Chàng trai hỏi người yêu:
- Trong đời em đã bao giờ em cảm thấy một cái đụng chạm dù rất nhẹ của một người khác mà làm rung động tất cả các dây thần kinh của em chưa?
- À, cũng một đôi lần! - cô gái đáp.
- Em thấy trong trường hợp nào? - Chàng trai tò mò cực độ hỏi.
- Lúc... bác sĩ nha khoa gõ nhẹ vào chiếc răng hư của em!
Chàng trai làm quen được với một cô gái. Họ cùng nhau đi ăn nhà hàng, đến chơi ở sòng bài rồi sau đó chàng trai đề nghị:
- Em về nhà anh nhé?
- Không được đâu, anh yêu. Có thể em không được hiện đại lắm nhưng em quyết giữ mình tuyệt đối trinh trắng cho đến khi gặp được một người em yêu bằng cả trái tim.
- Có lẽ... em sống như vậy thì cũng... gay go nhỉ...
- Em thì không sao, thậm chí còn thấy thích nữa. Nhưng chồng em... đúng là gay go thật... lắm lúc anh ấy như phát khùng.2621
Ông chồng sau khi đọc xong bài báo "Vụ án mạng tại nhà hàng: một nữ nhân viên bị giết chết", ngẫm nghĩ và nói với vợ:
- Em yêu, mẹ em cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà như vậy, không chán sao! Có lẽ nên kiếm cho mẹ một công việc nào đó ...
- Mẹ em thì có thể làm được gì bây giờ chứ?
- À , thì chẳng hạn như... nhân viên phục vụ tại nhà hàng.
Thế là mùa xuân không hẹn lại về. Mùa xuân vui tươi trải mình dưới gót giầy thiếu nữ. Em ơ hờ bước qua.
Mùa xuân ơi! Da diết nhớ một ngày xưa cũ. Vẫn còn đây con đường nhỏ, vẫn còn đây lối cỏ mềm tinh khiết xanh non, những cọng cỏ anh từng quen thuộc.
Anh đã đến trong đời em, mang theo hơi ấm mùa xuân cùng niềm vui lấp lánh. Tại hương xuân hay tại ánh mắt anh đã làm em bối rối? Hay tại chút lạnh mùa đông còn gửi lại để làm ta đến được gần nhau? Em thấy mình như nàng Lọ Lem đi hài thêu bằng cỏ, bước lên bảy sắc cầu vồng óng ánh hương hoa...
Anh đã nói những gì với em, em không còn nhớ nữa, em chỉ biết rằng mình đang run rẩy trước anh. Anh đã đọc được nỗi buồn trong ánh mắt của em, nỗi buồn của em, của một đứa con có gia đình không hạnh phúc. Ðừng trách em! Em chưa hiểu được mình, em đâu hay anh cũng là người giống em đến thế. Hơi ấm mùa xuân, ánh mắt anh hay cùng chung cảnh ngộ, em thấy mình đồng cảm với anh.
Một mùa xuân ngọt ngào trải dài trong nỗi nhớ. Có lẽ em đang trở thành thiếu nữ, em là người lớn thật rồi sao? Anh vẫn đến cùng em trong mùa xuân ấy, dù chỉ đến để nhìn em, để coi em học bài và trở về im lặng. Có anh, căn phòng nhỏ nhà em bừng sáng. Vắng anh, em lười biếng học bài. Vâng! Anh đã dạy em biết bao điều mà em chưa hiểu. Em không còn trách cứ ba má mình, em không còn ích kỷ nhỏ nhen. Em thích làm thơ hơn, em thích học bài hơn, em thích đem những điểm tốt về khoe anh như ngày nhỏ em thường khoe với mẹ. Nhưng... chỉ nỗi nhớ anh là không giống nỗi nhớ mẹ bao giờ. Em cứ băn khoăn tự hỏi với lòng mình, tại sao anh lại gần gũi em đến thế?
Biết em rất yêu thơ, anh thường đọc thơ và chép cho em những bài thơ anh thích những bài thơ về tình yêu của biển và đất. Anh thường bảo em rằng: “Em đừng bao giờ quên tình yêu của biển và đất. Ðất chắt chiu gom góp biển cho đầy, biển xô sóng vào bờ để muôn đời trăn trở”. Tình yêu đó đẹp quá phải không anh? Và em luôn tin vào tình yêu ấy, tin vào tất cả những điều anh vẫn nói cùng em.
Anh thường bảo em là cô bé Lọ Lem bướng bỉnh, cứng đầu. Làm sao anh biết những điều anh nói đã đi vào giấc ngủ của em. Em thấy mình thật dại khờ, nông nổi trước anh. Em thương những cơn mưa mùa xuân vẫn làm anh ướt áo. Em thương ngọn gió lang thang từng đêm ngoài ô cửa. Từ bao giờ em lại có thể thương những điều nhỏ nhoi đến thế, những điều mà trước đây em không bao giờ để ý, không bao giờ nghĩ suy.
Thời gian vẫn trôi qua... Em đã thật sự trở thành người lớn, biết yêu thương, căm ghét và nhạy cảm với chính mình. Mùa xuân đã tàn úa, cỏ non cũng tàn úa, con đường nhỏ ngại ngần trước ánh nắng chói chang. Anh không còn đến nữa... Ðã bao lần em day dứt với mình: Tại sao anh lại ra đi như thế, ra đi mà không nói một lời với em, chỉ ánh mắt chia tay cứ nhìn em đăm đắm! Em có lỗi gì ư? Hay tại bởi mùa Xuân không còn đến? Có phải trong mắt anh, em chỉ là bé con, bé con không bao giờ trở thành người lớn. Em không thể trách anh, cũng không thể trách mình, chỉ nuối tiếc mùa xuân cũ.
Một năm lặng lẽ đi qua. Em hiểu điều gì đã đến với em và em đã đánh mất điều gì không giữ nổi. Mùa xuân lại trở về, mùa xuân không bao giờ úa tàn vĩnh viễn. Mỗi năm có một lần, mùa xuân lại đến với em, chỉ có anh là không bao giờ trở về cùng em nữa. Bảy sắc cầu vòng ngày xưa đã tắt, nàng Lọ Lem xưa đã hóa thành thiếu nữ, em chông chênh suốt những con đường. Biết tìm đâu thế giới thần tiên mà anh đã mang đến cho em trong mùa xuân ấy. Chỉ còn quanh em là một trời nhung nhớ, xót xa. Ước gì đôi hài cỏ kia có thể đưa em về với ngày xưa cũ, nơi ấy có anh, có hương đêm mùa xuân nồng nàn, ấm áp.
Em lang thang trong mùa xuân hờ hững, nghe lòng mình rét mướt, cô đơn. Sao anh không trở về để tìm lại cho em những ước mơ đã vỡ òa trên cỏ, những ước mơ lóng lánh nỗi buồn của giọt nước mắt đêm?...
461
Một chàng trai lạc trong rừng tìm được một nhà sàn, chủ nhà là một ông già người Trung Quốc.
- Tôi xin ở trọ một đêm.
- Được, nhưng có một điều kiện, nếu anh động vào con gái tôi thì phải chịu ba hình phạt tàn khốc của Trung Quốc. Chấp nhận điều kiện xong anh chàng mới nhìn thấy cô con gái lão đẹp như thiên thần, thân hình tuyệt mỹ. Tệ hại hơn cả là cái nháy mắt đầy ngụ ý của nàng. Cơm tối xong xuôi, lão già đi ngủ trước, không quên để lại ánh mắt răn đe chàng trai nọ. Nửa đêm, chàng lẻn sang phòng cô gái... Sáng hôm sau, mệt mỏi nhưng hạnh phúc, chàng về giường và thiếp đi. Lúc tỉnh dậy, chàng thấy một tảng đá rất to đè trên ngực, có một dòng chữ: "Hình phạt thứ nhất: Một tảng đá to trên ngực!". Thường quá, chàng nhấc tảng đá và ném qua cửa sổ. Vừa lúc đó, chàng bỗng thấy dòng cảnh báo thứ hai dán cạnh cửa sổ: "Hình phạt thứ hai: Vật gây án bị buộc vào tảng đá bằng dây thừng!". Rùng mình, chàng nhảy đại qua cửa sổ theo tảng đá, trong lúc rơi từ cửa sổ xuống chàng thấy dòng cảnh báo cuối cùng viết rất to trên mặt đất: "Hình phạt thứ ba: Vật gây án còn bị buộc vào chân giường bằng dây đàn violon!".
2290
- Ðể dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.
Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:
- Già mà còn yêu.
- Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại, vẻ mặt sương sương không giận gì ai - Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình.
Cạn bình trà, ông già dằn tờ giấy bạc năm trăm dưới đít ly đứng lên xếp ghế lại ngay ngắn, từ tốn rút trong túi ra xấp vé số dày, trước khi đi ông quay đầu lại:
- Tối nay lại chỗ tao coi cải lương, nghe bây.
- Tối nay tuồng gì, chú Chín?
- Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền.
- Í tuồng đó hát rồi. Hát Nửa đời hương phấn đi.
- Bây nói sao tao chiều vậy, mà tuồng đó tao có nhớ miếng nào đâu.
- Chú cần gì nhớ, chú toàn đóng vai quân sĩ với người hầu không à. Có hát hò gì đâu.
Ông già cười khà khà, quay đi, cái lưng cong cong gù gù từ từ mịt mù.
Người trong hẻm không ai làm nghề viết văn nhưng đã biết mình nhớ cái gì khi đi xa nó, nhiều lắm, nhiều không thể kể, nhưng trong đó, chắc chắn nhớ tiếng hát là đà tỏa ra từ nhà Buổi chiều.
Những con người tính từng ngày qua để lắt lay thêm một tuổi nữa, vậy mà hát coi cũng ngon lành. Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống giành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mè. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Ðào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sải ngựa coi lạ hết biết. Có bữa bà lỡ ca rớt nhịp, ngồi than: "Kiểu này chắc tui sống hổng thọ quá". Bà con trong hẻm cười cái rần, "sống tới cỡ đó còn than hổng thọ nỗi gì". Ông già Chín không biết hát hò gì, chạy đi chạy lại, lúc thì nhắc cái ghế cho đào Phỉ, lúc thì trèo lên thay cái đèn đứt bóng tối thui, kêu quân sĩ đâu thì ông dạ, chỉ khi đào Hồng hát, ông mới ngồi nép vào đám bông lồng đèn nào đó lặng người đi, thấy đào Hồng nhớ đào Hồng, thấy đó mà nhớ đó.
Ông già Chín Vũ biết đào Hồng từ năm bà mới hai mươi mốt tuổi. Bây giờ hỏi gia cảnh ông ngày trước như thế nào, ông chỉ cười, không nói. Nụ cười nhẹ nhàng trôi trôi, chừng như ông không luyến tiếc gì. Nghe nói, hồi đó, nhà ông giàu có khét tiếng xứ Bạc Liêu. Ông là cháu nội đích tôn của hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng. Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người từ tấm bé. Bữa cúng đình ông mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi. Ông thương đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên. Người đâu mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta. Ðào Hồng chưa uống cạn ly trà ông đã hỏi thẳng, không cưỡng lòng được: "Vậy chứ cô Hồng có muốn lấy chồng chưa?". Ðào Hồng cười: "Tôi đã nguyện với Tổ cả đời theo nghiệp hát". Chín Vũ nghe vậy, thôi không nói nữa, nhưng vẻ mặt suy tính dữ lắm. Hôm sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi theo. Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không được lên sân khấu. Kêu quân sĩ thì ông dạ, kêu "bây đâu" ông cũng dạ, tối ngày lụi hụi kéo màn, dựng cảnh. Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày được nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát. Ông vẫn thường khì khịt bảo rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vông nem đó, thấy chưa. Có người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô nó nổi. Nghĩ lại, tỷ dụ có cái gọi là kiếp trước, hẳn kiếp trước ông Chín nợ bà Hồng cái gì đó, lớn lắm, nên kiếp này, ông trả hoài, trả không hết.
Ông Chín đã cùng đào Hồng đi qua những năm tháng cơ cực, đắng cay. Ðào Hồng có thai, ông bầu dọa đuổi, ông Chín đứng ra năn nỉ, biểu: "Em lỡ dại...". Ông bầu hỏi: "Của mầy à?". Ông Chín cười: "Dạ, của em chớ của ai". "Chắc không?". Ông bảo chắc mà lòng buồn rượi, đâu phải đứa nhỏ trong bụng đào Hồng là của ông. Ông biết ba đứa nhỏ là ai nhưng không tiện nói. Vì đào Hồng bảo: "Có biết, xin anh Chín cũng đừng nói, tội nghiệp, ảnh còn nhiệm vụ, còn công việc quan trọng phải làm". Cô hẳn yêu người ta lắm, nên một mực bảo vệ cho người ta. Sau nầy, con đào Hồng một tay ông giữ, ông bồng. Ông dạy nó kêu ông bằng ba, đào Hồng nhìn ông rơi nước mắt. Ðó là sự biểu lộ tấm thịnh tình đầu tiên mà đào Hồng dành cho ông suốt hai năm đi theo đoàn Kim Tiêu.
Không khí Sài Gòn bắt đầu khê đặc mùi chiến tranh, buổi sáng, ngồi quán uống càfê mà toàn nghe sặc sụa từ đám quân cảnh mùi thuốc súng. Cũng một buổi sáng, ông Chín bị cảnh sát gô cổ trói đem đi. Cái thời sao mà bất công, tai bay vạ gởi, quân cảnh thấy buồn bắt người chơi cho vui vậy. Tụi nó nghe có người tố cáo đoàn Kim Tiêu có Việt Cộng nằm vùng, coi đi coi lại không thấy ai có lý do vô đoàn lạ như ông. Tụi nó hỏi: "Vậy đang sống giàu có đi theo đoàn làm gì?". Ông mắc cười thiếu điều nhỉ nước đái, cái tụi nầy, mình nói mình lưu lạc tại vì mình thương đào Hồng chắc gì tụi nó tin, tụi nó có biết tình người là gì đâu. Mười ngày sau, ông được thả. Chỉ mười ngày thôi nhưng phải đợi đến nửa đời sau ông mới gặp lại đào Hồng.
Gánh hát rã nhanh, đào Hồng không đợi ông về. Nghe bà con bán đậu phộng, thuốc lá trong rạp kể lại, kép Thường Khanh bị quân cảnh bắt, đào Hồng ôm con bỏ trốn, ở lại, chỉ sợ vướng cô rồi lòng người cô yêu lung lạc. Ông Chín quay quắt đi tìm, mà người thì tản lạc đâu đâu. Nhiều lúc ông Chín tự hỏi, làm sao đào Hồng có thể sống nổi đến từng ấy năm mà không có ông đỡ đần một vai gánh mỏi.
Sau nầy, về nhà Buổi chiều, có đêm trăng sáng, ngồi bên rổ khoai lang luộc, đào Hồng có kể chuyện mình. Mọi người chung quanh đều sụt sùi, sao mà hoàn cảnh của nó y hệt mình vậy cà, hổng lẽ đời đào hát là phải vậy. Có người không lấy chồng cho thỏa nghiệp, có người như đào Hồng có con rồi, vì mê hát, vì chiến tranh mà gởi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa. Ông Chín Vũ ngồi rầu rầu, hậm hực. "Biết vậy hồi đó tui bóp mũi nó cho rồi". Ðào Hồng bảo: "Anh Chín đừng nói vậy em thương nó không hết chớ có trách nó bao giờ. Có lúc em nghĩ, con nó có nhìn em cũng không chịu, mình nghèo quá làm gì lo cho nó nổi hả anh?" Bà không bao giờ nhắc tới Thường Khanh như chưa từng quen biết con người đó trong cuộc đời. Nhưng những nỗi nhớ niềm thương chắc còn day dứt trong lòng làm cho bà quắt queo, tàn héo. Ông Chín giật mình, cái nhan sắc ngày xưa đ%C
31271
1. Khánh nói : "Hôm qua, tao gặp Hảo đi ngoài phố với Tăng, dung dăng dung dẻ, tình lắm !". Luận bồi thêm : "Nhỏ Oanh em tao kể Thứ Bảy tuần rồi, khoa nó tổ chức dạ hội, có giới thiệu một couple mới, tưởng ai, té ra là Hảo với Tăng.". Tai tôi đang muốn ù lên đây này nhưng mấy thằng bạn quái quỉ của tôi có chịu tha cho đâu. Tụi nó thao thao kể chuyện Hảo với Tăng, lại còn cười với nhau chí chóe nữa. Tôi ngồi như chết lặng, ly cà phê đá trên bàn nãy giờ vẫn còn nguyên, chẳng còn hồn vía đâu mà uống ngụm nào. Hai chiếc loa thùng đặt ở góc quán đang phát ra một giọng nữ rưng rức : "Tại sao anh không là của em ?..." nghe buồn não ruột. Tuân vỗ vai tôi, vẻ mặt đầy thông cảm : "Thôi quên đi, chính mầy là thằng chủ động mà !", rồi quay lại nói với Khánh, Luận : "Tụi bây ngồi chơi, tao chở thằng Yên về."
Tôi lẳng lặng ngồi sau xe Tuân, chẳng nói được lời nào. Tuân cũng vậy, im lặng, chạy xe nhẩn nha, không theo lối về nhà mà chạy ngược xe ra đường bờ sông. Đây là con đường chỉ toàn là công sở, không có nhà dân, bên sông là một công viên chạy dài, cây xanh ngút mắt. Đang giữa buổi chiều nên công viên vắng người. Tuân dừng xe ở một ghế đá nhìn ra sông, không nhìn tôi, nói giọng khẽ khàng : "Ngồi đây chơi một chút !". Gió từ sông thổi vào nghe mát lạnh. Tuân ái ngại : "Tụi nó chỉ vô tình, không có ý gì !". Tôi cười buồn : "Tao cũng đâu có trách gì tụi nó." thấy ngạc nhiên vì giọng nói quá ư bình thản của mình. Chỉ cách đây chưa đầy ba tháng, cũng nơi công viên bờ sông này, cũng một chiếc ghế đá đại loại kiểu như chiếc ghế đá tôi đang ngồi với Tuân, tôi và Hảo gặp nhau lần cuối, quyết định chia tay nhau, chả rạch ròi được vì sao mà chia tay nhau. Chỉ thấy sau một thời gian yêu nhau gần bốn năm, tôi không dưng nhận ra dường như mình không còn được yêu như thuở ban đầu nữa, cảm thấy hàng tuần, hàng ngày gặp nhau như là bổn phận, người này cứ đến tìm người kia vì chỉ sợ không đến sẽ làm người kia phật lòng... Hảo khẳng định : "Em vẫn yêu anh." mà giọng nghe trống rỗng, như thể Hảo đang trả bài, một bài học Hảo rất thuộc, không phải đắn đo, nghĩ ngợi gì nhiều để rồi chưa đầy ba tháng sau, lại nghe tin Hảo đã tìm được "một nửa" khác của mình. Chợt thấy đau lòng ghê gớm : không lẽ bốn năm trời không còn đọng lại trong Hảo chút gì...
2. Quyên nhìn qua một lượt căn phòng trọ bề bộn của tôi, mấy bộ quần áo chưa giặt gùi thành một đống, gầm giường đầy tàn thuốc lá và giấy vụn, nhăn mặt : "Dạo này, em thấy anh bết bát quá. Anh không sợ Hảo buồn à ?". Tôi lừ mắt nhìn Quyên : "Thứ nhất, anh không làm gì để em phải nói là bết bát. Thứ hai, Hảo buồn, đâu có liên quan gì đến anh.". Giọng Quyên nghiêm trang : "Em là bạn Hảo, bạn anh. Em không muốn anh như thế này chút nào. Hảo cũng vậy, Hảo cũng không hề muốn sau khi chia tay với Hảo, anh sống như thế này. Anh cứ nhìn lại thử xem sao...". Không để Quyên nói hết câu, tôi nổi nóng : "Anh không cần Quyên dạy khôn.". Quyên vẫn như không : "Lúc này anh không được bình tĩnh, lúc khác em sẽ nói chuyện với anh.".
Không hẳn là tôi không biết mình đang sống như thế nào. Không còn Hảo, những thói quen bừa bãi của tôi mặc sức trỗi dậy, những thói quen mà trước đây Hảo đã tốn không ít thời gian mới dẹp bỏ được. Tôi cố tránh, không muốn để mọi người chung quanh nhìn mình như một thằng thất tình. Giữa đám đông, cố gắng nói to hơn, cười lớn hơn. Đến trường, cười với cô này thật tươi, nheo mắt với cô kia thật tình tứ. Lại có cái kiểu nhún vai rất bất cần khi có ai đó hỏi thăm về Hảo, thầm thì kể chuyện Hảo với Tăng. Tôi không lạ gì Tăng, lúc trước học cùng trường với tôi, có một thời vẫn hay đi uống cà phê với nhau, nhưng thấy lạ lẫm khi nghe Hảo yêu một người như Tăng. Tăng thuộc tuýp hiền lành, nếu không muốn nói là hơi tẻ nhạt, hoàn toàn khác với tính cách Hảo. Có khi Hảo như vậy mà khôn ngoan, như trước kia Hảo vẫn bình luận với tôi là cô này cô nọ lấy chồng khôn ngoan, biết đâu rồi Tăng sẽ là một người chồng tốt. Cái mớ lý lẽ này, rốt cuộc chỉ mình tôi cay đắng nhận ra, chỉ để huyễn hoặc mình, làm ra vẻ là mình cao thượng, không thèm chấp với chuyện đã qua, chỉ để giấu nỗi hụt hẫng của một kẻ cứ tưởng mình được yêu nhiều lắm, té ra, bị phẩy tay nhẹ nhàng như cánh lông hồng...
3. Một buổi chiều ngồi trong căn-tin trường, Tuân nói với tôi : "Cách đây hai ngày, tao gặp Quyên. Quyên gởi lời thăm mầy.". Tôi nghe Tuân nói, có cảm giác không buồn không vui : "Tao thấy mệt mỏi lắm rồi, bây giờ tao thấy sợ con gái, nhất là những cô nào liên quan đến Hảo.". Tuân ngậm ngùi : "Tao không nghĩ là mầy yêu Hảo đến thế, nếu biết, tao sẽ cản, không cho mầy bỏ Hảo.". Tôi cười khan : "Chẳng ai cản được tao !" chợt nghĩ : sao mình cứ buồn, cứ vật vã thế này mà để làm gì, Hảo có biết đâu, vả lại có biết thì cũng chả níu kéo được gì... Tôi nhận ra mình đang rất vô lý, vô lý với mình, vô lý với bạn bè mình, với Hảo, và cả với nỗi buồn của mình. Nhưng vẫn không sao quên được nỗi buồn đang dai dẳng...
Tôi cười với Tuân : "Hôm nào tụi mình rảnh rảnh, rủ Quyên đi chơi lòng vòng.". Tuân nhìn tôi nghi hoặc : "Mầy nói đùa ?". Tôi vỗ vai Tuân : "Nói thật, thật như tao đang ngồi đây.". Tuân vui vẻ : "Tao mừng cho mầy. Nhất định bọn tao, tao, Luận, Khánh sẽ rủ mầy nhậu một bữa đã đời, mừng mầy 'tai qua nạn khỏi'.". Tôi bàng hoàng, mấy ngày vừa trôi qua của tôi, nỗi buồn của tôi, với bạn bè, lại là "tai nạn" ư ? Tuân đang chếnh choáng vui nên không nhận ra sắc diện của tôi lúc này, nói tiếp : "Mầy cũng nên bình thường quan hệ với Hảo đi, Hảo có vẻ lo cho mầy lắm, hỏi thăm hoài. Dẫu gì cũng là bạn.". Lại một điều bất ngờ nữa, Hảo mà còn nhớ đến tôi, hay Hảo chỉ tỏ ra quan tâm để tỏ lòng thương hại. Tôi nghe giọng mình run run : "Tao chưa thể gặp Hảo lúc này được. Tao cần có thời gian...". Tuân gật đầu, nhè nhẹ : "Tao hiểu.".
4. Bữa nhậu mà Tuân dự định gồm bốn đứa tôi, mời cả Quyên nữa, lần lữa hoài, không thực hiện được, do lúc thì Khánh bận đi làm thêm, lúc thì Quyên kẹt dạy kèm, rốt cuộc lại là bữa liên hoan mừng cả bọn thi học kỳ và Quyên thi chuyển giai đoạn "qua" trót lọt. Luận nói : "Mừng nhất là mừng cho thằng Yên, chứ tụi mình thì... thường thôi !". Ôi, tội nghiệp cho đám bạn của tôi, cứ hồi hộp sợ tôi không gượng nổi mà "qua" khỏi kỳ thi này. Khánh vỗ vai tôi : "Tao không ngờ mầy cũng ngon lành quá xá.". Quyên nhẹ nhàng hơn : "Em chúc mừng anh !", chỉ có Tuân là cứ nhìn tôi tủm tỉm, chả nói năng gì. Tôi thấy lòng ấm áp nhiều lắm, sung sướng một cách ngượng nghịu : "Tụi bây có im không nào, có phải chỉ mình tao "qua" đ1106
Một người vụng tay vụng chân đang cắt lông cừu , lúc cắt cao , lúc cắt thấp , lông cừu cắt không được đều , da thịt cừu còn bị cắt phạm vào nhiều chỗ . Cừu nhịn không được, bảo người cắt :
- Nếu anh muốn lấy lông cừu , xin hãy cắt cao một chút ; nếu anh muốn lấy thịt cừu , thì hãy cho tôi một dao phanh thây, đừng có tùng xẻo như vậy tôi chịu không nổi.2687
- Bạn hàng hễ ai nghe tao cho biết số nhà, tên đường, tên phường thì cứ y như rằng người ta hỏi có phải ở Xóm Người Mù không? Không dưng mang tiếng mù lây. Chun đụt dưới mái nhà này lỡ ăn nên làm ra nên không đành bỏ đi nơi khác, chớ không tao xới khỏi lâu rồi. Cái xóm gì mới bảnh mắt ra ngõ đã gặp người lò dò bị gậy phát ngán. Bao nhiêu cái Tết có cáp vàng tao cũng đâu dám xuất hành đầu năm! Là chị hai của cha tôi, cô xa nhà sống theo kiểu thân tự lập thân hồi còn trẻ, giờ xấp xỉ tuổi năm mươi, chưa chồng con dù nhan sắc đến nỗi nào, khó tính là điều dễ hiểu, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi sao cô hẹp lòng đến vậy. Rời quê ra tỉnh học trọ, mỗi sáng sớm tôi ra chợ tiếp cô bày hàng quần áo thời trang, giày dép, mỹ phẩm, chiều tiếp dọn hàng. Từ vài tháng nay bỗng có người tình nguyện làm thay, tôi bỗng rảnh rang. Ông ta kém cô vài tuổi, luôn "hình dong chải chuốt, áo quần bảnh bao". Nhờ ông, hình như dạo này cô đâm ra trẻ lây, đâm ra thích chưng diện với lắm bộ đồ môđen mặc rồi đứng uốn éo trước gương hệt những người mẫu thời trang không khoe chướng, cô hỏi, chẳng muốn cô buồn tôi đành miễn cưỡng khen đẹp. Đêm đêm, tôi đến lớp ngoại ngữ học thêm thì ông đèo cô đi chơi bằng xe Dream. Chiếc xe cô nhún nhường cho biết vốn là hàng còn nguyên thùng, mua để tiện việc ông đưa đón. Chưa hết, cô bê về cả dàn máy karaoke để giải sầu. Thỉnh thoảng hai người kề vai song ca trông rất mùi mẫn. Thỉnh thoảng mở tiệc đãi bạn bè tại nhà. Nhưng cái đám cưới lắm lần nghe cô bàn tính mãi chưa thấy thực hiện. Dù cô luôn rầy la ngăn cấm, tôi vẫn lén chơi với đám người mù trong xóm. Đứa hát rong, đứa bán vé số dạo, đứa đan sọt đan thúng,... Trong số ấy tôi thân nhất con Thắm hát rong. Con nhỏ ông Tư đờn cò đã "nhặt" về trên một chuyến tàu Thống Nhất. Nó gầy gò đến độ qua cầu gió có thể thổi bay. Nó hay khiến tôi nhớ tới con em gái dưới quê nên thường lén cô tiếp tế cho hai cha con chút ít lương thực, hoặc thuốc men lúc đau ốm. Thắm bị mù từ thưở lọt lòng, chẳng biết tí gì về thế giới chung quanh, chỉ nghe kể rồi mường tượng. Thuộc khá nhiều bài ca do nghề nghiệp, riêng món vọng cổ luôn bị ông Tư bắt bẻ, ca hoài chưa ngọt, chưa rặt giọng đàng trong theo ý ông muốn. Có hôm nó hỏi tôi: - Anh ra sao anh hai? - Thì cũng giống hầu hết mọi người. - Có đẹp trai không cơ! - Đẹp xấu tùy người đối diện - Tôi nói đại. Nó phụng phịu: - Anh quên người đối diện hổng có mắt sao? Thôi thì chắc anh đẹp như ông Lục Vân Tiên hoặc Thạch Sanh trong truyện bố Tư kể, vì anh cũng tốt bụng như họ. - Xấu như Trương Chi thì có, đừng có ham tưởng tượng. - Ai nói Trương Chi xấu, riêng em vẫn cho là đẹp. - Hiểu rồi, Thắm cũng đẹp lắm. - Xạo quá mạng vậy anh hai? Đại để, chúng tôi thường trò chuyện vớ vẩn kiểu ấy. Uống nước rạch Đầu Sấu bao năm, cố nói tiếng Nam bộ, giọng Hà Bắc vẫn còn vương lại vài âm hao như là dấu ấn của quê quán, dù quê quán ấy nay đã trở nên xa vời vợi, mờ nhạt trong trí nhớ nó. Những lúc Thắm theo ông Tư đi hát rong đâu đó cả tháng mới quay về, tôi thấy nhớ cái giọng thỏ thẻ nửa Nam nửa Bắc của nó. Sau một chuyến đi xa, bao giờ nó cũng tặng tôi một món quà gì đó, dù rẻ tiền cũng khiến tôi cảm động. Không ít lần hễ nghe ông ấy và cô hát karaoke, tôi bắt gặp Thắm đứng lặng lẽ ngoài rào bông bụp. Biết tỏng nó rất thích trò chơi hiện đại ấy, một đêm đôi tình nhân vừa lên xe ra khỏi cổng, tôi rủ nó đến nhà, ngồi vào ghé salon hẳn hoi, và mở máy cho Thắm tha hồ ca, tôi giúp nó đọc lời những bài chỉ thuộc lõm bõm. Nhìn vẻ mặt hân hoan khó tả, nghe giọng bội phần diễn cảm, tôi cảm thấy vui như đang đãi nó một bửa tiệc thịnh soạn. Hai đứa vui nên "dượng" và cô về lúc nào không hay. - Trời đất, bộ mày khùng rồi sao Khánh? Dám mời con nhỏ dơ dáy thượng lên cả salon, còn bày đặt hát xướng. Bộ mày mê nó lắm sao thằng ông con? Này, cút mau! Vừa đay nghiến, cô vừa nhào tới đẩy xua Thắm ra khỏi cửa. Quýnh quáng, con nhỏ không kịp cầm gậy, ngã lăn từ bậc thềm xuống sân, bể cả mắt kiếng đen, bật khóc tức tưởi. Ông ấy chỉ khoanh tay đứng nhìn lắc đầu cười. Tôi đỡ Thắm dậy, đặt chiếc gậy vào tay nó, đổ quạu, quên cả giữ kẻ: - Nhẫn tâm vừa thôi, cô không thương xót kẻ tật nguyền chút nào sao? - Mầy, mầy dám lên giọng chửi tao hả đồ mất dạy? - Cô gào, nhảy chồm xỉa xói. Ông ấy ra vẻ kẻ cả khoác tay ngăn, cất giọng du dương: - Kìa em, nguôi giận đi nào. Chậc, chỉ là chuyện nhỏ. Thôi, cho anh xin! Từ hôm ấy Thắm luôn tránh gặp tôi, không nhận cả chiếc kiếng mới tôi mua đền nó. Vào một ngày mưa từ ga Hòa Hưng quay về, ông Tư đờn cò ngã bịnh. Tuy được chòm xóm tận tình giúp đỡ đưa vào bịnh viện điều trị nhưng ông không qua khỏi. Sau đám tang chừng vài hôm, đã nguôi giận, Thắm tìm gặp tôi rủ ra chợ Cái Răng ăn kem với vẻ mặt buồn rượi. Tôi ngạc nhiên chẳng nghe nó nhắc đến bố Tư, lại tỉ mỉ nhắc kể từng người tốt kẻ xấu trong xóm, chi li từng kỷ niệm vặt, nhỏ nhoi của hai đứa, đoạn mĩm cười: - Còn sao trên trời ở xóm mình có giống nơi khác không anh hai? - Giống! - Bèo dưới bến cũng thế chứ? - Thế! - Tôi nhại giọng Hà Bắc cốt làm nó vui. - Vậy là dù đi bất cứ nơi đâu em ngước "nhìn" trời cũng sẽ mường tượng ra sao ở xóm mình, qua khúc sông nào cũng "thấy" bèo của bến nhà, chắc là không buồn lắm đâu. - Thắm nói gì lạ vậy? Tính bỏ đi sao? Đi đâu? - Đố anh biết? - Nói xong nó cười. Nước mắt lấp lánh trên má. Ngỡ chỉ nói đùa chơi, hôm sau Thắm mang theo cây đờn cò bỏ đi mất biệt. Câu đố đêm ấy tôi vẫn nhớ nhưng không cách chi tìm thấy câu trả lời. Bây giờ tôi đã vào đại học. Mỗi lần ra chợ lại tiếp cô bày hàng và chiều dọn về như trước đây. Cô tôi lại tiếp tục sống cô đơn. Sau trận đánh ghen tàn độc của bà vợ và tám đứa con kéo từ Vĩnh Long sang Cần Thơ vào một ngày không nhớ đẹp hay xấu trời, ông "dượng" ra đi không lời từ biệt, quên cả chiếc Dream. Bây giờ cô tôi luôn mang kiếng đen vì con mắt trái bị axít làm hỏng, trở nên trầm lặng, ít nói và, hình như trong con mắt còn lại, những người mù chung xóm chẳng còn đáng ghét nữa.
2708Xóm Người Mù. Không biết tự bao giờ cái tên gọi ấy đã trở nên quen thuộc. Không thể nhớ nổi người khiếm thị đầu tiên nào đã dùng bước giang hồ ở khu dân cư trải dọc triền sông này, rồi rủ rê thêm những người đồng cảnh ngộ quy tụ lại, chọn nơi đây làm "đất lành chim đậu".
Ra đi từ nhiều miền quê khác nhau. Trẻ có, già có, gặp gỡ đâu đó dọc những ngả đường bươn chải kiếm sống họ dắt dìu nhau về, thoạt tiên vài người rồi dần dà đến vài chục, và, sống đạm bạc khiêm cung giữa bao người lành lặn khác. Ban đầu chính quyền địa phương đặt vấn đề đòi trục xuất, riết làm ngơ vì chẳng nghe ai kiện cáo, tị nạnh gì. Đèn nhà ai nấy sáng, không hẳn đùm bọc, nhưng tuyệt đại đa số người trong xóm giềng đều tỏ ra thông cảm, sống chan hòa thuận thảo. Có lẽ có cô tôi là ngoại lệ, không thích đã đành, còn hết sức lấy làm khó chịu bởi không dưng phải lọt thỏm giữa một khu xóm như thế. Có lần cô bảo:
Trên sa mạc, một anh đi đường hỏi một thổ dân: - Anh cho biết đến làng gần nhất còn bao lâu nữa? - Sắp đến rồi. Anh cứ đi thẳng, đến thứ sáu tuần sau thì rẽ phải là tới
1340
Steve, Bob và Jeff đang làm việc trên một giàn giáo rất cao. Đột nhiên, Steve ngã từ độ cao 50 foot xuống đất và chết thẳng cẳng. Sau khi nhân viên điều tra mang xác Steve đi, Bob xung phong đi thông báo cho vợ của Steve về cái tin khủng khiếp kia. Hai giờ sau, Bob quay lại làm việc với sáu chai bia kẹp ở nách.
- Nói đi, Bob, cậu lấy ở đâu ra sáu chai bia kia vậy?
- Vợ của Steve đưa nó cho tớ!
- Cái gì? Cậu nói với cô ta là Steve chết và cô ta đưa cho cậu sáu chai?
- À, trước khi tớ thông báo, tớ hỏi cô ta rằng cô ta có phải là bà goá của Steve không. Và, cô ta nói là không phải, cho nên tớ nói là sẽ cá cược với cô ta bằng sáu chai bia!
Bọn quan thị, gà thật không có (1) mà lại cứ hay chọi gà. Nghe nói Quỳnh chọi gà với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, chọi thử một vài cựa chơi.
Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối, nói là không có gà, nhưng họ nhiễu mãi, phải ừ và hẹn đến mai di bắt gà về sẽ chọi. Bên láng giềng có một con gà trống thến, Quỳnh mượn mang về.
Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến đem ra chọi. Vừa giao mỏ được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà trống thiến một cựa vào bụng vỡ hầu lăn cổ chết ngay. Quan thị vỗ tay reo:
- Thế mà đồ rằng gà của Trạng hay, chọi được gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả!
Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ nói:
- Các ngài nói phải, trước gà tôi chọi hay lắm, nhưng từ khi tối thiến đi, thì nó đốn đời ra thế!
Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mày, gà ôi! Tao đã bảo thân phận may không dái thì chịu trước đi cho thoát đời, lại còn ngứa nghề làm gì cho đến nỗi thế! Thôi mày chết cũng đáng đời, còn ai thương nữa, gà ôi!"
Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng.
2636