Gia đình nọ nuôi rất nhiều bò. Một bận, anh chồng có việc phải về trong quê, dặn vợ khi nào bò cái đẻ thì nhắn anh ta ra. Vài ngày sau, anh chồng nhận được một bức điện vẻn vẹn bốn chữ viết liền nhau:
"Bò đẻ anh ra".
2757
Năm ấy, mấy chục công lúa tui đang cấy cặp mé rừng, tới mùa không còn thu hoạch được một hột để nhổ râu. Lúc lúa đứng cái, lũ nai kéo về cả bầy, ăn tới tới. Cất chòi giữ ngày giữ đêm, giật banh mất chục cái thùng thiếc mà chúng vẫn trơ trơ không sợ. Đánh bẫy, giặng giò bắt được một, thì chúng kéo lại hai. Nai chà tràn vô xóm rượt chém bò cổ, nhảy đực bò cái, đẻ ra con nào cũng có nhánh nhóc.
Ai cũng bảo là chắc phải để xứ này cho nai ở. Tui nhất định không chịu thua, cố tìm hết cách để trị lũ nai này. Đêm đêm tui đi rình xem cách chúng ăn lúa. Nó ăn cũng như trâu bò ăn vậy thôi. Nghĩa là lưỡi cũng le ra, nghoéo gọn bụi lúa rồi giựt mạnh lên.
Tui về nhà, ngồi suy nghĩ, nhủ thầm: "Như vậy là chết cha chúng mày rồi!". Xách mác ra vườn, tui đốn những cây tre lồ ô mang vô. Tui lần lượt bập nhẹ nhẹ lưỡi mác vào cật cây tre rồi lẩy ra lấy một miếng cật tre dài cỡ chiếc đũa bếp, hai bề cạnh bén như nước. Làm tới chiều, tui đem ra ruộng, mỗi bụi lúa tui cắm vào giữa một miếng tre cho thật chắc. Làm xong về nhà, tui biểu mấy đứa nhỏ cứ việc ngủ cho thẳng giấc đi, đừng lo canh tuần gì nữa.
Sáng bữa sau, tui chống chiếc xuống be ra ruộng. Tui xăn quần lội xuống, tay nắm be xuồng dắt tới, vừa đi vừa mò theo từng gốc lúc mà lượm lưỡi nai. Thứ tre lồ ô chẻ mỏng, cật bén như nước. Vô phúc cho con nai nào nhè ngoéo cái lưỡi vô đó mà giật lên thì thế nào cũng phải đứt lưỡi ra.
Mùa đó, ngoài cái chuyện bán thịt lưỡi nai tươi cho bà con lối xóm nhậu chơi, tui còn phơi khô chở lên Sài Gòn bán cho cửa hàng mua để xuất sang Hồng Kông, Singgapo được một tấn hai lưỡi nai khô. Không tin thì hỏi bả thử coi.2655
Bà nội tôi là kho chuyện đời xưa, mỗi đêm một chuyện cho đàn cháu nội, cháu ngoại, lũ nhỏ vây quanh bà trên bộ ván ngựa gỗ giữa nhà trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu.
Chuyện này không phải là chuyện đời xưa. Chuyện của nhà mình nhưng lúc đó bà còn trẻ, tụi con chưa có, vậy cũng là chuyện đời xưa phải không? Đêm ấy, bà kể:
- Ông tôi có nuôi một con nhồng. Con nhồng đẹp lạ lắm. Nó như một cô công chúa khoác chiếc áo choàng đen, ấy là bộ lông mượt mà của nó, từ mí mắt kéo đến cổ nó là một đường vàng hình lưỡi câu. Viền quanh cổ là một đường mầu trắng, như công chúa quấn qua cổ chiếc khăn bằng lông cừu, mỏ vàng và đôi chân cũng vàng. Ông tôi vốn là một thợ mộc, cho nên cái lồng của nó như một cái lâu đài. Con nhồng lúc nào cũng vui tươi, nhảy nhót trong chiếc lồng lộng lẫy treo trước hiên nhà. Vừa đẹp, lại vừa biết nói, nó là niềm vui của cả xóm, không chỉ cho trẻ con mà cho cả người lớn. Thấy có người thoáng qua, nó cất tiếng: "Chào khách". Khi người dừng lại trước mặt nó, nó hỏi: "Khỏe không". Ai hỏi gì thì nó dạ. Nó bắt chước giọng ông, nó gọi bà: "Em ơi, em". Nó bắt chước giọng bà, nó gọi ông: "Anh ơi, anh". Trong nhà đang nói chuyện, bỗng chợt nghe tiếng cười, nó cười: "Khậc khậc" y như giọng cười của ông. Thỉnh thong nó lại cất tiếng: "Thôi, thôi thôi" nghe như lời can gián thiết tha của một cô gái.
- Khách ! - Ngồi trong nhà nghe nó nói, biết là có khách sắp vào nhà.
Người lớn hay trẻ nhỏ hàng xóm, mỗi lần đến chi với nó cũng cho nó một trái ớt. Thò mỏ gắp trái ớt, nó mừng nó nhảy.
Trong nhà ai cũng dạy nó tiếng nói lịch sự, lễ phép. Nhưng hình như bấy nhiêu tiếng đó, nghe hoài cũng nhàm, bớt vui. Chẳng biết đứa nhỏ nào cắc cớ dạy thêm cho nó vài tiếng chửi cục cằn: "Đồ đểu, cút, cút đi".
Ngày đầu, nghe những tiếng lạ lùng đó, bọn nhỏ vỗ tay và nó được nhiều ớt hơn mọi ngày.
Nhỏ vui đã đành, người lớn cũng vui... nghe nó chưởi "đồ đểu" người nghe không nghĩ là mình đểu nên chẳng ai giận, nghe nó bảo "cút, cút" người ta không cút mà cười và lại thưởng cho nó ớt ngon hơn, nhiều hơn. Nó nói riết thành quen không ai để ý nó quên tiếng hót từ lúc nào.
Bỗng một hôm có một chiếc xe hơi đậu lại trước nhà. Quan huyện từ trong xe bước ra. Một người to lớn bệ vệ trong bộ đồ tây trắng, cà vạt đỏ, giày đen. Quan huyện đến để đặt ông đóng nhái bộ salon thời Louis. Đã là quan thì phi oai quyền, trước mặt ai không chào không hỏi.
Quan huyện vào tới cửa thì con nhồng cất tiếng:
- Đồ đểu!
Quan huyện giật mình:
- Đồ đểu! Đồ đểu!
Thấy quan huyện không thưởng cho nó trái ớt, nó lại cất tiếng:
- Đồ đểu! Đồ đểu!
Quan huyện trợn tròn hai con mắt. Ông tôi thấy vậy sợ điếng, vội cúi rạp mình rước quan vào. Ông liếc nhìn bà. Hiểu ý ông, bà rối rít mời quan ngồi, rót nước mời quan uống.
Đang chào đang hỏi khách, bà bỗng nghe bên ngoài có tiếng đánh "bốp" một cái. Bà bước ra, bà thấy con chim bị ông đập vào cây cột, nát đầu. Trên thân cột còn một đốm máu bê bết, còn con nhồng thì nằm dưới đất như một miếng giẻ rách đen. Chẳng biết ông sợ hay ông giận, bà chỉ nghe ông lẩm bẩm:
- Không! Nó bảo "cút đi" thì nhà này chỉ có chết.
Thương con nhồng, bà tôi quỳ xuống trước cái xác của nó. Chẳng biết lúc ấy bà tôi đau đớn thế nào, bây giờ trong ánh đèn dầu, tôi thấy hai giọt nước mắt của bà.
Con chim chết, hết chuyện, bọn tôi có đứa thò chân xuống đất, bà đưa tay kéo lại. Và sau câu chuyện bao giờ bà cũng rút lời răn dạy:
- Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó, các con!1673
Một chàng ngốc nọ là chồng chưa cưới của cô gái thứ hai trong gia đình có ba chị em nọ. Một hôm chàng đến nhà, cô em út ra chào và nói:
- Tọa sàng yến phu lang. (Mời chàng ngồi bàn tiệc)
Nghe câu nói văn hoa Hán tự đó, chàng chẳng hiểu gì, ở lâu sợ mất thể diện nên ngốc ta luống cuống chào về.
Lần sau trong một đêm trăng, ngốc lại đến thăm người yêu, nhưng lần này không dám đi ngả trước, lại lẻn ngả sau. Bất ngờ gặp lúc ba chị em đang tắm ngoài giếng. Nghe tiếng ba chị em cười khúc khích, chàng lén nhìn thấy cô út chỉ vào mình mà khoe rằng:
- Bạch bạch như phấn trang. (Trắng như thoa phấn)
Cô thứ hai lặp lại động tác của cô út mà nói:
- Úc úc như hình quy. (Hình tựa mu rùa)
Cô chị cười:
- Hắc như côn lôn. (Ðen như quả núi)
Nghe được câu nói trên, ngốc lẩm nhẩm đọc đi đọc lại cho thuộc, bụng nghĩ rằng đó là những câu ẩn ý cao siêu cần phải ghi nhớ. Rồi chàng hớn hở ra về.
Lần thứ ba, ngốc ta hăm hở đến nhà người yêu. Cô út ra chào mời:
- Tọa sàng yến phu lang.
Ngốc chỉ ngay vào cô út mà rằng:
- Bạch bạch như phấn trang.
Cô út toát mồ hôi, không hiểu sao hôm nay chàng ta lại ăn nói "văn hoa" đến như vậy. Cô ngượng ngùng rút lui để người yêu của ngốc ra tiếp. Thấy chàng, cô thứ hai mở lời âu yếm hỏi:
- Phu quân như hà ti?
Ngốc làm bộ sành sỏi trả lời:
- Hà ti chi mà hà ti. Úc úc như hình quy.
Nghe vậy, cô ta thẹn đỏ mặt, nguây nguẩy bước vào. Cô chị thấy tình thế có vẻ căng thẳng, muốn giảng hoà, chạy ra cản ngăn ngốc:
- Thôi, dượng bất mật ngôn. (Dượng nói không ngọt ngào)
Ngốc lại chỉ vào chị tỉnh bơ nói:
- Mật ngôn chi mà mật ngôn. Hắc hắc như côn lôn.
Người chị đứng sững như trời trồng, rồi ù chạy một mạch chẳng dám quay đầu lại.44
Trong phòng thay quần áo ở hồ bơi, Jack hỏi Bill:
- Này cậu, dạy bọn con gái tập bơi thì làm thế nào nhỉ?
- Thú vị đấy, phải tế nhị và dịu dàng, một tay đỡ phần ngực còn tay kia đỡ phần bụng của nàng. Hãy để miệng nàng ở dưới mặt nước một chút để nàng không hét ầm lên, người ta sẽ chú ý. Mà cậu có bạn gái mới hay sao đấy?
- Đâu có, tớ dạy đứa em gái ấy mà.
- Ôi dào, em gái thì quẳng mẹ nó xuống nước! Bơi được tuốt!
2433
Thơ chàng dán trên vách Ngoài vườn đầy hoa nở Mặc người đời mua bán Em cầu cùng thượng đế
2726Đêm qua em nằm mơ
Mẹ đem em gả chồng
Cho một chàng thi sĩ
Số chàng rất long đong
Hai vợ chồng làm thơ
Trong một gian lều cỏ
Mái dột mái cứ dột
Làm thơ vẫn làm thơ
Thơ em che trời mưa
Một đàn con tám đứa
Lớn lên chỉ mê thơ
Trong lòng ngập mộng mơ
Cửa lều thường không khép
Nên Xuân đến bốn mùa
Mặc cuộc đời hơn thua
Cả nhà làm thi sĩ
Nên nghèo xác nghèo xơ
Kiếp sau có lấy chồng
Xin lấy chàng thi sĩ
Dầu biết chàng tay không...
Một thằng điên vào tiệm hỏi mua ba thước sơn xanh.
Người bán nói thầm:
Đúng là thằng điên!
Ông ta lấy cọ nhúng vào hộp sơn phết trên mảnh giấy đúng ba thước. Thằng điên thích quá, gật đầu lia lịa. Người bán hỏi:
Ông đem về bằng cách nào? Tôi gói lại nhé!
Điên đáp:
Không cần! Tôi ăn ngay bây giờ.
2735
Yêu đơn phương, một tình yêu thuần khiết
Yêu hết mình tuy biết chẳng được chi
Nhưng khi yêu ta đâu tính toan gì
Những kỷ niệm xin khắc ghi trong dạ
Yêu đơn phương, một tình yêu thật lạ
Mỗi đêm về lã chã giọt lệ tuôn
Bước vào yêu là ta chỉ biết buồn
Mặc những kẻ nói ta khôn hay dở
Yêu đơn phương, một tình yêu dang dở
Yêu âm thầm, nhưng bỏ lỡ tình duyên
Sáo sang sông, bến cũ đã vắng thuyền
Ôi nghịch cảnh thật trớ trêu oan nghiệt
Yêu đơn phương, một tình yêu bất diệt
Của những người không nghĩ thiệt bản thân
Yêu vô tư và đắm đuối vô ngần
2518
Cứ chiều chiều, khoảng 3, 4 giờ, thấy ông già Á đông đứng ở góc Oak và Birch, gần trạm xe buýt. Ông đội cái mũ baseball đen, cũ, tóc bạc lòi ra hai bên tai, mắt hí như hai vết nứt trên khuôn mặt gầy, nhăn nheo, lơ thơ vài sợi râu mép và cằm. Lưng đeo cái túi nhỏ, áo quần lùi xùi nhưng nom tươm tất, ông không có vẻ là một kẻ vô gia cư. Ông già có dáng dấp một người thực hành câu “đói cho sạch, rách cho thơm”. Nếu ông trút bỏ cái áo gió cũ kỹ, cái mũ baseball, cái quần vải thô, và đôi giày thể thao đi mà mặc vào một bộ bà ba trắng, thì chúng ta có một “ông ngoại” tha thẩn nơi vườn trước, chăm sóc mấy chậu cây cảnh! “Kỳ cục”, không phải vì ông mặc “Tây”. Mà vì cái vái của ông. Đứng ở góc đường đó, kẻ qua người lại không nhiều, nhưng mỗi lần thấy ai bước tới là ông chắp hai tay vái dài. Người được vái khựng lại một tích tắc, rồi tiếp tục bước đi. Lại có người khác bước tới. Ông già lại chắp tay vái. Có lẽ người ta đã quen rồi với những chuyện kỳ lạ hằng ngày xảy ra trên đường phố hay là người ta chỉ tự nhủ đó chỉ là một người có bệnh “tâm thần”. Nên không ai làm lớn chuyện. Ông già chỉ vái người lạ trên đường. Hoàn toàn vô hại. Ông vái rất nghiêm chỉnh. Không trì kéo ai. Không khóc. Không cười. Ông chỉ vái. Chiều nào ông già ấy cũng đứng ở góc Oak và Birch, vái người trên hè phố. Bà già đã từng thấy tận mắt ông già Á đông đứng ở góc đường, vái dài người qua kẻ lại ấy. Thấy ông đằng xa, bà tò mò. Đến gần hơn, bà định né ông, băng qua đường ngay. Nhưng xe cộ chạy vùn vụt làm bà ngại, chần chừ. Rồi không kịp đổi hướng đi nữa, bà đã đến trước mặt ông già. Trong một thoáng, hai người Á đông nhận diện nhau. Ông già chắp hai tay, vái dài. Lúc ấy, bà già đã bước quá chỗ ông đứng rồi. Nghĩ lại, bà tiếc. Tự nhủ, phải chi mình tỉnh trí, khi được vái như vậy, mình đứng lại, vái đáp lễ thì hay biết mấy. Bà tiếc mà bà cũng buồn cười cái cảnh hai ông bà già Á đông vái lẫn nhau ngoài đường! Như những người đi bộ khác, khi được ông già vái dài như vậy, đột ngột quá, bà không kịp suy nghĩ. Chỉ vội bước đi. Được một quãng, bà ngoảnh lại. Thì ra ông già đứng nhìn theo, thấy bà quay mặt lại, vội chắp hai tay vái dài. Bà lúng túng không biết làm sao, bèn tiếp tục bước đi. Đâu ngờ, chừng mười lăm năm sau, bà già lại thấy mình lẩn thẩn sinh ra một chứng lạ. Đêm nào, bà cũng nằm mơ bà ở Việt Nam. Ban ngày bà ở Mỹ. Ban đêm bà ở Việt Nam. Không, bà không bị chứng mất ngủ, đêm nằm trằn trọc, tưởng tượng mình đang ở Việt Nam, rồi nhầm lẫn tưởng tượng với thực tại. Không, bà không hoang tưởng. Bà già còn tinh anh, sáng suốt lắm. Ban ngày, ở Mỹ, bà siêng năng chuyện vườn tược, nhổ cỏ, bỏ phân, chăm sóc cây cối. Ban đêm, bà là người ngủ ngon giấc. Có điều, đêm nào, ngủ, bà cũng nằm mơ là mình đang ở Việt Nam. Tỉnh giấc, bà biết là mình đang nằm trong phòng ngủ, nhà riêng, ở Mỹ quốc. Bà lắng nghe tiếng gà gáy xa xa và buồn cười thấy rằng gà giống gì, ở đâu, cũng gáy sáng như nhau! Rồi bà nghe tiếng con chim chèo bẻo hót lảnh lót ở đầu hồi. Bà ôn lại giấc mơ. Bà gặp người quen, bước đi trên những con đường quen thuộc, v. v... Chuyện lạ! Ban ngày bà không phải là người loay hoay lấn bấn với chuyện trở về quê hương đất nước. Ngoại trừ ông cụ thân sinh ra bà, mất đã lâu, an táng ở Việt Nam, còn tất cả anh chị em, con cháu, đều cư ngụ nước ngoài, hoặc ở Mỹ quốc, hoặc ở Âu châu. Mẹ bà được các con đem qua Mỹ, mất ở Mỹ, chôn cất ở Mỹ. Một người em trai bà, lúc sinh thời, có lẽ là người gần gũi bà nhất, về Việt Nam công tác cho hãng, mất ở Việt Nam, thi hài được chuyển về Mỹ, hỏa thiêu ở Mỹ. Nói tóm lại, những người thân thiết, máu mủ ruột rà nhất của bà đã ra cư ngụ nước ngoài, không còn ai ở quê hương để bà phải đớn đau, thắc mắc, đêm ngủ, mơ về nước. Không như nhiều vị cao niên, thường lo ngại phải sống và chết nơi “đất khách quê người”, ao ước về nước “dưỡng già”, rồi khi lìa trần, được gửi “nắm xương tàn” nơi “chôn nhau cắt rốn”. Bà già là người nhiều tình cảm, nhưng bà không thiết tha với những ý nghĩ đó. Bà quan niệm rằng trên hành tinh này, “nắm xương tàn” gửi vào đâu mà chẳng được! Bà nghĩ thiền sư Thường Chiếu đời Lý nhìn thật xa, nghĩ thật rộng: “Đạo vốn không nhan sắc/ Mà ngày càng gấm hoa/ Trong ba ngàn cõi ấy/ Đâu chẳng phải là nhà.” Bài kệ để lại từ ngàn năm trước, ngày nay, thế kỷ 21, là lúc phải xướng lên. “Ba ngàn cõi ấy” mênh mông vô tận, vô thỉ vô chung. Trái đất này, hành tinh xanh này, chỉ là một hạt bụi trong “cõi” ấy kia mà! Trên thực tế, không phải là người buôn bán, năm mười năm bà mới về thăm Việt Nam một lần. Lần nào, bà cũng “cảnh giác” tối đa. Bà tìm hiểu, nhìn rõ, đâu là quê hương, đâu là chế độ, đâu là người dân quèn, đâu là giới cầm quyền, đâu là thực trạng đất nước, và đâu là những tô hồng chuốt lục... Tháng 4 năm 1975, cũng xém 30 năm rồi, di tản sang Mỹ quốc, đã để lại một vết hằn sâu đậm trong lòng bà. Bà đã phải cắn răng rời bỏ căn nhà cũ mến yêu, vĩnh biệt bao nhiêu bạn bè, người thân... Vết hằn đó, sau ba thập niên, vẫn còn nhức nhối, nhưng nó không khiến bà trở nên một người “lẩm cẩm”, ngồi ở Mỹ quốc mà mằn mò, vuốt ve quá khứ ở Việt Nam. Bà không hoang tưởng: sống trong thực tại này mà yên trí rằng mình đang hiện hữu một nơi khác. Bà chỉ nằm mơ. Ngày, thức, bà ở Mỹ quốc, và biết là mình đang ở Mỹ quốc. Đêm, ngủ, bà nằm mơ bà ở Việt Nam. Tỉnh giấc, bà biết rằng mình đã nằm mơ. Thoạt đầu, bà nghiệm rằng có lẽ mình còn vướng víu cái gì đó, nuối tiếc cái gì đó ở quê hương, cho nên cứ nằm mơ quay về chốn cũ. Nhưng rồi bà lại suy rằng không phải vậy. Vướng víu, nuối tiếc, trời ơi, nhất định là có. Bà biết nhiều người cùng mang tâm trạng đó. Bà cho rằng nghiệm như thế là sai vì trong những giấc mơ của bà không có yếu tố nào chứng tỏ sự hiện diện của nỗi nuối tiếc, vướng víu đó. Chẳng hạn, một đêm, bà nằm mơ về Việt Nam, gặp lại hai người cộng sự viên cũ (trong thực tại, một người hiện ở Mỹ quốc, người kia cư ngụ Hòa Lan). Cả ba bà bạn cùng nhau rời Việt Nam đi Nhật bản, tham quan một thành phố cổ! Bà không nhớ có phải đó là Kyoto không, chỉ ghi nhận là hai người kia mặc kimono sặc sỡ, mặt bôi phấn trắng xóa... Giả dụ bà nằm mơ, đang ở Việt Nam, đi thăm mộ ông cụ trên núi, gặp được cụ và cụ, hoặc than thở, hoặc rầy rà rằng trẻ già lớn bé ai cũng bỏ đi cả, chẳng ai chịu gắn bó ở lại quê cũ, sớm hôm nhang khói cho cụ, v. v... Một giấc mơ như vậy, nếu có xảy ra, bà sẽ giải thích dễ dàng. Đằng này, đang ở Việt Nam lại đi du lịch Nhật Bản! Trong những giấc mơ, bà cư xử, ở Việt Nam, một cách bình thường như thể bà đang ở Mỹ quốc. Ba bà bạn cùng nhau đi du lịch, vậy thôi. Cười, nói, ăn uống bình thường. Bà già tiếp tục nằm mơ. Ban ngày, thức, bà cư ngụ Mỹ quốc. Ban đêm, ngủ, bà cư ngụ Việt Nam. Chuyện này, ít người biết. Nếu nhiều người biết, có lẽ bà sẽ được mang một hỗn danh. Bà A mê hột xoàn, được gọi là “Bà A-Hột-Xoàn”, bà B bán cháo cá được gọi là “Bà B-Cháo-Cá”; có lẽ bà này sẽ được gọi là “Bà- Ngày Mỹ –Đêm Việt”! Đã từ nhiều năm bà “Ngày Mỹ- Đêm Việt” không còn cư ngụ “Thung lũng Cây Phong” nữa. Nhưng thỉnh thoảng bà vẫn nhớ đến ông già Á đông đứng ở góc đường, vái dài người qua kẻ lại. Cái ông già tức cười! Vái thật dài, thật nghiêm chỉnh. Người được vái, ai cũng lúng túng. Bà già tự hỏi, khi ông già ấy vái người ta, ông biết là mình đang ở Mỹ quốc, hay ông tưởng là mình đang đứng ở một góc đường đâu đó bên Á Đông. Dù ông có tưởng là mình đang ở nơi xa xôi ấy, tại sao ông lại vái dài người không quen biết? Tại sao ông vái nghiêm chỉnh như thế những khách qua đường? Bà già tự hỏi như vậy, và đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Bà chưa có câu trả lời nhưng bà nghĩ rằng ông già ấy có thể đã qua đời. Còn sống hay đã chết, trong “ba ngàn cõi ấy”, chắc là ông vẫn đứng ở góc đường, vái dài người qua kẻ lại.
Cô gái mê bói toán hỏi người yêu:
- Anh này, trước khi cưới, em có việc cần hỏi: Anh sinh ở cung nào?
- Cung "tắc đường" em ạ.
- Ủa! Em đọc nhiều sách, chưa từng nghe có cung ấy trong chiêm tinh học.
- Anh nói thật đấy! Anh đòi chui ra khỏi bụng mẹ đúng vào giờ cao điểm tan tầm. Xe cấp cứu không thể đến nhà được vì tắc đường. Cuối cùng, mẹ anh phải đi bộ tới nhà hộ sinh đấy.
1593
Trong cuộc thi vấn đáp. Thầy giáo nghiêm nghị hỏi:
- Em hãy cho biết triệu chứng của bệnh gan là gì ?
- Dạ, triệu chứng của "bệnh gan" là... là nói mấy cũng không nghe, đánh mấy cũng không khóc, phạt mấy cũng không chừa.
- ???
Cô giáo hỏi học sinh:
- Đề bài là "cuộc trò chuyện của bố mẹ em", tại sao em chỉ viết toàn lời của mẹ?
- Thưa cô, vì bố em chỉ gật đầu thôi ạ.
Bốn sinh viên nọ đi Vũng Tàu chơi và dự định trở về vào chiều chủ nhật để học bài cho buổi thi sáng hôm sau. Do ham vui, trưa thứ hai họ mới về đến nơi và đành phải nói dối giáo sư rằng, xe bị nổ lốp trên đường nên họ đã bị trễ buổi thi, xin thầy cho thi lại. Giáo sư ngẫm nghĩ một chút rồi đồng ý. Bốn anh chàng nhẹ nhõm ra về và tối hôm đó ra sức học thật khuya. Hôm sau, đến giờ thi giáo sư cho họ ngồi riêng mỗi người một phòng. Đề thi chỉ có 2 câu hỏi:
Câu 1: Đi chơi đâu? (5 điểm).
Câu 2: Bể lốp xe nào? (95 điểm).
Chuyên gia tư vấn tình yêu hỏi cậu khách hàng trẻ tuổi:
- Thế nào, lời khuyên của tôi về chuyện hôn bạn gái vào lúc cô ta bất ngờ nhất có giúp ích gì cho cậu không?
- Quỷ tha ma bắt nhà ông! Bị cốc lia lịa vào đỉnh đầu chứ ích gì.
- Ô hay! Cậu rúc vào đâu mà ăn cốc trên đỉnh đầu?
- Thế không phải là hôn vào chỗ cô ta bất ngờ nhất sao?
2375