm, Dung điện thoại về chúc Tết, lần đầu tiên Dung điện thoại về, tiếng cười trên phone vễn thế, trong vắt và ngọt ngào : "Em nhớ Đà Nẵng lắm, nhớ bạn bè lắm.". Có một nỗi gì đó thật ngọt ngào len lỏi trong tim tôi. Còn anh thì sao ? Đây có phải là điềm báo tốt lành trong ngày đầu năm ? "Em ở bên này buồn lắm, lạc lõng lắm. Ra đi, mới thấy mình mất nhiều thứ quá !". Thì anh vẫn còn đây, nguyên vẹn như ngày xưa, đang nghe em nói ! "Sao anh chẳng kể gì về anh cho em nghe cả ? Anh có còn giữ tờ lịch em tặng anh ?". Vẫn còn y nguyên, vẫn nhớ y nguyên : Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm. Dung cúp máy rồi, tôi vẫn không nói được với Dung một lời cho ra hồn. Rồi không dưng thấy mắt mình cay cay, đừng mà, hôm nay là ngày đầu năm, có Dung phone về chúc Tết !



Tôi ngồi lần hồi giở từng kỷ vật của Dung ngày xưa, nâng niu trong bàn tay. Đây là chiếc ví da Dung tặng trong dịp sinh nhật, kia là mảnh giấy nhỏ Dung viết hồi mới quen nhau : "Anh nhớ rửa rau sống bằng thuốc tím trước khi ăn", đây nữa, cuốn nhạc Phú Quang nhân lần Dung đi Hà Nội chơi và gần nhất là tờ lịch ngày Dung đi, không một dòng, không chữ ký, ngày cuối cùng Dung còn ở Việt Nam, mà bây giờ tôi mới hiểu. Chợt thấy chùng lòng, có một thời, tôi nghiễm nhiên đón nhận những săn sóc của Dung như một bổn phận phải có, lâu lắm rồi, cuộc sống tôi dường như không còn những điều nhỏ nhặt nhưng quý giá như thế này. Mới thấy, nếu không biết nâng niu, rồi mọi điều quý giá cũng sẽ bỏ ta mà đi. Tôi lần giở từng trang cuốn nhạc Phú Quang, bắt gặp bài hát ngày xưa Dung thích, cứ bắt tôi tập để hát cho Dung nghe : "Người yêu ơi, dù mai này cách xa. Mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta...", cố nén một nhịp tim đang run lên nhè nhẹ. Em có còn điều kỳ diệu nào dành cho anh không Dung ? Bây giờ đang là mùa xuân, sáng nay, hiên nhà anh nắng vàng lắm, rực rỡ lắm. Anh ngồi đây, mơ về một nơi xa lắc, và nắng, nắng sẽ làm cho băng giá trong tim em tan đi ?

1101




Nhân kỷ niệm 10 năm ngày cưới, chồng âu yếm hỏi vợ:
- Em có thích một chiếc áo bằng lông thú không?
- Không.
- Anh sẽ mua tặng em một chiếc Mercedes nhé?
- Không.
- Hay là anh cho em một ngôi nhà nghỉ mát trên núi?
- Không... Người chồng chịu thua:
- Vậy em hãy nói thẳng, em thích cái gì, chúng ta sẽ giải quyết nhanh.
- Em muốn ly hôn.
- Trời! Anh đâu có dự kiến sẽ chi nhiều như thế!

1742






Ðể nhớ lại những ngày tại trại tỵ nạn Songkhla.



Hồi mới nhập trại Songkhla, chị Năm được phân phối cho một khoảnh nhỏ ở cuối một dãy lô lều. Thấy chị độc thân, đi một mình, ông trưởng ban tiếp cư ghép thêm vào form của chị một con bé lên sáu. Chị Năm vui vẻ nhận ngay:

- Con bé này đi cùng ghe, tôi biết. Gia đình nó lúc lên ghe đâu ba bốn người. Bây giờ chỉ còn mỗi một mình nó, tội nghiệp!

Trên giấy tờ, mọi sự dàn xếp như thế là ổn thỏa. Ông trưởng ban Tiếp cư xoa tay hài lòng về phương cách giải quyết hữu hiệu của mình. Trong vòng hai tháng qua, có nhiều trường hợp tương tự như thế xảy ra. Chưa bao giờ có một sự khiếu nại nào về chuyện nơi ăn, chốn ở. Ðồng bào mới ở ghe lên, ít nhất cũng được ban Tiếp cư chiếu cố giải quyết một lần. Còn sau đó, có những vụ sang đi, bán lại chỗ ở trong lô lều là do ý thích riêng của từng người. Ðã tới bến bờ Tự do rồi mà ! Mà nói cho ngay, những vụ sang, bán lén lút này dù có muốn theo dõi để nắm vững nhân số trong từng lô lều, nhưng ban Tiếp cư dẫu có tài thánh cũng chẳng thể kiểm soát nổi. Sổ sách của Ban Ðiều Hành trại do đó chỉ có giá trị thực tế trong vòng một, hai tuần lễ, còn sau đó thì vô phương có thể chiếu theo sổ sách để điều hành nhân sự trong trại được.

Nhưng dù như vậy, thì chiếu theo sổ sách của Ban Tiếp Cư, con bé lên sáu tuổi, tên Nguyễn thị Bích Loan đang sống chung với bà Phan thị Năm, hai mươi tám tuổi tại sạp số 18, thuộc dẫy A, khu lô lều số 17. Lý lịch của nó được ghi là :

- Ði ghe Rạch Giá, mang số EQ 1246.

- Bố mẹ, anh chị em đều chết trên biển.

- Không còn ai thân nhân. Chị Nguyễn thị Năm nhận về coi sóc.

Cuộc sống ghép chung như thế kể là tạm ổn.

Cái điều mà mọi người lo lắng về nó nhất là sợ con bé nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ chị sẽ khóc dai làm phiền lòng hàng xóm, vậy mà lại không xẩy ra. Hình như cái thời gian kêu gào thảm thiết, gọi tên người thân đã qua đi từ hồi còn lênh đênh trên thuyền và ở phòng tạm trú của trụ sở Cảnh sát Thái lan. Vào đến đây, con bé đổi tính, suốt ngày chỉ ngồi lì và câm như một con hến. Hôm dẫn nó về khu sạp của mình, chị Năm dặn dò, hơi lớn tiếng một chút cho mọi người nghe thấy:

- Theo tao, ngoan ngoãn, tao nhận làm con nuôi.

Nhiều bà con cùng lềâu, thấy hoàn cảnh của nó, đem lại cho bao nhiêu là thứ : quần áo, chăn mền, bánh kẹo và những gói mì ăn liền. Chị Năm xếp dọn riêng cho nó một góc ở đầu giường. Chị dặn dò:

-Ðây là chỗ để kem đánh răng, bàn chải. Ngủ dậy thì xếp gọn cái mền lại để ở góc này. Còn những gói mì thì tao để trong cái túi giấy chỗ ni, hễ đói thì đi xin nước sôi ngoài quán mà bỏ mì vô. Chả có nước sôi thì xé cái bao ra mà ăn khô cũng được. Ăn xong nhớ đem bát đũa ra giếng bơm mà xin nước rửa cho sạch sẽ. Còn đôi dép này, tối đi ngủ nhớ nhét lên đầu sạp kẻo có đứa nó thò tay ở ngoài vào lấy đi thì chỉ còn nước dẫm đất ....vân... vân...

Sự chu đáo của chị làm mọi người mừng thầm cho con bé. Như thế chả hơn một lũ lau nhau tối ngày chạy đầu lều, cuối bãi, cũng toàn là những đứa thất lạc gia đình, bơ vơ, lạc lõng cả, mà đâu có ai đoái hoài tới.

Câu chuyện đau thương của chiếc tàu nhập trại trong đó có "một con bé lên sáu bị chết hết cả gia đình" gây xôn xao trong dư luận bà con được vài hôm thì lại có những chuyến ghe khác nhập trại. Ðau thương lại dồn dập, chồng chất, nhiều đến nỗi vùi lấp luôn cả hình ảnh của một con bé, loắt choắt như một con chuột, suốt ngày ngồi ở dưới chân chõng nhà chị Năm, hỏi năm bẩy câu mà cũng không hề hé răng. Riết rồi chẳng còn mấy ai bận tâm đến nó, trừ những con ruồì cứ lăn xả vào, bám riết lấy mái tóc rối két lại của nó, khuôn mặt nhếch nháp có hơi hướm cái vị mặn mặn của mồ hôi hay mì gói, và nhất là ở những vết trầy trụa trên cánh tay, bàn chân có chỗ vẫn còn mưng mủ chưa lành.

Buổi tối đến chị Năm ôm một tấm chăn, nằm khoanh tròn quay ra mé cửa lô lều vừa nghe nhạc, vừa ngủ lơ mơ. Con bé cũng rúc đâu đó ở dưới chân chị, nhiều hôm ngủ mê, nó đạp chân ra khỏi cái mùng tùm hụp, bị muỗi nó đốt đỏ cả cẳng chân như bị lên sởi.

Rồi có một hôm trời trở lạnh, buổi tối sắp đến giờ trại tắt đèn, con bé đang ngủ thì bị chị Năm lay dậy, ghé vào tai nó thì thào:

- Xí! Cái con bé này! Mầy mắc cái giống gì mà ham ngủ quá vậy? Ðây tao cho hai đồng chạy ra ngoài quán mua cái kẹo mà ngậm chơi, chừng nào tao "hú" thì hãy về.

Nói rồi, chị Năm kéo hai tay con bé, dựng nó dậy và dúi cho nó một đồng Bạt (tiền Thái) lẻ. Con bé mắt nhắm, mắt mở cứ như một cái máy, loạng choạng chui ra khỏi cửa lều. Làn cát ẩm dưới chân làm nó tỉnh hẳn ngủ và nhớ ra rằng mình còn chưa kịp xỏ chân vào đôi dép nhật xinh xinh màu đỏ mà trước khi lên chõng, nó vẫn có thói quen nhét ở đầu giường. Nó cũng nhớ mang máng rằng đồng bạc mà dì Năm vừa dúi cho nó cũng đã bị văng đâu đó ngay ngoài cửa lều. Nhưng làm sao kiếm vì trời tối thui. Dưới ánh sáng đục lờ lờ của bầu không khí bao phủ một làn sương mỏng phản chiếu ánh trăng suông xuyên yếu ớt qua những lớp mây mù chỉ thấy hiện ra mờ mờ những sô nước, những dây phơi quần áo, những cột hàng rào chăng kẽm gai và những mái lô lều nhấp nhô cao thấp.

Nhưng rồi bằng cách nào đó, con bé cũng mò được tới bên hông nhà thờ, một ngôi nhà gỗ được xây cất thô sơ như cái nhà lồng chợ nơi thôn dã. Ấy vậy mà ở đây cũng lổng chổng đủ thứ bàn ghế thấp tè đặt ở mé ngoài, ngay sát vách gỗ. Nó thuộc quyền sở hữu của một hai quán cà phê, sau khi tan lễ nhà thờ thì chủ nhà bầy biện bánh trái, nước ngọt, cà phê ra bán. Ban ngày khách ra vô cũng khá tấp nập, đến khuya tới giờ Trại bắt tắt đèn đi ngủ thì những cái bàn được xếp ngay ngắn lại và vẫn có nhiều người lui tới, vừa dựa lưng vào vách gỗ của ngôi giáo đường, vừa ngó đăm đăm ra bãi biển có tiếng sóng vỗ rì rào ngay phía trước mặt. Trong khi ấy, ở bên trong nhà thờ, những chiếc ghế gỗ dài đã trở thành chỗ ngả lưng của những kẻ lang thang, có người mới nhập trại chưa được ban Tiếp cư xếp chỗ cho vào lô lều, cũng có nhiều đứa trẻ không thân nhân, chẳng được ghép vào form nào thì thỉnh thoảng cũng tụ tập trò chuyện rỉ rả với nhau.

Con bé Bích Loan cũng biết mò tới nơi đó mỗi lần bị chị Năm dựng dậy một cách bất tử. Tình trạng nó bị gọi dậy đang khi ngủ, trước thì chỉ họa hoằn đôi ba bữa, sau trở nên thường xuyên hơn. Mà mỗi lần chị Năm cần sự tự do thoải mái trên chiếc sạp buông cái màn tùm hụp của mình, chị cũng chẳng thấy cần thiết phải dúi cho con nhỏ đồng bạc ăn kẹo nữa. Chị chỉ ghé vào tai nó, nói một câu gọn lỏn:

- Tối nay ra ngoài chơi như bữa hổm, nghe mầy!

Thế là con bé nhỏm dậy. Bây giờ thì nó không quên xỏ chân vào đôi dép Nhật màu đỏ và ôm theo cái mền chưa một lần được giặt kể từ ngày nhập trại. Những hôm như thế nó hay ngồi ở bên hông nhà thờ, mặt quay về phía bãi biển mênh mông mà vào ban đêm nom như một cái miệng hang khổng lồ, tối thăm thẳm và có chiều sâu hun hút.

Biển. Cái danh từ nghe khủng khiếp thật, nhưng ít ra là nó cũng còn gợi nhớ được ở đấy những hơi hướm của người thân với những hình ảnh không bao giờ có thể phai mờ: người này chới với trên mặt sóng trước khi bị nhận chìm, kẻ kia bị chém, máu loang lổ làm át cả màu xanh của nước lóng lánh như ngọc bích. Và trong tiếng sóng ầm ì từ xa vẳng lại, nó như còn nghe rõ tiếng mẹ và chị của mình la thất thanh giữa đám đông lố nhố.

Con bé thường hay ngủ gục ở bên vách gỗ nhà thờ giữa những hình ảnh và âm thanh lộn xộn đó. Vào một đêm mưa rả rích, nó choàng dậy trong những tiếng ồn ào ở bên kia vách gỗ. Nó leo lên mặt bàn để nhìn qua những chấn song gỗ của ngôi giáo đường. Nó trông thấy trên bục giảng, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn yếu ớt hắt xuống từ cây thập tự giá ghép lại bằng hai mảnh gỗ thùng đã được bào cho nhẵn bóng, một lũ trẻ nằm ngồi lố nhố.

A! Thì ra ở bên lề cái xã hội khốn cùng này, không chỉ có một mình nó! Trời mưa làm lũ nhỏ như những con chuột rời bỏ hang ổ, kéo nhau về đây tụ tập. Có đứa ở trần. Có đứa khoác những chiếc áo tây rộng thùng thình. Có đứa cuộn tròn trong những tấm mền, có đứa chỉ đeo đúng một mảnh quần lót.

Con bé cảm thấy gần gũi ngay với bầu không khí ồn ào vô trật tự diễn ra ở ngay cái chỗ mà ban ngày thì được dùng làm nơi chốn trang nghiêm, thờ phụng này. Có lẽ vì đa số đều lau nhau ở cùng cỡ tuổi nhóc tì, thằng lớn nhất chỉ khoảng mười ba, mười bốn, đứa nhỏ nhất bé bé, xinh xinh còn hơn cái Loan nữa kìa. Chúng nó chỉ chung nhau ở có mỗi một điểm. Ðó là tất cả những người thân đều đã mất tích hay trôi giạt đâu đó ngoài biển khơi. Hình ảnh mấy đứa bé nằm ngủ khoèo, đầu đứa này gối lên cẳng chân của đứùa khác, làm cho cái Loan cảm thấy mình bớt bơ vơ. Nó tụt xuống khỏi cái bàn thấp và lẻn vào đứng dựa lưng, cạnh một chiếc cột tre.

Con nhỏ cũng khôn ra gì, nó ướm sẵn, nếu lũ trẻ trên bục gỗ biểu lộ một cung cách gì dữ dằn, độc ác thì nó dư sức để ù té chạy. Nó biết một chỗ thứ hai có thể ẩn núp một cách an toàn, đó là cái vỏ thuyền của dân tỵ nạn nằm phơi những mảnh ván mục đầy rêu phong ở ngoài bãi cát phía cuối trại. Nhưng lũ nhỏ không thấy có dấu hiệu gì gọi là sẵn sàng gây hấn với nó cả. Nó mon men tiến lên một hàng cột nữa, và lần này thì có đứa lên tiếng:

- Cho nó lên đây nằm, ở ngoài mưa tạt ướt.

Một đứa con gái dễ lớn hơn Loan đến bốn năm tuổi, xòe bàn tay ra. Thế là con bé chạy ù lên nhập cuộc.

Trời rả rích mưa buồn. Gió từ bãi biển lùa qua khuôn cửa tuềnh toàng tứ phía làm mấy đứa rên lên kêu rét. Một cuộc "góp chăn" đắp chung được bầy ra và con bé cũng gỡ cái chăn vẫn đang đeo dính trên vai của nó đem trao cho thằng lớn nhất. Bây giờ cả đám chúng nó trở thành những đống lùng bùng, co quéo dưới lớp chăn mỏng.

Ðấy là một buổi tối vui nhất của con bé kể từ ngày nhập trại. Nhiều hôm sau đó, chúng nó trở nên thân thiết với nhau hơn. Nếu trong trại, người lớn thường tổ chức làm chung, góp chung để mời nhau tham dự những buổi ăn cháo, ăn chè thì lũ nhỏ cũng có hôm sì sụp, nhai nhá chung với nhau những tấm bánh, gói kẹo. Rồi chúng nó kể với nhau um sùm đủ thứ chuyện: chuyện công an, bộ đội, chuyện Tổ trưởng dân phố, Tổ phó an ninh, có cả chuyện kinh nghiệm nằm tù vì vượt biên bị đổ bể (trong số này ít nhất cũng có năm, sáu đứa đã theo gia đình nếm mùi nhà tù trong trại giam ở quê nhà), rồi chuyện hành trình trên biển, chuyện sinh hoạt ở các quán cà phê, các sạp bán đồ ở khu chợ của người Thái Lan phía ngoài cổng trại.

Con bé Loan thì chẳng có chuyện gì để kể, nhưng nó lãnh phần ôm một con nhỏ lên bốn vào lòng để cho thằng anh của nó vừa kể chuyện, vừa múa may chọc cười cho cả lũ. Trong cả bọn, thằng nhỏ này láu lỉnh và có máu giễu nhiều nhất. Nó tên Lâm, vượt biển với bố mẹ và đứa em gái. Lúc ra bến bãi, động ổ thế nào mà công an bắn loạn xạ. Thế là cả đám chạy tứ tán và chiếc ghe chưa kịp lên hết người đã rồ máy bỏ chạy. Thằng Lâm cùng con em gái lạc tuốt bố mẹ, qua được tới đây. Hôm nhập trại, nó đứng chung form với ông chủ ghe để được điều vào ở trong lô lều. Trong cái áo lót nó mặc, bố nó còn ghi được địa chỉ của bà cô họ của nó ở bên Huê kỳ.

Ông chủ ghe xúi nó viết thư cho bà cô để bà chuyển tiền về trại trả nợ cho chuyến vượt biển mà anh em nó còn thiếu. Thằng Lâm không chịu. Thế là cãi nhau tán loạn cả lên và nó ôm phứt con em ra khỏi lô lều.

Càng sướng! Càng rộng cẳng, muốn làm chi thì làm. Nó mới mười hai mà khôn tổ. Nó lén lên gặp anh Dư ở ban Tiếp Cư để đòi phát gạo cho riêng nó một "phom". Rồi nó lại ngoại giao được với cụ lô trưởng để mỗi khi có đồ ăn phân phối thường là cá, những con cá to bằng vài đốt ngón tay với vài củ su su thì cũng đừng quên phần của anh em nó. Có gạo, có đồ ăn, nó gửi bà bán quán cho anh em nó được góp phần gạo nấu ăn ké. Bù lại, nó cũng lăng xăng rửa được cho bà chồng bát, bó đũa. Lâu lâu nó không quên "chọt " của bà chủ quán một gói kẹo, một bọc xôi hay lon chè đem về cho con em gái. Lũ trẻ thèm ăn chè lắm. Nói cho ngay, ai mới ở ghe lên cũng đều thèm của ngọt hết. Kẻ có tiền, nấu chè ăn rả rích cả tháng mới đã thèm. Còn những đứa nhỏ không thân nhân, lâu lâu mới có dịp chia nhau sì sụp một, hai túi chè, vị ngọt ngọt của đường, vị béo ngậy ngậy của đậu xanh, đậu đỏ hay bột lọc có pha thêm mùi vanille, bao giờ cũng là những điều mà chúng nó mơ ước.

Ngoài món chè ra, nhiều đứa còn thèm đủ thứ đồ ăn bầy la liệt ở quán hàng hay sạp chợ. Ngôi chợ nhỏ xíu bằng cái vạt của một khu gò thấp nằm ở phía bên ngoài hàng rào kẽm gai được dựng lên hàng chục khung lều nhỏ. Vào mỗi buổi sáng, dân địa phương thường đem đến bầy bán đủ loại mặt hàng. Chợ họp mỗi ngày có hai tiếng đồng hồ, nhưng người ra vô đông nghìn nghịt vì tiếng là dân tỵ nạn nhưng khối người rủng rẻng vì có thân nhân ở ngoại quốc gửi cho qua hình thức International Money Order và trong trại có hẳn một dịch vụ đổi qua tiền Thái.

Mấy thằng nhỏ trong đám trẻ lang thang, tuy chẳng có tiền cũng chen chân vô đó để nhìn, ngắm, tò mò coi cái này, cái kia, và cũng có hôm cơn thèm lên bất tử, có đứa chơi càn chọt cái áo thung, đôi dép Nhật hay nải chuối, miếng thịt. Một lần thằng Cư xui xẻo, vừa thò tay vô sọt trứng đã bị chủ hàng rình sẵn túm lấy nó, la rầm rĩ lên. Mọi người xúm xít lại, có anh tỵ nạn nóng nẩy táng cho thằng nhỏ ba bốn cái bợp tai về cái tội "làm mất thể diện quốc gia". Nhưng có người lại nói:

- Chuyện đâu còn có đó, ai có quyền gì mà đánh nó. Cứ giao nó cho cảnh sát Thái Lan là xong hết.

Thế là chỉ nhấp nháy, một viên cảnh sát xuất hiện. Ông ta mập như một con heo, trên tay lúc nào cũng lăm le cái roi tre sẵn sàng quất lên đầu lên lưng dân tỵ nạn, tác phong không khác gì một anh cập-rằng ngày xưa cai trị dân thuộc địa bằng roi vọt. Thằng nhỏ bị xách lên như một con mèo ốm, rồi vừa dẫn nó đi, viên cảnh sát vừa quất vào đít thằng bé những lằn roi đến nơi đến chốn khiến nó cảm giác như có những dòng nước sôi nóng bỏng đang chảy trên mông của mình.

May cho nó, trụ sở cảnh sát chỉ ở phía bên kia lề đường. Tuy chưa hưởng thụ được trái trứng nào, nhưng tội danh của nó được ghép là "ăn trộm trứng ngoài chợ". Ở trạm cảnh sát, người ta giao nó về cho Văn Phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Từ văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, nó được chuyển xuống Ban Ðại Diện trại. Từ Ban Ðại Diện trại nó lại bị giải xuống Tiểu ban An Ninh để lập lý lịch, hồ sơ. Thì cũng lại : Ði ghe mang số...nhập trại ngày...Bố chết. Mẹ chết...chứ còn cái gì khác hơn ?

Mãi đến chiều tối, lệnh phạt về tội "ăn cắp trứng" của nó mới được ban hành trên loa phóng thanh treo ở khắp mọi nơi trong trại. Trong lệnh cũng "chiếu điều này", "chiếu điều kia", sau khi kể rõ tội trạng, "đương sự" phải nhận lãnh một số ngày phạt phải đi làm vệ sinh trong trại.

Chiếu trên giấy tờ thì nó phải lãnh đủ tới mười lăm ngày cọ cầu tiêu công cộng lận. Làm mất thể diện quốc gia, đâu phải chuyện rỡn. Nhưng nhìn cái vẻ loắt choắt của nó, một ông trong Ban Ðại Diện kéo anh trưởng ban An ninh, Trật tự lại rỉ tai:

- Hù nó đôi ba ngày cho nó tởn vậy thôi, cái ngữ đó, làm sao nó xách nổi xô nước mà cọ cầu tiêu.

Anh Trưởng ban An ninh Trật tự lúc thi hành chỉ thị, đã hù thằng nhỏ rất tận tình:

- Mầy không thấy dân ở đây nó dữ lắm sao? Lần này nó thương tình giải mày qua "Liên Hiệp Quốc", chứ lần sau ý à, cứ lẳng lặng đem mày ra mà cắt cu!

Thằng nhỏ chẳng những không sợ lại còn toe ra cười. Nó xăng xái đi trước một anh an ninh áp tải để xuống khu nhà cầu. Hôm nay án phạt có một anh can tội băng hàng rào đi mua mai- coỏng tức là rượu đế lậu, hai anh khác đã can tội đánh bạc lại còn xoay ra đấm đá nhau, ngoài ra còn một chị nữa thì bị bắt quả tang đem gạo dư, ăn không hết bán lại cho dân địa phương, vi phạm nội quy của Cao Ủy.Trong cả bọn bị phạt làm vệ sinh, chỉ có nhà chị này là nom ăn diện bảnh bao nhất. Chị ta nhìn thằng Cư đang nhanh nhẩu kỳ cọ cái bồn cầu ra dáng một thằng bị phạt chuyên nghiệp, bèn cà kê với nó:

- Ê nhỏ ! Nghe nói mày bị ốm đòn mà chưa rớ được tới trái trứng nào, phải vậy không?

Thằng Cư chỉ đáp lại bằng cách ném cho chị ta một cái nhìn hậm hực. Nhưng chị ta vẫn ỉ ôi tiếp :

-Mày chọc vô bọn nó làm chi. Ðói khát gì một trái trứng !

Anh đánh bài đứng gần đó nghe lóm được, ngứa mồm nói chen vô:

- Thôi đi bà ơi! Bà có tiền, ních đủ thứ nên mới nói được câu "đói khát gì". Nó tứ cố vô thân, có họ hàng thân thích gì cho được đồng bạc cắc nào đâu.

Chị đàn bà kêu lên:

- Không có đồng cắc nào thì làm việc đi! Bộ cứ nghèo rồi đi ăn cắp, ăn trộm hả? Này nhỏ! Mầy muốn có tiền ăn trứng, hãy cọ phần cầu tiêu của tao đi. Tao trả cho hai chục!

Rồi chị chóp chép cái miệng;

-Ái chà, hai chục Bạt tiền Thái chớ chẳng phải chơi đâu nhá. Làm đi, "lao động là vinh quang" mà !

Thằng Cư đang hôi hám sẵn, lại thấy được trả tới hai chục Bạt, liền ngẩng đầu lên cất tiếng Ô Kê liền. Thế là nó lụi đụi kỳ cọ một hơi mười cái bồn cầu, chung quanh vương vãi những tờ giấy báo chùi trên in toàn một thứ chữ gì mà nom y như những con cung quăng và khắp mọi chỗ, ở xó xỉnh nào cũng văng vãi tung tóe vì cả trại ai cũng thích ăn chè!

Tuy nhiên thằng Cư vẫn cứ vừa huýt sáo vừa làm việc vì trong lòng nó cũng đang vui vẻ khi nghĩ tới hai chục Bạt tiền Thái được lãnh lúc đã lao động xong. Trong khi ấy thì chị đàn bà ngồi vắt vẻo trên chiếc trụ hàng rào kẽm gai, hai mắt lim dim, cặp môi son đỏ chót ngậm phì phèo điếu thuốc lá Samit, loại thuốc thơm có đầu lọc. Ðến lúc xong việc, thằng Cư được chị dúi cho hai chục đồng đúng theo hợp đồng đã quy định. Cu cậu sướng mê tơi, để nguyên cả bộ quần áo lẫn bàn chân, bàn tay hôi hám, chạy biến ra khu hàng quà. Ở đấy, nó ních một hơi hai cái bánh rán, một tô chè và một ly nước ngọt. Vậy mà tiền vẫn còn dư để mua thêm một chục trứng gà.

Ðến tối, lúc cả trại đã tắt đèn, Cư khuân lên bục giảng nhà thờ một bọc trứng đã luộc sẵn.Thằng Lâm trông thấy thế kêu lên:

-Ê! Mày ăn cắp trứng bị nhừ đòn mà vẫn không chừa sao?

Cư nhìn nó vênh mặt lên:

-Tao ăn cắp được quả trứng của đứa nào, mày nói nghe coi? Cái này là công sức của tao làm ra, thằng nào chê, cứ việc ngồi đó.

Trong cả bọn, chả có đứa nào chịu ngồi đó cả. Chúng nó xúm lại chia nhau bóc trứng ăn ngồm ngoàm. Ðứa bé nhất cũng được ăn riêng một quả trứng. Ăn xong, cả lũ nằm ngổn ngang kể chuyện gẫu hay hát hỏng um sùm.

Thật ra, trong bụng áo của thằng Cư còn nguyên một túi ny-lông đựng chè đậu xanh còn nóng hổi. Nó định tâm, chốc nữa cả lũ ngủ hết, sẽ đánh thức con bé Bích Loan dậy để cho nó ăn riêng một gói chè. Con bé vẫn bị dì Năm đánh thức dậy lúc đang giở giấc, đã quen rồi nên chắc là không cằn nhằn gì đâu. Hơn nữa. nó mà nghe nói đến chè là tỉnh như sáo ngay.

Cư vui vui khi nghĩ đến cái lúc dúi vào tay con bé gói chè nấu bột lọc và hình dung đến cái miệng chúm chím của nó lúc ăn những muỗng chè. Nhưng cu cậu nằm nghĩ ngợi lơ mơ thế nào ngủ khò, quên bẵng ngay cái chuyện khều chân con bé tỉnh dậy.

Sáng sớm hôm sau, lúc cả bọn nháo nhào bảo nhau thức dậy rút ra bãi ngoài để trả lại khu tôn nghiêm cho ngôi giáo đường thì thằng Cư phát giác ra đêm qua, nó đã ngủ quên đè lên, làm túi chè bục rách cả ra khiến ngực áo của nó trở thành một mảng bầy nhầy, nhão nhoẹt...

1001




Ông chủ nọ gọi về cho vợ biết là phải làm việc trễ tối nay. Gọi xong, ông mời cô thư ký xinh đẹp đi ăn và ông ta gặp may được cô ta rủ về phòng mình!

Hai tiếng sau, ông vào phòng tắm sửa soạn lại để trở về nhà mình. Bỗng ông ta hoảng hồn vì thấy trên cổ mình có một vết cắn bầm do cô thư ký để lại. Ông hoang mang vì không biết phải nói sao nếu bị vợ hỏi.

Ông mở cửa vô nhà và con chó becgiê nhảy chồm lên mừng chủ. Ông lanh trí vội vàng ôm lấy con chó làm bộ vật lộn với nó rồi la toáng lên và chạy vào phòng. Ông ta một tay lấy ôm cổ ra vẻ đau đớn nói với vợ:

- Em xem nè! Con chó quỷ cắn bầm cổ anh này!

Vợ ông ta vội phanh áo mình ra phân bua liền:

- Anh coi đó! Nó cũng cắn tím bầm mình mẩy em này!!!
1546



Powered by Blogger.