Một chàng cao bồi lần đầu tiên đến New York và nhìn thấy chiếc máy xem bói, trông nó giống như một tủ điện thoại công cộng. Anh ta vào cabin và thả đồng xu, máy in ra tờ giấy như sau: Anh tên là John Bill, cao 1,85 m và cân nặng 105 kg. Anh 23 tuổi và chuẩn bị đi chuyến tàu 8h30. Anh sắp có hạn lớn! Anh chàng nọ còn đang kinh ngạc thì một người đàn ông da đỏ bước đến, ông ta cũng cả quyết rằng trò này không thể tin được. Hai vị khách thử trao đổi mũ và quần áo cho nhau để lừa cái máy. John Bill lại đặt một đồng xu và đứng vào cabin, tờ giấy được in ra như sau: Anh vẫn là John Bill, cao 1,85 m, nặng 105 kg và 23 tuổi, nhưng hiện nay anh đã:
- Lỡ chuyến tàu 8h30.
- Bị mất bộ quần áo cùng ví tiền và khẩu súng rulô.
- Bị lây bệnh ghẻ của hắn.


Hai nhà chiêm tinh nói chuyện với nhau:
- Mùa hè năm nay đẹp nhỉ!
- Ừ, giống như mùa hè năm 2020 vậy.
1796




Ngớt mưa, âm vang các cơn sấm vọng về từ biển rơi rớt một đỗi nữa rồi mới bặt. Gió mang mùi cà phê thổi men nhiều ô cửa, như thể cả thế giới không ngủ, ngồi bên bàn với cốc cà phê cô độc. Cửa hàng đóng cửa gần 11 giờ khuya. Đó là lúc dễ chịu nhất trong ngày. Cô bạn Ninh cùng hội cùng thuyền ngáp to, nói rằng cô có thể ngả lưng và đánh giấc dài bất tận. Thực tế cô là người duy nhất tôi biết sợ hãi giấc ngủ, e tiêu tốn thời gian.

Nhà tôi không xa cửa hàng. Chiều, từ phòng thiết kế về, tôi ghé nhà một thoáng rồi đi bộ ra hiệu, không quên mang theo cái bình nhỏ đựng cà phê. Tôi cùng cô bạn thời đại học chung tiền mở cửa hàng bán những món đồ lưu niệm cho dân Tây du lịch.

Công việc làm thêm bình thản, không đòi hỏi gì khác ngoài những buổi tối ngồi yên giữa vài mét vuông đầy chật kệ hàng, vẽ, chờ vài người khách ghé vào và nhai mấy câu tiếng Anh thuộc lòng nói về vẻ đẹp gốm sứ hay sự độc đáo của các bức vẽ bằng tay... Cô bạn tôi đôi lúc giải khuây với việc đếm lại tiền, giấy chuyển khoản có nguồn gốc từ mọi ngóc ngách thế giới. Tôi uống cà phê. Cà phê không làm người ta thông minh nhưng nó đổ đầy cảm giác vừa lòng với chính mình. Thỉnh thoảng nhìn tôi một cách thờ ơ, Ninh nhắc: "Cậu uống nhiều vô cớ!" Các cô gái đọc sách hay đưa nhận xét bí hiểm. Tôi thích uống, vậy thôi.

Đoạn đường từ cửa hiệu về nhà phải lên đoạn dốc nhỏ. Tôi thở đầy phổi mùi thơm tươi mát của đêm, những cơn gió dính muối biển và bất chợt, tôi tới ngồi xệp trên cột điện gãy đỉnh dốc, nhìn về phía chung cư xa. Căn buồng T tầng 2 dễ nhận thấy, Một cánh cửa sổ luôn hé, con cá nylon treo dưới hàng hiên như vĩnh viễn bơi trong ánh đèn trắng. Ngày nào tôi cũng gặp cô. Công ty T làm việc và phòng thiết kế chỗ tôi chung toà cao ốc. Chúng tôi cùng đi thang máy, quen nhau lần mất điện bị giam trong cái thùng sắt tối tăm. T là một cô gái giản dị, mớ tóc thẳng, đôi mắt yên tĩnh và hơi thở nhẹ. Tôi chẳng biết nói gì cả nên hỏi cô có thích xem phim Hàn Quốc không. Cô nói mới đi làm chưa mua ti-vi. "Còn bóng rổ?" - Tôi hỏi tiếp, các nhân vật trên phim hay chơi môn này. T bật cười: "Tồi lắm!". "Thế sách thì sao?" - Khi hỏi điều ấy, tôi nhớ Ninh, cô bạn đọc quá nhiều và sống hơi khác thường. Cô gái xa lạ quay nhìn tôi: "Anh đang xem quyển gì?" Sự bối rối xâm chiếm vài giây trước khi tôi nhớ một tên sách Ninh để trên quầy hàng. Cô gái mỉm cười trong bóng mờ, nhắc tới Kenzaburo Oe, Phan Triều Hải, Kazan... những kẻ hoàn toàn xa cách với cuộc sống tôi. "Anh thích ai trong số họ không?" - Tiếng nói T dịu dàng, thân thiện. "Chẳng ai cả!" - Tôi đáp, với một chút tổn thương. "Cũng không đến nỗi nào..." T nói đơn giản. Bất giác cả hai cùng cười to, nhẹ nhõm. Khi ấy thì thang máy mở được cửa. Tia nhìn người bảo trì thang đặt lên chúng tôi ngờ vực tò mò. Tôi đọc và nhớ bảng tên cô gái. Bóng rổ, sách, cà phê, phim Hàn Quốc... những thứ tôi thích hay không thích. Thế nhưng chúng đâu quan trọng nữa khi một người đàn ông tìm thấy cô gái mà anh ta biết hình ảnh cô sẽ xâm chiếm anh, ngày mỗi ngày chất đầy lên, như những món đồ lạ lùng trong ngăn kéo...

Tôi ngồi trên trụ điện gãy thêm một chốc. Ô đen trắng tầng 2 bất động. Có lẽ T đang theo đuổi câu chuyện trên những trang sách. Một cái bóng lướt qua khung cửa. Rất nhanh. Tôi tự nhủ cô gái sắp ngủ rồi. Xách cái bình thủy trống rỗng, tôi nhổm dậy, rảo bước về nhà. Vài mẩu lá rơi xuống vỉa hè như những mảnh giấy cũ.
...

Ninh là cô gái bất thường - trên kia tôi hơi đả động điều này. Đang làm hoạ sĩ ở một xưởng phim, cô ta nghỉ ngang. Thời gian đó thi thoảng cô nhắn máy tôi ghé nhà, ngôi nhà lớn có vườn bao quanh mà thời sinh viên, tôi không thể hoặc không muốn bén mảng. Nhưng về sau chi tiết ấy chẳng còn ý nghĩa. Cô ta cần một ai để nói chuyện. Tôi là thằng bạn duy nhất cô chọn. Và tôi tới. Ninh đã ở lì trong cái chòi gỗ sau vườn hơn một tuần, như con gấu thờ ơ buồn bã. Tôi leo lên căn phòng nhỏ bằng gỗ trước là nơi vẽ của Ninh. Mùi giấy báo, mùi sơn khô, mùi dầu hoả nồng nực xông thẳng ra như bầy ong vàng hung. Cô bạn tôi ngồi im trên cái bục mẫu, nhìn đám lá qua lỗ thủng trên trần. Mọi thứ hệt một cảnh phim khiến tôi chán ốm. Ninh lầu bầu cho biết cô ta không bao giờ tới xưởng phim nữa. Tôi chẳng hỏi lý do. Lý do của các cô gái độc lập thường chính xác nhưng khó hiểu. Dù không đau răng, Ninh dùng cháo, uống hàng bình nước trà, rồi lại nằm im suy nghĩ về đủ thứ vớ vẩn - tuổi trẻ, thời gian, tình yêu, và cả sự sinh nở. Tôi gợi chuyện chán rồi cũng lặng thinh theo. Đến tối Ninh muốn tới quán gần trường đại học. Quán mở mấy bài cũ của Bee Gees. Tôi lầm bầm hát theo. Những ngày đó (một tuần? Có thể nhiều hơn) Ninh ở trong tầm nhìn và sự quan tâm của tôi. Vài tối muộn tôi ngủ lại xưởng vẽ gỗ cũ. Tôi nghe tiếng cô ta trở mình như con cá trong chậu nước. Nhưng tất cả chỉ dừng ở đấy.

Khi tôi đi làm thiết kế hơn một năm và Ninh ra khỏi trạng thái suy sụp, chúng tôi vét tiền mở cửa hàng gốm. Một cô gái trẻ, nói tiếng Anh và Đức lưu loát, am hiểu tranh sơn dầu và kỹ thuật men- những chi tiết này thu hút khách tới đông cửa hàng. Chúng tôi kiếm nhiều tiền. Thi thoảng tôi đoán Ninh sắp bỏ đi. Nhưng cô ta vui tươi. Khi tôi thổ lộ về cô gái tình cờ thang máy cao ốc, người cùng hội cùng thuyền phá lên cười, nhướng mày:

- Như thế có liên quan tới tình yêu không?

- Đi thang máy và mất ngủ ư? - Tôi lúng túng.

Ninh không trả lời, lật báo xem những món gốm cổ mới vớt lên từ đáy biển. Khuya, lúc tôi gần tới chỗ đứng trên dốc nhìn về chung cư có ô cửa nhà T trắng xanh, Ninh phóng sượt qua, phanh gấp, nhìn vào mắt tôi: "Cậu hãy lập tức nói với cô gái kia những gì cậu nghĩ, hoặc đừng dính líu vào vụ này nữa..." Tôi sợ gì chứ? Không biết! Chỉ rõ ràng tôi không can đảm như người chạy xe rất nhanh xuyên qua bóng tối. Ninh làm những điều mình nghĩ: Bỏ đi khỏi xưởng phim, nhúng tay vào mối vất vả chạy hàng, vẽ gốm, giao dịch... Tức là rời bỏ trạng thái yên ổn để đối diện sự huyên náo và nguy cơ thất bại rình rập. Nhưng cô ta đâu có chìm xuồng. Có lẽ tôi cũng nên làm điều gì, thay vì đứng yên và nhìn về ô cửa mỗi khuya.
...

Tòa chung cư nhìn gần lớn hơn tôi nghĩ. Những bức tường liên miên thấm ướt bắt đầu lên rêu ở mấy vết nứt, một con chó chạy rong ngửi những bông hoa dại đọng nước mưa. Tôi hỏi đường lên tầng 2. Người đàn bà giữ xe chung cư có đôi mắt kỳ dị khiến cảm giác nhẹ nhõm tươi tắn mà Ninh truyền cho tôi phai nhạt chút ít. Tôi nhìn lại bó cúc đất xanh lam ban nãy mua, hít một hơi dài. Dãy hành lang đọng nước. Tôi gõ nhẹ cánh cửa người ta chỉ dẫn, bỗng dưng muốn bỏ đi. Tuy nhiên cửa đã mở. Gương mặt T đã ở đấy như hàng trăm, không, hàng ngàn lần tôi thấy trong tưởng tượng. Cô ngạc nhiên tột độ, rồi cười dịu dàng: "Vào đi!" Bên trong căn phòng nhỏ của T mọi thứ toát lên vẻ âm thầm hơi bất an của những món đồ không ở đúng vị trí của nó. Tôi liếc nhìn quyển sách trên bàn, đó là tựa sách mà tôi có nhắc tới lần đầu gặp T để khoả lấp sự bối rối. Cô gái mang ra cà phê trong cái tách nâu, bảo: "Buổi chiều uống cà phê thì ngày như dài hơn..." Tôi gật đầu: "ừ, nghĩa là mình cũng làm thêm được nhiều việc. Tối nào tôi cũng uống nó, nhưng chẳng ngon thế này". Nụ cười toả trên mặt T như sóng thấm lên bờ cát. Tôi nhấp một ngụm đen sánh, tự hỏi vì sao quá lâu tôi trì hoãn tới tìm T. Bó cúc toả mùi hăng hắc nằm dưới gầm bàn. Ngoài cửa sổ, chiều chất đầy mây sẫm. Những con bồ câu xám tro rời bầu trời xám tro trở về tổ trên sân thượng. Cô gái đối diện cũng vừa đi làm về, quầng mắt thoáng mỏi mệt như hai mặt hồ sâu thẳm... Một khung cảnh bình thản để người ta nói thật nhưng suy nghĩ của mình. Tôi nói nhanh: "T này, tối nay tôi không ra cửa hàng. Hình như tôi muốn được đưa T đi loanh quanh chơi". Cô ngẩng lên, tia nhìn tối sẫm: "Anh nghĩ như vậy sẽ dễ chịu ư?". Cảm giác choáng váng giống như thể trồng cây chuối quá lâu rồi biết mình không thể đứng lên được nữa. Tôi nghĩ cô từ chối, đơn giản là T không nghĩ tới tôi như tôi nghĩ tới cô, hoặc tệ hơn, tất cả những gì thuộc về tôi khiến cô xa lạ. Cô gái vào bếp mang ra vài quả trứng luộc. Chúng tôi ăn trứng chấm muối, uống cà phê, kiềm chế tâm trạng của mình khỏi sự xao động thất vọng. Tôi chộp vài mẩu chuyện bay vụt qua đầu, nói huyên thuyên. T nghe nhưng nhìn đâu đâu, tháo giấy báo bọc bó hoa cúc, cảm ơn tôi đã nhắc cô bây giờ sang đông, cũng có nghĩa là cô ra trường đi làm gần 1 năm rồi... Những căn hộ chung quanh bắt đầu cuộc sống buổi tối. Trẻ con la hét. Tiếng bếp núc. Âm thanh của những tập phim Hàn Quốc. Chúng tôi đứng nán bên cửa sổ nhìn qua ti-vi màn hình lớn nhà bên cạnh. Phải chăng ti-vi đã dựng nên trong tôi ao ước vô hình về tình yêu, về cuộc sống tươi màu và hạnh phúc như thế... Nhưng sao khi tôi đem nó ra thử nghiệm, T đã thoái thác? Tôi chỉ cho T một nhân vật nữ làm việc cật lực, cáu bẳn, bảo giống Ninh, người cùng hội cùng thuyền của tôi nhiều năm qua. Thình lình T ngoảnh sát mặt tôi, giọng như hơi thở nhẹ: "Cô Ninh ấy hay lắm. Còn tôi, chỉ là thứ xúc cảm thoáng qua thôi. Như một bộ phim, người ta có thể cười to hay khóc to vì nó, nhưng rồi phim hết người ta ra khỏi rạp và chẳng có gì quan trọng nữa..." Tôi lục điếu thuốc nhàu trong túi. Thế đấy, tôi đã nghĩ mình sẽ không đụng vào thuốc vì T làm văn phòng, cô không chịu nổi nó. Tuy nhiên mọi việc đã khác. Tôi nhìn điếu thuốc như quan sát một vật lạ, rồi thả nó rơi xuống sân cỏ.
...

Phải khá lâu sau buổi chiều kỳ quặc trên, tôi mới thu xếp ổn thoả với cảm giác trống rỗng và sự cô độc không rõ tên. Ninh là người bạn khôn ngoan. Cô ta không tò mò, không bày tỏ cảm thông vì ở một lẽ nào đấy, chúng tôi thân nhau tới mức không thể mở lời an ủi nhau được. Tôi thôi uống cà phê bởi chẳng cần nó, cũng đủ thấy một ngày dài. Ninh lấy cái bình thuỷ về nhà, đổ đầy cà phê nhưng pha thêm sữa và cả hai cùng uống khi tối muộn. Tôi ghét sữa. Cô ta ghét thứ nước đen kịt. Một sự trung hoà cũng được. Mưa nhiều, nhất là các buổi chiều. Khách tới cửa hàng ít. Hai đứa chung tiền mua một cái ti-vi nhỏ và ngồi trong góc hiệu xem tất cả các game show, nghe các chương trình ca nhạc, cười vui vẻ. Phim Hàn Quốc cũng hấp dẫn. Ninh theo dõi chúng với vẻ ngờ vực. Tôi hơi xấu hổ nhớ lại đã có lúc hình dung tình yêu sẽ mọc lên trong cảnh lãng mạn như vậy. Tình yêu, suy cho cùng, cũng chỉ là một mẩu ghép nhỏ trong cuộc sống. Và người ta không thể rập vài khuôn mẫu, dù hoàn hảo và lãng mạn...

Mọi việc lại chảy đi với nhịp độ bình thường. Thỉnh thoảng tôi giáp mặt T trong toà cao ốc. Cô bước vào thang máy, bấm nút chờ, không nói gì. Người trông xe chung cư cái chiều hôm đó cho biết T là tình nhân ông chủ cô làm thư ký, cô sống trong căn hộ ông ta thuê gần một năm nay. Mách bảo ấy từng khiến tôi cay đắng biết bao. Tôi nghĩ giá mà cô chọn cách sống khác. Mối tình công sở giống như ngọn núi lửa tàn lụi và sự quyến rũ đi cùng nó cũng tắt theo, chỉ còn chút thông cảm dịu dàng như vệt tro nhẹ... Ninh tắt ti-vi, bắt đầu ôn ngoại ngữ. Cô ta lúc nào cũng bận rộn và tỏ ra bực bội khi tôi nhàn tản. Thêm một người khách Tây hỏi mua mấy cái cốc Phù Lãng. Tôi gói hàng, bấm thẻ tín dụng, nhẩm tính số tiền thu được trong ngày. Bỗng Ninh gấp sách, nói to: "Hôm nay kiếm được thế là đủ. Chúng ta đi đâu thôi. Không nên ở trong nhà quá nhiều, nhất là tối không mưa". Tôi ngạc nhiên, hơi buồn cười. Chúng tôi chạy chung cái xe cũ của Ninh. Mới hơn 9 giờ, đường phố không quá ồn ào. Tôi cho xe đi mãi, hít đầy phổi hơi muối bám trên những ngọn gió từ biển lùa về. Cảm giác ra khơi như một cánh buồm đột nhiên trỗi dậy, không lầm lẫn. Tôi nói: Ninh này, tụi mình cần làm cái gì tử tế, trước khi thời gian trẻ qua mất..." Cô ta không trả lời, chỉ đặt nhẹ đầu trên vai tôi. Một hơi ấm tưởng như bỏ quên. Một hương vị cà phê gần gũi. Luôn là vậy, hạnh phúc, cảm giác bắt đầu từ những thứ bình thường không ngờ.

1642




Đêm đông lạnh lẽo chúa sinh ra đời,
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa...


Tiếng nhạc Giáng Sinh réo rắt hắt ra từ một tiệm bán đồ chơi với cơ man những món quà cho trẻ con. Đêm nay đêm Giáng Sinh, ngày Chúa ra đời dưới máng lừa khiêm tốn. Mọi nơi, mọi chốn, ai ai cũng vui mừng, hớn hở, chào đón con Thiên Chúa giáng trần, đem lại niềm Hạnh Phúc, an vui cho trần thế

Trên góc phố nhộn nhịp đầy ánh đèn chớp tắt với dòng người hối hả qua lại. Trên từng khuôn mặt ít nhiều thấp thoáng một niềm vui và một nơi chốn để trở về. Duy có Khôi, thằng bé bán vé số, tuy cũng trộn lẫn trong đám người hối hả ấy, nhưng nó lại có một tâm trạng bơ vơ, lạnh lẽo và buồn sầu. Ước mơ của nó là làm sao có thể bán hết được mấy tập vé số trên tay để có chút tiền đem về phụ giúp với gia đình. Giọng nó đã khản vì mời chào, nên chỉ có thể quơ quào, đụng chạm vào những người đang hối hả ngược suôi, cố gây sự chú ý của họ để mời mua vài tấm vé cầu may.

Bầu trời bắt đầu có thêm nhiều vì sao mọc, tối thẫm. Khôi chẳng bán thêm được tấm vé nào. Nó cảm thấy lạnh, đói. Muốn quay trở về, nhưng nghĩ đến cái xó tối tăm, với người chị đang bị bệnh, Cha chắc giờ này vẫn còn đạp xích lô, mẹ vẫn còn ngồi bán hàng rong ở các vỉa hè chắc chưa về. Nghĩ đến gia đình làm nó có thêm sức để nấn ná lại trên vỉa hè đã bắt đầu thưa người...

Khôi đi dọc theo vỉa hè. Cố lấy giọng tươi tỉnh mời chào khách qua đường. Nó đi lang thang xuôi về con phố, niềm thất vọng làm nó muốn òa khóc. Mấy tập vé còn nguyên trong túi áo. Hình như đêm nay ai cũng quá bận, bận tới độ họ không còn được chút thì giờ để có thể khởi lên một ít lòng thương hại nhỏ nhoi đối với thằng bé.... Thất thểu, lang thang, vừa đi nó vừa khóc rấm rức....

Bước chân nó trôi vào một khu nhà với con đường và hai hàng cây yên tĩnh rồi ngừng lại trước một khung cửa sổ. Nơi đó, có thể nhìn thấy ánh đèn ấm cúng và một hình ảnh từ trong nhà hắt ra. Trong góc phòng, cây thông lớn giăng đầy những ánh đèn nhiều màu chớp tắt như những vì sao. Bên cạnh là con bé đang loay hoay ngồi chơi một mình....

Khôi dí sát mặt mình vào khung cửa. Hơi ấm toát ra làm có thèm thuồng. Một sự ghen tức bỗng nảy sinh trong tâm. Nó đập mạnh bàn tay lên khung cửa. Nghe tiếng động, con bé ngẫng lên, chợt nhìn thấy thằng bé, nó bỏ đồ chơi, chạy đến bên khung cửa. Cả hai nhìn nhau, chỉ cách có một miếng kính mà là hai cuộc đời hoàn toàn khác biệt. Con bé có mái tóc quăn quăn tự nhiên, khuôn mặt bầu bĩnh với đôi mắt to đen. Nó nhìn thằng bé một lúc rồi chợt nhớ đến bức thư vừa nắn nót viết cho ông già Noel hôm qua, xin ông gửi cho nó một người bạn trong đêm Giáng Sinh - "Chắc là người này đây"  - Nó toét miệng ra cười, khuôn mặt hớn hở:

- Có phải anh mới từ nhà ông già Noel đến không?

Qua tấm kính dầy. Khôi chẳng nghe con bé nói gì, nó hỏi lại:

- Em nói gì cơ? Cho anh vào chơi tí nhé? Vừa nói, nó vừa gục gặc cái đầu...

Thấy Khôi gục gặc đầu, con bé rộn lên trong lòng một niềm vui. Nó biết ngay  đây chính là món quà nó xin. Con bé kêu lên:

- Anh chờ Bé một chút. Bé đi gọi Vú

Rồi nó tất tả quay lưng:

- Vú ơi.... Vú ơi.... Mở cửa cho bạn em vào. Nhanh lên!

Người Vú già đang ngồi ngủ gục trước cái TV mở lớn, nghe con bé kêu giật mình, ngơ ngác chạy ra hỏi:

- Ai? Ai là bạn của Bé? Khuya rồi, sao lại có bạn đến chơi hả?

Giọng con bé nghiêm trọng:

- Phải đấy. Bạn của Bé là một Thiên Thần. Chỉ có Thiên Thần mới đến vào giờ này thôi. (Giục giã) Vú ra mở cửa ngay, kẻo bạn em bị lạnh...

Cả hai trở lại phòng khách. Người Vú nhìn thấy một đứa bé trai khoảng mười hai tuổi, mặt mũi tuy lem luốc nhưng không dấu được nét thông minh với đôi mắt trong sáng đang đứng ngoài khung cửa sổ. "Lại một đứa trẻ đáng thương đây" Người Vú nghĩ thầm, trong tâm bà khởi lên một mối thương cảm. Bà lẳng lặng mở cửa:

- Vào đây cháu. Nhanh lên, kẻo lạnh.

Hai đứa bé gặp nhau, hân hoan. Con bé nắm lấy tay Khôi kéo đi:

- Có phải anh từ chỗ ấy tới không? Anh đi đường xa có mệt không?

Khôi chẳng hiểu con bé hỏi gì. Nhưng nó cứ gật bừa:

- Mệt chứ!

Con bé lại hỏi:

- Anh có đói không?

Khôi lại gật:

- Đói chứ!

- Anh tên gì?

- Khôi. Còn em?

- Bé tên Ngọc.

Người Vú già lẽo đẽo theo sau, nhắc nhở:

- Bé này, bạn của Bé chỉ có thể ở chơi khoảng một tiếng thôi. Bé còn phải đi ngủ kẻo chút nữa Ba Mẹ về đánh đòn đấy!

- Vú ơi, đừng lo. Ba Mẹ hôm nay đi "ball" về trễ lắm. Vú cho bạn em ăn đi...

Sau khi ăn uống no nê. Hai trẻ trở ra phòng khách với đám đồ chơi trên mặt đất. Ngọc khoe:

- Bé có nhiều đồ chơi lắm. Anh thích chơi thứ gì?

- Anh thích một cây kiếm dài đeo lủng lẳng bên hông. Anh thích làm "Hiệp sĩ Nhật"

Ngọc ngẩn ra:

- Bé chỉ có đồ hàng và búp bê thôi. Hay mình chơi trò vợ chồng nghe?

- Trò vợ chồng chơi làm sao?

- Thì anh giả làm chồng, Bé giả làm vợ. Mình có con búp bê làm con.

- Rồi sao nữa hả?

- Rồi mình phải gọi nhau "anh ơi", "em ơi",  bế bồng búp bê ru nó ngủ. Bé thì làm cơm, anh ngồi xem báo. Giống như Ba Mẹ Bé thường làm ấy mà!

- Như vậy thì chán lắm. Anh thích chơi trò đánh nhau cơ!

Con bé mặt xụ xuống một đống, phụng phịu:

- Chơi đánh nhau thì chán lắm. Bé thích chơi đồ hàng hơn...

- Thôi được.... (cằn nhằn) Bé...phiền quá à...

Mặt con bé tươi lên. Nó có sự tượng tưởng rât phong phú. Một cách rất tự nhiên, nó reo lên:

- Ơ... Anh ơi, em bé khóc kìa, anh dỗ nó đi. Bé còn đang làm cơm nè...

Khôi luống cuống, bồng con búp bê trên tay:

- Dỗ làm sao hả em?

- Thì cứ hát "ầu ơ...ầu ơ..."  đó mà. (Reo lên) À, chắc nó đang đói, anh lục trong thùng đồ chơi lấy bình sữa nhét vào miệng nó ấy!

- Được.... được....

Khôi chạy lại thùng đồ chơi, lục loạn xạ một hồi kiếm được cái bình sữa bé tí, nhét vào miệng con búp bê đang há sẵn thành một vòng chữ o. Trong khi con bé loay hoay bày một số đồ hàng ra đất. Nó để hai cái tô nhỏ trong có vài sợi kim nhũ lấy từ cây thông trên một cái bàn nhựa con con, nhỏ xíu:

- Có đồ ăn rồi nè. Anh ăn đi!

Khôi quăng con búp bê qua một bên. Trịnh trọng nâng cái tô bé xíu lên ngang mày, giả giọng nói ồm ồm:

- Bé cho anh ăn cái gì mà...óng ánh thế?

Con bé cười toét miệng, nhe cái hàm răng sún:

- Bé nấu hủ tíu cho anh ăn đó...

- Nhưng không có đũa hả Bé?

- Thì anh cứ dùng hai ngón tay giả làm đũa ấy mà...

- Ờ... phải, phải...

Nói rồi, Khôi lấy hai ngón tay vờ làm đũa và thức ăn vào miệng. Xong nó nhắm mắt để thưởng thức rồi "À" lên một tiếng lớn:

- Tuyệt. Bé nấu hủ tíu ngon lắm.

Con bé sung sướng ra mặt vì lời khen. Nó le te chạy đi lấy hai cái ly nhỏ xíu đặt lên bàn:

- Sữa của anh đây!

Khôi cự nự:

- Ơ... Lớn rồi, mình không có uống sữa...

- Vậy thì uống gì?

- Uống cô ca nhé?

- Thì đây. Cô ca...

Khôi dốc ngược ly cô ca vào miệng, giả vờ kêu ực...ực... Xong, nó quăng ly qua bên, đề nghị:

- Bây giờ anh giả làm hiệp sĩ nhé?

Nói rồi, nó chạy tới thùng đồ chơi, vô ý, dẫm toẹt lên con búp bê đang nằm bên cạnh tới móp cả tay. Nhưng hề gì, búp bê không khóc gì cả, cứ mở mắt thao láo, miệng vẫn bú bình sữa rất sung sướng. Nó lục tung trong thùng tìm một cây kiếm hay một khẩu súng, nhưng chẳng thấy. Bỗng nó reo lên:

- A, đây rồi!! Nó dơ lên cao một cây đũa có đính ngôi sao trên đỉnh. Ngọc cười lớn:

- Ha...ha...ha.... Đó là cây đũa thần của bà tiên mà!!

Khôi khua khua cây đũa lên không trung, ra dáng một hiệp sĩ khệnh khạng nói lớn:

- Không sao. Ta là một hiệp sĩ có cây kiếm thần trừ gian, diệt bạo đây!!

Cả hai trẻ cùng cười ròn rã. Lâu lắm rồi Khôi mới có được những giây phút trẻ thơ như thế. Nó cảm tưởng như nó vừa sống dậy, bắt lại nhịp đập tươi mát của trái tim non tinh khôi.


o O o

Cuộc đời cứ thế đổi thay. Qua biến cố 75, Khôi trôi dạt theo con tầu định mệnh. Định cư ở một mảnh đất mới. Cuộc đời chàng quẹo quặt qua một con đường thênh thang đầy cơ hội vươn lên. Nay chàng trở thành một kiến trúc sư rất thành công và nổi tiếng. Gia đình chàng đã được đoàn tụ. Người chị luôn ốm đau, bệnh tật cũng lập gia đình. Riêng chàng vẫn cô đơn. Con tim thương yêu vẫn hoài vọng về một hình ảnh thơ ngây năm nào. Bao nhiêu mùa Giáng Sinh trôi qua là bấy nhiêu năm Khôi tìm kiếm lại hình bóng cũ. Dù tuyệt vọng, nhưng chàng vẫn nhất định không lấy vợ để mong tìm cho được cô bé tóc quăn, tốt bụng ngày xưa. Một lần chàng trở về quê hương, tìm lại ngôi nhà cũ với cánh cửa sổ rộng, được biết sau 75 đã bị đổi chủ. Người chủ cũ chẳng biết trôi dạt phương nào...

*



"Một lần nào, cho tôi gặp lại em..
Đôi môi ấy, đến nay còn hồng?..."
(Thơ Du Tử Lê)


Ba mươi năm sau, cũng trong một đêm Giáng Sinh với dòng người hối hả ở một thành phố lớn xa xôi bên nước Mỹ. Người đàn ông đứng tuổi đang vội vã bước qua những gian hàng bày biện cơ man các món quà đắt tiền, chàng cố tìm kiếm một món quà đặc biệt để tặng cho cha mẹ nuôi tốt bụng, cũng là người bảo trợ cho chàng. Còn đang chần chừ chưa quyết định thì bỗng một hình ảnh đập vào mắt chàng. Con bé con, với mái tóc quăn tự nhiên, khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt trong đen đang đứng phụng phịu trước một gian hàng bán đồ chơi đủ loại. Trên tay cầm chặt một thanh kiếm dài, nước mắt đoanh tròng chực rơi trên má. Bên cạnh, người mẹ đang dỗ dành:

- Con gái ai lại chơi kiếm bao giờ? Thôi, bỏ lại đi. Ông già Noel đã mua cho con một con búp bê bự ở nhà kìa. Mình về thôi...

Con bé òa lên khóc:

- Hụ...hụ...hụ... Nhưng con thích cái này cơ!

Có điều gì đó bóp nghẽn lại làm người đàn ông lặng đi, tê điếng. Chàng nhìn người thiếu phụ. Một vài nét thân quen nào đó còn loáng thoáng trên khuôn mặt. Cánh cửa của quá khứ bỗng mở tung, chàng nhớ lại như in hình ảnh một mùa giáng sinh năm nào. Tim chàng nhói lên một niềm đau tê tái. Người mà bao nhiêu năm nay chàng kiếm tìm một cách tuyệt vọng đang đứng trước mặt chàng đây! Rất gần, nhưng cũng thật xa vời. Mọi hy vọng mong manh gần như bị đốt sạch.

Ngọc ơi, sao anh gặp em trong những khoảng thời gian éo le mà anh không thể nắm bắt? Một là quá sớm, hai là quá trễ... Suốt cuộc đời anh chỉ là một chuỗi kiếm tìm. Để hôm nay tình cờ gặp lại, trong một tình huống không thể sửa đổi được nữa. Em vẫn là em - Một hạt ngọc quý giá mà anh đã không ngần ngại đánh đổi cả đời mình - nhưng vẫn còn quá sức xa vời tầm tay anh với... 


CH
1648




Lần đầu tiên biết yêu, tôi lặn lội hơn ngàn cây số từ Sài Gòn ra Hà Nội chỉ để gặp mặt người ấy trong vài giờ đồng hồ ngắn ngủi, chỉ để được nhìn thấy cái thành phố nơi người ấy đang sống, hít thở cái không khí nơi người ấy đang thở… Tôi đã đi bộ hàng chục cây số lang thang khắp Hà Nội, dạo vài chục vòng Hồ Gươm, đến khi rã rời thì lặng lê ngồi trên ghế đá nhìn mãi màu nước xanh lờ đờ và thấy đầu óc mình trống rỗng. Phải mất mấy ngày điên dại như thế, tôi mới nhận ra Hà Nội thật xa lạ với mình, để rồi lại tỉnh táo chia tay, tỉnh táo khoác ba lô lên vai, bình thản trở về. Trên chuyến tàu S2 Hà Nội – Sài Gòn, tôi chong mắt thức suốt ba đêm để đi đến một kết luận, rằng tình yêu chỉ làm cho mình trở nên yếu đuối, khốn khổ, và tự khuyên mình khôn hồn thì tránh xa đàn ông và đừng yêu nữa…

Nhỏ bạn thân đón tôi ở ga Hoà Hưng, hỏi tới tấp:

- Có gặp không?

- Có!

- Thế nào?

- Hết rồi!

- Hết? Hết nghĩa là sao?

- Là chấm dứt. Là quên. Là không yêu nữa, được chưa? Bây giờ mày cho tao về nhà đi. Tao buồn ngủ quá

Nó nhìn chăm chú bộ mặt xơ xác, đôi mắt thâm đen vì mất ngủ của tôi, lắc đầu

- Mày điên quá!

Ngày xưa, mẹ tôi cũng thường nói với tôi y như vậy. Khi tôi hét toáng lên và ném vỡ lọ mực vì không giải được bài toán khó. Khi tôi cứ thích leo tót lên cây vừa ăn cơm vừa đọc những cuốn sách dày cộm. Khi mỗi đêm tôi lại bắc thang trèo lên mái nhà nằm hát nghêu ngao…

Thỉnh thoảng, khi ba say, tôi cũng sợ ba điên. Những lúc ấy, ba trở nên hung dữ và tàn nhẫn, mắt ba long lên, đỏ ngầu, ánh nhìn nửa lờ đờ, nửa soi mói, giễu cợt… Ba nhiếc móc mẹ, chửi bới từ ông hiệu trưởng dê xồm thích tán tỉnh các cô giáo trẻ cho đến cả nghề dạy học của mẹ. Mẹ học không nhiều, mười mấy năm làm cô giáo tiểu học trường làng kiến thức mai một đi, gói gọn trong mấy phép toán, mấy bài tập làm văn đơn giản. Mẹ chẳng biết gì về thời sự trong nước hay quốc tế, càng không biết gì về triết học hay khoa học… Con đường mẹ đi mỗi ngày chỉ là từ nhà đến trường, ra chợ rồi về nhà. Dến mùa thì lên rẫy nhổ mì, ra ruộng gặt lúa. Và hết. Thế giới của mẹ loanh quanh chỉ có một cái xã bé nhỏ. Chuyện mà mẹ biết nhiều nhất là làm thế nào để chiều chuộng người chồng khó tính và nát rượu của mình. Và làm chiếc cầu nối giữa ba với bọn tôi, những đứa con bị các cơn say của ba làm cho hoảng sợ, đến nỗi thấy ba là lại len lén lỉnh đi. Bởi thế mà trong những cơn say, ba thường bắt mẹ ngồi bên cạnh cho đến tận khuya, hỏi mẹ như trong một cuộc thi kiểm tra kiến thức hay một trò chơi trí tuệ. Chị em tôi rúm ró ngồi trong một góc, nhìn mẹ thinh lặng chịu thua một cách nhẫn nhục, và nhìn ba chửi bới mẹ là một người đàn bà tầm thường, dốt nát, mà nghe tim mình đau thắt lại tưởng chừng không chịu nổi. Những phẫn nộ trước cuộc sống khô khan được ba mang từ ngoài đường về trút lên những đồ vật trong nhà. Ở nhà tôi, từ chiếc đũa tre đến cái cát-sét, không có cái nào chưa từng bị thương tích, sứt sẹo. Chỉ còn cái ti vi 14 inch, mỗi lần thấy ba đi liêu xiêu về từ đầu ngõ, thằng em tôi lại lui cui khiêng giấu xuống gậm giường.

Có hôm, hơn một giờ sáng, ba thấm rượu, thức dậy đuổi mẹ con tôi ra hiên và khoá cửa lại. Em tôi đã quen với những chuyện điên loạn khi ba say, cuộn tròn người nằm chèo queo ngay trước cửa ngủ ngon lành. Mẹ nhẫn nhục ngồi khóc bên thềm nhà, và khi uất ức không chịu nổi thì đay nghiến tôi: “Coi chừng đó, dòng họ ba mày có máu điên mà”. Tôi cũng sợ mình có máu điên. Nghe nói, từ lúc còn nhỏ, cô Hân tôi đã có thần kinh không bình thường. Hàng ngày, cô vẫn đi chợ bán hàng kim chỉ, vẫn nhận đồ về thêu. Nhưng thỉnh thoảng lên cơn, cô lại quên đường về nhà, quên hết mọi sự, nhìn đám cháu nghịch ngợm như một lũ chó hoang. Mắt long lên, răng nghiến lại, có cầm cái thước may đuổi chúng tôi chạy táo tác. Đứa nào chạy chậm rơi vào tay cô thì cứ yên tâm là bị nhừ đòn, cô sẽ quật như quật vào một cái bao cát. Các chú tôi lao vào giằng ra thì bị cô cắn, xé, giật tóc tơi tả…

Vậy mà đến một ngày, cô tôi yêu. Người đàn ông điển trai với hàng ria con kiến, cứ một hai hôm lại lễ phép đến xin ông bà nội đưa cô đi chơi. Nghe nói là anh trai của một người bạn hàng bán gần chỗ cô. Hắn ở chợ, trông cũng xứng đôi với cô, vốn xinh nhất so với chị em trong nhà. Chẳng hiểu anh ta có biết cô tôi thỉnh thoảng lại lên cơn bất tử hay không, nhưng điều dễ nhận ra là từ lúc quen anh ta, cô tôi trở nên hiền lành trong một thời gian rất dài. Ông bà nội hy vọng và hy vọng. Nhưng đến gần ngày cưới thì đột nhiên anh ta không đến nữa. Cô Hân chẳng có vẻ gì đau khổ hay buồn rầu, nhưng lại im lặng một cách đáng sợ, ai hỏi cũng không trả lời, chỉ cười ngớ ngẩn. Bà nội tôi khóc rưng rức từ ngày này sang ngày khác. Ông nội thở dài, còn ba tôi và các chú thì nghiến răng ken két: “Thằng mất dạy. Mày mà để tao gặp lại thì tao đập cho vỡ mặt”. Nhưng anh ta biến mất như chưa từng xuất hiện, nghe phong thanh đã chuyển nhà ra Bắc…

Cô tôi có thai, sinh thằng bé đẹp như thiên thần, mắt to, mũi cao, miệng xinh, nhưng càng lớn, mặt nó càng có vẻ rất du côn làm tôi lo lo… Mọi người trong nhà cũng nhận ra điều đó, và cũng lo lo, nhưng không ai nói ra cho đến ngày mẹ tôi thẽ thọt: “Thằng Cu con cô Hân có nét gì đó lì lợm giống… chú Hiên quá… Không biết lớn lên…” .  Tôi lặng người đi. Chú Hiên chính là cái gót chân Asin của gia đình nhà nội, là một điểm mà bất cứ ai chạm vào cũng có thể làm cả những người đàn ông mạnh mẽ nhất trong gia đình ngã quỵ. Mắt mí lót ngang tàng, thông minh, mũi cao, da nâu, gương mặt rắn rỏi và khuôn miệng bướng bỉnh, chú Hiên có một vẻ đẹp lạnh lùng rất đàn ông. Thỉnh thoảng, những cô gái bị chú tôi gạt gẫm lại đến thăm nhà. Đẹp có, xấu có, sáng sủa có mà ngớ ngẩn cũng có, nhưng tất cả họ đều giống nhau, đều si mê và đau khổ một cáhc tự nguyện, tuyệt nhiên không hề oán trách. Chú tôi có những ngón tay đẹp và dài rất nghệ sĩ. Đôi lúc chú cũng nặn tượng vẽ tranh, và chơi guitar tuyệt hay. Nhưng với mọi thứ nghề, chú dễ dàng đam mê bao nhiêu thì cũng nhanh chóng chán nản bấy nhiêu. Xét cho cùng, chú cũng thuộc loại người tài hoa, nhưng là sự tài hoa nửa vời. Và sự tài hoa nửa vời bao giờ cũng đẩy người ta đến đường cùng. Bởi một người tài không trọn vẹn là một người không thể làm được điều gì lớn lao, nhưng lại luôn khát khao làm được những điều lớn lao. Đấy chính là bi kịch. Tài hoa nửa vời, thêm một chút cuồng nộ, một chút yểu hèn. Thế là điên. Cuộng nộ với cuộc đời và hèn yếu với bản thân.



Chú Hiên vốn không điên, nhưng lại dễ sa đà vào những trò may rủi đầy nguy hiểm, trai gái, cờ bạc, hút xách, đua xe, không thiếu thứ gì. Biết rằng mình không sa đà, nhưng quá kiêu ngạo để trở thành lương thiện. Môi chú tôi thâm tím lại vì thuốc, và thường chỉ trở về nhà khi đã say bí tỉ. Bà nội khóc, ông nội và cách chú khuyên nhủ, la rầy, rồi năn nỉ… tất cả đều không mang lại được thay đổi gì. Nhưng khi tỉnh táo lại chỉ nói chuyện làm ăn khổng lồ mà chỉ mới nghe qua cũng đủ biết là phi thực. Chỉ có điều, chú Hiên nói một cách say sưa, như tin chắc rằng mình sẽ làm được nếu mọi người và cuộc đời cho chú một cơ hội nho nhỏ. Mọi người lắc đầu: “Thằng điên!”… Cho đến một ngày ai cũng nhớ, chú tôi trở về say khướt, tơi tả và hoang dại như một con sói rừng đang say máu, kề dao bên cổ bà nội bắt đưa tiền để đi làm ăn… Ông nội quỳ xuống van xin. Ba tôi chộp được con dao và quẳng chú ra đường. Hai tiếng đồng hồ sau, người ta đến báo cho biết chú Hiên đâm đầu vào xe tải, chết cách nhà không xa.  Đó là lí do vì sao mẹ toi thường nói trong những lúc uất ức: “Dòng họ nhà ba mày bị điên!”. May mà ba không nghe rồi có khi ba điên thật.



Thỉnh thoảng, tôi cũng nghĩ mình điên. Đó là những buổi tối trời mưa, ngồi một mình trong đêm khuya nhấm nháp những giọt cà phê đắng tê lưỡi, tôi bỗng nhận ra mình đang cười mà chẳng biết vì sao. Đó là những ngày chạy xe giữa đường, đầu óc bỗng chẳng nhớ gì đến gia đình, bạn bè, bài vở, chỉ thấy buồn, thấy mình sao trống rỗng, cô đơn và vô dụng đến nỗi muốn quay đầu xe đâm vào đâu đó… chết quách cho xong.



Cô Hân không ra bán ở chợ nữa, nhưng vẫn lặng lẽ nhận hàng thêu. Đôi lúc tôi thấy cô ngồi ngẩn người ra, đôi mắt dại đi một cách đáng sợ. Thỉnh thoảng cô nổi cơn điên lại xách cây rượt thằng bé chạy có cờ… Càng lớn, cái mặt nó nhìn càng lì lợm. Ông bà nội tôi mất chỉ sau chuyện cô Hân vài năm, trong buồn đau và bênh tật. Ba vẫn uống say rồi dặn vặt mẹ, mẹ dằn vặt tôi, và tôi dằn vặt chính mình.



Tôi không muốn yêu nữa một phần vì mối tình đầu không đi đến đâu, một phần vì chuyện cô Hân và chú Hiên. Nhìn cô Hân, tôi đâm sợ những người đàn ông có hàng ria con kiến. Tôi càng sợ những người đàn ông đẹp trai có đôi mắt ngang tàng, bởi chúng cứ làm tôi nhớ về chú Hiên.  Nhưng rồi, có một ngày, một người đàn ông khác lại đến, cũng phảng phất một chút ngang tàng, nhưng thật lạ là không làm tôi sợ. Anh vực tôi dạy, làm cho tôi tin rằng mình có chút tài năng và bắt tôi làm việc. Tôi thấy mình bớt điên đi. Tôi nhận ra rằng cái thứ tình cảm mà tôi lẩn tránh lại ập đến, chiếm hết trái tim và suy nghĩ của tôi. Nó làm tôi hạnh phúc, và sợ hãi. Người đàn ông của tôi khá tỉnh táo. Và có bao nhiêu cuộc tình đã đến rồi đi trong đời anh, tôi cũng không biết nữa. Yêu hay không yêu, yêu nhiều hay yêu ít, đích thực hay ngộ nhận, anh đều đã trải qua. Tôi đọc được trong mắt anh cả sự hoài nghi lẫn nỗi chán chường. Nhiều lúc, anh nhìn tôi như muốn nói: “Cô bé ơi, cô biết gì về cuộc đời này kia chứ”. Anh thừa biết cuộc đời không đơn giản với những gì được mất. Anh thừa biết thời gian có thể làm phai mờ cả những vết thương lòng lẫn tình yêu… Và tôi, chưa tròn 24 tuổi, tôi chỉ là một người đàn bà chưa thành hình trọn vẹn, chưa đủ trải nghiệm và đau đớn để có thể lấp đầy nhưng mất mát trong anh. Tôi chỉ là một đứa bé con ngây thơ và sợ hãi, hãi sợ cả mối tình đầu tiên chưa có gì đau khổ để đến nỗi phải trốn chạy tình yêu. Nhưng hình như, tôi đã quen một mình, nghĩ một mình và đau một mình. Tôi sợ cảm giác yêu, vì cả nỗi khao khát được yêu lẫn nỗi sợ hãi bị phản bội, bị bỏ rơi đều mạnh mẽ và day dứt như nhau…



Rất nhiều đêm, nhớ người đàn ông của mình không ngủ được, tôi leo lên mái nhà, nằm ngửa mặt lên trời và khóc. Những vì sao thì ở rất xa, nhưng chúng lại luôn lấp lánh, giống như tình yêu vậy. Tôi tự hỏi mình sẽ bay lên trời để nắm lấy hay chờ chúng rụng xuống trên tay. Tôi nghĩ đến cô Hân, nghĩ đến chú Hiên… Tôi nghĩ đến tôi, đang đêm thức dậy leo lên mái nhà, ngửa mặt lên trời mà khóc. Và tôi nhận ra rằng, đúng thật là tôi cũng có một chút điên trong dòng máu… Một người quá tỉnh táo như anh có thuần hoá được tôi chăng? Và tình yêu của anh có đủ để giúp tôi vượt qua những ngày điên của mình, vượt qua một chút yếu hèn để đến với anh chăng?



Đôi khi, tôi cũng nhớ đến mối tình đầu, và tự hỏi tại sao nó không đủ làm cho mình đau khổ khi chấm dứt, nhưng lại đủ sức thôi thúc tôi đi một mình ra tận Hà Nội chỉ để làm một chuyện là nhìn thấy người ấy. Tôi chợt hiểu, có những điều mà người ta chỉ có thể làm được khi ở vào một thời điểm nào đó. Khi qua rồi, người ta mới biết rằng mình đã từng rất điên.

1462




Chàng trai hỏi người yêu:

- Trong đời em đã bao giờ em cảm thấy một cái đụng chạm dù rất nhẹ của một người khác mà làm rung động tất cả các dây thần kinh của em chưa?

- À, cũng một đôi lần! - cô gái đáp.

- Em thấy trong trường hợp nào? - Chàng trai tò mò cực độ hỏi.

- Lúc... bác sĩ nha khoa gõ nhẹ vào chiếc răng hư của em!



o O o


Chàng trai làm quen được với một cô gái. Họ cùng nhau đi ăn nhà hàng, đến chơi ở sòng bài rồi sau đó chàng trai đề nghị:

- Em về nhà anh nhé?

- Không được đâu, anh yêu. Có thể em không được hiện đại lắm nhưng em quyết giữ mình tuyệt đối trinh trắng cho đến khi gặp được một người em yêu bằng cả trái tim.

- Có lẽ... em sống như vậy thì cũng... gay go nhỉ...

- Em thì không sao, thậm chí còn thấy thích nữa. Nhưng chồng em... đúng là gay go thật... lắm lúc anh ấy như phát khùng.2621




 Ông chồng sau khi đọc xong bài báo "Vụ án mạng tại nhà hàng: một nữ nhân viên bị giết chết", ngẫm nghĩ và nói với vợ:

- Em yêu, mẹ em cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà như vậy, không chán sao! Có lẽ nên kiếm cho mẹ một công việc nào đó ...

- Mẹ em thì có thể làm được gì bây giờ chứ?

- À , thì chẳng hạn như... nhân viên phục vụ tại nhà hàng.

889




Thế là mùa xuân không hẹn lại về. Mùa xuân vui tươi trải mình dưới gót giầy thiếu nữ. Em ơ hờ bước qua.
Mùa xuân ơi! Da diết nhớ một ngày xưa cũ. Vẫn còn đây con đường nhỏ, vẫn còn đây lối cỏ mềm tinh khiết xanh non, những cọng cỏ anh từng quen thuộc.

Anh đã đến trong đời em, mang theo hơi ấm mùa xuân cùng niềm vui lấp lánh. Tại hương xuân hay tại ánh mắt anh đã làm em bối rối? Hay tại chút lạnh mùa đông còn gửi lại để làm ta đến được gần nhau? Em thấy mình như nàng Lọ Lem đi hài thêu bằng cỏ, bước lên bảy sắc cầu vồng óng ánh hương hoa...

Anh đã nói những gì với em, em không còn nhớ nữa, em chỉ biết rằng mình đang run rẩy trước anh. Anh đã đọc được nỗi buồn trong ánh mắt của em, nỗi buồn của em, của một đứa con có gia đình không hạnh phúc. Ðừng trách em! Em chưa hiểu được mình, em đâu hay anh cũng là người giống em đến thế. Hơi ấm mùa xuân, ánh mắt anh hay cùng chung cảnh ngộ, em thấy mình đồng cảm với anh.

Một mùa xuân ngọt ngào trải dài trong nỗi nhớ. Có lẽ em đang trở thành thiếu nữ, em là người lớn thật rồi sao? Anh vẫn đến cùng em trong mùa xuân ấy, dù chỉ đến để nhìn em, để coi em học bài và trở về im lặng. Có anh, căn phòng nhỏ nhà em bừng sáng. Vắng anh, em lười biếng học bài. Vâng! Anh đã dạy em biết bao điều mà em chưa hiểu. Em không còn trách cứ ba má mình, em không còn ích kỷ nhỏ nhen. Em thích làm thơ hơn, em thích học bài hơn, em thích đem những điểm tốt về khoe anh như ngày nhỏ em thường khoe với mẹ. Nhưng... chỉ nỗi nhớ anh là không giống nỗi nhớ mẹ bao giờ. Em cứ băn khoăn tự hỏi với lòng mình, tại sao anh lại gần gũi em đến thế?

Biết em rất yêu thơ, anh thường đọc thơ và chép cho em những bài thơ anh thích những bài thơ về tình yêu của biển và đất. Anh thường bảo em rằng: “Em đừng bao giờ quên tình yêu của biển và đất. Ðất chắt chiu gom góp biển cho đầy, biển xô sóng vào bờ để muôn đời trăn trở”. Tình yêu đó đẹp quá phải không anh? Và em luôn tin vào tình yêu ấy, tin vào tất cả những điều anh vẫn nói cùng em.

Anh thường bảo em là cô bé Lọ Lem bướng bỉnh, cứng đầu. Làm sao anh biết những điều anh nói đã đi vào giấc ngủ của em. Em thấy mình thật dại khờ, nông nổi trước anh. Em thương những cơn mưa mùa xuân vẫn làm anh ướt áo. Em thương ngọn gió lang thang từng đêm ngoài ô cửa. Từ bao giờ em lại có thể thương những điều nhỏ nhoi đến thế, những điều mà trước đây em không bao giờ để ý, không bao giờ nghĩ suy.

Thời gian vẫn trôi qua... Em đã thật sự trở thành người lớn, biết yêu thương, căm ghét và nhạy cảm với chính mình. Mùa xuân đã tàn úa, cỏ non cũng tàn úa, con đường nhỏ ngại ngần trước ánh nắng chói chang. Anh không còn đến nữa... Ðã bao lần em day dứt với mình: Tại sao anh lại ra đi như thế, ra đi mà không nói một lời với em, chỉ ánh mắt chia tay cứ nhìn em đăm đắm! Em có lỗi gì ư? Hay tại bởi mùa Xuân không còn đến? Có phải trong mắt anh, em chỉ là bé con, bé con không bao giờ trở thành người lớn. Em không thể trách anh, cũng không thể trách mình, chỉ nuối tiếc mùa xuân cũ.

Một năm lặng lẽ đi qua. Em hiểu điều gì đã đến với em và em đã đánh mất điều gì không giữ nổi. Mùa xuân lại trở về, mùa xuân không bao giờ úa tàn vĩnh viễn. Mỗi năm có một lần, mùa xuân lại đến với em, chỉ có anh là không bao giờ trở về cùng em nữa. Bảy sắc cầu vòng ngày xưa đã tắt, nàng Lọ Lem xưa đã hóa thành thiếu nữ, em chông chênh suốt những con đường. Biết tìm đâu thế giới thần tiên mà anh đã mang đến cho em trong mùa xuân ấy. Chỉ còn quanh em là một trời nhung nhớ, xót xa. Ước gì đôi hài cỏ kia có thể đưa em về với ngày xưa cũ, nơi ấy có anh, có hương đêm mùa xuân nồng nàn, ấm áp.

Em lang thang trong mùa xuân hờ hững, nghe lòng mình rét mướt, cô đơn. Sao anh không trở về để tìm lại cho em những ước mơ đã vỡ òa trên cỏ, những ước mơ lóng lánh nỗi buồn của giọt nước mắt đêm?...

461




Một chàng trai lạc trong rừng tìm được một nhà sàn, chủ nhà là một ông già người Trung Quốc.
- Tôi xin ở trọ một đêm.
- Được, nhưng có một điều kiện, nếu anh động vào con gái tôi thì phải chịu ba hình phạt tàn khốc của Trung Quốc. Chấp nhận điều kiện xong anh chàng mới nhìn thấy cô con gái lão đẹp như thiên thần, thân hình tuyệt mỹ. Tệ hại hơn cả là cái nháy mắt đầy ngụ ý của nàng. Cơm tối xong xuôi, lão già đi ngủ trước, không quên để lại ánh mắt răn đe chàng trai nọ. Nửa đêm, chàng lẻn sang phòng cô gái... Sáng hôm sau, mệt mỏi nhưng hạnh phúc, chàng về giường và thiếp đi. Lúc tỉnh dậy, chàng thấy một tảng đá rất to đè trên ngực, có một dòng chữ: "Hình phạt thứ nhất: Một tảng đá to trên ngực!". Thường quá, chàng nhấc tảng đá và ném qua cửa sổ. Vừa lúc đó, chàng bỗng thấy dòng cảnh báo thứ hai dán cạnh cửa sổ: "Hình phạt thứ hai: Vật gây án bị buộc vào tảng đá bằng dây thừng!". Rùng mình, chàng nhảy đại qua cửa sổ theo tảng đá, trong lúc rơi từ cửa sổ xuống chàng thấy dòng cảnh báo cuối cùng viết rất to trên mặt đất: "Hình phạt thứ ba: Vật gây án còn bị buộc vào chân giường bằng dây đàn violon!".
2290




- Ðể dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.

Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:

- Già mà còn yêu.
- Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại, vẻ mặt sương sương không giận gì ai - Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình.

Cạn bình trà, ông già dằn tờ giấy bạc năm trăm dưới đít ly đứng lên xếp ghế lại ngay ngắn, từ tốn rút trong túi ra xấp vé số dày, trước khi đi ông quay đầu lại:

- Tối nay lại chỗ tao coi cải lương, nghe bây.
- Tối nay tuồng gì, chú Chín?
- Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền.
- Í tuồng đó hát rồi. Hát Nửa đời hương phấn đi.
- Bây nói sao tao chiều vậy, mà tuồng đó tao có nhớ miếng nào đâu.
- Chú cần gì nhớ, chú toàn đóng vai quân sĩ với người hầu không à. Có hát hò gì đâu.

Ông già cười khà khà, quay đi, cái lưng cong cong gù gù từ từ mịt mù.

Người trong hẻm không ai làm nghề viết văn nhưng đã biết mình nhớ cái gì khi đi xa nó, nhiều lắm, nhiều không thể kể, nhưng trong đó, chắc chắn nhớ tiếng hát là đà tỏa ra từ nhà Buổi chiều.

Những con người tính từng ngày qua để lắt lay thêm một tuổi nữa, vậy mà hát coi cũng ngon lành. Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống giành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mè. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Ðào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sải ngựa coi lạ hết biết. Có bữa bà lỡ ca rớt nhịp, ngồi than: "Kiểu này chắc tui sống hổng thọ quá". Bà con trong hẻm cười cái rần, "sống tới cỡ đó còn than hổng thọ nỗi gì". Ông già Chín không biết hát hò gì, chạy đi chạy lại, lúc thì nhắc cái ghế cho đào Phỉ, lúc thì trèo lên thay cái đèn đứt bóng tối thui, kêu quân sĩ đâu thì ông dạ, chỉ khi đào Hồng hát, ông mới ngồi nép vào đám bông lồng đèn nào đó lặng người đi, thấy đào Hồng nhớ đào Hồng, thấy đó mà nhớ đó.

Ông già Chín Vũ biết đào Hồng từ năm bà mới hai mươi mốt tuổi. Bây giờ hỏi gia cảnh ông ngày trước như thế nào, ông chỉ cười, không nói. Nụ cười nhẹ nhàng trôi trôi, chừng như ông không luyến tiếc gì. Nghe nói, hồi đó, nhà ông giàu có khét tiếng xứ Bạc Liêu. Ông là cháu nội đích tôn của hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng. Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người từ tấm bé. Bữa cúng đình ông mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi. Ông thương đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên. Người đâu mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta. Ðào Hồng chưa uống cạn ly trà ông đã hỏi thẳng, không cưỡng lòng được: "Vậy chứ cô Hồng có muốn lấy chồng chưa?". Ðào Hồng cười: "Tôi đã nguyện với Tổ cả đời theo nghiệp hát". Chín Vũ nghe vậy, thôi không nói nữa, nhưng vẻ mặt suy tính dữ lắm. Hôm sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi theo. Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không được lên sân khấu. Kêu quân sĩ thì ông dạ, kêu "bây đâu" ông cũng dạ, tối ngày lụi hụi kéo màn, dựng cảnh. Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày được nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát. Ông vẫn thường khì khịt bảo rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vông nem đó, thấy chưa. Có người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô nó nổi. Nghĩ lại, tỷ dụ có cái gọi là kiếp trước, hẳn kiếp trước ông Chín nợ bà Hồng cái gì đó, lớn lắm, nên kiếp này, ông trả hoài, trả không hết.

Ông Chín đã cùng đào Hồng đi qua những năm tháng cơ cực, đắng cay. Ðào Hồng có thai, ông bầu dọa đuổi, ông Chín đứng ra năn nỉ, biểu: "Em lỡ dại...". Ông bầu hỏi: "Của mầy à?". Ông Chín cười: "Dạ, của em chớ của ai". "Chắc không?". Ông bảo chắc mà lòng buồn rượi, đâu phải đứa nhỏ trong bụng đào Hồng là của ông. Ông biết ba đứa nhỏ là ai nhưng không tiện nói. Vì đào Hồng bảo: "Có biết, xin anh Chín cũng đừng nói, tội nghiệp, ảnh còn nhiệm vụ, còn công việc quan trọng phải làm". Cô hẳn yêu người ta lắm, nên một mực bảo vệ cho người ta. Sau nầy, con đào Hồng một tay ông giữ, ông bồng. Ông dạy nó kêu ông bằng ba, đào Hồng nhìn ông rơi nước mắt. Ðó là sự biểu lộ tấm thịnh tình đầu tiên mà đào Hồng dành cho ông suốt hai năm đi theo đoàn Kim Tiêu.

Không khí Sài Gòn bắt đầu khê đặc mùi chiến tranh, buổi sáng, ngồi quán uống càfê mà toàn nghe sặc sụa từ đám quân cảnh mùi thuốc súng. Cũng một buổi sáng, ông Chín bị cảnh sát gô cổ trói đem đi. Cái thời sao mà bất công, tai bay vạ gởi, quân cảnh thấy buồn bắt người chơi cho vui vậy. Tụi nó nghe có người tố cáo đoàn Kim Tiêu có Việt Cộng nằm vùng, coi đi coi lại không thấy ai có lý do vô đoàn lạ như ông. Tụi nó hỏi: "Vậy đang sống giàu có đi theo đoàn làm gì?". Ông mắc cười thiếu điều nhỉ nước đái, cái tụi nầy, mình nói mình lưu lạc tại vì mình thương đào Hồng chắc gì tụi nó tin, tụi nó có biết tình người là gì đâu. Mười ngày sau, ông được thả. Chỉ mười ngày thôi nhưng phải đợi đến nửa đời sau ông mới gặp lại đào Hồng.

Gánh hát rã nhanh, đào Hồng không đợi ông về. Nghe bà con bán đậu phộng, thuốc lá trong rạp kể lại, kép Thường Khanh bị quân cảnh bắt, đào Hồng ôm con bỏ trốn, ở lại, chỉ sợ vướng cô rồi lòng người cô yêu lung lạc. Ông Chín quay quắt đi tìm, mà người thì tản lạc đâu đâu. Nhiều lúc ông Chín tự hỏi, làm sao đào Hồng có thể sống nổi đến từng ấy năm mà không có ông đỡ đần một vai gánh mỏi.

Sau nầy, về nhà Buổi chiều, có đêm trăng sáng, ngồi bên rổ khoai lang luộc, đào Hồng có kể chuyện mình. Mọi người chung quanh đều sụt sùi, sao mà hoàn cảnh của nó y hệt mình vậy cà, hổng lẽ đời đào hát là phải vậy. Có người không lấy chồng cho thỏa nghiệp, có người như đào Hồng có con rồi, vì mê hát, vì chiến tranh mà gởi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa. Ông Chín Vũ ngồi rầu rầu, hậm hực. "Biết vậy hồi đó tui bóp mũi nó cho rồi". Ðào Hồng bảo: "Anh Chín đừng nói vậy em thương nó không hết chớ có trách nó bao giờ. Có lúc em nghĩ, con nó có nhìn em cũng không chịu, mình nghèo quá làm gì lo cho nó nổi hả anh?" Bà không bao giờ nhắc tới Thường Khanh như chưa từng quen biết con người đó trong cuộc đời. Nhưng những nỗi nhớ niềm thương chắc còn day dứt trong lòng làm cho bà quắt queo, tàn héo. Ông Chín giật mình, cái nhan sắc ngày xưa đ%C
31271






1. Khánh nói : "Hôm qua, tao gặp Hảo đi ngoài phố với Tăng, dung dăng dung dẻ, tình lắm !". Luận bồi thêm : "Nhỏ Oanh em tao kể Thứ Bảy tuần rồi, khoa nó tổ chức dạ hội, có giới thiệu một couple mới, tưởng ai, té ra là Hảo với Tăng.". Tai tôi đang muốn ù lên đây này nhưng mấy thằng bạn quái quỉ của tôi có chịu tha cho đâu. Tụi nó thao thao kể chuyện Hảo với Tăng, lại còn cười với nhau chí chóe nữa. Tôi ngồi như chết lặng, ly cà phê đá trên bàn nãy giờ vẫn còn nguyên, chẳng còn hồn vía đâu mà uống ngụm nào. Hai chiếc loa thùng đặt ở góc quán đang phát ra một giọng nữ rưng rức : "Tại sao anh không là của em ?..." nghe buồn não ruột. Tuân vỗ vai tôi, vẻ mặt đầy thông cảm : "Thôi quên đi, chính mầy là thằng chủ động mà !", rồi quay lại nói với Khánh, Luận : "Tụi bây ngồi chơi, tao chở thằng Yên về."



Tôi lẳng lặng ngồi sau xe Tuân, chẳng nói được lời nào. Tuân cũng vậy, im lặng, chạy xe nhẩn nha, không theo lối về nhà mà chạy ngược xe ra đường bờ sông. Đây là con đường chỉ toàn là công sở, không có nhà dân, bên sông là một công viên chạy dài, cây xanh ngút mắt. Đang giữa buổi chiều nên công viên vắng người. Tuân dừng xe ở một ghế đá nhìn ra sông, không nhìn tôi, nói giọng khẽ khàng : "Ngồi đây chơi một chút !". Gió từ sông thổi vào nghe mát lạnh. Tuân ái ngại : "Tụi nó chỉ vô tình, không có ý gì !". Tôi cười buồn : "Tao cũng đâu có trách gì tụi nó." thấy ngạc nhiên vì giọng nói quá ư bình thản của mình. Chỉ cách đây chưa đầy ba tháng, cũng nơi công viên bờ sông này, cũng một chiếc ghế đá đại loại kiểu như chiếc ghế đá tôi đang ngồi với Tuân, tôi và Hảo gặp nhau lần cuối, quyết định chia tay nhau, chả rạch ròi được vì sao mà chia tay nhau. Chỉ thấy sau một thời gian yêu nhau gần bốn năm, tôi không dưng nhận ra dường như mình không còn được yêu như thuở ban đầu nữa, cảm thấy hàng tuần, hàng ngày gặp nhau như là bổn phận, người này cứ đến tìm người kia vì chỉ sợ không đến sẽ làm người kia phật lòng... Hảo khẳng định : "Em vẫn yêu anh." mà giọng nghe trống rỗng, như thể Hảo đang trả bài, một bài học Hảo rất thuộc, không phải đắn đo, nghĩ ngợi gì nhiều để rồi chưa đầy ba tháng sau, lại nghe tin Hảo đã tìm được "một nửa" khác của mình. Chợt thấy đau lòng ghê gớm : không lẽ bốn năm trời không còn đọng lại trong Hảo chút gì...

2. Quyên nhìn qua một lượt căn phòng trọ bề bộn của tôi, mấy bộ quần áo chưa giặt gùi thành một đống, gầm giường đầy tàn thuốc lá và giấy vụn, nhăn mặt : "Dạo này, em thấy anh bết bát quá. Anh không sợ Hảo buồn à ?". Tôi lừ mắt nhìn Quyên : "Thứ nhất, anh không làm gì để em phải nói là bết bát. Thứ hai, Hảo buồn, đâu có liên quan gì đến anh.". Giọng Quyên nghiêm trang : "Em là bạn Hảo, bạn anh. Em không muốn anh như thế này chút nào. Hảo cũng vậy, Hảo cũng không hề muốn sau khi chia tay với Hảo, anh sống như thế này. Anh cứ nhìn lại thử xem sao...". Không để Quyên nói hết câu, tôi nổi nóng : "Anh không cần Quyên dạy khôn.". Quyên vẫn như không : "Lúc này anh không được bình tĩnh, lúc khác em sẽ nói chuyện với anh.".



Không hẳn là tôi không biết mình đang sống như thế nào. Không còn Hảo, những thói quen bừa bãi của tôi mặc sức trỗi dậy, những thói quen mà trước đây Hảo đã tốn không ít thời gian mới dẹp bỏ được. Tôi cố tránh, không muốn để mọi người chung quanh nhìn mình như một thằng thất tình. Giữa đám đông, cố gắng nói to hơn, cười lớn hơn. Đến trường, cười với cô này thật tươi, nheo mắt với cô kia thật tình tứ. Lại có cái kiểu nhún vai rất bất cần khi có ai đó hỏi thăm về Hảo, thầm thì kể chuyện Hảo với Tăng. Tôi không lạ gì Tăng, lúc trước học cùng trường với tôi, có một thời vẫn hay đi uống cà phê với nhau, nhưng thấy lạ lẫm khi nghe Hảo yêu một người như Tăng. Tăng thuộc tuýp hiền lành, nếu không muốn nói là hơi tẻ nhạt, hoàn toàn khác với tính cách Hảo. Có khi Hảo như vậy mà khôn ngoan, như trước kia Hảo vẫn bình luận với tôi là cô này cô nọ lấy chồng khôn ngoan, biết đâu rồi Tăng sẽ là một người chồng tốt. Cái mớ lý lẽ này, rốt cuộc chỉ mình tôi cay đắng nhận ra, chỉ để huyễn hoặc mình, làm ra vẻ là mình cao thượng, không thèm chấp với chuyện đã qua, chỉ để giấu nỗi hụt hẫng của một kẻ cứ tưởng mình được yêu nhiều lắm, té ra, bị phẩy tay nhẹ nhàng như cánh lông hồng...

3. Một buổi chiều ngồi trong căn-tin trường, Tuân nói với tôi : "Cách đây hai ngày, tao gặp Quyên. Quyên gởi lời thăm mầy.". Tôi nghe Tuân nói, có cảm giác không buồn không vui : "Tao thấy mệt mỏi lắm rồi, bây giờ tao thấy sợ con gái, nhất là những cô nào liên quan đến Hảo.". Tuân ngậm ngùi : "Tao không nghĩ là mầy yêu Hảo đến thế, nếu biết, tao sẽ cản, không cho mầy bỏ Hảo.". Tôi cười khan : "Chẳng ai cản được tao !" chợt nghĩ : sao mình cứ buồn, cứ vật vã thế này mà để làm gì, Hảo có biết đâu, vả lại có biết thì cũng chả níu kéo được gì... Tôi nhận ra mình đang rất vô lý, vô lý với mình, vô lý với bạn bè mình, với Hảo, và cả với nỗi buồn của mình. Nhưng vẫn không sao quên được nỗi buồn đang dai dẳng...



Tôi cười với Tuân : "Hôm nào tụi mình rảnh rảnh, rủ Quyên đi chơi lòng vòng.". Tuân nhìn tôi nghi hoặc : "Mầy nói đùa ?". Tôi vỗ vai Tuân : "Nói thật, thật như tao đang ngồi đây.". Tuân vui vẻ : "Tao mừng cho mầy. Nhất định bọn tao, tao, Luận, Khánh sẽ rủ mầy nhậu một bữa đã đời, mừng mầy 'tai qua nạn khỏi'.". Tôi bàng hoàng, mấy ngày vừa trôi qua của tôi, nỗi buồn của tôi, với bạn bè, lại là "tai nạn" ư ? Tuân đang chếnh choáng vui nên không nhận ra sắc diện của tôi lúc này, nói tiếp : "Mầy cũng nên bình thường quan hệ với Hảo đi, Hảo có vẻ lo cho mầy lắm, hỏi thăm hoài. Dẫu gì cũng là bạn.". Lại một điều bất ngờ nữa, Hảo mà còn nhớ đến tôi, hay Hảo chỉ tỏ ra quan tâm để tỏ lòng thương hại. Tôi nghe giọng mình run run : "Tao chưa thể gặp Hảo lúc này được. Tao cần có thời gian...". Tuân gật đầu, nhè nhẹ : "Tao hiểu.".

4. Bữa nhậu mà Tuân dự định gồm bốn đứa tôi, mời cả Quyên nữa, lần lữa hoài, không thực hiện được, do lúc thì Khánh bận đi làm thêm, lúc thì Quyên kẹt dạy kèm, rốt cuộc lại là bữa liên hoan mừng cả bọn thi học kỳ và Quyên thi chuyển giai đoạn "qua" trót lọt. Luận nói : "Mừng nhất là mừng cho thằng Yên, chứ tụi mình thì... thường thôi !". Ôi, tội nghiệp cho đám bạn của tôi, cứ hồi hộp sợ tôi không gượng nổi mà "qua" khỏi kỳ thi này. Khánh vỗ vai tôi : "Tao không ngờ mầy cũng ngon lành quá xá.". Quyên nhẹ nhàng hơn : "Em chúc mừng anh !", chỉ có Tuân là cứ nhìn tôi tủm tỉm, chả nói năng gì. Tôi thấy lòng ấm áp nhiều lắm, sung sướng một cách ngượng nghịu : "Tụi bây có im không nào, có phải chỉ mình tao "qua" đ1106




Một người vụng tay vụng chân đang cắt lông cừu , lúc cắt cao , lúc cắt thấp , lông cừu cắt không được đều , da thịt cừu còn bị cắt phạm vào nhiều chỗ . Cừu nhịn không được, bảo người cắt :

- Nếu anh muốn lấy lông cừu , xin hãy cắt cao một chút ; nếu anh muốn lấy thịt cừu , thì hãy cho tôi một dao phanh thây, đừng có tùng xẻo như vậy tôi chịu không nổi.2687



Powered by Blogger.