Một người điên chui vào bụi cây mò kiếm lung tung. Một người điên khác đi ngang hỏi:

Mày làm gì đó?

Điên đáp:

Tao làm mất cái đồng hồ.

Bạn điên lủi vào kiếm giúp. Cả hai quậy cả giờ không gặp gì cả. Viên giám đốc Dưỡng trí viện ngó thấy, đến gần hỏi. Bạn điên nói:

Anh này làm mất cái đồng hồ.

Viên giám đốc bèn nhảy vào kiếm giúp. Ba người phá nát bụi cây, dọn sạch như mặt sân mà không gặp vật bị mất. Viên giám đốc phủi tay hỏi:

Anh có nhớ rõ anh làm mất ở đây không?

Điên đáp:

Không! Đồng hồ của tôi rớt trong cầu tiêu, tôi kiếm ở đây vì không có mùi thúi.






2891






Gã vẫn ngồi đấy. Khờ khạo và chờ đợi. Khuôn mặt hốc hác vì đói, đôi mắt thất thần. Thỉnh thỏang gã lại mỉm cười, rồi lập tức cau mày, khó chịu. Có khi gã chửi đổng một cách vu vơ, rồi rú lên như con thú bị thọc tiết.

Hiển nhiên là thế. Trong đầu óc gã cả ngàn ý niệm phụt lên liên tiếp. Mỗi ý niệm loé lên - nếu có đủ thời gian phổ ra thành hành động - thì nó cũng chớp nhoáng như một nháy mắt. Nhưng không có nghĩa tâm thức gã không nhận được điều ấy, chỉ có điều, vừa nhận được ý niệm này thì đã quên phứt mất ý niệm trước, vì vậy mà hành động trở nên hồ đồ, khi cười, khi khóc, khi giận dữ, khi hiền lành, khi đau khổ, khi hạnh phúc.

Này nhé. Gã biết mình đang đói, nhưng lại không biết phải làm gì cho hết đói. Một thiếu nữ đi qua. Chao ơi, nàng hiền dịu và đẹp như một nàng tiên. Tà áo trắng của nàng phớt qua gây lên một làn gió thoảng.


“Kìa, Cô tiên...”


Thiếu nữ dừng lại sau tiếng kêu tựa như con thú bị một vết dao đâm. Đôi mắt nàng mở lớn nhìn gã. Tội nghiệp làm sao. Nàng khẽ khàng đặt một chiếc bánh bao vào tay gã rồi mỉm cười. Gã chộp lấy định đưa lên miệng, nhưng hốt nhiên ý niệm khác lại loé lên trong tâm tưởng, gã chợt thấy chiếc bánh chính là cục xà-bông gã cần từ bao nhiêu lâu nay. Gã vội vã cầm chiếc bánh xát vào tay, chân. Tưởng tượng đang trầm mình vào một dòng nước mát lạnh với những bọt xà phòng óng ánh. Chiếc bánh bị vỡ ra do sự cọ xát. Gã thấy phần nhân thịt phía trong.... Lại một ý niệm khác, cùng với sự giận dữ sầm sập kéo đến: Ồ, đây chính là quả lựu đạn bà chằng vừa đưa cho ta. Thật là quá sức không thể tưởng tượng nổi. Thiên hạ thật xấu xa, đáng ghét... Ta phải đánh con mẹ này cho vỡ mặt nó ra... Bằng tất cả sự giận dữ sôi lên sùng sục, gã hét lên be be, quăng chiếc bánh bao vào mặt thiếu nữ. Chưa đã giận, gã còn quăng đất, cát, sỏi đá vào người nàng... Thiếu nữ hốt hỏang lùi lại nhiều bước... Miệng nàng méo xệch với đôi mắt đã bắt đầu ướt vì sợ... Nàng vội vã quay lưng. Không dám ngóai lại. Nhưng vẫn không quên ý niệm cầu sự bình an cho gã.

Gã cười khóai trá khi thấy con mẹ điên kia đã bỏ đi. Ta là một ông vua không ngai, Là một thiền giả. Ta có nhiều quyền lực và tất cả những người chung quanh đều sợ ta. Á à... Thế mà chúng lại bảo ta điên. Phải không nhỉ? Ha...ha...ha... Chính chúng mới thực điên! Thật là buồn cười và ngây thơ đến đần độn. Tất cả - ngọai trừ ta - đều là những người điên, đang quay cuồng sống trong guồng máy vô hình của Thời-Gian.

Vài phút trôi qua. Khi gã vừa thiu thiu ngủ trong cơn đói, bỗng đâu lại nghe tiếng rú của chiếc xe cảnh sát sầm sập tới. Người đâu mà bu đông thế kia? Gã không hiểu họ coi gì mà những cặp mắt cứ đổ dồn vào gã. Không một ai dám đến gần, họ đứng thành vòng tròn vây gã vào giữa. Nhìn quanh. Chỉ có gã. Gã cười sằng sặc.. Ha...ha...ha... Đã bảo mà. Ta là một ông vua không ngai, những người bu chung quanh chính là thần dân của ta đấy. Họ đang khép nép đứng chờ mệnh lệnh ta ban... Mà. Ô kìa, con mẹ chằng điên hồi nãy vừa mới bỏ chạy sao nó trở lại để làm gì nhỉ? Cái đứa manh nha đã từng có ý tưởng giết ta mà ta đã khởi tâm từ bi tha thứ cho nó. Thấp thoáng, một số cảnh sát vẹt đám đông bước vào. Gã bỗng tức đến uất nghẹn khi hiểu ra một điều chính con mẹ đó đã gọi cảnh sát đến bắt gã...


Tiếng người nữ loáng thoáng:

“Thật tội nghiệp quá đi thôi. Cháu đã gọi cảnh sát để đưa ông ta vào bệnh viện. Ông ấy ở ngòai này chỉ thêm vài ngày nữa thì đói và chết mất...”


Gã rít lên:

“Khốn nạn! Cả một lũ giả dối!”

Cơn giận làm gã lồng lên như một con thú dữ. Chưa kịp làm gì thì bốn, năm người cảnh sát ập đến. Họ vật gã xuống đất rồi khóa chéo khuỷu tay một cách rất lẹ làng... Cơn đói làm gã yếu sức, không vùng vẫy được mấy đỗi. Một người mặc áo trắng dài xuống tới gối đến bên và đẩy vào bả tay gã một mũi chích. Gã từ từ rơi chơi vơi vào một vùng mù sương lãng đãng....



Ở đây. Không gian thật yên lặng đến rợn người, thỉnh thỏang chỉ nghe được tiếng hú dài chen lẫn với tiếng cười sằng sặc từ những phòng kế bên. Gã nằm trên chiếc giường phủ drap trắng. Chung quanh gã, từ tường vôi đến chiếc bàn con bên cạnh giường đều là một mầu trắng muốt. Chỉ có khung cửa bên phía trái cho gã nhìn thấy một vùng trời xanh xanh với những cụm mây trắng đong đưa. Từ giường bệnh, gã nhìn qua khung cửa. Hình như nó hơi bị lệch thì phải. Chẳng có ai ở đây. Hình như gã vừa được nói chuyện với Chúa. Chúa là ai? À. Không phải. Gã vừa nói chuyện với một người mặc áo chùng đen với cuốn kinh nhỏ trên tay. Nghe chừng ông ta không phải là Thần Chết đến bắt gã…

Mà sao gã lại nhớ nàng đến thế nhỉ? Sự nhớ thương làm gã khóc lên rưng rức...

Có một cành cây thấp theo gió đập vào cửa kính làm tâm thức gã chợt nhớ lại một vài hình ảnh của căn chòi nhỏ. Có một cái bồ đoàn mà gã chính là người ngồi trên bồ đoàn ấy mỗi đêm...

Rồi sao nữa nhỉ? Tại sao ta lại ở đây? Ôi, sao gió thổi dữ vậy? Gió động hay tâm động? Không biết cành cây kia có bao nhiêu lá? Những chiếc lá mầu xanh lục như viền mắt người thiếu nữ. Đôi mắt với tròng nâu đen sâu thăm thẳm mà cả tâm hồn ta đã bị chìm đắm trong ấy. Nàng là ai? Ồ, nàng đẹp tuyệt trần... Hummm.... Một thiền giả không nên đắm vào nữ sắc. Tại sao không? Có thể đó là những nghiệp quả chín muồi.... Hừ, chỉ là biện luận, tất cả, chỉ là biện luận thôi...

Có tiếng kẹt cửa. Một người nữ y tá bước vào. Lại một bà tiên hiền dịu đến cứu ta đây. Gã nhìn bà tiên với giọt nước mắt lưng tròng, thổn thức:

“Nàng đã bỏ ta đi mất rồi...”

Cô y tá vẫn hoay hoay làm việc của mình. Cô xem lại hồ sơ bệnh lý, hý hoáy biên chép... Rồi bỏ mấy viên thuốc trong một cái ly nhựa nhỏ, nói trống:

“Tới giờ uống thuốc rồi...”

“Cô đã nói chuyện với Nàng chưa?”

Cô y tá trả lời bừa, cho qua:

“Chưa...”

“Vậy cô hãy đi nói với nàng rằng ta rất yêu nàng và vẫn chờ đợi nàng về...”

“Vâng. Nhưng thuốc đây. Ông uống đi...”

“Uống để làm gì?”

“Để khỏi bệnh.”

“Tôi có bệnh gì đâu mà cầu khỏi?”

“Thì ông cứ uống trước đi đã...”

“Không. Cô phải nói tôi biết tôi bị bệnh gì?”

“Bệnh Điên.”

“Ha... ha... ha...”

“Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy!”
>“Vậy cô tỉnh hay điên?”

“Tôi không điên!”

Gã nhắc lại lời cô y tá vừa nói ban nãy:

"Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy! Ha...ha...ha...”

Đôi khi, gã rất sáng suốt, đối đáp với người đối diện một cách sắc bén như một thiền giả đã tu tập từ lâu, nhưng có thể, vì một lý do nào đó, mà hốt nhiên trong tâm gã bị bung ra như nước vỡ bờ, tất cả những tư tưởng đều đảo lộn, tùng phèo; ý nghĩ chạy quanh co, vòng vèo như con đường đi quanh dốc núi. Chợt phụt, chợt tắt, ngớ ngẩn, nhớ trước, quên sau...


Một cách máy móc, cô y tá nhét mấy viên thuốc vào miệng gã rồi đưa cho gã một ly nước. Gã uống ừng ực. Cảm thấy dòng nước mát trôi dần vào cơ thể. Gã vẫn còn cảm thấy nực cười trước sự ngớ ngẩn của cô y tá. Gả xòe răng cười và thì thầm ra vẻ rất bí mật:

“Ta cho cô biết một điều. Chớ đừng để lộ cho ai. Ta chính là... là...”

Nói tới đây. Hốt nhiên gã không nhớ gã là ai. Một ý niệm khác lại loé lên trong đầu. Chà. Cái khung cửa kia thật đáng ghét làm sao. Nó chói chang đến nhức mắt. Rồi gã bỗng run lên bần bật khi ý tưởng một lát nữa thôi, mặt trời sẽ nổi lên đốt gã. Gã rú lên thảm thiết. Nằm vật xuống rồi lấy mền trùm kín mặt:

“Nó sẽ đến. Nó đến đốt ta đấy... Hu...hu...hu...”

“Ai đến?”

“Thì nó chứ ai?”

“Nó nào?”

“Làm sao ta biết được!”

Nói xong, gã cười lên rinh rích. Cho rằng mình đối đáp với tiên nữ một cách rất thông minh. Gã vỗ hai bàn tay vào nhau nói như người nhập vào một cơn mộng du sâu thẳm:

“Để tôi nói cho cô một điều rất kỳ thú. Thiên hạ ngu lắm! Họ không biết cách sống, chỉ bôn ba, bận bịu vào những thứ vật chất cỏn con, mất thì giờ vô ích…. Cô xem này. Khi tôi vỗ tay, sẽ tóe ra những đốm sáng. Đó chính là những ánh sáng trí tuệ đấy! Có những đêm trăng sáng, sau khi xuất thiền, vuốt dọc theo cánh tay, ánh sáng tóe ra như lân tinh. Những kết quả ấy làm tôi càng hứng khởi và tu tập tinh chuyên hơn. Vì không có thầy, nên sự tập luyện của tôi chỉ chấp vá qua những sách vở. Đến một hôm thì có một điều lạ xảy ra. Thỉnh thỏang phần bụng dưới bị nóng ran và cứng ngắc, nó nhộn nhạo, khó chịu vô cùng. Càng tu tập, bệnh càng nặng, đôi khi trong lúc ngồi thiền tôi như muốn phát cuồng vì dục vọng nổi lên đùng đùng. Cho tới một ngày kia.... Ôi, đó chỉ là một ngày chín muồi của căn bệnh, tôi bị vấp vào giọng cười khanh khách của một nữ nhân, tiếng cười cưu mang cả một mùa xuân tươi mát. Nàng đẹp như huyền thọai, da thịt nàng mát và mềm như lụa, nàng đến tình cờ như một ngày mưa, ra đi khi đêm vừa tắt... Tâm thức tôi tan hoang như một bãi chiến trường. Nàng đi đâu? Nàng về đâu? Hay đó chỉ là những tâm tưởng hoang loạn trong tôi?”

Chẳng ai trả lời gã. Người y tá dường như đã quá quen với những cảm xúc bất chợt của bệnh nhân. Nàng làm đầy đủ bổn phận rồi bước ra khỏi phòng. Trước khi đi, nàng đặt trên bàn ngủ một cái máy nhỏ bằng bàn tay, dặn dò một cách ân cần:

“Hình như ông là một Phật tử? Ở đây, chúng tôi may mắn có được một số máy Niệm Phật do ngôi chùa phát tâm bố thí. Ông có thể bật lên nghe. Họ niệm Phật nghe như hát... Chỉ khỏang năm phút nữa là ông sẽ ngủ. Tôi xin chúc ông ngủ ngon, và có đầy mộng đẹp...”

Tiếng nàng nhẹ nhàng thanh thóat. Gã tung mền, nhìn người vừa phát ra âm thanh ấy. Có phải Nàng đấy không? Nàng đã trở về? Phải chăng?

“Em... Em ơi...”


Cánh cửa khép lại đã lâu. Gã nghe câu niệm Phật liên tục và bàng bạc phát ra từ chiếc máy nhỏ xíu. Tiếng niệm kết thành một màn sương lãng đãng, thành một cái nền trên vùng tâm thức hoang tưởng. Gã thấy mình chơi vơi trong vùng tâm thức ấy. Gã đi qua nhiều con đường với đèn xanh, đèn đỏ chi chít dòng xe cộ ngược, xuôi. Nhưng chẳng có một chiếc xe nào đâm vào gã cả. Tiếng niệm Phật vẫn đều nhịp theo bước chân. Nhận ra mình đang đi ngược về quá khứ. Những quá khứ dường như rất xa mà cũng rất gần như những sợi lông mi trên mắt nên chẳng mấy ai nhìn thấy được chúng một cách rõ ràng. Ấy vậy mà gã lại thấy, tựa như gã đã tách ra làm hai, một nửa đứng nhìn cái nửa kia đang quay cuồng trong vọng tưởng. Gã thấy cái chòi mà trong đó chính gã đang say sưa đi vào những cơn vọng định. Thích thú cho rằng mình đã chứng đắc được nhiều thứ và chấp vào những thứ cỏn con ấy. Chợt nhớ lại lời dạy ân cần của vị sư già:

"Này con. "Biết" chưa phải là "Ngộ". Mà "Ngộ" chưa phải là "Chứng đắc". Hãy suy tư và quán tưởng thêm về điều này."

Lời dạy rất giản đơn, nhưng sao tới giờ mới hiểu một cách rõ ràng đến thế? Gã đã mỉm cười hóm hỉnh về những háo thắng của chính mình. Lại thấy mình trôi thêm về quá khứ, trở thành một đứa bé con sống dưới một mái chùa với vị sư già khụ, nơi đây lồng lộng những cát, gió của biển. Nhưng gã vẫn không ngừng ở đấy, vẫn đi như người đi ngược chiều gió. Nhiều mảnh đời chắp vá từ vài kiếp liên tiếp nối nhau, từng mảnh, từng mảnh, như những bức hình nhiều màu lộn xộn phụt lên...



Rồi bỗng nhiên, ở một tầng mức sâu thẳm nào đó, Gã bỗng nhận thấy một cái gì vừa sụp đổ, để lại một khoảng không gian thênh thang mà tầm nhìn của gã không còn bị giới hạn nữa. Một niềm vui òa ngập như nước vỡ bờ. Gã bỗng biết được một điều hiển nhiên rất đơn giản. Mình là tất cả. Một giải nắng tung tăng nhảy múa dưới ánh Mặt Trời. Một con chim đại bàng với đôi cánh rộng. Một mặt nước xanh biếc dưới vực sâu. Một con cá nằm dãy chết trên mặt cát. Một vì sao vừa tắt trên cao...
Người sinh ra, kẻ chết đi, đây đó xôn xao sự sống và nỗi chết, chập chùng, biến hiện qua những niềm vui, nỗi buồn bất tận...
Mọi sự, mọi vật đều biến chuyển không ngừng, chập chờn như giấc mộng....

* * *

Nửa đêm hôm ấy, có một bóng người lẳng lặng rời bỏ khu nhà thương điên. Hành trang duy nhất của ông là một cái máy niệm Phật rất nhỏ bé cùng với bộ đồ bẩn thỉu, rách nát trên người. Nhưng chỉ có ông mới cảm nhận được tâm ông rất tinh khôi như người vừa thoát kiếp. Ông đi đâu. Nào ai biết được!

1007




Anh Bình! Tôi đang mãi ngắm một cửa hàng, vội vàng quay lại, ngơ ngác nhìn xem ai gọi. Trên bờ hè phía bên kia, một người nhỏ bé, bận quần áo ta, miệng cười và giơ tay vẫy. Tôi chưa nhận rõ là ai. Người đó, đợi cho mấy chiếc xe tay đi khỏi, rồi tất tả chạy qua đường đến gần tôi, tay giơ ra vui vẻ.

     - À, anh Bào.

      Chúng tôi mừng rỡ. Bào nắm chặt lấy tay tôi, lay đi lay lại:

     - Anh chưa quên tôi à?

      Tôi đáp:

     - Quên thế nào được một người bạn học cũ. Nhất là anh thì tôi lại càng nhớ lắm.

      Một tia vui thoáng qua trong mắt Bào. Anh thong thả nói:

     - Lâu lắm rồi anh nhỉ. Thấm thoát thế mà đã hơn bảy, tám năm đấy. Anh trông tôi có khác trước lắm không?

      Tôi nhìn Bào từ đầu đến cuối, rồi đáp:

     - Không khác mấy, chỉ có hơi gầy đi một chút. Nhưng cái vẻ "con gái" của anh thì vẫn vậy, không khác tí nào!

      Hai chúng tôi cùng cười. Khi còn học ở trường, anh Bào vẫn có cái huy hiệu là"con gái" do anh em tặng. Vì hồi ấy, anh mới có mười ba tuổi chúng tôi học ở lớp nhất hai má anh hồng hồng và vẻ mặt anh nõn nà trông xinh xinh như một cô con gái thật. Mà tính tình anh cũng ngây thơ nữa.

      Mới đầu còn gọi đùa, sau cái tên ấy thành quen, các bạn học ai cũng gọi anh Bào như thế. Chúng tôi thường trêu anh bằng cách gọi anh lại gần, xoa đầu anh mái tóc anh rất đẹp hôn đùa vào má rồi bảo: "Cô gái bé tôi xinh chửa", hoặc một câu khác tương tự. Anh Bào cố sức giang tay chúng bạn ra, mặt anh thẹn đỏ lên, trông lại càng đáng yêu và càng giống cô con gái lắm.

      Sự nhắc lại những kỷ niệm chung ấy làm chúng tôi trở nên thân mật như xưa. Tôi khoác tay Bào vừa đi vừa nói chuyện.

     - Tôi nghe hình như anh đang học ở ban thành chung Nam Định cơ mà. Sao bây giờ anh lại lên đây?

      Bào buồn rầu đáp:

     - Tôi bị đuổi rồi anh ạ. Từ đầu năm ngoái.

      Anh kể lại cho tôi nghe cái duyên cớ: anh đang học năm thứ tư sắp thi ra, thì xảy ra việc các học trò để tang một nhà chí sĩ. Cả lớp cùng bị đuổi. Sau ít lâu, mọi người lại lục tục xin vào và được phép trở về học. Chỉ có anh và mấy người nữa, mà không biết kẻ nào đã vu cáo là cầm đầu cuộc bỏ học bị đuổi hẳn. Anh không minh oan được. Cả cha anh ở bên Thái cũng sang, vào nói với ông đốc, nhưng vô hiệu.

      Từ øđộ ấy, thầy tôi giận tôi lắm. Nhà tôi nghèo, anh cũng biết, mà tôi lại là hy vọng độc nhất của cả gia đình, các em tôi thì còn bé.


Thầy mẹ tôi khổ sở lắm mới nuôi tôi ăn học đến thế. Vậy mà đột một cái bị đuổi.

      Ngừng một lát, anh Bào tiếp:

     - Tôi về nhà không chịu được. Thầy tôi cứ uống rượu say, rồi chửi mắng tôi là đứa con bất hiếu phụ công cha mẹ, không nghĩ gì đến nhà cửa, chỉ đua đòi anh em đến nỗi bị đuổi. Thầy tôi bắt phải ra Hà Nội tìm việc làm, bảo nếu không được thì đừng về trông thấy mặt nữa.

      Anh Bào khẽ thở dài:

     - Nếu không có công việc thì thật tôi cũng không dám về. Thầy tôi nghiêm lắm anh ạ.

     - Sao anh không xin đi làm?

     - Không được. Tôi bị cấm suốt đời không được làm việc trong các sở của nhà nước.

      Anh Bào trở nên yên lặng. Một lát, tôi hỏi:

     - Còn các nhà buôn? Các sở tư?. Ấy, tôi cũng chỉ còn hy vọng ở những chỗ ấy. Nhưng cũng khó lắm, ít người dám mượn một người học trò bị đuổi và bị cấm. Đi đến đâu, họ cũng biết. Với lại tôi cũng không có các giấy chứng chỉ, vì có đi làm bao giờ.

      Chúng tôi thôi nói, lặng đi rảo bước trên hè phố. Đến chợ cửa Nam, Bào giằng tôi ra, bảo:

     - Tàu điện 80 đến rồi, tôi phải về nhà không họ đợi.

     - Anh ở đâu?

      Bào nở một nụ cười buồn trên miệng, trả lời:

     - Tôi ở trọ một hàng cơm nhỏ ở dưới ô Cầu Giấy. Không dám mời anh xuống chơi.

     - Thì anh đến chơi đàng tôi. Anh nhớ số nhà rồi chứ?

      Bào nhảy vội lên xe điện, giơ tay chào. Tôi nói thêm:

     - Thế nào anh cũng đến chơi nhé.

      Xe chạy khuất vào chỗ rẽ phố hàng Đẫy. Tôi thong thả trở bước về nhà, trong óc miên man nghĩ ngợi.



Sự gặp gỡ này vớt lại bao nhiêu kỷ niệm về quãng đời học sinh của tôi ở tỉnh Thái. Những nét mặt bạn cũ đã quên lại hiện ra trong trí nhớ, với những buổi học vui vẻ, những cuộc nô đùa vô tư lự. Bao nhiêu ngày sung sướng của tổi trẻ!

      Nghĩ đến Bào tôi đem lòng thương hại. Cậu bé con xinh xinh giống con gái ấy, với cái vẻ ngây thơ, hồi ấy làm cho chúng bạn yêu mến. Tôi thường theo anh đến nhà chơi, một căn nhà lá ở đầu tỉnh. Hai người ngồi trên chiếc chõng tre nói chuyện bên cạnh, bà mẹ anh Bào tráng bánh trứng và thổi xôi để đem bán. Thỉnh thoảng tôi mới gặp thầy anh ta; ông có vẻ nghiêm nghị lắm, và hình như lúc nào cũng ung dung không làm gì.

      Không nhớ là mấy tháng sau, anh Bào đến chơi tôi. Trông anh khác hẳn, người gầy đi một chút, và xanh xao như ốm. Anh hình như đã đi bộ nhiều ở ngoài đường, nên quần áo và giầy đầy những bụi.

      Tôi mời anh ngồi, ân cần hỏi:

     - Anh đã tìm được công việc làm chưa?

      Bào lắc đầu:

     - Chưa, anh ạ. Suốt trong mấy tháng nay, tôi đi khắp các nơi ở Hà Nội mà chẳng tìm được việc gì. Đến đâu người ta cũng từ chối.

      Anh nghĩ một lát, rồi nói thêm:

     - Người ta thật là bất công và vô lý quá. Tôi đã làm nên tội lỗi gì đâu!

      Lời nói nghẹn ngào trong cổ họng anh. Anh ngồi thừ người ra, không buồn uống chén nước che của tôi mời. Tôi cũng yên lặng, không biết nói gì. Những lời an ủi lúc bấy giờ, tôi thấy hình như vô ích.

     - Anh cứ chịu khó đợi ít lâu nữa xem. Để cái chuyện ấy người ta quên đi đã.

     - Cũng đành phải chờ, chứ biết làm thế nào. Nhưng cũng phải có tiền để trả tiền trọ chứ.

      Anh Bào cố mỉm cười. Cái cười thật đáng thương và ái ngại. Tôi nhìn kỹ anh: chiếc áo lương anh mặc đã cũ bạc, vá kín đáo một vài chỗ. Trên mặt anh có bao nhiêu nốt lấm chấm đỏ dày đặc cả hai má. Vô tình, tôi hỏi:

     - Anh bị muỗi đốt dày cả mặt kia kìa.

      Anh Bào có vẻ thẹn:

     - Chỗ tôi không có màn và không được thoáng. Có khi muỗi đốt cả đêm không sao ngủ được.

      Thấy người nhà tôi sửa soạn dọn cơm, anh đứng dậy cáo từ. Tôi tiễn anh ra ngoài cửa. Con đường về ô Cầu Giấy thẳng tăm tắp và bụi mù. Anh bắt tay tôi, toan quay lại đi thì tôi hỏi :

     - Anh không đợi xe điện mà về à? Bào lắc đầu, vỗ vào túi:

     - Không hết cả tiền rồi.


Tôi ái ngại, giữ anh lại: "Anh hãy đợi tôi một chút". Rồi vào nhà lấy mấy hào chỉ còn lại trong túi, ngượng nghịu đưa cho anh: "Anh cầm tạm mà đi xe".

      Bào không nhìn đến tiền, bỏ vào túi rồi nắm chặt lấy tay tôi khẽ nói:

     - Cám ơn anh.

      Anh quay ra. Tôi nhìn theo cho đến khi anh lẫn vào đám người đi làm về.

      Một tuần sau, tôi đang qua chợ cửa Nam, bỗng nghe thấy tiếng gọi. Một chiếc xe tay dừng lại sát hè. Tôi nhận thấy anh Bào, nằm ngay trên xe, bên cạnh có một người đàn bà đã đứng tuổi. Anh cố ngóc đầu dậy bảo tôi:

     - Tôi về Thái đây, anh Bình.

      Tiếng nói phều phào như người hết hơi. Mặt anh đỏ gay, hai mắt sáng lên một cách khác thường. Tôi sợ hãi hỏi:

     - Chết chửa, anh làm sao thế?

     - Tôi ốm, anh ạ. Bà chủ trọ sợ tôi chết ở nhà bà nên nhờ bà này đưa tôi về. Xin chào anh nhé.

      Tôi sửng sốt, yên lặng. Người đàn bà nhìn tôi nói, như định phân trần:

     - Cậu ấy sốt cả bảy tám hôm nay rồi. Bà Hai cũng đã sắc cho cậu ấy mấy chén thuốc nhưng bệnh không đỡ, nên mới nhờ tôi đưa cậu ấy về vậy. Ông cũng biết, nhà người ta làm ăn buôn bán, cần phải kiêng giữ.

     - Nhưng anh đương ốm thế này thì về làm sao?

      Anh Bào nhìn tôi không trả lời, có vẻ mệt nhọc lắm. Tiếng còi xe hỏa bỗng vang động ở phía ga. Người đàn bà giục anh phu xe:

     - Thôi đi nhanh lên kẻo nhỡ.

      Tôi nắm tay anh Bào. Bàn tay anh nóng rực như lửa. Tôi thấy lòng tôi thắt lại khi xe anh quay đi.

      Hơn một năm đã qua. Từ hôm ấy, tôi không nhận được tin tức gì về anh Bào nữa. Hình ảnh anh mờ dần trong trí tôi.

      Rồi một buổi chiều, tôi đang ngồi xem báo dưới bóng đèn thì cửa bỗng mở. Hai cậu bé mặc áo thâm thập thò ở ngoài rồi rụt rè bước vào. Tôi ngạc nhiên. Cậu nhớn úp cái mũ trắng trên ngực, lễ phép hỏi:

     - Thưa ông, có phải đây là nhà ông Bình không ạ?


Phải, tôi đây. Hai cậu hỏi gì?

      Cậu bé yên lặng thò tay vào trong người lấy ra một cái gói con bọc giấy để trên bàn trước mặt tôi, rồi nói:

     - Thưa ông, chúng tôi là em anh Bào.

     - À... Thế anh Bào đâu?

      Cậu bé sẽ trả lời:

     - Anh chúng tôi tự tử rồi ạ.

      Tôi bàng hoàng cả người, nhìn hai cậu bé. Tôi nhận thấy hai cái mũ trắng đều có quấn băng tang. Thế ra thực ư, anh Bào tự tử? Cái chán nản, đau khổ gì đã xui anh chết trong lúc còn trẻ trung chưa đầy hai mươi tuổi.

      Hỏi chuyện, tôi mới biết anh Bào ở trên này về cứ ốm liên miên mãi. Rồi anh ở nhà không đi đâu nữa. Một buổi chiều đầu tháng vừa rồi, bà mẹ đi chợ về đến buồng thì đã thấy anh treo cổ trên xà. Người nhà vội khiêng đến nhà thương cứu chữa. Anh tỉnh lại một chốc, rồi đến mười một giờ đêm thì mất.

      Cậu bé kể xong, tiếp thêm:

     - Trước khi chết, anh tôi có gọi hai chúng tôi lại bảo: "Anh chỉ có một ngươi bạn tốt là ông Bình. Các em nhớ đem cái gói này đưa lên cho ông ấy, "

      Tôi giở ra, thấy có hai cái ảnh đã cũ. Một bức chụp chung cả lớp học, hồi còn học ở Thái. Tôi nhận thấy tôi đứng bên cạnh Bào. Còn bức kia là tấm ảnh nửa người của anh. Nhìn thấy cái vẻ xinh trai và ngây thơ của người bạn cũ, lòng tôi thấy nao nao thương tiếc. Nước mắt tràn lên mi, tôi thấy nghẹn ngào như muốn khóc.

      Hai cậu bé cũng lặng lẽ, buồn rầu, đua mắt nhìn tôi. Hai đứa trông giống anh Bào quá, cũng đôi mắt thông minh và cái vẻ kháu khỉnh ngây thơ như thế. Tôi chợt nghĩ đến sự nghèo nàn của nhà anh, đến hai đưa trẻ kia không có chỗ nương tựa để ăn học, thật là đáng thương.

      Tôi xếp hai cái ảnh cũ lại rồi ngọt ngào bảo hai đứa ngồi xuống ghế. Tôi kêu khẽ:

     - Hai em có thương anh ấy không?

      Hai cậu cùng yên lặng. Cậu bé nhất bỗng ôm mặt khóc, hai vai nấc lên dưới tấm áo vải thâm đã cũ.




272




Tại trạm điện cao thế, chàng công nhân đang sửa chữa trên nóc nói với anh đứng dưới đất:
- Ê! Mày có thấy 4 sợi dây đang thòng xuống không?
- Thấy rồi!
- Thấy rồi hả? Cầm lấy 2 sợi xem! Có thấy gì không?
- Hai sợi này không có vấn đề gì.
- Không sao hả? Tốt! Đừng đụng vào 2 sợi dây kia nhé, điện cao thế sờ vào là cháy thành than đấy!
2316




Một tên trộm bị bắt quả tang ăn trộm trâu. Người ta đóng gông giải huyện. Quan huyện hỏi:


- Mày dám cả gan ban đêm vào nhà người ta, ăn trộm trâu phải không?


Nó thưa, vẻ tội nghiệp:


- Oan cho con lắm. Con chỉ lấy sợi dây thừng mà thôi.


Quan lại hỏi:


- Thế, đầu sợi dây có trâu không?


Tên ăn trộm thưa:


- Bẩm quan, con trâu ấy chủ nhà buộc vào, chứ con không buộc.

2589




Vẫn nhớ một thời hoa phượng nở
Bâng khuâng từ giã tuổi học trò
Con đường ta qua chiều gió
Đầy nắng chúng mình che bóng mây .

Xa những hàng cây trồng trước cửa
Lớp còn, các bạn của tôi đâu ?
Nhớ hạ năm nào chung nhau hẹn
Nào ngờ mỗi ngày thêm vắng nhau ?

Chỉ có mái trường là nguyên đó
Là nơi nỗi nhớ hẹn nhau về
Bạn bè ơi có còn như thuở
Yêu những câu thơ đến si mê ?

Mùa hạ vẫn nở chùm phượng đỏ
Vẫn mãi trong tôi thuở học trò
Sau những nhọc nhằn lòng thanh thản
Nhớ về một thời đầy ước mơ.1281




"Anh thấy đấy - nàng vui vẻ nói - đi xem xét việc làm ăn mà đưa em theo cũng có lý. Em mang lại cái hên cho anh, từ lúc khởi hành đến giờ chưa hề bị một trục trặc gì". Khởi từ Normandie nơi họ đã gặp nhiều người bán hàng trong vùng cho hãng, hai người dừng lại ở Chartres, ăn trưa ở Grand Monarque và bây giờ lái xe thẳng theo hướng nam, trực chỉ Châteaudun.



Nhưng câu nói lạc quan mà người vợ trẻ bảo chồng hình như đã làm thay đổi hẳn diễn tiến công việc. Chiếc xe đang khó khăn leo lên cái dốc khá dài, lúc người vợ nhận xét vậy bỗng chạy chậm lại hẳn. Động cơ hực lên vài tiếng rồi dừng. Họ còn đi được thêm hai chục mét trước khi nép xe vào vệ đường.

Sinh năm 1914 tại một tỉnh nhỏ miền trung nước Pháp, Jean Fougère bắt đầu viết và được in từ trước Thế chiến thứ nhất. Ông có 20 tác phẩm đã xuất bản và nhận được nhiều giải thưởng quan trọng: Giải Courteline năm 1944 cho quyển Les bovidés (Loài nhai lại), Giải Khôi hài đen năm 1966 cho Les nouveaux bovidés (Loài nhai lại mới), giải thưởng lớn của Hiệp hội Tác gia văn học Pháp năm 1968, giải thưởng lớn về truyện ngắn của Viện Hàn lâm Pháp năm 1972, giải Bốn Giám khảo năm 1976...

“Này, anh chồng nói - từ rày về sau thì coi chừng cái miệng mồm đấy”. Rồi anh nhìn vợ bằng vẻ mệt mỏi chán nản trông khôi hài đến nỗi cô vợ phá ra cười. Sự vui tươi của người vợ khiến anh chồng cũng phải cười theo. Tình thế có vẻ khôi hài hơn là nghiêm trọng. Dẫu sao anh cũng thử sửa chiếc xe thật nhanh bằng cách mở nắp máy lên. Sau khi rị mọ vài ba thứ anh kêu lên: “Đề máy đi”. Người vợ làm theo nhưng không kết quả. Anh chồng lại bắt đầu rờ rẫm, lại kêu nổ máy để đi đến kết luận rằng xăng không được bơm lên và anh chẳng thiết mở tung mớ đồ lạc xoong này, cần phải tìm thợ máy ở xa, phía dưới. Người vợ đứng lên, nhẹ nhàng ngoái đầu lại phía sau, hướng người chồng đã chỉ, nhận ra ngôi làng cách khoảng bảy tám trăm mét mà họ vừa vượt qua không để ý.

Được thôi, nàng sẽ ở lại đây nhưng xin anh đừng để nàng đợi buồn nẫu ra hàng giờ. Nàng quay đầu lại lần nữa để nhìn người chồng đi xa dần. Đầu trần, anh đi giữa lộ những bước dài đăm chiêu bằng cái dáng hay lắc lư vai quen thuộc làm nàng cảm động, chiếc áo khoác thể thao mở tung phập phồng. Nàng quyết định phải bình thản chờ đợi mọi sự diễn tiến.

Mui xe mở ra khiến nàng có thể quan sát được khung cảnh, khắp nơi là những cánh đồng vàng, vì là người thành thị nên nàng không thể phân loại được đất này trồng gì, vả lại mùa xuân cũng chưa cho phép trồng trọt nhiều thứ được. Tuy nhiên nàng cũng nhìn thấy từ xa một nhóm cây nhỏ phủ đầy hoa trắng hay hồng gì đó. Gần chiếc xe, bên vệ đường có một cái nhà tồi tàn với vẻ ngoài không có gì đáng chú ý như bị bỏ hoang.

Người đàn bà trẻ tuổi duỗi chân chìm sâu hơn vào trong ghế như muốn tìm thế nằm thuận lợi cho giấc ngủ. Nàng ngả đầu ra sau để tựa lên lưng ghế, nhưng chiếc mũ, một loại mũ bằng da để đi xa, sạch sẽ và không trang hoàng, lại làm nàng bị cấn. Nhanh nhẹn lột mũ ra, nàng ném nó qua vai vào băng ghế sau. Thế là nàng có thể buông thả gáy mình và cảm thấy qua mái tóc nắng đã đủ thì giờ làm nệm ghế nóng lên. Mơ hồ, bất động, phơi hoàn toàn trong ánh sáng, nàng để mặc cho sức nóng lấn chiếm làn da, thâm nhập vào mình như một thứ đồng cảm với thiên nhiên bao quanh, với khoảng trời bao la mắt nàng ngước nhìn đang âm ấm ve vuốt mặt đất.

Vậy là phải có một sự cố buồn nản mới ép nàng biết đến bầu trời. Chiều sâu khác thường của không trung được nhấn mạnh thêm bởi những đám mây nhỏ hiếm hoi bay uể oải giống như những cây táo hay lê gì đó sủi bọt tăm cũng đang bồng bềnh trên vườn quả xa xa.

Người vợ nghe từ sau lưng tiếng động cơ. Một chiếc xe dáng vẻ đặc biệt vượt qua xe nàng và dừng lại một cách khó hiểu cách nàng vài mét. Khi thấy Georges và người thợ mặc đồ xanh bước xuống, nàng mới nhớ ra rằng hai vợ chồng đã bị hỏng xe và tự hỏi không biết mình có ngủ thiếp đi không. Giọng nói to của người chồng đưa nàng về thực tại trọn vẹn: “Em thấy tụi này cũng đến nhanh đấy chứ!”. Cùng lúc đó anh thợ máy mỉm cười với người đàn bà xinh đẹp mà anh vừa đến để giúp qua khỏi cơn rắc rối. Nàng nhỏm dậy và kéo nhanh chiếc váy che đầu gối.

Hai người đàn ông im lặng đắm mình xem xét động cơ. Rồi họ nói chuyện máy móc, rút ra nhiều dụng cụ từ bộ quần áo thợ máy đặt vào chỗ trũng vè bánh xe như những vật chứng tích trước tòa án và lần lượt thử từng cái mà không đạt kết quả cụ thể nào. Có thể bộ phận bơm xăng đã bị hư, phải thay cái đĩa nhỏ. Kết luận như vậy, người thợ máy muốn kéo xe về chỗ xưởng sửa chữa. Mở cuộn dây cáp bằng thép ra để cột vào phía trước chiếc xe hỏng, anh ta bảo người chồng rằng chỉ cần thắng nhè nhẹ lúc xuống dốc một lúc, sau đó chiếc xe sẽ tự trôi một mình. Trong khi anh ta đang chuẩn bị, Georges nhảy qua hố lại gần căn nhà bỏ hoang để đọc hàng chữ trên tấm bảng đá gắn vào tường. Khi trở lại ngồi vào tay lái, anh lơ đãng nói rằng trước kia ở đây đã từng có một trận đánh.

Một lát sau khi họ đã sửa soạn để trở lại làng và việc móc xe đã tiến hành trôi chảy, người chồng nói: “Cái anh chàng này có vẻ không được sáng dạ lắm, không biết có sửa được không. Dẫu sao anh cũng có cảm tưởng rằng chúng mình sẽ phải kiên nhẫn dừng ở đây một lúc lâu trong cái làng vớ vẩn này” – “Miễn là cơn đau cổ họng của thằng Rico con mình không trầm trọng lắm...” - nàng thầm thì, dù việc cơn đau chẳng liên quan gì đến vụ hỏng xe. Nàng cũng không phải loại người dễ mất hồn. Tuy nhiên khi có việc gì xảy ra trái với dự tính, nàng lại nghĩ ngay đến con cái.

Để xe vào gara rồi hai vợ chồng quyết định vào quán cà phê đợi. Những dãy nhà trải dài hai bên con lộ không hợp thành một làng. Trông giống như thị trấn nhỏ ở xa Chartres hơn, với những mái nhà thấp, rải rác đó đây một cửa kính nhợt nhạt không màu sắc bán đồ tạp hóa vùng quê. Hai đứa trẻ chạy đuổi bắt nhau. Có tiếng đập đều đặn trên kim loại trong xưởng kế cận. Hai người bước vào quán cà phê gần nhất. Lúc ấy đã là giờ nghỉ ngơi. Quán vắng tanh. Một con mèo đang ngủ trên quầy. Khắc sau ông chủ mới xuất hiện, lê bước chân như nỗi tiếc nuối. Hai người gọi bất cứ thức uống gì để lấy cớ cho sự hiện diện trong quán.

Trong khi ông chủ đưa nước ra, người vợ móc hộp phấn trong túi, loáng thoáng trang điểm lại. Hơi đau đớn, nàng tê dại người đi như có ai trùm lấy mình trong lớp bông dày và những tiếng động chỉ vang vọng đến yếu ớt. Có thể là nỗi mệt mỏi vì chuyến du h231




Làng Yên Lược có một cái văn chỉ lộ thiên thờ Khổng Tử. Trâu bò trong làng thả ăn cỏ ở gần đấy kéo vào phóng uế cả ra bệ thờ. Bọn lý trưởng, cường hào thấy không tiện, bèn họp làng, giao cho Xiển phải trông nom, rào giậu lại, và đặt ra lệ hễ bò nhà ai vào, làng sẽ bắt làm thịt chia phần.

Lệ làng đặt ra, các nhà có bò đều dặn con hoặc người ở hết sức giữ gìn. Xiển có một con bò ốm, gầy như cái mo khô, cứ thả cho ăn ở gần đấy. Một hôm, Xiển để bò vào trong khu văn chỉ, cố ý cho dân làng biết.

Ðang thèm thịt bò, bọn lý trưởng, cường hào lập tức cho người bắt làm thịt. Xiển nói:

- Lệ làng đặt ra, tôi không dám kêu ca gì, chỉ xin làng nhớ cho từ nay trở đi bất cứ bò nhà ai, hễ vào văn chỉ là bắt làm thịt tuốt.

Sau đó ít lâu, Xiển mua mấy cỗ bài tam cúc, chia cho bọn trẻ chăn bò rủ chúng tìm đám đất khô ráo, phẳng phiu ngồi đánh. Bọn trẻ thích quá, xúm nhau, chúi mũi vào ván bài, chẳng để ý gì đến bò mẹ nữa. Xiển lừa cho tất cả đàn bò lại gần khu văn chỉ, rồi mở cổng ra. Thấy cỏ bên trong xanh tốt, một con vào, hai con vào, ba con vào, thế là những con khác cũng chen nhau vào theo. Xiển đóng cổng lại rồi chạy về gọi dân làng ra bắt bò. Bắt được hơn một trăm con, phần nhiều là của bọn lý hương cường hào giàu có trong làng. Chúng bàn nhau:

- Lần này, nhiều người đều phạm phải lệ làng, không lẽ ta đem làm thịt tất cả, vậy thì xin xí xóa.

Xiển nhất định không nghe, lấy cớ rằng lần trước làng đã ăn thịt bò của mình rồi, nay làng tự ý bỏ lệ, Xiển sẽ kiện quan. Sợ Xiển làm to chuyện, chúng bàn nhau đền cho Xiển một con bò, rồi bổ cho các nhà có bò bị bắt chia nhau chịu tiền. Xiển nhất định không nghe, nói:

- Chỉ có hai cách: một là đem làm thịt tuốt, hai là đem chia đều cho dân làng, mỗi nhà một con.

Bọn lý hương cường hào bàn với nhau mãi, cuối cùng phải bằng lòng theo cách thứ hai, vì chia như vậy thì chúng còn được mỗi nhà một con, chứ đem làm thịt thì mất cả. Thế là, không những Xiển đã đánh đổi được bò béo, mà những nhà trong làng cũng được mỗi nhà một con.2698




Một nữ diễn viên trẻ kể với bạn:
- Tối qua, đạo diễn vở kịch tớ đang đóng dám cả gan đến bấm chuông phòng lúc tớ vừa đi nằm. Tớ đang chẳng mặc áo xống gì nên chỉ quàng hờ tấm khăn ra mở cửa. Cậu có biết ông ta mang gì đến cho tớ không? Một chuỗi ngọc trai! Tớ bảo: “Không, ông coi tôi là gái làm tiền hay sao. Vì chuyện đã như thế này, tôi không muốn nhìn thấy ông nữa”.
- Thế ông ta bảo sao?
- Chẳng nói gì mà chỉ lẳng lặng tắt đèn đi.
1799




Ddưa em về buổi chiều rơi
Màn mưa gia+ng tra+'ng cả trời uớt em
Gió bay mưa đẫm tóc mềm
Áo em mưa thấm, da em mưa nhòa

Anh nhìn hút bóng em xa
Trong màn mưa tra+'ng như là cánh chim
Ddể rồi đau nhói con tim
TuởNg như trái núi im lìm đè lên
tuởng như hòn sỏ i để quên
Bơ vơ la+n lóc ở bên hiên nhà

Anh ghen cùng với cơn mưa
Dduoc choàng em suốt chiều đưa em về.

1511






May mắn lớn nhất trong những ngày gần như tuyệt vọng là tôi đã không lầm lẫn khi đến nhận việc nơi nàỵ

Tuần lễ đầu chưa quen công việc mới kể ra cũng khá vất vả. Tuy vậy chưa bao giờ tôi cảm thấy mình hạnh phúc như thế. Thứ hạnh phúc bình dị như khi bắt gặp môi cười thơ ngây của đứa trẻ lên bạ

Điều tưởng như là kỳ lạ và huyền bí là đứa bé cũng quyến luyến lấy tôi, như thể tôi và chính nó đã có những liên hệ tiền thời lưu kiếp.

Trái với lệ thường, liên tiếp hai hôm nay chiều nào người đàn ông cũng đến đón con trễ. Dạo này ở đây trời hay đổ cơn mưa như trút nước vào buổi chiềụ Ngồi ở trong phòng nhiều khi nghe rõ tiếng mưa lẫn trong tiếng gió, gõ vào cửa kính như có ai đang buốt giá đập cửa gọi tới tấp.

Chiều nay thì lại khác. Trời chỉ mưa rất ngắn và cơn mưa đã dứt từ lâụ Người đàn ông đã đến trễ quá giờ ấn định. Bà giám đốc nhất định bắt tôi phải gọi sở xã hội để giao con bé nhờ họ giữ, rồi đóng cửa đi về. Tôi phải nài nỉ lắm mới được ở lại đây một mình để canh chừng con bé. Theo luật gởi con ở nhà trẻ này, ông ta chỉ có thể đến đón con trễ tối đa là mười lăm phút. Những phút đầu bị đóng tiền phạt là còn may, nhưng sau mười lăm phút phù du là kể như người nhà phải tìm cách liên lạc với bộ xã hội để xin nhận con lạị Kể cũng phiền!

Đã gần nửa tiếng trôi qua và hình như tôi vừa nghe được tiếng thở dài mơ hồ không đâu của chính mình. Tôi càng thấy thương con bé thật nhiều, khi lâu lâu nó vẫn ngước lên hồn nhiên nhìn tôi cười tíu tít. Hình như nó không hề hay biết sự vắng mặt bất thường của bố nó chiều nay là một điều hết sức hệ trọng với mọi ngườị Nó vừa ôm con búp bê trong tay vừa cúi xuống nói chuyện ngu ngơ với "cô bạn nhỏ" ấỵ Trong lúc này đầu óc tôi thật bận rộn lo lắng nhiều chuyện nên chẳng còn hồn vía nào chuyện trò với nó. Một phút trôi qua là một phút tôi thấy mình và con bé như sắp bị chôn vùi trong thứ đáy sâu không còn leo lét chút đốm sáng hy vọng nàọ Điều gì đã xảy đến cho bố nó? Nếu bố nó bị bận bất ngờ, sao mẹ nó không đến đón giùm một bữả Nghĩ quẩn nghĩ quanh một hồi tôi lại cố an ủi con bé (như đã tự dỗ dành chính mình) là dù sao nó vẫn còn có tôị Tôi sẽ không bao giờ bỏ rơi nó với bất cứ giá nàọ Nghe tôi bảo vậy, con bé nhoẽn miệng cười thật xinh thật tươị Trời ơi, sao môi cười của nó có thể làm hồn tôi lắng xuống như vậỵ Tôi đúng là một kẻ hấp hối bỗng nhiên tìm bắt được trên bờ môi lạnh lẽo của mình chút hương hơi ấm áp trẻ thợ Chiều nay tôi đã không thể nào không len lén hôn lên hai chiếc má bầu bĩnh của nó đến hai lần. Con bé dễ thương quá, và một tuần làm việc ở đây chính nó đã cứu rỗi nỗi cô đơn khủng khiếp của người đàn bà bốn mươi tuổi không chồng, không con là tôị Được gần gũi và lo lắng cho nó một ngày hơn mười tiếng hình như đã mơ hồ giúp tôi phục hồi lại mặc cảm tự ti không sinh con đẻ cái gì được nữa của mình. Ba bốn bận hư thai, một cuộc hôn nhân lầm lỡ đã quá đủ cho lời nguyền cay độc của trời caọ

Bây giờ tôi cũng đã quá mệt mỏi để mỗi ngày soi gương bàng hoàng nhìn bóng mình mà ngỡ như một ai khác, rồi thở dài than thân trách phận. Tôi biết dù thế nào mình cũng phải sống và phải tự thắp lên cho đời mình những ngọn nến yêu thương.

Nói thì rõ hay, nhưng thật tình lắm khi tôi chẳng biết làm thế nào để thắp lửa lên cho những ngày còn lại của đời mình, khi mà trái tim chẳng khác gì đám tro tàn lạnh lẽọ Củi nỏ hay thứ diêm sinh nào trong cuộc đời còn có thể đốt cháy được con người bắc cực trong tôi (!?)

Nhìn đồng hồ đúng nửa tiếng trôi qua, bà giám đốc vườn trẻ chu đáo gọi lại để nhắc nhở và xem xét tình hình. Tôi hết sức lúng túng không biết ăn nói, tính toán làm sao cho ổn thỏa, khi bóng tối bên ngoài càng lúc càng buông xuống thật maụ Tôi đứng lên đứng xuống gọi điện thoại cho người đàn ông không biết bao nhiêu lần, nhưng lần nào cũng chỉ bắt gặp cái máy nóị Điều gì đã vô cùng bất ngờ xảy đến cho ông ta, và điều gì sẽ xảy đến cho chúng tôi, cho tôi và đứa bé. Có phải tấm lưới trớ trêu của đời sống đang dần dà phủ chụp lấy tôi và mỗi người có mặt trong đời sống càng vùng vẫy thì xem chừng càng bị siết chặt?

Tôi dẫn con bé vào phòng tắm và nó bắt đầu thắc mắc hỏi thăm "bố đâu, bố đâu" liên hồị Tôi lấy nước, bánh lạt cho nó nhưng con bé chẳng buồn ăn buồn uống gì cả. Tôi định bụng sẽ phải làm một điều gì đó, khi nhìn xuyên qua ô cửa kính thấy cơn mưa nặng hột đã bắt đầu thi nhau trút xuống. Gió càng lúc càng nổi cơn ầm ầm, như những lời dọa nạt của những hung tin.

Ngờ đâu người đàn ông lại xuất hiện giữa cơn mưa như thác lũ nàỵ Ông ta đi băng băng qua dãy hành lang, và khi chân ông ta chưa kịp đụng tới thềm cửa, tôi đã vội vàng chạy ra mở. Sự có mặt của ông ta lúc này đúng là đã cứu vớt tôi và con bé khỏi giờ phút tận thế .

Ông ta bước vào như một bóng ma rũ rượi rồi nói như phân bua cả ngàn lần:

"Trời ơi, tôi không ngờ còn có người chịu khó ở lại chờ tôị Xe tôi dở chứng bất tử nên phải chờ đón taxi tới đâỵ Có cuốn sổ điện thoại nhỏ trong xe thì kiếm hoài lại không ra để gọi cho cô haỵ"

Tôi cứ tưởng là sẽ trách ông ta cả ngàn lời mới đủ, nhưng không hiểu sao tôi lại chẳng nói được lời nàọ Ông ta thì vẫn luôn miệng như cố khỏa lấp một cơn xúc động nào đó, vừa quay sang ôm con mình vừa ngước về phía tôi:

"Con, con chờ bố có lâu không con? Cô này tử tế quá, bố cũng không biết nói sao để cám ơn và xin lỗi đây nè."

Đột nhiên ông ta buông nhanh con bé, hớt hả bước tới trước mặt tôi đang vờ cúi xuống gài nút áo lạnh. Ông ta vừa nói vừa thở hổn hển:

"Cô, cô... có phải cô đây không? Lẽ nào lại là cô sao lại là cô nhỉ. Ôi thôi đúng là mặt mũi của cô đây rồi chứ ai nữạ"

Tôi đáp mơ màng, dù biết rằng sớm muộn gì mình cũng không thể chạy thoát nổi đôi mắt của ông tạ

"Vâng, tôi là Hoa, nhưng tôi là ai mà có thể làm ông hốt hoảng lên như thế."

"Cô Hoa, làm ơn đừng giấu tôi nữạ Tôi là Mark đây, cô biết tôi là Mark rồi mà. Cô cũng biết cô chính là người đàn bà đã ban bố cho tôi thứ tình phụ tử cao cả với bé Kim."

Ngừng một lát để dò phản ứng người đối diện rồi ông ta nói tiếp:

"Cô nhớ không, chính nhà tôi và tôi đã yêu cầu được gặp cô một lần trong ngày bàn giao đứa bé. Mặc dù chỉ một lần thôi nhưng làm sao tôi quên được ánh mắt buồn chết người của cô lúc đó. Chính chúng tôi đã muốn đích thân được trả ơn cô phần nào hôm đó."

Bây giờ tôi không thể chạy trốn đâu được hai mắt lóng lánh những hạt lân tinh vời vợi của Mark. Cơn mưa đã trở về và càng lúc càng mưa lớn. Tôi sẽ không tài nào trốn thoát đâu được nếu còn ở dưới vòm trời nàỵ Cơn mưa định mệnh mà chính tôi đã dứt khoát tìm về để được mềm tan, thì không lý gì tôi lại bỗng muốn bỏ chạy đi đâu khác để tìm miền trú ẩn.

Suy nghĩ một hồi, tôi nói thật nhẹ qua hơi thở trước cái nhìn có vẻ như đang van lơn điều gì của Mark:

"Ông Mark đừng lo, tôi chỉ muốn tìm về đây để thăm con gái tôi một ít lâu cho đỡ nhớ mà thôị Ngoài ra tôi không hề có một ý định nào khác. Con Kim của tôi đã thuộc về đời sống của ông bà từ lâu rồi, tôi biết thân biết phận của tôi chứ."

Mark nói nhanh như không thể kềm giữ nổi trong lòng:

"Theo lẽ họ phải giữ kín tông tích của bố mẹ nuôi mới đúng chứ. Ai đời dạo này cái gì rồi người ta cũng có thể "khai thác" ra hết trơn cợ Có điều bây giờ bé Kim chỉ thuộc về đời sống của tôi mà thôị Vợ tôi và tôi đang thời kỳ ly hôn và bà ấy hình như chẳng thiết tha gì với đứa con nuôi cũng đâu phải là giọt máu của chính mình."

Mark ngẫm nghĩ một lúc rồi hạ giọng tiếp:

"Của không tội bà ấy cũng thương nhớ con Kim nhiều lắm, nhưng kẹt một nỗi bây giờ bà ta đang bận rộn với tiếng gọi ái tình nên chẳng còn tâm trí nào nữạ"

Tôi hơi sững người:

"Hóa ra ông và bà nhà đã không còn ở với nhau nữa à? Vậy cũng tội nghiệp cho con Kim biết mấy vì dù có bố chắc nó vẫn thấy thiếu bàn tay thương yêu của một người mẹ."

Mark thở ra thườn thượt:

"Vâng tôi biết chứ. Ai mà không thấy hụt hẫng vì phải thiếu mất bóng dáng của một người đàn bà trong nhà mình? Tôi biết Kim nó buồn lắm nên dù sao sự trở về của cô cũng thật đúng lúc."

Tôi trố mắt nhìn Mark:

"Nhưng chúng ta cũng đâu thể nói ngay cho con bé sự thật nàỵ Tôi cũng không muốn đời sống của một đứa bé lên ba bị xáo trộn quá nhiềụ Ông có thấy như vậy không?"

Mark mỉm cười thật ranh mãnh:

"Mọi sự coi như tùy ở cô cả đấy nhé. Tôi nghĩ nó sẽ hạnh phúc biết mấy nếu được sống lại với tình mẫu tử của chính mẹ mình ban chọ Chỉ tiếc là có thể cô còn phải tiếp tục cho đời sống của mình ở đâu đó nữa chứ."

Tôi bỗng trở nên nghiêm trang:

"Không, tôi chẳng còn một đời sống nào để phải bận tâm bằng chính đời sống của con mình bây giờ. Nếu ông biết tôi cũng vừa đổ vỡ xong và rất sợ phải tiếp xúc nhiều với đàn ông."

Mark lại cười hóm hỉnh:

"Tôi là đàn ông thứ thiệt 100% nhưng cô đừng sợ tôi nhé, lý do tôi đang mắc chứng suy nhược tình dục nên mới bị vợ bỏ, cô không thấy saọ"

Tôi phá lên cười, chợt nhớ đến khuôn mặt đỏm dáng đa tình tận mạng của gã chồng cũ. Vũ đó, Vũ sau một đêm vờ vĩnh ân ái với vợ đã thú nhận là đang lỡ yêu một người đàn bà khác.

Chọn lựa một đêm tình tứ như thế để công bố chấm dứt cuộc hôn nhân chán ngắt là một sự tuyên chiến độc địa và cầu kỳ chỉ có đàn ông như Vũ mới làm được. Sống với Vũ, tôi thừa biết tài "thao lược" của Vũ với đàn bà khá cao nên vẫn cứ lờ đi những cuộc tình vụng trộm của chàng. Coi như Vũ chỉ muốn thử tài thao lược của mình mà thôị Tôi đã lỡ yêu Vũ nên thiếu dũng cảm xa chàng trước đó và điều này đáng làm tôi ân hận mãị Tại sao phải đợi đến lúc trăng tàn trăng rửa, khi Vũ phải thú nhận là không còn yêu tôi nữa, tôi mới chịu buông Vũ để chàng chạy theo người đàn bà trẻ trung xinh đẹp lẳng lơ hơn mình. Nhiều lúc tôi tự hỏi, có phải thời buổi này hôn nhân cũng phải có hạn, cũng quá "đát" như thức ăn thức uống? Bà chị tôi luôn miệng đổ hết tội lên đầu tôi:

"Có được thằng chồng đĩ miệng đĩ dáng như Vũ, mi không biết giữ nên mất cũng phảị Ông ta tham lam đòi hỏi như vậy, mi phải biết nghệ thuật chìu chồng ở phòng the, phải cho ông ta hết "xí quách" đi thì khi muốn gặp con cái khác sức mấy mà còn làm ăn chi nổi nữa mới được. Đàn bà thời đại ni rắn rết độc hại lắm."

Trời ơi, tôi chỉ biết kêu trời mấy ngày sau đó khi Vũ bỏ đi vì chắc chỉ có trời mới biết được tại saọ Giữa tôi và Vũ cũng đâu có mối liên hệ thương yêu con cái gì để còn níu giữ đời nhaụ Vũ bỏ đi rồi, tôi mới nhận ra mình cần phải đứng lên, nhún vai như một tay tổ đầy đủ bản lãnh chịu đựng.

Sau gần hai tháng giao cho một cơ quan tìm kiếm hộ bé Kim, tôi thanh thản bước ra khỏi thành phố có Vũ và quanh năm mùa đông.

Thấy tôi cười mà không nói gì, Mark bỗng hỏi tiếp với giọng nửa đùa nửa thật:

"Sao cô có thể cười được khi nghe tin một người mới bị vợ bỏ? Đàn bà đúng là thật vô tâm và tàn nhẫn."

Tôi lại cười lớn hơn:

"Chẳng lẽ tôi lại khóc lớn lên cho đời mở hộỉ Câu ông vừa nói đáng lẽ phải để dành cho tôi nói về mấy ông mới đúng. À, coi vậy chứ tôi không dám vơ đũa cả nắm đâu đấỵ Tôi biết ông Mark là một người đàn ông đặc biệt. Chỉ tiếc là bà Mary đã bị mù mắt."

Mark vừa định nói gì, lại tỏ vẻ sực nhớ đến bờ vai mỏi của mình. Trông Mark có vẻ dè dặt co giãn đôi vai như sợ phải đánh thức giấc ngủ vội của con mình. Thì ra nãy giờ bé Kim cứ thế ngã đầu trên vai bố đánh một giấc ngon lành. Thấy vậy tôi đề nghị:

"Để hôm khác chúng ta lại nói chuyện tiếp. Bây giờ chúng ta phải về thôị"

Người đàn ông bắt đầu khẩn khoản:

"Hay là cho phép tôi được mời cô đi ăn tối naỵ Coi như chúng ta mừng ngày cô và bé Kim hội ngộ."

"Con bé ngủ rồi mà. Còn tôi thì dạo này hình như chẳng bao giờ thấy đóị"

Mark tỏ vẻ say đắm một cách lạ lùng:

"Đi ăn là vì tôi mời cô chứ đâu phải tại cái bao tử của cô đói hay nọ Dù sao bây giờ cũng là một ngày cuối năm. Cô về nhà sẽ làm gì cho hết một buổi tốị À, mà bề nào cô cũng phải cho bố con tôi quá giang thôị Xe của tôi bị hư rồi, cô không tội nghiệp saỏ"

Tôi nhìn người đàn ông, lòng bỗng gợn lên thoáng xúc động không đâu:

"Thấy bé Kim ngủ ngon quá, tôi lại ước gì một đêm nào đó được ôm con bé trong tay để ngủ. Trời ơi, sao ngày đó tôi có thể ngu dại đến nỗi có thể đem con đi chỏ Ở nước Á đông của tôi, người ta vẫn hay sợ bố mẹ đăng báo từ con, ông biết không."

Mark nói như mê man:

"Hẳn là chúng ta sẽ có nhiều đêm khác nữạ Cô yên chí, cô sẽ có bé Kim nhiều hơn một đêm là cái chắc."

Trên đường lái xe ra quán ăn, cơn mưa đã dứt hẳn, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng như lòng mình đang ướt sũng vì đôi mắt long lanh tràn đầy nước mưa của Mark. Mới đó mà ngày mai đã bắt đầu một ngày của năm mới nơi đâỵ
2087




Câu chuyện này đã được truyền tụng trong dân gian từ lâu...
Ngày xửa ngày xưa... xưa lắm! Tận cái thời chưa có... tham nhũng!
Tại một làng nọ có cặp chiến hữu hoàn cảnh khá giống nhau. Cả hai đều ly nông từ lâu nhưng lại bất ly hương. Khốn nỗi ở cái xứ bước ra là ruộng bước vào là nương này mà không biết cày, biết cấy thì xóa đói cũng chẳng xong chứ nói gì giảm nghèo.

May mắn là cả hai đều có vợ đảm đang tần tảo. Nhưng bám gấu váy đàn bà mãi cũng nhục, sau nhiều độ nhậu lâm ly bi tráng nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu... lẫn nhau, cả hai mới phát hiện rằng đàn ông tay nào cũng nhậu cả nên quyết định đi buôn rượu.

Nghe chồng phân tích, một vốn bốn lời, thị trường rộng mở, gương mặt hai chàng đỏ gay múa tay múa chân minh chứng rõ rệt, hai cô vợ thấy cũng có lý nhưng cũng cố vặn vẹo:

- Lỡ ế thì sao?

- Không bao giờ! Vợ có thể ế chứ còn rượu thì không. Cùng lắm thì tụi anh sẽ ráng... uống hết!

Câu trả lời hoàn toàn thuyết phục. Dầu sao họ cũng uống, lỡ kẹt thì uống rượu nhà giá gốc lại khỏi phải lo ngộ độc.

Vốn là người chịu khó chịu thương, hai cô bàn với nhau cùng hợp tác nấu rượu cho chồng đi bán. Gia cảnh cũng chẳng khấm khá gì lại phải vay vốn để sản xuất nên cả hai rất tiết kiệm: gạo mua tận gốc, củi lửa tận dụng, hèm dùng nuôi heo... để giảm giá thành.

Hôm tiễn chồng lên ghe với chum rượu, bao gạo, bịch khô... và một đồng bạc tích cóp từ lâu, hai cô sụt sùi dặn dò ráng tằn tiện, luôn nhớ câu “tiểu phú do cần”...

Chiều xuống, giữa mênh mông sông nước, không ai dòm ngó, hai chàng bỗng cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa. Nuốt ực một cái, chàng A bậm môi quẳng ra đồng bạc:

- Bán tôi một lít!

B hí hửng đong và cả hai bắt đầu nhâm nhi... Vừa cạn lít đầu tiên, nhìn con cá khô mặn mới chỉ mất cái đầu, anh B tức tối móc đồng bạc ra dằn mạnh:

- Anh em mình dãi dầu mưa nắng để làm giàu mà họ trả công quá bèo. Lấy thêm lít nữa!

Lúc này đến phiên chàng A cặm cụi đong...

Chiếc ghe cứ thế xuôi dòng, đồng bạc chạy qua chạy lại, rượu cứ vơi dần...

Sau ba ngày mua bán lòng vòng, chum đã cạn queo. Hai chàng bèn múc nước sông đổ vào, quay ghe về bến.

Nhìn chồng hốc hác hẳn đi sau ba ngày buôn rượu báo cáo kết quả kinh doanh với đủ mọi lý do khách quan như trời mây, sông nước, tại chất lượng hàng... vô cùng thuyết phục, nhưng vẫn bán tin bán nghi, một nàng vốn hời hợt giở chum ra xem qua thấy vẫn còn đầy sóng sánh nên thông cảm bỏ qua. Cô kia đáo để hơn, chấm ngón tay vào nếm thử, biết ngay sự việc. Nhưng xấu chàng cũng hổ thiếp, nên đành ngậm tăm, chờ đến khuya mới lôi nhau ra xử lý nội bộ!

Được vài ngày, hai chàng lại ỉ ôi hứa hẹn sẽ rút kinh nghiệm, vừa học vừa làm... Lỡ phóng phải theo, hai cô vợ lại tiếp tục vay vốn, còng lưng nấu rượu cho chồng đi buôn cho đến khi lụn bại!

Đây rõ ràng là một câu chuyện tham nhũng điển hình. Của công cứ lần lượt thất thoát vào túi riêng, Bài học rút ra:

- Không giao trọng trách cho kẻ bất tài.

- Chớ bố trí người thân vào cương vị lãnh đạo.

- Phải thẩm định kỹ các dự án.

- Luôn kiểm tra chặt chẽ, không tạo kẽ hở.

- Trả lương thỏa đáng.

- Người giám sát phải có đầy đủ năng lực và trách nhiệm.

- Thận trọng trong việc sử dụng vốn, nhất là vốn vay.

- Xử lý nghiêm minh các sai phạm.

Cuối cùng nên nhớ, thương trường không phải... nhà trường! Phải đào tạo mới sử dụng, đừng sử dụng rồi mới... đào tạo!
1392


Powered by Blogger.