Chiếc Lá Cuối Cùng (A)
Dịch giả: chưa biết
Trong một quận nhỏ phia đông Washington, các con đường chạy ngoằn nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là “vùng”. Những “vùng” này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!
Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê ại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình.
Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của California. Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng.
Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”, móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu.
Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp. Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt, xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.
- Cơ may khởi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô bạn nhỏ
của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì không?
- Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnh Naples.
- Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không, chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?
Cô Sue khịt mũi:
- Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ, không có chuyện như thế.
Vị bác sĩ nói:
- Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà
khoa học cho phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mua đông thì tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.
Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.
Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải giường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng kinh một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.
Cô đi vội đến bên mép giường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và đang đếm, đếm ngược: “mười hai”, và ít lâu sau: “mười một”, và sau đấy “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch vụn vỡ.
Sue hỏi:
- Cái gì vậy hở bồ?
Johnsy nói, gần như thì thầm:
- Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần
cả trăm, đếm muốn nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn
lại năm.
- Năm cái gì, nói cho Sue của bồ nghe nào!
- Năm chiếc lá. Trên cây thường Xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình cũng sẽ ra đi. Minh đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết à.
Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.
- Ô hay! Minh chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá thường Xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông ấy nói cơ may chính xác là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may chúng mình có ở New York để đáp tầu điện hay đi qua một toà nhà mới. Bây giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít rượu vang poóc-tô cho cô bé đang bệnh, và thịt lợn cho chính tác giả ăn.
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:
- Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.
Sue nghiêng mình trên cô:
- Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Minh cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.
Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?
- Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy chiếc lá thường Xuân vô duyên đó.
- Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi. Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc lá mệt mỏi kia.
Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ.
- Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến khi mình trở lại.
Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ. Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ sống ở tấng trên.
Sue tìm gặp Behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốtt hai mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.
Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:
- Khốn khổ! Ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này. Không tao sẽ không ngồi làm mẫu cho một đứa ẩn cư ngu ngốc như mày. Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái con nhỏ Johnsy khốn khổ!
- Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích sự.
Ông Behrman tru tréo lên:
- Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi! Đúng là phải như thế.
Johnsy đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây thường
Xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.
Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy Johnsy đang vô hồn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:
- Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.
Sue mệt mỏi làm theo bạn.
- Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch. Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.
Johnsy nói:
- Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình
nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.
Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:
- Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian
là một linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng
tưởng dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.
Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn độc bảm vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.
Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra lệnh kéo cái rèm xuống.
Chiếc lá thường Xuôn vẫn còn đấy.
Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga trên cái bếp ga. Cô nói:
- Minh là đứa hư,
Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho thấy mình quả là độc ác.
Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang cho mình chút cháo, và ít sữa
pha chút rượu vang póc-tô, và... không, mang trước cho mình cái gương soi cầm
tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng.
Một giờ sau, cô nói:
- Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnh Naples.
Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.
- Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và giờ
tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman – tôi nghĩ
chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối, cơn bệnh lại
là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến bệnh viện để được
thoải mái hơn.
Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:
- Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và chăm sóc – chỉ có thế thôi.
Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật đậm và
xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên giường cô, đặt cánh tay quanh cô và cũng quanh mấy cái gối.
- Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn phòng tầng dưới, thất thủ với cơn đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường Xuân cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
*********************************************
The Last Leaf
by O. HENRY
In a little district west of Washington Square the streets have run crazy and broken themselves into small strips called "places." These "places" make strange angles and curves. One Street crosses itself a time or two. An artist once discovered a valuable possibility in this street. Suppose a collector with a bill for paints, paper and canvas should, in traversing this route, suddenly meet himself coming back, without a cent having been paid on account!
So, to quaint old Greenwich Village the art people soon came prowling, hunting for north windows and eighteenth-century gables and Dutch attics and low rents. Then they imported some pewter mugs and a chafing dish or two from Sixth Avenue, and became a "colony."
At the top of a squatty, three-story brick Sue and Johnsy had their studio. "Johnsy" was familiar for Joanna. One was from Maine; the other from California. They had met at the table d'hôte of an Eighth Street "Delmonico's," and found their tastes in art, chicory salad and bishop sleeves so congenial that the joint studio resulted.
That was in May. In November a cold, unseen stranger, whom the doctors called Pneumonia, stalked about the colony, touching one here and there with his icy fingers. Over on the east side this ravager strode boldly, smiting his victims by scores, but his feet trod slowly through the maze of the narrow and moss-grown "places."
Mr. Pneumonia was not what you would call a chivalric old gentleman. A mite of a little woman with blood thinned by California zephyrs was hardly fair game for the red-fisted, short-breathed old duffer. But Johnsy he smote; and she lay, scarcely moving, on her painted iron bedstead, looking through the small Dutch window-panes at the blank side of the next brick house.
One morning the busy doctor invited Sue into the hallway with a shaggy, gray eyebrow.
"She has one chance in - let us say, ten," he said, as he shook down the mercury in his clinical thermometer. " And that chance is for her to want to live. This way people have of lining-u on the side of the undertaker makes the entire pharmacopoeia look silly. Your little lady has made up her mind that she's not going to get well. Has she anything on her mind?"
"She - she wanted to paint the Bay of Naples some day." said Sue.
"Paint? - bosh! Has she anything on her mind worth thinking twice - a man for instance?"
"A man?" said Sue, with a jew's-harp twang in her voice. "Is a man worth - but, no, doctor; there is nothing of the kind."
"Well, it is the weakness, then," said the doctor. "I will do all that science, so far as it may filter through my efforts, can accomplish. But whenever my patient begins to count the carriages in her funeral procession I subtract 50 per cent from the curative power of medicines. If you will get her to ask one question about the new winter styles in cloak sleeves I will promise you a one-in-five chance for her, instead of one in ten."
After the doctor had gone Sue went into the workroom and cried a Japanese napkin to a pulp. Then she swaggered into Johnsy's room with her drawing board, whistling ragtime.
Johnsy lay, scarcely making a ripple under the bedclothes, with her face toward the window. Sue stopped whistling, thinking she was asleep.
She arranged her board and began a pen-and-ink drawing to illustrate a magazine story. Young artists must pave their way to Art by drawing pictures for magazine stories that young authors write to pave their way to Literature.
As Sue was sketching a pair of elegant horseshow riding trousers and a monocle of the figure of the hero, an Idaho cowboy, she heard a low sound, several times repeated. She went quickly to the bedside.
Johnsy's eyes were open wide. She was looking out the window and counting - counting backward.
"Twelve," she said, and little later "eleven"; and then "ten," and "nine"; and then "eight" and "seven", almost together.
Sue look solicitously out of the window. What was there to count? There was only a bare, dreary yard to be seen, and the blank side of the brick house twenty feet away. An old, old ivy vine, gnarled and decayed at the roots, climbed half way up the brick wall. The cold breath of autumn had stricken its leaves from the vine until its skeleton branches clung, almost bare, to the crumbling bricks.
"What is it, dear?" asked Sue.
"Six," said Johnsy, in almost a whisper. "They're falling faster now. Three days ago there were almost a hundred. It made my head ache to count them. But now it's easy. There goes another one. There are only five left now."
"Five what, dear? Tell your Sudie."
"Leaves. On the ivy vine. When the last one falls I must go, too. I've known that for three days. Didn't the doctor tell you?"
"Oh, I never heard of such nonsense," complained Sue, with magnificent scorn. "What have old ivy leaves to do with your getting well? And you used to love that vine so, you naughty girl. Don't be a goosey. Why, the doctor told me this morning that your chances for getting well real soon were - let's see exactly what he said - he said the chances were ten to one! Why, that's almost as good a chance as we have in New York when we ride on the street cars or walk past a new building. Try to take some broth now, and let Sudie go back to her drawing, so she can sell the editor man with it, and buy port wine for her sick child, and pork chops for her greedy self."
"You needn't get any more wine," said Johnsy, keeping her eyes fixed out the window. "There goes another. No, I don't want any broth. That leaves just four. I want to see the last one fall before it gets dark. Then I'll go, too."
"Johnsy, dear," said Sue, bending over her, "will you promise me to keep your eyes closed, and not look out the window until I am done working? I must hand those drawings in by to-morrow. I need the light, or I would draw the shade down."
"Couldn't you draw in the other room?" asked Johnsy, coldly.
"I'd rather be here by you," said Sue. "Beside, I don't want you to keep looking at those silly ivy leaves."
"Tell me as soon as you have finished," said Johnsy, closing her eyes, and lying white and still as fallen statue, "because I want to see the last one fall. I'm tired of waiting. I'm tired of thinking. I want to turn loose my hold on everything, and go sailing down, down, just like one of those poor, tired leaves."
"Try to sleep," said Sue. "I must call Behrman up to be my model for the old hermit miner. I'll not be gone a minute. Don't try to move 'til I come back."
Old Behrman was a painter who lived on the ground floor beneath them. He was past sixty and had a Michael Angelo's Moses beard curling down from the head of a satyr along with the body of an imp. Behrman was a failure in art. Forty years he had wielded the brush without getting near enough to touch the hem of his Mistress's robe. He had been always about to paint a masterpiece, but had never yet begun it. For several years he had painted nothing except now and then a daub in the line of commerce or advertising. He earned a little by serving as a model to those young artists in the colony who could not pay the price of a professional. He drank gin to excess, and still talked of his coming masterpiece. For the rest he was a fierce little old man, who scoffed terribly at softness in any one, and who regarded himself as especial mastiff-in-waiting to protect the two young artists in the studio above.
Sue found Behrman smelling strongly of juniper berries in his dimly lighted den below. In one corner was a blank canvas on an easel that had been waiting there for twenty-five years to receive the first line of the masterpiece. She told him of Johnsy's fancy, and how she feared she would, indeed, light and fragile as a leaf herself, float away, when her slight hold upon the world grew weaker.
Old Behrman, with his red eyes plainly streaming, shouted his contempt and derision for such idiotic imaginings.
"Vass!" he cried. "Is dere people in de world mit der foolishness to die because leafs dey drop off from a confounded vine? I haf not heard of such a thing. No, I will not bose as a model for your fool hermit-dunderhead. Vy do you allow dot silly pusiness to come in der brain of her? Ach, dot poor leetle Miss Yohnsy."
"She is very ill and weak," said Sue, "and the fever has left her mind morbid and full of strange fancies. Very well, Mr. Behrman, if you do not care to pose for me, you needn't. But I think you are a horrid old - old flibbertigibbet."
"You are just like a woman!" yelled Behrman. "Who said I will not bose? Go on. I come mit you. For half an hour I haf peen trying to say dot I am ready to bose. Gott! dis is not any blace in which one so goot as Miss Yohnsy shall lie sick. Some day I vill baint a masterpiece, and ve shall all go away. Gott! yes."
Johnsy was sleeping when they went upstairs. Sue pulled the shade down to the window-sill, and motioned Behrman into the other room. In there they peered out the window fearfully at the ivy vine. Then they looked at each other for a moment without speaking. A persistent, cold rain was falling, mingled with snow. Behrman, in his old blue shirt, took his seat as the hermit miner on an upturned kettle for a rock.
When Sue awoke from an hour's sleep the next morning she found Johnsy with dull, wide-open eyes staring at the drawn green shade.
"Pull it up; I want to see," she ordered, in a whisper.
Wearily Sue obeyed.
But, lo! after the beating rain and fierce gusts of wind that had endured through the livelong night, there yet stood out against the brick wall one ivy leaf. It was the last one on the vine. Still dark green near its stem, with its serrated edges tinted with the yellow of dissolution and decay, it hung bravely from the branch some twenty feet above the ground.
"It is the last one," said Johnsy. "I thought it would surely fall during the night. I heard the wind. It will fall to-day, and I shall die at the same time."
"Dear, dear!" said Sue, leaning her worn face down to the pillow, "think of me, if you won't think of yourself. What would I do?"
But Johnsy did not answer. The lonesomest thing in all the world is a soul when it is making ready to go on its mysterious, far journey. The fancy seemed to possess her more strongly as one by one the ties that bound her to friendship and to earth were loosed.
The day wore away, and even through the twilight they could see the lone ivy leaf clinging to its stem against the wall. And then, with the coming of the night the north wind was again loosed, while the rain still beat against the windows and pattered down from the low Dutch eaves.
When it was light enough Johnsy, the merciless, commanded that the shade be raised.
The ivy leaf was still there.
Johnsy lay for a long time looking at it. And then she called to Sue, who was stirring her chicken broth over the gas stove.
"I've been a bad girl, Sudie," said Johnsy. "Something has made that last leaf stay there to show me how wicked I was. It is a sin to want to die. You may bring a me a little broth now, and some milk with a little port in it, and - no; bring me a hand-mirror first, and then pack some pillows about me, and I will sit up and watch you cook."
And hour later she said:
"Sudie, some day I hope to paint the Bay of Naples."
The doctor came in the afternoon, and Sue had an excuse to go into the hallway as he left.
"Even chances," said the doctor, taking Sue's thin, shaking hand in his. "With good nursing you'll win." And now I must see another case I have downstairs. Behrman, his name is - some kind of an artist, I believe. Pneumonia, too. He is an old, weak man, and the attack is acute. There is no hope for him; but he goes to the hospital to-day to be made more comfortable."
The next day the doctor said to Sue: "She's out of danger. You won. Nutrition and care now - that's all."
And that afternoon Sue came to the bed where Johnsy lay, contentedly knitting a very blue and very useless woollen shoulder scarf, and put one arm around her, pillows and all.
"I have something to tell you, white mouse," she said. "Mr. Behrman died of pneumonia to-day in the hospital. He was ill only two days. The janitor found him the morning of the first day in his room downstairs helpless with pain. His shoes and clothing were wet through and icy cold. They couldn't imagine where he had been on such a dreadful night. And then they found a lantern, still lighted, and a ladder that had been dragged from its place, and some scattered brushes, and a palette with green and yellow colors mixed on it, and - look out the window, dear, at the last ivy leaf on the wall. Didn't you wonder why it never fluttered or moved when the wind blew? Ah, darling, it's Behrman's masterpiece - he painted it there the night that the last leaf fell."
Hắn cứ ỷ mình là ... con gái
Mặc áo dài chúm chím cười duyên
Sáng rủ ta, nài đi ăn phở
Lúc đứng lên chẳng chịu trả tiền
Trời sao ác, sinh chi ...con gái
Để con trai đi học phải đèo
Hắn lại bảo: Đó là nhiệm vụ
Từ muôn đời ai cũng phải theo
Tôi ghét nhất trên đời ... con gái
Nên kiếp sau nếu được làm người
Thì xin nguyện chỉ là ... chú Cuội
Gần các nàng tôi hóa ... đười ươi .810
Trâm làm kem flan. Cô cẩn thận đổ cái bánh kem ra cái dĩa hoa, lớn. Cẩn thận hơn mọi bận, vì cái bánh kem này cô đổ cho bữa tiệc bên nhà Hải mà ba má anh đã tổ chức để tiễn anh đi nhận việc mới ở tiểu bang xa. Màu đường vàng nâu trên mặt kem mịn màng làm cô hài lòng. Vẫn công thức ấy nên cô biết chắc là sau khi ăn Hải cũng sẽ hài lòng và khen ngon. Như mọi bận Hải vẫn tấm tắc khen tài nội trợ của cô.
Mẹ của Hải và mẹ của Trâm là hai người bạn thân thiết từ hồi ở VN. Qua đây, may mắn hai gia đình cùng ở một thành phố nên qua lại thường xuyên, tình thâm giao càng thêm đậm đà. Hải với Trâm có thể nói như cùng lớn lên với nhau. Hải tốt nghiệp trung học trước và lên Seattle học đại học. Trâm ra high school sau và đi học trường đại học gần nhà. Cuối tuần, Hải về nhà và thường đi chơi với Trâm. Coi movies, chơi tennis...Hai người chưa bao giờ là người tình của nhau. Bạn thôi. Có một thời gian lâu, Trâm còn nghĩ Hải là ông anh của mình. Vì bạn bè Trâm nhiều khi muốn đi nhảy đầm mỗi khi có ban nhạc, ca sĩ nổi tiếng ở Cali lên, mà ngại không có anh trai đưa đi, thì họ lại rủ Trâm đi. Để rồi Hải chiều Trâm mà thành ra lo đưa đón cho cả đám con gái. Một đám con gái ồn ào!
Thuở đó, Trâm vô tư ghê lắm, nhận thư con trai ái mộ, Trâm thường đưa cho cả bạn bè xem. Một lần có bạn xem xong lại cắc cớ hỏi, mi nhận thư như vầy không sợ anh Hải ghen hay sao? Trâm khù khờ. Sao lại ghen? Cô ta lại hỏi. Mi với anh Hải đâu phải là anh em? Má mi với má anh Hải có là chị em không? Không! Vậy thì mi với anh Hải cũng đâu phải là anh em bạn dì, tức là cousins đó.
Bị bạn bè trêu chọc, Trâm hồn nhiên đem chuyện kể lại với Hải:
-Anh Hải, thiên hạ đồn em là bồ của anh đó. Nghe có tức cười không?
Hải trả lời:
-Thật sự anh rất thích em. Hai đứa mình cùng lớn lên với nhau, nhưng anh chưa hề nghĩ em là...bạn gái của anh.
-Em cũng nghĩ như vậy...Anh là anh của em...vì em không có anh trai.
Thì quả thật cô cũng nghĩ như lời cô vừa nói ra, nhưng nói xong, sao lòng cô lại thấy đau nhói! Lần đầu tiên, cô biết lòng mình đau nhói. Cô không biết đó có phải là tình yêu. Nhưng mới đây khi Hải chán làm công chức, muốn bay nhảy, xin giốp tư ở tiểu bang khác...thì Trâm không vui...và khi Hải vui mừng báo tin nhận được việc, thì Trâm buồn thật buồn, nghe tin xong, cô đã bật lên tiếng khóc. Hải vẫn vô tình không biết vì sao Trâm khóc.
Trâm bước vào nhà Hải khi tiệc vui đang ồn ào. Có người hỏi:
-Vậy thì...anh có mua không?
Người kia trả lời:
-Không! Mua gì...kinh vậy! Chết hẳn hay, lúc đó sáu trăm mà bây giờ bốn trăm rưỡi, thì cũng đâu có khác gì bao nhiêu. Tui nghĩ đốt khỏe hơn, chừng nào có phương tiện thì con cháu đem về VN chôn...Tụi Mỹ thích chôn trên đồi gần cây cối cho đẹp...còn mình thì nói nằm nghiêng mỏi lưng, còn gần bên cây lớn thì sợ bị rễ cây ăn. Tui đi dự cái đám ma chồng bà Thủy...nó đổ xi-măng cứng ngắt...như cái hộp, chừng lấy cốt cũng khó khăn à!
Thì ra mấy bác đang nói chuyện về Cộng Đồng Việt đang thành lập một cái nghĩa trang và trao đổi ý kiến có nên mua đất trả góp ngay bây giờ hay không. Ai lại ngày vui mà nói chuyện chết chóc! Trâm dọt lẹ ra sân sau. Nơi đây đám trẻ bạn của Hải, bạn của Trâm cũng đang nói cười vui vẻ.
-GiGi sắp lấy chồng rồi!
-Lấy ai? Tuyên hả? ...Thấy bám riết!
Tên này tuổi mỗi ngày mỗi lớn nhưng đối tượng vẫn không lớn, hắn vẫn cứ theo mấy cô trẻ!
-Chỉ có Tuyên bám riết chứ GiGi không chịu. Chuyện đó lâu rồi. Người này ở Texas.
-Sao chưa thấy Quỳnh Trâm đến. A! Tụi này vừa nhắc Trâm đây. Không có Trâm, anh Hải sao vui được!
Trâm nghe mà nghĩ bụng. Phải nói như thế này mới đúng, Hải đi rồi, Trâm vui sao được. Hải trông chờ chuyến đi này. Công ăn việc làm tốt, thành phố lạ, sự nghiệp thẳng tiến. Texas, vùng nắng ấm. Cả một thế giới bên ngoài lớn mở, Hải sẽ nhìn xa thấy rộng. Dallas có cơ xưởng của những hãng Cisco, Nortel, Nokia, Texas Instruments...không hãng này thì hãng khác cũng sẽ trân trọng rước anh. Stock Options, Stock Purchase Plans, tiền thưởng bằng cổ phần của công ty. Những quyền lợi mà công ty sẽ cho anh hưởng khi họ có một nhân viên tài giỏi như anh. Làm sao thành phố Olympia nhỏ bé này, không có hãng xưởng lớn, lại có thể cạnh tranh được với thành phố Dallas chứ? Thủ phủ Olympia chỉ có những tòa nhà tiểu bang, thư viện, công viên, những hàng đào hoa nở rộ vào tháng tư...thành phố quá êm đềm. Anh sẽ ra đi mà không luyến tiếc gì cả. Chỉ có Trâm, người ở lại, với những quen thuộc nhàm chán, những ngày mưa dầm dề trời đất nặng trĩu.
Lại có người hỏi:
-Anh Hải đi vài năm rồi cũng về lại đây chứ hả?
Mỗi thứ bảy, người đưa thư đi ngang qua nhà Trâm khoảng hai giờ chiều. Thứ bảy nào cũng như thứ bảy nào, dù mưa hay nắng. Cô không rõ ngày thường, vì cô đi làm, nhưng có lẽ ông cũng đúng giờ. Ông đậu chiếc xe thư dưới dốc rồi đi bộ lên dốc, bắt đầu với hướng tay phải là hướng nhà cô rồi đi vòng cho hết hẻm cụt. Trâm hay ngồi đợi thư ở cửa sổ, nhìn ông đi tới nhà mình. Luôn luôn ông ngừng lại vì không trăm ngàn thứ bills cho ba mẹ, cho gia đình, thì cũng ba cái giấy tờ quảng cáo lăng nhăng, là những thứ không thể thiếu trong đời sống Mỹ. Hôm nay, trời nắng đẹp đẽ, cô đón ông ở tận ngoài đường nói hi với ông và khen một câu về thời tiết. Ông nháy mắt rồi cười nói với cô, cô không trông chờ những lá thư đòi nợ chứ?
Trâm đem thư vào nhà, thấy chị Thu ngồi đọc báo ở nhà bếp với ly cà phê trên tay. Một sáng nhàn cư của chị. Nắng rọi vào nhà ấm áp.
-Nè, chị có thư!
Chị xem thư xong rồi cười lớn:
-Mời đi dự cuộc họp mặt của cựu học sinh Trưng Vương. Tao đâu biết là lâu nay tao bị thất lạc, coi tên tao nằm trên cái list đã tìm thấy được nè. Những người thất lạc là những người bạn bè có gặp ở nước ngoài nhưng sau đó mất liên lạc, đó là lời chú thích ở phía dưới cái list. Chắc một mụ TV nào cho địa chỉ đây?
Rồi ngẩng đầu, chị chợt để ý đến cái mặt buồn thiu của Trâm:
-Lại không có thư của Hải hả? ...Đã ba tháng rồi phải không? Cái cu cậu này không được gì hết...Nó không còn nhớ em rồi!
Trâm chối dài:
-Em có chờ thư ai đâu!
Nói thì nói vậy nhưng không chuyện gì qua được cặp mắt của chị Thu.
Trâm bước vào nhà. Mẹ cô đang đứng rửa rau nơi bếp, thấy con, bà vội nói:
-Thằng Hải vừa về. Bác Bình gái gọi mời gia đình mình chiều nay đến dùng cơm cho vui.
Cô hững hờ trả lời:
-Vậy à?
Và cô bước lên lầu, vào phòng của cô. Cũng đã nửa năm rồi từ lúc Hải được giốp ở Texas. Cô đã không thấy mặt anh chàng, chỉ có một cú phôn duy nhất hồi anh mới đến nơi ấy, rồi sau đó không có những cú phôn qua lại giữa hai người, cũng không có những lá thư liên lạc.... Cô có thể hỏi đ2034
Bài hát Giòng Sông Xanh do nữ ca sĩ Thái Thanh trình bày vừa chấm dứt. Dư âm sóng nước vẫn còn vỗ tấp, chập chùng trong bến bờ xanh lơ của mộng mơ. Nhưng dỉa hát không ngừng ở đó. Nhạc phẩm Come Back to Sorrento, Trở về Mái Nhà Xưa, của Ernesto Di Curtis, lại được tiếp nối. Nhạc mở đầu với tiếng dương cầm thánh thót như những hạt mưa đầu thu. Và tiếng hát của một ca sĩ nào đó lại cất lên
“Về đây khi mái tóc còn xanh xanh
Về đây với màu gió ngày lang thang
Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng
Ôi lãng du quay về điêu tàn
. . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .”
(lời Việt của Phạm Duy)
Lim dim đôi mắt, hồn tôi đi vào cõi mù sương của Mộng và Thực, rồi trôi dần vào vùng quá khứ . Ở một nơi rất xa xăm, hằng đêm có tiếng lòng trải rộng mênh mang trên phím đàn. Ở đó có những quạnh hiu dồn nén tâm tưởng. Và ở đó cũng có những lằn roi quất tới tấp. Vết thương ghi dấu mùa xuân lỡ thì, khi sướt mướt trên nốt nhạc, quằn quại thương đau, khi lả lướt như cánh diều bay trong gió . . .
2-
1976
. . . Lứa gà đầu tiên đẻ rất sai, mẹ con chúng tôi ăn không hết nên đã bán trứng cho bà con trong xóm. Dân chúng phải sắp hàng mua thực phẩm do phường khóm bán nhỏ giọt đã quá mệt mỏi . Vì vậy việc bán vài chục trứng gà hằng ngày của tôi càng ngày càng được nhiều người chiếu cố.
Tôi liền nghĩ đến việc huy động phong trào nuôi gà để mỗi gia đình trong phường có thể tự lực tự cường như tôi. Sáng kiến của tôi đưa ra trong một phiên họp của tổ dân phố nơi tôi cư ngụ được mọi người hoan hỉ và Ba Tưng, viên chủ tịch phường, cũng chấp thuận. Ngày hôm sau hắn tìm đến tôi, bỏ nhỏ với tôi rằng nếu tôi muốn làm ăn thì phải nộp cho hắn mỗi tuần một số tiền nhất định. Để được yên thân đương nhiên tôi phải nhanh nhẩu chấp nhận việc đóng tiền mãi lộ cho hắn.
Nhờ có vốn liếng và trí óc lanh lợi, tôi liên lạc với những nông trại để đặt mua gà con. Mỗi sáng sớm lúc mọi người trong thành phố còn an giấc, tôi lặng lẽ rời nhà, thuê xích lô máy đi Thủ Đức, một huyện cách Sàigon hai giờ đường. Trời mờ tối và chiếc xe phóng hết tốc độ trên xa lộ vắng người. Tôi níu chặt thành xe, đầu óc tính toán đến món hàng sẽ phân phối cho những người đặt hàng, đến số tiền lời sắp có mỗi ngày để quên đi cái lạnh cắt da xé thịt.
Tôi co ro miên man nhớ đến ngày đầu tiên đi thăm nuôi chồng tôi ở trại cải tạo Bình Lâm. Ngày đó tôi cũng rời thành phố thật sớm như thế này, tay xách nách mang những túi thức ăn, áo quần và thuốc men bới cho chồng. Đường xa vời vợi, phải đổi hai ba chuyến xe Lam mới đến nơi. Hằng chục ngàn người đàn bà vợ Ngụy, tên gọi những người có chồng đi cải tạo học tập, đến địa điểm tập trung từ hai ba hôm trước. Họ nằm bờ nằm bụi thật thảm thương. Mỗi ngày, họ sắp hàng ngồi lết dưới trời nắng chang chang hằng giờ để chờ gọi tên mình, mồ hôi nhớp nháp. Bà nào mặt mày cũng hốc hác xanh xao và lo âu. Nhưng ánh mắt họ ngời sáng khi nghĩ đến người thân yêu sắp được gặp.
Vâng, cuối cùng tôi cũng đã gặp được người chồng yêu dấu sau bao nhiêu tháng biền biệt. Hai vợ chồng huyên thuyên nói cười trong mừng vui, nước mắt ràn rụa. Mỗi lúc tôi suýt thút thít thì anh lại suỵt suỵt làm dấu bảo đừng.Trông anh gầy hơn trước nhưng tinh thần vẫn tốt. Lại đùa với tôi,
“Anh ở trong này như đi nghỉ mát, khỏe lắm. Ít tháng nữa cải tạo tốt sẽ được về thôi. Em ở nhà ráng lo cho sắp nhỏ. Rồi mình sẽ làm lại từ đầu, anh về sẽ lo cho em hết mọi chuyện …”.
Tôi nghẹn lời ngồi im. Chồng bỗng cầm tay nhìn sâu vào mắt vợ, tình tứ,
“Ở nhà có nhớ anh không ? “
Tôi gật đầu. Chàng lại hỏi,
“Nhớ nhiều không ? nhớ thì làm gì ?…”
Tôi bẽn lẽn,
“Thì ôm chăn chặt cứng “ .
Người ấy yêu thương cốc nhẹ vào đầu tôi, nhìn qua ngó lại coi có ai để ý không rồi cúi xuống úp mặt vào tay tôi hôn thật lâu. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất, đủ xoá hết mọi muộn phiền của tôi trong những tháng ngày qua .
Tôi giật mình tỉnh mộng khi người phu xe ngừng lại cho biết đã đến nơi. Từ chỗ xe thả tôi xuống đến nông trại gà phải đi bộ khoảng năm cây số. Vào mùa mưa đường đất lầy lội trơn trợt, con đường mòn như dài vô tận. Nhất là khi mua được món hàng xong phải quay trở lại với hai ba thùng gà con trong tay, người đàn bà lại càng thiểu não hơn nữa. Ì à ì ạch mới ra tới đường cái để đáp xe về thành phố.
Công việc thu mua gà dù mệt nhọc cách mấy hôm nào cũng xong xuôi trơn tru để tôi quay trở về nhà vui mừng nghe tiếng đồng hồ điểm mười một giờ sáng. Tôi quày quả thay đổi y phục, trong nháy mắt không còn là một người áo quần xốc xếch , mặt mủi lem luốc tay chân lấm đầy bùn đất, mà là một người đàn bà liễu yếu xinh đẹp trí thức. Ôi hai chữ trí thức sao làm phiền đời tôi đến thế ? Vì hai chữ trí thức tôi không dám cho ai nhìn thấy cảnh mình trốn mọi người đi buôn trong sáng sớm. Đôi lúc tôi cười ngạo về sự kịch cỡm của mình . Nhảm! đi buôn có gì xấu hổ mà phải chùng chùng lén lén thế kia. Cuộc đổi đời ai mà chả thế!
Nói vậy nhưng bề gì sự lột xác cũng cần có thời gian ..
Lúc khởi xướng, việc nuôi gà đẻ trứng có mục đích đem lại niềm vui cho các con và để có thêm thức ăn bồi dưởng mỗi ngày. Tiếp đến nó lại đem thêm chút lợi tức nho nhỏ và dần dà không còn là một công việc tầm thường nữa. Nó biến dạng một cách nhanh chóng để trở thành một công ăn việc làm nghiêm túc và sầm uất cho gia đình tôi. Với danh nghĩa lao động sản xuất để tự lực tự cường, công an phường khóm không có lý do làm khó dễ ai. Nhờ sự đút lót khôn khéo, tôi và các con có một đời sống yên ổn khả dĩ sung túc hơn nhiều người khác đang cùng hoàn cảnh.
Những ngày thức dậy thật sớm lủi thủi lội mưa mua gà đã qua đi. Nhiều cơ sở ở nông thôn bằng lòng cung cấp gà con cho tôi tận nơi. Tôi hợp tác với những người sản xuất lồng nuôi gia súc ở Chợ Lớn, và từ đó đẩy mạnh phong trào chăn nuôi gà khắp nơi trong thành phố Hồ Chí Minh, tên mới của đất Saigon một thời được gọi là hòn ngọc Viễn Đông hoa lệ .
Ủy Ban Nhân Dân thành phố bắt dân chúng tập trung và đăng ký mọi công ăn việc làm với chính quyền địa phương dưới hình thức những tổ hợp. Mỗi tổ hợp gồm một số người hợp tác với nhau và kiểm soát lẫn nhau. Các tổ hợp “chăn nuôi gà lấy trứng” mọc lên khắp nơi, nhờ đó công việc làm ăn của tôi bành trướng mạnh mẽ. Tôi hoạt động dưới danh nghĩa “tổ hợp phân phối gà con và thuốc gia súc” qui tụ một số người trong xóm. Nhưng thực ra những người này chỉ đứng tên làm vì, họ không phải làm gì nhưng hằng tháng vẫn nhận được một số lương tượng trưng về việc cho thuê tên trong tổ hợp của tôi. Ngoài ra Ba Tưng và đồng bọn cũng che chở tôi hết mực vì số tiền khổng lồ tôi đã đóng cho hắn hằng tháng.
Thực ra chuyện nuôi gà tại gia không phải là một điều mới lạ với người dân Saigon. Cách đó chục năm trước phong trào nuôi chim cút nỗi lên rầm rộ rồi thất bại. Mọi người sau đó chuyển qua nuôi gà Mỹ để kiếm lời. Gà Mỹ chóng lớn, có khả năng sản xuất trứng rất đều đặn và lâu dài hơn những giống gà khác. Phong trào này cũng chóng tàn. . .Nay thời cuộc biến đổi, người dân vì quá âu lo cho một tương lai đầy rẫy hăm dọa nguy biến, đã quên mất phải làm gì để sống. Họ như đang đi trong đêm tối mờ mịt, ngày ngày chỉ biết sắp hàng cầm sổ hộ khẩu mua nhu yếu phẩm. Thịt thà do phường xóm phân phối theo tiêu chuẩn gia đình, rất hạn hẹp. Việc nuôi gà để có thịt ăn do đó trở nên hợp lý hợp tình nhất ..
3-
Chín giờ sáng ngày chủ nhật tháng bảy.
Cơ quan công an khu phố vắng vẻ đìu hiu trong ngày nghỉ. Hãng bào chế dược phẩm cạnh nhà tôi đóng cửa, và người hàng xóm của tôi cũng đi chơi vào những ngày cuối tuần như mọi khi.
Đêm qua các em tôi đột xuất ghé qua cho hay nhà có giỗ và xin dẫn các con tôi về nhà Ngoại trước. Vì vậy khuôn viên nhà tôi vốn đã buồn trong ngày chủ nhật nay càng hoang vắng hơn vì thiếu tiếng cười của con trẻ. Tôi quanh quẩn trước sân lượm rác, định bụng sẽ về nhà cha mẹ sau khi giao hàng cho một người khách, theo lời họ nói, đến từ Bình Dương.
Khách mua hàng đã đặt tiền cọc khá lớn. Đây là lần đặt hàng sộp nhất từ trước đến nay, trị giá gần hai trăm ngàn đồng tiền mới (mỗi gia đình lúc bấy giờ chỉ được quyền đổi hai trăm tiền mới mà thôi), một mối lợi béo bở không ai có thể bỏ qua. Hàng là 2500 gà con, giống New Hampshire có khả năng sản xuất bền bỉ loại trứng màu nâu rất được yêu chuộng trên thị trường. Ngoài ra họ còn mua thêm 500 chuồng gà và một số thuốc dinh dưởng bồi bổ gà trong thời kỳ đẻ trứng.
Vì công việc làm ăn có phần tiến triển thuận lợi nên hai hôm sau khi chộp được mối bở, sẵn có người tìm đến xin việc, tôi mướn ngay. Đó là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, tháo vát và vui vẻ nên tôi rất vừa lòng. Cô ta tên Thúy, ăn ở luôn trong nhà .
Xẫm già lân la lại gần đưa mắt hỏi :
“ Sao bà chủ dậy sớm vậy? hỗng ngủ thêm cho khỏe ?”
“ Con Thúy xin nghỉ việc bất thình lình hôm kia, mà hôm nay mình lại phải giao hàng cho người ta như đã hẹn.”
Xẫm già ngồi xuống cười hiền lành,
“Thôi bà chủ đừng có lo. Ngộ nói bà chủ đừng có lo mà! Ngộ mần việc gì cũng được hết! Ngộ sẽ giúp bà chủ khiêng mấy con gà con vịt cho người ta “
Tôi cúi xuống mở những nắp thùng xem xét lại đám gà con. Chúng đang nép sát mình nằm yên bên nhau tìm hơi ấm, bỗng cùng đứng vùng dậy kêu chiêm chiếp như bị động ổ. Lông gà con màu vàng nhạt mịn như tơ, và những cái mỏ đỏ hồng thật xinh xắn. Chúng đua nhau mổ vào ngón tay của tôi tìm ăn.
Xẫm già lui cui khiêng cái này vác cái nọ dọn dẹp. Bỗng bà ấy trượt chân mất thăng bằng ngã xuống đất. Tôi lo sợ quì xuống đỡ xẫm. Gương mặt người đàn bà tái ngắt và xẫm ú ớ không nói được. Tim xẫm đập nhanh hơn bình thường.
Điện thoại reng vang. Bên kia đầu giây có tiếng người đàn ông cho biết trong vòng nửa tiếng đồng hồ họ sẽ có mặt để nhận hàng. Ông ta yêu cầu tôi mở cửa rào sẵn sàng để xe họ vào. Hỏi có bao nhiêu người phụ giúp tôi giao hàng. Tôi ậm ừ bảo chỉ có mình tôi và xẫm già. Hỏi hôm nay ngoài họ ra, có khách nào đến mua hàng nữa không. Tôi bảo không. Lại hỏi hàng xóm đi vắng bao giờ về. Câu hỏi gì thật quái gở ! Lấy cớ bận việc, tôi gác máy.
Có tiếng chó sủa ran.
Một chiếc xe hàng khổng lồ tiến vào sân và từ từ đậu sát cửa ra vào. Trên xe nhảy xuống một người đàn ông quen mặt đã đến đặt hàng trước kia. Thêm một người đàn ông khác có mang súng và cuối cùng là Thúy, đứa ở giúp việc tuần trước đã lấy cớ nghỉ việc bất thình lình. Tướng đi xông xáo rất tự tin của Thúy và cây súng trong tay người đàn ông kia làm tôi biến sắc. Tôi cảm được một bất lành sắp xãy đến.
Thay vì vào nhà, Thúy đi vòng ra cổng sắt và cài chốt lại.
Như thế có nghĩa gì ?
Con chó Lu tiếp tục sủa nhưng Thúy đã cúi xuống vuốt ve con vật. Chắc Thúy đã làm nhiều lần như thế trong quá khứ nên chó quen hơi, thôi sủa. Tôi run như cầy sấy, vội vàng khóa các cửa lại.
Tiếng đập cửa rầm rầm. Họ lớn tiếng :
“Mở cửa, mở cửa, chúng tôi đến nhận hàng đây “
Cửa lại bị dộng mạnh như muốn vỡ ra. Tôi quính quáng chạy xuống phía sau bếp, cố trèo lên bức vách gần đó nhưng tường cao quá, không cách gì leo nỗi. Trèo lên tụt xuống. Có tiếng quát vang của con Thúy. Như vậy bọn chúng đã vào được trong nhà rồi ư ? Sao hay vậy nhỉ ? ...
Trong lúc nguy biến tôi lăn mình nằm núp dưới cái phản đặt ở góc phòng. Văng vẳng tiếng chúng bảo nhau hãy mau khuân tất cả đồ đạc trong nhà lên xe. Tiếng con Thúy the thé đòi xé xác xẫm già nếu xẫm không chỉ chỗ chủ nhà đang trốn. Tiếng khóc đứt đoạn của xẫm già vang lên từng hồi. Tiếng khuân đồ đạc rầm rập. Thỉnh thoảng có tiếng loảng xoảng của một vật gì bị rớt vỡ.
Tôi quá lo sợ ép mình nằm sát vào phía trong. Chó Lu chạy qua chạy lại gần chỗ tôi nằm. Tôi xịt xịt đuổi nó đi, nó lại khịt khịt trả lời. Run quá, run quá. Không chừng chính nó làm tôi lộ tẩy cũng nên . Tôi nghiến răng nói nhỏ,
“ đi, đi chỗ khác, mau !”
Như hiểu được ý tôi, chó Lu ra ngoài sân nằm mẹp xuống đất ngoe nguẩy đuôi.
Giọng Thúy bỗng rõ mồn một. Hình như cô ả đang tiến về phía nhà bếp.
“Con mẹ chủ nhà này biến đi đâu hay thiệt ! Tao mà bắt được mày là tao bằm nát xương mày ra !”
Tiếng một thằng đàn ông vọng xuống,:
“Thôi kệ cha nó. Lo tranh thủ làm việc đi ! Kiếm thấy chỗ nó giấu tiền ở đâu chưa ? “
“Chỉ tìm được một ít tiền mà chưa thấy vàng đâu cả”
“Cả tuần mầy ở trong nhà này làm chó gì mà không biết được chỗ giấu của nó?”
“Thì cứ tưởng nó cất trong phòng ngủ chứ ai có dè !”
“Mày làm ăn như cứt! “, tiếng thằng đàn ông lại chưỡi thề
Một giọng đàn ông khác lên tiếng,
“Cạy miệng con mụ Chệt kia mà hỏi chưa ?’
“Khện cho mụ ta nát thây rồi mà mụ không nói. Này, còn cái đờn bia-nô tính sao ?”
“ Nặng thấy bà nội, khỏi lấy “
Thúy đã xuống nhà bếp. Bước chân khệnh khạng đi tới đi lui. Cô ả ra sân sau nhìn lên mái ngói một hồi rồi quay trở lại. Thị ngồi xuống phản, hai chân đong đưa qua lại. Tôi nằm nín thở, có cảm tưởng như muốn đứng tim.
Hình như Thúy đang xỏa tóc ra để cột lại . Nhưng ô kìa, thị ta lọng cọng như thế nào mà cái kẹp lại rơi xuống đất . Thúy cúi xuống nhặt kẹp và há mồm khi trông thấy tôi dưới phản. Cô ả liền đứng phắt dậy cười ha hả. Cô vừa mắng nhiếc vừa dùng sức đẩy chiếc phản ra. Tôi ôm chặt cứng một chân phản trì lại . Không chịu thua, Thúy chạy lại đầu kia nhấc bổng một góc phản lên rồi dộng xuống thật mạnh liên tiếp vài lần. Tiếng dộng chát chúa và sức ép làm tôi choáng váng buông tay. Thừa cơ hội ấy, hắn lật ngược chiếc phản. Nhanh như chớp tôi phóng mình vào phòng vệ sinh gần đó và khóa chốt. Thúy điên tiết lấy chân đạp thình thịch vào cửa.
Có tiếng của một thằng đàn ông đồng bọn chạy xuống tiếp tay. Bên trong, tôi không còn biết làm gì hơn là ngồi rúc trong xó cầu tiêu run rẩy.
Bọn chúng dùng búa đập phá và cuối cùng ổ khóa bung ra. Thúy, như mụ quỷ dạ xoa, nhảy vào tru tréo nắm tóc ghì đầu tôi xuống. Hắn dộng mặt tôi vào vách hai ba lần, răng nghiến trèo trẹo :
“À giỏi nhỉ, hết chỗ trốn sao chui vào cầu tiêu ? Muốn ăn cứt hã ? Chốc nữa tao sẽ ỉa cho mày ăn thả dàn “
Thằng đàn ông, mặt mày bặm trợn và đầy sẹo, dí con dao găm vào cổ tôi, gầm gừ,
“Vàng bạc hột xoàn mày giấu đâu, nói mau ! “
Đôi mắt hắn như toé lửa. Tôi cúi gằm mặt xuống, không trả lời.
“ À lì hã ? lì thì tao cho mày chầu Diêm Vương ngay”
Vừa nói câu đó xong, hắn thả tay dao xuống, thúc mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi. Tôi quị ngã. Thúy túm tóc tôi lôi dậy, dộng thật mạnh mặt tôi vào tường một lần nữa. Trán tôi tứa máu và đầu tôi đau như búa bổ. Thằng đàn ông bồi thêm một cú đá vào phía sau đầu gối làm tôi sụm xuống. Túm lưng áo lôi tôi lên, hắn dí tôi vào sát vách, nói dằn từng tiếng :
“Vàng bạc của cải mày giấu đâu khôn hồn khai mau. Tao đếm xong ba tiếng mà mày không khai là mày tới số rồi, nghe con”
Tôi thều thào :
“Dưới . . . dưới . . . “
“Dưới đâu ? nói mau! “
Đúng vào lúc ấy có tiếng còi hụ vang lên ngòai ngõ. Thằng đàn ông đồng bọn với con Thúy ở nhà trên la lên hốt hoảng,
“Chạy mau tụi bây ! Động ổ rồi, động ổ rồi.. . Công an đang vây ngoài kia “.
Thúy vẫn còn ghì đầu tôi, dùng dằng chưa biết phải làm gì trong khi thằng mặt sẹo chạy lên nhà trên xem xét tình hình. Một tiếng súng chát chúa vọng xuống.
Nhiều tiếng quát dồn dập vang lên đâu đó,
“ Đưa tay lên, đầu hàng ! đầu hàng ngay !”
Thúy buông con mồi. Trước khi tẩu thóat, y thị đá tôi thật mạnh. Tôi ngã chúi xuống đất, đầu đập vào góc cửa cầu tiêu, bất tỉnh . . .
4-
Tất cả những gì bọn cướp vơ vét lên xe đều bị phường khóm tịch thu, ngoại trừ hai ngàn năm trăm gà con. Sở dĩ họ nhả món hàng bở này lại vì trong lúc vội vàng, công an phường không biết phải làm gì với chúng. Rước gà về thì phải nuôi ăn dọn phân rất phức tạp, nên không ai muốn thêm công thêm việc.
Đây là một số lượng gà rất lớn không thể tiêu thụ nhanh được. Tôi bán dần đi được một ít, còn bao nhiêu phải nuôi chúng trong khi chờ đợi khách mua. Gà con rất khó chăm sóc trong vài tuần đầu vì chúng phải được ủ đèn thường xuyên để được ấm. Tôi xếp chuồng chồng lên nhau làm năm tầng, mỗi chuồng chứa khoãng trăm con. Tất cả cũng được ba dãy dựa lưng nhau. Xung quanh chuồng phải bịt bao ni-lông loại trong suốt có thể nhìn xuyên được và để giữ nhiệt độ cho gà con được đủ ấm vào đêm.
Hôm nay, như thường lệ, tôi thức dậy từ năm giờ sáng. Chương trình của mỗi ngày gần như không có gì gì thay đổi . Công việc đầu tiên là xuống bếp bắt nồi cháo trắng để các con dậy có ăn. Nấu nước sôi pha bình thủy . Kiểm điểm giỏ xách thăm nuôi xẫm già . Ra vườn cho gà ăn. Và sau đó ... và sau đó ...
Vâng, thì ra vườn cho gà ăn . Nhưng quái lạ chưa ! Khi tấm ni-lông vừa được vén lên, một cảnh tượng khiếp đảm hiện ra. Không thể tưởng tượng được. Không thể nào tưởng tượng nổi !
Tôi há hốc mồm, tay chân bủn rủn gần như muốn quị ngã . Nói như thế nào ?
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cảnh súng bắn đạn rơi thây ngã ở chiến trường. Nhưng đây này, trước mặt tôi là một bải chiến trường tàn khốc nhất.
Hằng trăm, hằng trăm xác gà nằm la liệt, con nào con nấy đều mất đầu, máu đỏ nhuộm ướt những máng ăn . Mùi tanh của máu bốc lên lợm giọng. Ba dãy chuồng đều như thế cả. Chết gì mà lạ lùng thế kia. Ai ? Ai? Ai? Ai đã thảm sát chúng như thế này? Tôi bật ra tiếng khóc khan .
Bỗng dưng từ đâu , trong lòng tôi nổi lên lòng căm hận lạ lùng. Mọi ngày, tôi coi gà như những súc vật nhỏ bé tầm thường. Sự sống hay cái chết của chúng không quan trọng, vì chúng được sinh ra để cung cấp thịt và trứng làm thức ăn cho loài người. Nhưng trong giờ phút này.. .Giờ phút này chúng chết cả đám chồng chất lên nhau, thân xác đó mà đầu đi đâu? Đầu ở đâu? Thật quá đổi bất ngờ. Thật quá đổi thương tâm . Một nổi thảm sầu khôn xiết. Trời ơi tội nghiệp, tội nghiệp quá !.
Gà con trên những chuồng cao chót vót vẫn còn nguyên vẹn. Hình như chúng đã trãi qua những giây phút hãi hùng, nên tất cả đều nằm rạp yên không nhúc nhích cho đến khi tôi lấy tay xua chúng dậy.
Số gà mất mát không làm tôi bận lòng nhưng cách chết của chúng làm đầu óc tôi bấn loạn suốt cả tuần lễ. Từ gà, tôi liên miên nghĩ đến số phận của lớp người đang đi học tập cải tạo. Trời ơi ! họ cũng sẽ như đám gà con vô tội kia chăng ?
Đời sao mà thảm sầu thế !
Hằng đêm, tôi mặc áo ấm ngồi co ro yên lặng núp ở góc vườn rình rập. Đêm thứ ba, một con mèo rằn xuất hiện. Đó là một mèo hoang lạ kỳ, to lớn như cọp con, cụt đuôi, và rất hung dữ. Một bên hông của nó mất một mảng lông lớn lòi lớp da xám xịt. Lối xóm từng kể cho tôi nghe những thành tích ác độc của nó. Họ đã bắt được nó một lần trước kia, bỏ vào bao bố cột chặt và chở đi thật xa cả hằng trăm cây số để vứt. Một thời gian ngắn sau, không biết bằng cách nào nó tìm đường về chốn cũ hoành hành dữ tợn hơn.
Mèo rằn chậm rải đi qua đi lại trước chuồng gà rồi ngồi xuống dán mắt quan sát. Tôi nhón gót vào nhà bếp lấy một con dao và nhẹ nhàng bước đến chỗ mèo ngồi. Nghe tiếng động, mèo phóng mình biến đi nhưng vài phút sau quay trở lại. Hắn ngồi chồm hổm trước chuồng, hễ một chú gà con nào vừa ló đầu ra mổ cám là nhanh như chớp, mèo rằn vồ đầu chụp lấy nuốt tươi. Đám gà con, hết con này tới con kia ngây thơ nộp mạng. Không thể chờ lâu hơn, tôi chồm dậy phóng một dao vào mình con mèo. Dao bay chém hắn sướt vai. Hắn quay lại, đôi mắt xanh lè toát ra những tia lân tinh như muốn đốt cháy đối thủ. Tôi cầm dùi cui đập vào mình hắn túi bụi. Hắn tránh né nhanh nhẹn, nhe nanh chìa vuốt thở phì phì nhảy chồm vào người tôi. Móng hắn nhọn hoắc và cứng như sắt. Xoạc một cái, mảnh áo trước ngực tôi rách toang. Xoạc một cái cánh tay tôi bị bao vết cào đau thấu xương.Tôi chập choạng muốn ngã nhưng trổi dậy tức thì. Hắn toan phóng mình cào mặt tôi, nhưng không để hắn kịp tấn công tiếp, tôi vung dùi cui lên bổ vào đầu hắn. Con mèo trúng đòn kêu lên một tiếng meo thảm thiết rồi tung mình chạy biến trong đêm tối. Đám gà con sợ hãi đạp nhau kêu chíp chíp, chạy tán loạn trong chuồng. ..
Chắc chắn là mèo rằn không thể bỏ gà được và chắc chắn tôi cũng không dung tha cho nó. Suốt ngày tôi nặn óc nghĩ cách diệt con mèo tinh. Không thể nào chấp nhận bạo quyền. Nhất định như thế.
Qua đêm sau tất cả số gà còn lại được đưa lên các tầng trên cao nhất. Dưới đất tôi đặt một cái bẩy lớn, phía trong bẩy gài một miếng mỡ heo. Liên tiếp trong một tuần, mèo không xuất hiện. Tôi vẫn kiên trì rình rập. Đến ngày thứ tám, a ha, nó lò dò đến. Đi rất chậm rãi, ngó quanh ngó quất. Đi đủng đỉnh, mủi đánh hơi, thỉnh thoảng quơ một chân lên đuổi mòng. ..Con mèo rằn quần lui quần tới quanh bẩy, liếm mép nhưng nó cũng khôn ngoan biết đó là bẩy rập nên không đụng tới miếng mỡ. Nó lại cố trèo lên các tầng chuồng gà trên nhưng xung quanh các bao nilông tôi đã bôi dầu nên nó không tài nào bám vào được. Cuối cùng nó bỏ đi. Đêm sau nữa miếng mỡ cũ được thay thế bằng một miếng thịt nướng rất thơm có tẩm thuốc giết chuột. Quả thật con mèo không cưỡng được sức mời gọi thơm phức, và đã lọt rọ. Đầu nó bị đè chặt trong gọng siết của cái bẩy, miệng còn gặm miếng thịt.. Nó vùng vẫy điên cuồng nhưng không tài nào thoát ra được. Mặc dù cái bẩy của tôi khá lớn, nhưng con mèo rằn có thân xác quá khổ. Một khúc đằng sau của nó ló ra khỏi bẩy bị nắp bẩy nghiến cứng. Đau đớn và trong cơn hấp hối, nó rống những tiếng meo meo kéo dài thật thê lương quái đản. Những tiếng của yêu ma quỉ hờn rên siết trong đêm khuya khoắc rồi mòn dần mòn dần. Tôi rùng mình, hơi khiếp sợ chuyện hồn ma mèo báo oán. Nhưng tôi xua đuổi ý nghĩ ấy ngay.
Sau vụ thảm sát bi thương của đám gà con mất đầu hàng loạt và cái chết của con mèo hoang, tôi giã từ nghề buôn bán gà để trấn tĩnh lại linh hồn mình. Những xung đột phải đối phó với nhiều thứ trong cuộc đời làm tôi già hẵn ra. Nhưng con đường trước mặt vẫn phải đi. Phải đi thôi !
5-
Mẹ tôi xếp thức ăn vào giỏ , dặn dò :
“Con đi đường nhớ cẩn thận . Gặp mặt chồng đừng cho chồng biết chuyện gì ở nhà”
“Thưa vâng “
Hôm nay lại đến ngày thăm nuôi. Anh ấy không còn ở chỗ trước nữa mà đã được chuyển trại đi nơi khác. Chuyến xe đò tôi đi đầy nhúc những người đàn bà như tôiø. Xe đông nhưng không ai nói với ai lời nào, vì lòng ai cũng trĩu nặng những sầu bi.
Xe đò chạy vùn vụt, thỉnh thoảng lại ngừng nơi này nơi kia dăm phút vớt khách thêm. Hai bên đường phố xá xa dần để rồi ruộng vườn, và những mái tranh nghèo hiện ra. Những vườn chuối xanh um, những hàng cau nặng trái, những cây dừa đơm bông, những cây cầu khỉ hay cảnh gái quê tát nước đối với tôi không còn hấp dẫn thi vị nữa. Ôi quê hương với con trâu cày ! con trâu cày trong thơ văn sao thật tuyệt vời nhưng giờ đây tôi chính là con trâu cày mà lòng tôi đau khổ biết bao !
Tôi nhắm nghiền mắt lại ngủ thiếp đi một lúc.
Tôi trình giấy thăm nuôi cho cán bộ. Người này làm mọi thủ tục xong, bảo tôi ngồi xuống cái băng ghế chờ đợi. Tôi vuốt lại mái tóc cho ngay ngắn, ngó quanh quất . Nhìn mọi thứ nhưng không thấy thứ gì rõ ràng. Có lẽ nhìn để nhìn mà không phải nhìn để thấy.Trong cuộc đời hiện tại, tất cả đều như rất phù phiếm, và tôi có cảm tưởng như trí óc tôi từ chối tiếp nhận những hình ảnh của sự thật đau lòng. Có lẽ như vậy là thái độ hay nhất để có can đảm tiếp tục cuộc sống.
Chồng tôi đã xuất hiện ở ngưởng cửa. Tôi đứng dậy lặng yên. Hai chúng tôi nhìn nhau một lúc, nghẹn ngào. Tôi theo chồng bước qua một chỗ khác rộng hơn nhưng được ngăn ra từng ô nhỏ cho mỗi cặp vợ chồng được ngồi riêng tâm sự.
Anh lên tiếng trước,
“ Trông em lúc này xác xơ và đen. Ở nhà có gì lạ không ? Các con như thế nào ?”
Tự bảo nhiều lần khi gặp sẽ cười vui, cười dòn tan, nhưng bây giờ hai chữ “xác xơ” của anh làm nước mắt tôi cứ trào ra trào ra. Tôi cảm thấy mình yếu đuối lạ lùng. Tôi cầu mong được đứng mãi bên chồng, vì sự có mặt của người đàn ông thật rất quan trọng cho đời người đàn bà. Vâng, dù chồng tôi nay đang cảnh cá chậu chim lồng, và bất lực không thể làm gì cho tôi, nhưng nụ cười kia tiếng nói kia đủ sức giúp tôi vượt qua những vũ bão.
Người ấy nâng cằm tôi lên, hôn vào má và hôn vào nước mắt,
“ Nhà có chuyện gì kể anh nghe. Kể thiệt đi “
Tôi lúc lắc đầu,
“Không có chuyện gì cả ”
“Vậy sao khóc ? “
“Tại được gặp anh nên cảm động quá”
“Tội chưa ! thì anh cũng nhớ em lắm. Hôm qua biết hôm nay sẽ gặp nên tối cứ nằm mơ đủ thứ “
Tôi bật cười,
“ Mơ gì ?”
“Thì mơ yêu em đó !”
“I' chết ! Có thích không ? “
“Chắc chắn. Lúc nào anh về sẽ cho em biết tay. Sẽ yêu em mỗi ngày Chịu không ?…”
Tôi gật đầu rồi hỏi,
“ Em cũng thấy anh gầy đi và xanh hơn lần trước nhiều. Lao động có cực khổ lắm không ? Họ đối xữ có tệ lắm không ?“
“Thì ai sao mình vậy. Em đừng lo cho anh. Anh cứ nghĩ em phải gánh gồng bốn đứa nhỏ một mình làm anh lo sốt vó lên. Em làm gì cũng phải cẩn thận nhé. Phải luôn nghĩ rằng mình là đầu tàu cho các con. Em có chuyện gì là cả đám chết hết “
“Em biết. Anh khi nào cũng thích giảng mô-ran cho em thôi à “ Tôi vùng vằng dỗi hờn.
“Không, anh chỉ nhắc chừng vậy thôi. Vì trách nhiệm của một người lo cho nhiều ngưòi là nặng lắm”
Tôi im lặng. Chồng tôi chồm tới ôm tôi, thủ thỉ :
“Rồi tất cả xui xẻo sẽ qua thôi. Anh thề sẽ yêu em và chung thủy với em trọn đời. Khi nào anh về, anh sẽ làm hết mọi chuyện để đền bù cho em”
Chúng tôi hàn huyên đủ mọi thứ chuyện, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề đá động đến những khó khăn mà mọi người đang gặp phải ở ngoài đời. Chồng tôi cũng vậy. Anh kể những nhớ thương nhiều hơn là than thở về những ngày tháng ở trong trại cải tạo. Bỗng nhiên tôi bực mình khan, vì sự giã dối của cả hai. Tại sao vậy ? Tôi òa khóc. Chồng tôi bụm miệng tôi lại, thì thầm,
“Đừng! đừng em! bọn cán bộ thấy em khóc là anh sẽ ở đây luôn đó. Em không muốn anh về với em và các con sao ? “
Tôi xin lỗi chồng, nhận thấy mình trẻ con quá.
6-
Xẫm già được bệnh viện cho về nhà nhưng sức khoẻ vẫn còn rất yếu. Mặc dù phải cưu mang thêm một miệng ăn, nhưng tôi không đành tâm để xẫm về quê quán khi gia đình xẫm vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên vùng kinh tế mới. Với tôi, xẫm đã như người thân thích. Gia đình tôi sa sút hơn trước vì bao nhiêu tiền làm ăn đã mất sạch trong vụ cướp tháng bảy. Mẹ con chúng tôi sống rất đạm bạc để tránh sự dòm ngó của chính quyền địa phương.
Thư từ của chồng tôi vẫn đều đều gửi về hằng tháng. Chưa mở thư tôi cũng đoán biết nội dung của thư có những gì. Lúc nào trong thư anh ấy cũng hết lời ca ngợi sự sáng suốt lãnh đạo của “Bác Hồ và đảng ta”. Lui tới vẫn là những lao động tốt học tập tốt cải tạo tốt, không có gì mới lạ hơn. Đọc miết thấy nhàm. Đọc miết thấy bực.
Chỉ còn ba hôm nữa là Tết Nguyên Đán. Nắng êm và trời mát. Cành mai ngoài cổng trổ bông sớm hơn mọi năm. Chỗ trồng những cây phong cây tùng trước kia đã được đào lên thay vào những loại cây có thể cho trái ăn được, đúng tiêu chuẩn sản xuất mà chính quyền cách mạng luôn hô hào. Mới trồng mấy tháng, bụi chuối bên hè đã nặng trĩu một buồng vừa chín tới. Những trái chuối mật mốc tròn lẵng khêu gợi làm tôi thèm thuồng. Tôi nhón gót đếm đủ chín nải và gật gù thích chí cười vang. Cười vang trong không khí tươi lành của buổi sớm mai vì lòng tôi đang thắp một niềm hy vọng. Chả là mấy hôm nay có tin đồn không ngớt rằng chính phủ sẽ khoan hồng cho mọi người đi cải tạo trở về sum họp với gia đình. Có hy vọng trong lòng thì gương mặt mọi người như rực sáng ra, và thành phố cũng như rực sáng ra.
Tôi quay vào dọn dẹp nhà cửa, khấp khởi nghĩ rằng chồng sẽ về nay mai. Lòng nghe ấm lại, ngọt ngào. Đời nghe sống dậy, hò reo. Kể từ giờ phút đó, tôi mong mỗi tiếng chuông rung ngoài cửa. Khi có tiếng chuông vang rền lên, mà sao nó có vẽ rền hơn những lần khác trong những năm tháng đã qua thế nhỉ, thì mọi người trong nhà đều nhốn nháo. Và tôi, trái tim hồi hộp bâng khuâng đợi mong.
Đôi lúc cải lương một chút, nghe bài hát ai như của Phạm Duy lồng lộng trong lòng “Ngày trở về, anh bước lê trên quảng đường đê đến bên lũy tre . . .”
Tôi rơm rớm nước mắt cười vẩn vơ “Không, anh không về chống nạng đâu, phải không anh?”
Các con tôi vẫn sống hồn nhiên, đòi mẹ may áo quần mới, vòi vĩnh mẹ mua cái này sắm cái nọ. Tôi ậm ừ cho các con vui, và mẹ con chúi mũi bàn luận sẽ làm những gì để đón ba. Sung sướng nói với nhau, rằng ba có hứa khi ba về ba sẽ làm tất cả mọi thứ cho mấy mẹ con được nghỉ ngơi.
Hai con gái tôi xếp những bánh mứt lên bàn, tranh nhau nói sẽ bắt ba đèo Honda chở đi học mỗi sáng. Sẽ hát cho ba nghe những bài đồng ca, và sẽ trổ tài nấu cho ba ăn vì tụi con bây giờ đã biết làm bếp rồi.
Tôi hỏi,
“ Nói dốc! các con biết nấu gì nói me nghe coi ? “
Bé Bao-La nhanh nhẩu,
“ Chị Y-Đa biết nấu mì gói rồi me. Và con thì biết nấu nước sôi và luộc trứng gà “
Rồi nó lại chu mỏ ra nói nũng,
“ Con sẽ méc với Ba là ngày nào me cũng bắt con ăn trứng gà luộc làm con sún răng”
Tôi dí tay vào trán con bé, kêu lên “Xạo vừa thôi nghe cô ” vừa cù léc nó làm mấy mẹ con cười nắc nẻ. Quay qua hai thằng con trai, tôi âu yếm hỏi :
“ Còn hai nhóc kia thì làm gì ? “
Thằng anh mắc cỡ cười tủm cười tỉm :
“ Con biết đánh bi. Con sẽ bày cho ba đánh bi với con . . .“
Chú bé nhất vội vàng ngắt lời:
“Không, bi của con, bi của con, con không cho anh Tô chơi bi của con đâu “
Tôi vò đầu nó “ Thế còn con biết làm gì ?”
Bé nhỏng nhẻo “ Con muốn ba đút cháo cho con ăn” .
Thấy mấy mẹ con ngồi dệt mộng vui quá, xẫm già cũng xen vào :
“ A ! như vậy là xẫm tui không có chiện làm vì mấy người dành hết việc của xẫm rồi
hén ! “
Tôi la lên “Xẫm già ! xẫm già ! hồi nãy giờ xẫm ở đâu ? Tôi có mua tặng xẫm xấp áo
đây nè “
Người lão bộc nheo mắt nhìn tôi . Kéo tôi vào buồng ngủ, xẫm chỉ cái giường :
“ Hồi nãy giờ ngộ ở đâu ? Thì ngộ bận sửa soạn chăn giường cho cô dâu í mà“
Tôi đỏ mặt lặng người. Tiếng xẫm già đưa tôi vào mộng :
“ Ngộ tính rồi. Khi nào ông chủ về, ngộ sẽ dẫn các em về nhà Ngoại ở ít bữa .. .”…
Rồi xẫm nghiêm trang hỏi tôi “Bà chủ có tin là họ sẽ thả ông chủ về Tết nay không ?”
Tôi trầm ngâm “ Cũng không biết nữa. Thư vừa rồi nhà tôi không nói gì về vụ ấy cả . Nhưng nếu về thiệt thì chắc là vui lắm, vui lắm, vui lắm lắm “
7-
Lâu rồi. . .Mấy mẹ con ai cũng nhớ . . .
Mà em thì rất nhớ, anh biết đó, thèm vai anh tựa đầu. ..Không, sao lại nói văn hoa thế ? Mình thèm nhau hơn thế nữa kia. Phải không, phải không anh ?
Tôi bước lại cây đàn dương cầm, lướt nhẹ bản “ Trở Về Mái Nhà Xưa”
Rồi mơ màng hát theo điệu nhạc, vừa đủ cho mình nghe :
“ Về đi khi mái tóc còn xanh xanh
Về đi khi cuộc sống dường mong manh
Về đi nhé khi đời em bồng bềnh
Bao gió mưa đang bủa vây đời mình . . .” hkkm
Tết nhanh chóng qua đi, và bao nhiêu Tết khác cũng qua đi. Nhưng người đàn ông vẫn chưa về. Tự đáy hồn tôi vang vọng lời xưa,
“Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non . . . ” (Đoàn Thị Điểm)
Vâng, thì nước đầu cầu nước vẫn cứ chảy, còn lòng ai muôn năm cứ dặc dặc sầu
04/30/01 @ 2:00 am
Kỷ niệm ngày 30 tháng tư năm nào
HKKM
Nguồn: Hồng Khắc Kim Mai
Người gửi: Hồng Khắc Kim Mai
Người đăng: Pham Anh Dũng
Người sửa: Sài Gòn; TVMT; Pham Anh Dũng;
1656
Cô gái trẻ ngồi trước mặt thầy bói đang băn khoăn về vận mệnh mình.
Thầy bói: "Trên đùi cô mọc ba nốt ruồi đen."
Cô gái: "Ðúng ạ!"
Thầy bói: "Ðấy là dấu hiệu cho biết cô sẽ có ba người tình. Ðùi phải cô còn xâm chữ K."
Cô gái: "Ơ, đó là kỷ niệm của anh bạn Klan đã đi nước ngoài."
Thầy bói: "Bụng cô còn có một vết sẹo."
Cô gái: "Vâng, đó là lần mổ ruột thừa cách đây hai năm. Thầy thánh thật! Sao thầy lại biết những việc ấy?"
Thầy bói điềm nhiên: "Lần sau cô đừng mặc váy ngắn thế ...!"994
Cái tuyệt diệu trên đời này là đàn ông đàn bà, không sớm thì muộn, cũng từ những bó đũa lớn xẻ ra thành từng cặp từng cặp, trông đều ra phết. Ông trời xếp đặt mọi chuyện đâu ra đấy, cặp nào cặp nấy không đến nỗi tệ. Kể ra thì dễ thôi, bàn chân nào rồi chẳng tìm được chiếc dép xỏ vào vừa vặn, thân hình béo gầy méo mó ra sao đi nữa đều có bộ quần áo che thân. Đừng bày trò khác chỉ vớ vẩn mất thì giờ, kết đũa xong rồi mới cơm cháo được chứ. Cứ việc chung chăn chung chiếu cho tới khi có một hai tí nhau đàng hoàng. Sau đó nếu lủng củng quá thì lại đổi, làm cặp khác. Bị tắc ở đâu đó đã có vài mụ làm mối đẩy vào một chút là thông ngay. Mấy mụ quét dọn sạch những trường hợp ấm ớ, gái ẩm trai mốc. Nói chung là vậy. Bây giờ thỉnh thoảng ông trời làm khác, tụm đôi lại hai đứa cùng giống, nhưng cái chính vẫn là không có chiếc đũa nào trơ trọi một mình. Chứ đũa lẻ thì gắp được gì ? Dĩ nhiên còn lại một vài cá nhân ở giá. Con người đông quá, đẻ xoành xoạch giống như gà ngỗng, có trời nào lo cho xuể hết mọi người. Chút ít ngoại lệ đâu có gì đáng nói, bữa ăn thịnh soạn khó tránh được vụn cơm ở đáy bát. Quan trọng là cái quy luật chung.
Mà nhìn những đôi lứa thành hình thì không bao giờ thấy chán. Thế mới biết đời sống không lúc nào ngừng nở nụ. Người ta gọi hiện tượng phổ biến này là tình yêu. Nghĩ tới nó ai cũng lâng lâng, lời nói hết hẳn những câu văng tục, mặt không còn nhăn nhó xưng xỉa, tim đập thình thình như nắp nồi không chịu nổi nước sôi. Chỉ cần bốc đại một cặp đàn ông-đàn bà, như Đỗ Trấn Hưng và Nguyễn Thị Ngân Vi chẳng hạn, là thấy cả một câu chuyện tình ngạt ngào hương thơm, đẹp hơn cả những đoá hoa dại trong rừng.
v
Trấn Hưng và Ngân Vi nào còn trẻ trung gì cho cam. Trấn Hưng đã 20 tuổi cái năm chạy từ Pắc Xế qua Paris, bây giờ nhẹ lắm cũng trên dưới 40. Ngân Vi thì không thể nào đoán. Ở nàng tuyệt đối không có gì đoán được. Thầy bói có thêm ngoại cảm và internet cũng không chọc thủng được những bí mật của nàng. Phải khờ lắm mới mong lật ngửa tuổi thật của người ta. Nhưng Ngân Vi kiếm chồng cuống quít như vậy chắc đã khá muộn. Thôi nói nàng khoảng 35 cho xong.
Nhìn Ngân Vi không ai nghĩ nàng có thể một ngày thành gái già. Nếu tả cái đẹp của nàng thì độc giả lại tưởng là nhân vật tiểu thuyết. Nên chỉ nói đến cái khôn lanh toát ra từ người đàn bà này. Đôi mắt to tròn của nàng không bao giờ mất cảnh giác. Đôi mắt quan sát không ngừng, không bỏ sót một chi tiết nào quan trọng trong tầm nhìn. Đôi mắt đã hiểu từ đời nào bao nhiêu chuyện trên trần gian này. Vậy mà khi cần, chúng dịu hiền hẳn lại, tràn đầy ngay trìu mến. Đàn ông từ đó tha hồ tưởng tượng đủ mọi thứ chuyện.
Ngân Vi hấp dẫn bao nhiêu thì Trấn Hưng tẻ nhạt bấy nhiêu. Anh chàng trông mệt mỏi lừ đừ. Làm như từng bị cuộc đời giã cho hết trận này đến trận khác, chẳng biết hắn còn thiết tha gì nữa không. Ấy thế không chừng tất cả là một kiểu cách. Có lý thuyết cho rằng bất cứ ai lúc yêu cũng tươi đẹp ra. Nhưng khi Trấn Hưng yêu tối đa, yêu căng tim, mặt hắn chỉ chuyển từ màu xám đậm qua màu xám nhạt. Mắt hắn chỉ thoáng một tí hồn, phải để ý thật kỹ mới thấy. Nụ cười hắn bớt nhàu nát, nhưng vẫn phải đợi qua hết một mùa thu.
Trấn Hưng và Ngân Vi sống ở Paris đã lâu, văn minh nơi đây không còn làm họ sợ. Xa lắm rồi xứ Lào hiền hoà hay thành phố Sàigòn vênh váo của thời trước. Bây giờ Ngân Vi nói năng có xen tiếng Tây, Trấn Hưng văng tục bằng cả tiếng Tàu. Hai người đều lang thang ở ngoài cộng đồng của mình, mù tịt về những nơi tụ tập, giới hội này nọ của người đồng hương. Hồi đó Trấn Hưng và Ngân Vi qua Pháp một mình, gia đình bị kẹt ở lại, qua đây lại chẳng có mấy bạn bè, thành hai thân phận đơn độc trong một thành phố 10 triệu người. Thử hỏi làm sao ông trời không mủi lòng, không đặt chuyện cho họ gặp nhau ?
v
Trấn Hưng làm việc trong một công ty người Tàu, phân phối thịt bò cho các siêu thị và tiệm thịt Á Đông trong Paris. Công ty chuyên về bò, các loại thịt khác không lo. Và chỉ có khách mua khối lượng lớn, những khách này sẽ chia tiếp cho các tiệm ăn và cửa hàng nhỏ. Công việc của Trấn Hưng là chuyên chở hàng. Nói cho rõ, lái xe, nhận hàng và giao hàng là chính, khuân vác thịt là phụ. Vào được chỗ làm này không phải dễ. Nó thường dành cho các thanh niên từ lục địa Trung Hoa đi chui vào Pháp, nhận lương rất thấp và mạnh khoẻ hơn Trấn Hưng. Chỉ tội những thanh niên này có lẽ sẽ không bao giờ biết ngoại ngữ. Hãng thiếu những kẻ như Trấn Hưng, đã học sơ sơ tiếng Tây trong các chương trình tiếp đón tỵ nạn, đủ để tiếp xúc với dân thổ địa giao hàng. Cả hãng chỉ có Trấn Hưng không phải là Tàu. Thế mà hắn lại được một công tác tương đối sạch sẽ, có cả phần giao tiếp. Phân phối thịt bò là một lãnh vực không sợ tương lai. Trừ khi cái chuyện bò điên, mới xuất hiện gần đây, trở thành thực sự trầm trọng.
Giờ giấc của Trấn Hưng không giống những nhân viên văn phòng. Mỗi ngày hắn thức dậy lúc 3 giờ sáng. Sau ly cà phê và điếu thuốc, hắn sẽ lấy ra chiếc xe gắn máy cũ rích hắn mua để đi làm. Bắt buộc phải có nó, giờ ấy chưa có metro hay xe buýt. Hãng của hắn nằm ở Vitry-sur-Seine, phía ngoại ô Nam của Paris. Xưởng rộng mênh mông, bãi đậu xe đủ cho cả chục cam nhông lớn nhỏ. Hắn sẽ đổi chiếc xe gắn máy thổ tả lấy chiếc RVI 802D. 12 thước chiều dài, 4 thước chiều cao, dư sức chứa 20 con bò, cabin lái cao lêu nghêu khác gì máy bay. Giá loại xe này không thể dưới 3 triệu quan Pháp, cả hãng chỉ có 3 chiếc. Ba chiếc sẽ cùng lên đường trực chỉ cảng bộ Rungis, trung tâm phân phối thực phẩm lớn nhất vùng Paris.
Sáng tinh sương là lúc trung tâm Rungis tưng bừng nhộn nhịp nhất trong ngày. Cả trăm chiếc xe vận tải khổng lồ nối đuôi nhau tứ phía, vào ra các khu thịt bò, thịt heo, các loại thịt khác, cá tôm đồ biển, rau cỏ, trái cây. Không gian sáng rực, đèn xe, đèn bãi đậu, đèn nhà kho. Ồn ào khắp nơi, tiếng động cơ xe, tiếng động cơ máy đủ loại, tiếng loa phóng thanh ầm ầm, át hết tiếng người. Cả một màn vũ vĩ đại diễn ra không ngừng một phút, không vấp váp một chỗ nào. Khu bò là khu lớn nhất trong trung tâm Rungis. Bò ở đây đã được chặt đầu, cắt đuôi, lột da, cưa đôi theo chiều dài và rỗng bụng. Trong các nhà kho, xác bò chồng chất lên nhau thành những đống cao ngút đến gần trần. Các chiếc xe trục quây quần chung quanh, cắm sâu hàm răng sắt vào những khối thịt, nâng chúng lên cao, gom chúng lại từng xấp có ngọn, đem ra ngoài. Khi đến phiên Trấn Hưng, các chiếc xe trục áp tới gần, các hàm răng sắt đưa từng nửa bò vào tận trong xe hắn. Những gã lực lưỡng đứng sẵn trong đó chỉ còn việc dựng đứng bò dậy, treo chúng vào những móc trên trần xe. Trấn Hưng phải đếm kỹ số khách hàng lên xe mình, giá của một nửa bò đâu phải nhỏ. Đã vậy luật lệ của Cộng đồng Âu châu còn rắc rối, bắt hắn dí mắt vào đời tư của mỗi con bò, kiểm soát là mỗi đứa đều được xăm đầy đủ về những chặng đường nó đi qua. Đàn bò cứ từng con trình diện hắn, thịt đỏ lòm, mỡ nhễ nhãi, xương cứng ngắc. Trấn Hưng chưa bao giờ biết cần bao nhiêu bò mỗi ngày cho một thành phố 10 triệu người.
Khi xe Trấn Hưng về tới hãng, tất cả nhân công làm việc tại chỗ đã có mặt. Hắn chờ người ta tải hàng trên xe vào xưởng, xong rồi sẽ đi Rungis chuyến thứ nhì. Một ngày phải làm hai chuyến, ông chủ chưa đủ tiền mua thêm xe.
Trước đây Trấn Hưng đã từng làm những công việc trong xưởng. Nằm giữa xưởng là một sàn gỗ trông như một sân khấu. Khoảng 50 thước chiều dài, 30 thước chiều ngang, 1 thước chiều cao. Sàn làm bằng những thanh gỗ bề ngang không quá 20 phân, luôn luôn có khe hở giữa hai thanh. Ở dưới là một bể xi măng cùng diện tích với sàn gỗ. Đó là một cái thớt khổng lồ để cắt thịt, nằm trên một bồn hứng máu. Nhân công đứng trên sàn có tới mười mấy mạng. Mỗi người trùm một áo mưa màu đậm, loại che phủ hết thân và cả đầu, chân đi giầy cao su cao tới gần đầu gối, tay mang găng dài, mắt có kính che kín. Khi bò được bày đầy đủ trên sàn, họ lấy ra những máy cưa điện to tướng, giây điện bắt đầu chằng chịt tứ phía. Xưởng sống dậy nhanh chóng. Chỉ chốc lát là ầm ĩ tiếng rít của cưa, tiếng gẫy nát của xương, tiếng hét chửi của bọn trẻ bị kích thích. Xương, thịt và mỡ văng lung tung, làm mịt mù cả không gian, vung vãi khắp quần áo và mặt mũi nhân công. Thịt tung lên từng mảng, thịt ngã đổ nghiêng ngửa, thịt quằn quại đau đớn. Máu phun tứ phía, nhuộm đỏ mặt người, chảy ào ào xuống bể hứng. Bãi chiến trường giữa người và bò bầy nhầy máu, mỡ và rác xương. Chỉ khi nào các máy cưa ngừng hẳn, người ta mới tháo gỡ giây điện, tung ra những tấm nhựa lớn, bao bọc kết quả của cuộc tàn sát, kéo dài những ống tưới nước. Thế là thêm được một bước trong tiến trình thu nhỏ con bò cho vừa mồm con người.
Đợt bò thứ nhì của Trấn Hưng về tới nơi là một số thịt cưa xong đã chờ sẵn trên cam nhông, loại nhỏ hơn chiếc RVI 802D. Hắn chỉ cần đi từ tay lái 802D qua tay lái Cumbo. Cứ chiếc Cumbo nào đầy là ra đi liền. Chúng lũ lượt lên đường, phân công đứa đi khu Belleville, đứa đi khu Choisy, đứa đi quận 18.
Các phố Tàu, cũng như mọi khu buôn bán, giờ ấy nhận hàng đủ loại. Giao thông kẹt cứng, xe nhích từng bước một. Cam nhông giao hàng thay phiên nhau chặn hết lối đi. Thiên hạ ngồi đợi suốt thời gian hạ hàng. Còn phải cho tài xế thời gian tán phét hay chửi lộn với người nhận, thời gian giễu dở với đồng nghiệp ở xe khác, thời gian làm cử chỉ khó tả về phía các đuôi xe cá nhân bóp còi inh ỏi phía sau. Tại mỗi nơi giao hàng, Trấn Hưng cố tránh phụ vào việc khuân vác thịt. Hắn chỉ muốn kiểm soát, ký giấy tờ và giao tiếp với khách hàng. Trong lúc thiên hạ lăng xăng khiêng hàng, hắn chọn thế đứng nghiêng nghiêng, cặp hai tay sau đít, cắm điếu thuốc trên môi, mặt khó đăm đăm, thỉnh thoảng phát biểu vài câu tiếng Tây cho mấy chú Tàu nể phục.
Coi vậy mà đến cuối ngày lao động, vào khoảng 1 giờ trưa, Trấn Hưng mệt đừ. Chỉ muốn lẹ lẹ ra về với chiếc xe gắn máy. Nếu là thứ năm thì trước đó lấy phần thịt của mình do hãng tặng. 500 gam thịt mỗi tuần, món quà rộng lượng của một ông chủ mến thương nhân viên như con cháu trong nhà.
v
Thịt bò, trong chuyên môn của Ngân Vi, chỉ là một mã số mặt hàng. Nàng làm việc tại một siêu thị rất lớn nằm ngoài Paris. Nàng ngồi ở một trong 20 quầy thu tiền, nơi người ta nối đuôi nhau tạm biệt siêu thị. Cái chỗ có những khuôn mặt thoả mãn, thấy đời mình đầy đủ hơn với chiếc xe đẩy ngập đồ tiêu dùng.
Sống xứ này có ai chưa từng vào một siêu thị cấp cao, cung điện tiêu biểu của xã hội văn minh ? Đâu còn phải tả một diện tích mấy ngàn thước vuông, một bãi đậu xe mấy ngàn chỗ, những dãy sản phẩm không làm sao coi hết, mặt hàng vượt cả sự tưởng tượng của khách mua, vô số bảng giá đủ màu đủ cỡ. Ở đây, những mời mọc dụ dỗ bám vào từng bước đi của người đến thăm. Siêu thị là nơi cuộc đời lên hương mỗi lần đồ hàng xuống giá. Là nơi bất cứ túi tiền nào cũng có những hạnh phúc chờ đợi. Là nơi vật chất độc quyền ngự trị, đồng nghĩa với sự giàu sang và sức mạnh. Vẫn biết chỗ nào người ta cũng tiêu thụ. Nhưng siêu thị có đám đông khuyến khích nhau tiêu thụ, không phân biệt người giàu kẻ nghèo, người nhu cầu nhiều, kẻ nhu cầu ít, người kiếm đồ hảo hạng, kẻ tìm đồ rẻ dúm. Ngày hôm nay, các siêu thị ra xa những thành phố thiếu chỗ. Chúng mọc lên, càng ngày càng lớn, giữa những vùng đất trống hoang. Chúng là những khu rừng mới của thời đại. Hàng hoá thay thế cỏ cây, chất đống lại cũng thành một chỗ thoát trần cho những con người của thành phố.
Công việc của Ngân Vi rất quan trọng đối với siêu thị. Quầy thu tiền vừa là miệng ăn của nó, vừa là hình ảnh tiếp khách tại đây. Công việc của Ngân Vi rất giản dị, không đòi hỏi hiểu biết và tài năng, đầu óc khỏi cần suy nghĩ. Chuyện làm không thay đổi bất kể loại khách, loại hàng, ngày giờ. Chỉ vỏn vẹn một số động tác trước mỗi người khách. Bắt đầu là: hướng mặt về phía khách, cười tối thiểu, nói « Bonjour ». Chấm dứt là: hướng mặt về phía khách, cười tối thiểu, nói « Merci et au revoir ». Ở giữa là một chuỗi thao tác cần giữ nhịp độ đều đặn cho lâu mệt. Đạp để nệm đặt hàng đi tới, bốc một món hàng phía tay mặt, tìm mã số trên đó, đưa món hàng đi qua mặt kính đọc mã số, lắng tai nghe tiếng bíp, thả món hàng xuống phía tay trái, nếu là quần áo thì gỡ miếng nhựa chống trộm, bốc món hàng sau và làm lại, xong món hàng cuối thì coi xem có đủ bao nhựa phía tay trái, bấm nút tính tiền và mở ngăn kéo tiền, nhận các phiếu trừ giá, nhận tiền mặt và thối tiền, hay sử dụng máy đọc thẻ tiền điện tử, máy điền ngân phiếu, máy đọc thẻ trung thành, gom lại đưa cho khách các loại thẻ, biên lai và hoá đơn. Lúc đầu óc cần tập trung nhất là lúc thối tiền, cuối ngày có thiếu hụt thì nhân viên phải lấy tiền mình ra trả. Ngân Vi không khi nào được mất bình tĩnh. Cho dù khách có cả núi đồ, khách xếp hàng đã lâu, khách vội vàng hay chậm chạp, khách càu nhàu vô cớ, khách tâm sự nói nhiều, khách tán tỉnh vô duyên. Mặt Ngân Vi không khi nào được buồn, mệt hay quá vui.
Giờ này qua giờ khác, thân nàng quay đi quay lại trên ghế, tay bốc hàng, tay bấm nút máy, mắt đi từ màn ảnh này qua màn ảnh kia. Khách và những món hàng chỉ là những hình ảnh trừu tượng đi qua nàng. Nhờ nhiều năm ngồi quầy, Ngân Vi giữ được eo thon và đếm tiền lẹ thoăn thoắt. Nếu thiếu khách thì Ngân Vi phải rời quầy làm chuyện khác. Nhân viên thu tiền ngồi không là một hình ảnh xấu cho siêu thị. Nàng sẽ mang ngăn tiền của mình đi cất, rồi đến phụ giúp ở một khu hàng. Người ta sẽ ghi lại ngày giờ lúc đó như một sai lầm trong quản lý quầy. Phải tính rất kỹ số nhân viên có mặt ở quầy, làm sao bảo đảm lúc nào khách cũng xếp hàng. Không có đuôi tức là có hiểm hoạ dư nhân viên.
Phải kể đến những ngày hãi hùng, dịp Giáng Sinh và các thời kỳ đại hạ giá. Ngân Vi phải làm việc nhiều giờ hơn và lẹ hơn. Cơn mua sắm những ngày đó lên cao độ, đám đông tràn ngập siêu thị, không khí hồ hởi cuồng loạn, máy phóng thanh gào thét cho ra hội chợ, khách hàng bị kích thích say khướt, những đuôi khách trở thành những con rắn ngoằn ngoèo tới tận đâu đâu. Ngân Vi không ngừng tay trong nhiều giờ liên tiếp. Những sóng hàng ập tới như nước lũ, thiếu hết tiền giấy lại tới tiền cắc, máy phải đọc thẻ liên miên làm sao không có lúc nghẹn họng, những cuộn giấy in cứ phải thay dài dài. Cuối ngày, tay chân Ngân Vi mỏi dừ, thân thể rã rời, đầu óc tính mãi không xong cái ngăn tiền của mình, mắt không còn chịu nổi các ánh đèn, tai sợ bất cứ tiếng nhạc nào. Những ngày hôm ấy, Ngân Vi thấy siêu thị ngả hết lòng về khách, thật bội bạc với nàng.
Giờ giấc làm việc của Ngân Vi càng ngày càng thất thường. Số là cạnh tranh giữa các siêu thị đã trở thành gay go, và cái lời thì mỗi năm lại bắt buộc phải nhiều hơn. Ban giám đốc siêu thị tìm mọi cách tăng giờ mở cửa. Thêm những tối, những ngày chủ nhật, những dịp đặc biệt. Đồng thời, số nhân viên có mặt phải bám sát theo sự tới lui của khách hàng. Theo mùa không đủ, bây giờ thành theo tháng, theo ngày, theo giờ. Những giờ ở ngoài giờ lao động bình thường có tiền thưởng và thời gian bù trừ hết sức phức tạp. Khác nhau tuỳ khoảng giờ, tuỳ ngày lễ hay không, tuỳ số giờ liên tục, vân vân... Siêu thị có một tài liệu về giá trị các giờ đặc biệt này. Tài liệu cố ý gây hoả mù, đọc vào là vỡ đầu như chơi.
Vậy mà Ngân Vi nghiên cứu nó rất kỹ, biết giá trị chính xác của từng giờ đặc biệt. Nàng xung phong lấy tối đa những giờ loại này khi chúng xuất hiện. Còn thương thuyết thay thế những đồng nghiệp bị gọi đi làm những giờ giá cao nhất. Với những ngày nghỉ bù, cuối cùng Ngân Vi làm việc ít hơn người khác nhưng lại được thêm một số tiền không nhỏ đối với nàng. Phòng quản lý nhân viên còn thấy nàng đáng làm gương, không quên thưởng thêm. Thật ra, nàng làm nổi chuyện này vì không có những rằng buộc gia đình. Và các đồng nghiệp nhường phần thưởng để cố gắng giữ một phần nào đời sống ổn định.
Ngân Vi tương đối hài lòng về siêu thị của mình. Công việc không thể nói là hứng thú, nhưng khá hơn những việc nàng làm trước đây. Đám đồng nghiệp có nhiều đứa dễ thương, cho nàng thay thế trong những giờ có thưởng cao, chia cho nhau cả những món đồ lấy trộm của siêu thị. Đàn bà thì có chuyện tục về đàn ông. Đàn ông thì không thiếu đứa sai khiến được. Ngân Vi còn có thể hãnh diện về siêu thị. Người ta đến từ cả chục cây số chung quanh, và cuối tuần thường hết chỗ trong bãi đậu xe.
v
Sau ngày làm việc, Trấn Hưng ngủ trưa khoảng 1 tiếng. Những giấc ngủ không bao giờ mơ, có tiếng âm ỉ của cái xa lộ vòng đai tưởng xa. Tỉnh dậy hắn ăn qua loa, mì gói hay trứng, nửa tiếng là xong. Bữa cơm tối cũng sẽ không thịt, chỉ cá, gà, rau, trái cây. Hắn thường bán rẻ những miếng thịt của mình cho một đứa bạn. Không ăn thì chẳng lẽ vứt đi. Chuyện trường chay này không dính dáng tới tôn giáo, Phật hay Chúa còn phải chờ hắn thêm một thời gian nữa. Phần ngày còn lại của Trấn Hưng không dài lắm đâu. Tối trễ nhất là 9 giờ đã phải vào giấc ngủ. Buổi chiều hắn không coi truyền hình, chương trình vớ vẩn, dành cho đàn bà nội trợ và các vị cao niên. Mà thật chán cái máy bây giờ tuyết rơi hết cả bốn mùa. Khi nào tiền gửi về gia đình bên Lào bớt nặng, nó sẽ bị thay thế. Rồi sẽ có thêm đầu video cho các phim gái Thái Lan hay Bắc Âu.
Cái thú nhất của Trấn Hưng là sửa chữa đồ hư. Cần nói ngay, hắn không mê làm gì mới, thí dụ như tân trang chỗ sống của mình. Hắn chỉ thích hồi phục lại những đồ cũ bị hỏng. Vật trong nhà hay của người quen đã đành, hắn còn mang về vật linh tinh nhặt ở ngoài đường. Hắn có thể ở cả ngày chủ nhật trong phòng với một chiếc máy gỡ tung ra từng bộ phận. Căn phòng trọ không nhỏ nhưng đã chật chội. Đồ tốt và nguyên vẹn thì không nhiều, vì hắn tiêu xài tần tiện. Đồ hư thì đầy dẫy. Có thứ chờ được cứu, có thứ chờ cống hiến một bộ phận nào đó cho vật khác. Nhìn chúng mới thấy tài sửa chữa của Trấn Hưng đa diện, đi từ đủ loại máy điện tử qua các thiết bị cơ khí, từ đồ gỗ qua các đồ sắt đồ chì đồ hàn. Cái hay ở đây là có nhiều ý độc đáo tránh tốn kém. Một bộ phận thay thế không ai nghĩ tới. Hoặc xa hơn nữa, một đồ vật bề ngoài như cũ nhưng cái ruột đổi khác. Cứ thế, qua bàn tay hắn, bao nhiêu vật đã định bỏ cuộc, cuối cùng lại kéo lê cuộc sống. Lạ một điều, không thể nghĩ hắn muốn tiết kiệm, sửa để khỏi mua mới. Hắn sửa luôn cả những đồ không cần, không thích. Sửa xong hắn bán hay tặng người khác, cùng lắm đặt đại chúng nó ở ngoài đường cho đỡ chật nhà. Đến chỗ đó thì không chừng Trấn Hưng cao thượng như một bác sĩ chăm lo không kể công sức cho các đồ vật ốm đau và tàn tật, đáng lý ra đã bị sa thải. Nhưng đừng vội vàng tô đẹp. Biết đâu hắn chỉ là một kẻ khó tính lặt vặt, hay bết hơn, một đầu óc bảo thủ, muốn thứ gì cũng phải trở về cái tình trạng lúc ban đầu. Chưa kể là làm như hắn không tốt cho một xã hội cần tiêu thụ đồ mới. Làm như hắn chỉ có hại cho các siêu thị.
Những giải trí của Trấn Hưng không nhiều. Có giới hạn của đồng lương, số bạn bè, ngày giờ trùng hợp với thiên hạ. Hắn mướn sách Việt đều đặn, chưởng, trinh thám, gián điệp, truyện dâm. Thỉnh thoảng mua băng ca xét, Chế Linh, sáu câu tân thời, hài hước, nhạc mới thì Như Quỳnh, Đôn Hồ. Luẩn quẩn vài đứa bạn, quen từ hồi xưa tại các nơi tiếp đón tỵ nạn. Gặp nhau càng ngày càng ít, hoàn toàn giữa đực rựa, sót lại mấy thằng chưa hoặc hết đàn bà. Nhậu ở nhà cho rẻ, vậy chứ thời trước đâu được whisky, thịt bò thượng hạng của Hưng Đụ. Vẫn chửi đời đàng hoàng tử tế, chửi chủ, chửi Tây, chửi Ta, chửi mày và cả chính tao, vẫn có đứa say tới mửa, vẫn có đứa khóc. Khác trước là bây giờ có đứa về nước gần đây, mang đến anh em kiểu nổ mới trong cách nói, chuyện kể. Còn không cứ việc chửi đàn bà thoải mái, lâu lâu đổi không khí, nhường cho một thằng, mắt bỗng nhìn xa, giọng chợt mùi hẳn, tả về một hình bóng đẹp tuyệt trần, thật hay không chẳng quan trọng.
Chưa có đàn bà nào ở lại lâu với Trấn Hưng. Hắn chỉ mới gặp những người có lúc thương hắn, nhưng không đủ để ngừng hẳn nhìn về phía khác. Bà goá chồng người Thái, chủ một tiệm thịt, chỉ cần một anh nhân tình cho những lúc bà thoát khỏi sự bận bịu. Đời sống của bà đầy đủ, không muốn có ai bước vào, tiệm của bà khó lo chung với người khác. Bà có tình cảm với hắn thật đấy, nhưng tình yêu không thể là tất cả. Trong một thời gian khá dài, hắn đã gặp đều một cô gái của toà nhà cao tầng, nơi mấy bạn Tàu của hắn giới thiệu. Cô gái người Việt. Cô muốn hắn hạnh phúc, nhưng tiếc là không đóng góp vào hạnh phúc đó được. Cô ở tạm bên Pháp, chỉ còn ở đây một thời gian ngắn. Nghề cô là tạm, hắn đừng khinh cô. Tất cả cuộc sống của cô lúc đó là tạm. Một ngày rất gần, cô sẽ trở về cái thôn của mình, có những đồng lúa xanh trồi và con sông nước đục. Hắn đã đem đến cô gái nhiều hơn là những tờ giấy bạc. Cô vẫn còn đó, nhưng biết tới khi nào mới sống ở đây.
Trấn Hưng vẫn thiếu một người đàn bà. Nào hắn có đòi hỏi gì ghê gớm. Chỉ muốn có một người đi lại hàng ngày trong căn phòng trọ. Tính với hắn xem mua sắm thế nào với tiền sẽ tiết kiệm. Ngồi chờ với hắn những ngày tươi vui hơn. Hắn sẽ cho người đàn bà ấy nhiều lắm. Sẽ sửa chữa tất cả những gì nàng thấy hỏng hay không đẹp. Sẽ làm vui từng ngày nàng nhận được. Sẽ thực hiện cho nàng một cái gì đó để đời có ý nghĩa. Trấn Hưng thiếu một người đàn bà. Hắn cần có hai người cùng với nhau khóc cười.
v
Những ngày không làm việc, Ngân Vi vào Paris đi tìm những công viên. Thật ra đâu cần đi xa đến thế, ngoại ô nàng ở cũng có một vài vườn hoa, không phải chỉ toàn những dãy chung cư nheo nhóc và những xưởng máy xám xịt. Tội tình gì phải đi xe lửa, đổi metro mất cả giờ để tới những không gian xanh, nhiều khi chật người, trong một thành phố ồn ào ô nhiễm. Nhưng căn hộ của Ngân Vi ở ngoài Paris, chỗ làm cũng ở ngoài Paris, nàng muốn thay đổi. Đặt mình vào lòng cái thành phố sống ham hở, có những nét duyên bất ngờ trên một đại lộ, nơi một góc phố. Ngân Vi không chọn những công viên lớn, nổi tiếng thế giới, đầy du khách đứng chụp hình choáng cả lối đi. Nàng tìm những vườn nhỏ, nhỏ tới đâu cũng được, vắng vẻ và kín đáo. Không thể thiếu cuốn sách chỉ đường Paris, trình bày bản đồ chi tiết của từng quận, 20 quận lớn nhỏ. Nàng kiếm ở mỗi quận những ô khuông màu xanh tản mác giữa những con đường chằng chịt.
Những vườn hoa nhỏ không hẳn tĩnh mịch. Vẫn nghe rõ tiếng xe cộ phố phường, vẫn nhìn thấy những toà nhà trong lá cây. Có sao đâu, hoa và cỏ cây như vậy càng tươi màu, nắng ở đây càng ấm áp dịu dàng. Hơi thở sát gần của thành phố không thay đổi gì trong này, những băng ghế sờn gỗ chẳng buồn đánh thức người ngồi, những lối đi sỏi mòn chẳng thiết giục giã những bước chân. Ngân Vi sẽ ngồi rất lâu tại một chỗ nắng. Ngoài nàng ra, công viên chỉ lẻ tẻ một vài cặp già đỡ nhau di chuyển, hai ba người đàn bà với chiếc xe chở con. Nàng sẽ có một cuốn tiểu thuyết dày, một túi đồ ăn trưa và một chai nước suối. Đầu óc và cái nhìn sẽ đi lại giữa những bãi hoa trước mặt và những thế giới tuốt tận nơi đâu.
Ngân Vi là khách quen thuộc của cái thư viện gần nhà. Bà quản lý biết rõ loại sách nàng thường mượn. Nàng mê nhất là tiểu thuyết kể về những tình yêu oan trái, diễn ra tại những miền đất xa lạ phía châu Phi, Nam Mỹ, châu Úc. Những chuyện tình cháy bỏng dưới mặt trời gay gắt, ừ thì có lúc làm người ta rụng rời, nhưng hơi đâu mà tin. Cái hấp dẫn là chúng được lồng vào những khung cảnh thần tiên, cho nàng khám phá những nơi chốn xa hơn cả tưởng tượng của mình. Phải nhiều tiền mới đi du lịch được những chân trời đó, Ngân Vi chỉ có những trang truyện để đi xa.
Tiểu thuyết, chuyện tình, mặt trời, nơi hoang dại, từng đấy đủ rồi. Có thể kết luận Ngân Vi là một đàn bà mơ mộng lãng mạn, chân không đụng đất. Ế chồng là phải. Nhưng thế mà lại không phải thế.
Ngân Vi chân không đụng đất ? Trái lại, nàng thực tế chẳng thua ai. Đàn bà một mình trong một thành phố lớn như Paris bắt buộc phải thực tế. Khi những khó khăn nhiều hơn ở người khác, người ta càng không được phép thiếu thực tế. Sống hàng ngày tại một siêu thị, giữa vật chất dư thừa không phải của mình, bất cứ ai cũng thành thực tế. Ngân Vi muốn có một chỗ cho mình ở đất này, và giữ được nó, thì lúc nào cũng phải sáng suốt, tính toán kỹ, rút kinh nghiệm, chen lấn với người khác, tìm cách ngoi lên. Chính vì vậy nàng chọn những tiểu thuyết cho mình một không gian khác. Một không gian làm nhẹ bớt sức nặng quá lớn của thực tế ở trong nàng. Nó cần thiết cho sức chịu đựng của nàng. Ngân Vi không muốn thoát ra khỏi thực tế. Nàng chỉ tìm cách làm sao cho nó dễ thở hơn.
Ngân Vi ế chồng ? Nàng chưa có chồng chẳng qua vì phải đi kiếm sống ngay từ những ngày mới tới đây. Và những công việc có được cứ đẩy ra xa cái cộng đồng của mình. Đàn ông Việt Nam thì chưa gặp, nhưng đã có những đàn ông khác yêu Ngân Vi, kể cả hỏi cưới. Anh chàng khuân vải người Thổ mắt trữ tình, thời nàng làm lậu tại xưởng may quần áo khu Sentier. Anh chàng bán fromages thích triết lý Đông phương, thời nàng đứng chợ ở phía Kremlin-Bicêtre. Anh chàng nhà văn nhà báo gì đó hơi mát mát, thời nàng hầu bàn ở tiệm ăn trên Grands Boulevards. Vân vân. Ở siêu thị bây giờ, gã trịnh trọng trách nhiệm khu đồ chơi vẫn chờ đợi nàng. Có kẻ thể xác nàng đã từng thân thuộc, trí nhớ nàng vẫn giữ lại sự trìu mến. Nhưng tiếc thay Ngân Vi đã rớt vào những đàn ông không sống nổi với xã hội chung quanh, đứng ngoài lề vì thất bại hay yếu đuối, cần một người đàn bà họ không sợ. Những cá nhân này định phủ lên nàng một hình ảnh sơ sài về người đàn bà Á Đông. Một phụ nữ chỉ phục tùng và chịu đựng. Không phải là nàng. Kinh nghiệm không may và hạn chế đã đưa tới Ngân Vi cả một thành kiến xấu, một cái nhìn hẹp hòi về đàn ông không cùng quê hương với nàng.
Ngân Vi sẽ lấy cho bằng được một ông chồng Việt Nam. Mau mau lên, trễ lắm rồi, chỉ vài năm nữa là hết có thể có con. Nàng nhất định không khó tính. Ở bất cứ ai, đào cho thật kỹ cũng tìm ra vài khía cạnh chấp nhận được. Chỉ cần sống với những khía cạnh đó, phần còn lại rồi cũng quen. Tham vọng vừa vừa thôi. Một cô ngồi quầy siêu thị với làm sao tới một anh nhân viên văn phòng. Ngân Vi đã nghĩ nhiều về gia đình. Chồng chỉ có việc về nhà mỗi ngày, nàng sẽ lo hết. Từ chuyện pha nước mắm ớt tỏi, chuyện sửa ngắn tay áo, cho tới tất cả những chuyện tiền bạc.
v
Bà Tâm làm mối mát tay kể gì, đầu heo đối với bà thường như cơm bữa. Người khác làm mối nhằm kiếm phúc đức cho mình, hay vì dư thừa một chút tình người. Còn bà Tâm phải hoàn thành nhiệm vụ Trời Phật giao phó. Chẳng cần ai mang ơn, bà mất mát gì đâu, khi ra tay biết mình sung sướng đến chừng nào. Mà con Ngân Vi thằng Trấn Hưng bà thương thật tình, tội nghiệp, tụi nó cô đơn quá. Con bé dễ thương ơi là dễ thương, coi bà Tâm như người mẹ nó thiếu bên Pháp này. Mỗi lần bà đi cái chợ của nó, con bé tại quầy cứ đọc hụt giá một số đồ, biếu tặng bà món này món nọ. Còn thằng Trấn Hưng, nó bán thịt cho con bà với giá thực sự tình nghĩa. Mặt hơi du côn ai ngờ lễ phép đáo để.
Trước khi cho đương sự gặp nhau, bà chuẩn bị hai đứa rất khéo. Câu chuyện nào cũng chỗ này chỗ kia nhắc tới người yêu sắp xuất hiện. Em Ngân Vi xinh không tả được. Lại khâu vá giỏi, hồi xưa là thợ may hẳn hoi chứ bộ, thời buổi này có mấy cô đảm đang được như vậy. Anh Trấn Hưng thì đẹp tính, không la cà các quán nhậu, sáng ra gà chưa gáy đã dậy đi kiếm cơm. Cả hai đều không thích dấm dớ bậy bạ, muốn xây dựng một hạnh phúc bền vững lâu dài. Rồi một hôm bà Tâm rủ cô cậu đến nhà, ăn cơm thanh đạm thôi với vợ chồng bà. Đến mà coi bà đâu có xạo về người kia. Thế là Ngân Vi và Trấn Hưng gặp nhau lần đầu trước một mâm chả cá nhớ đời, đầy đủ cà cuống mắm tôm.
Hôm ấy bà Tâm nói chuyện như mưa, ông chồng phụ hoạ nhịp nhàng. Mắt Ngân Vi liếc nhìn Trấn Hưng từ nhiều vị trí. Quả thật mặt hắn không tìm đâu cho ra một nét đặc biệt, coi chừng mình ngáp lúc nào không hay. Nhưng chớ quên, quan trọng là cái tính tình, phải một thời gian mới thấy. Bà Tâm nói còn nhẹ, nàng đẹp hơn là Trấn Hưng tưởng tượng. Cái cười trời đất hỡi, cặp mắt điệu này lấy hết hồn thiên hạ. Nhưng vui thật, chàng ta bị dao động mạnh thấy rõ, gắp bún bừa bãi rớt cả vào ly rượu. Ở chỗ Ngân Vi ai mà chẳng cảm thấy khoái khoái. Trấn Hưng chú ý cái vẻ hiền dịu của nàng, giọng nói nhẹ như một đường tơ. Nàng lịch sự ý tứ, quý phái cũng nên. Đũa gắp e thẹn, miếng cá nào cũng nhỏ, khi nhai đôi môi khép chúm chỉ hơi rung rung. Lúc bà Tâm bổ trái sầu riêng nồng nàn là lúc Ngân Vi đã thấy đối tượng không đến nỗi nào. Liệu hắn có dám gặp lại mình ?
Bây giờ phải đi lẹ một đoạn không có gì đáng ngạc nhiên. Hai ba lần Trấn Hưng đến đón Ngân Vi khi tan siêu thị. Hai người ra quán giải khát gần đó, kem 3 hương vị ở đây không quá 10 quan. Một buổi sáng Trấn Hưng hẹn Ngân Vi ở phố Tàu. Nàng leo lên chiếc cam nhông Cumbo, họ dư thì giờ ngồi cabin lái nói đủ thứ chuyện trong khi giao thông tắc nghẽn. Có ngày chủ nhật chiếc xe gắn máy chở cặp uyên ương chạy dọc sông Seine. Con sông nhìn theo, tủm tỉm cười đồng tình. Những câu chuyện trao đổi lúc đầu là đời sống siêu thị và giới người Tàu ở Paris. Tiếp theo là những tò mò của Ngân Vi về hắn, và bao nhiêu câu hỏi của Trấn Hưng trên từng điều nàng kể. Rồi cũng phải nói hết cho nhau, những bê bối trác táng của người này, những mối tình nhẹ dạ của người kia. Mỗi cố gắng lại làm họ gần nhau hơn. Hoá ra cuộc sống khó không chỉ cho riêng ai. Trấn Hưng thiếu những lời hay câu đẹp, nói chuyện nhạt như nước lã. Chẳng sao, mặt hắn đã nói nhiều lắm rồi còn gì. Ngân Vi cần tỉnh bơ như không có chuyện gì, vậy mà thỉnh thoảng nhìn hắn lạ lạ. Đến nhà Trấn Hưng chơi thì để bữa khác, nhưng hình như lời từ chối càng lúc càng không yên.
v
Ngân Vi bất chợt muốn về coi những đồ Trấn Hưng sửa chữa. Trước đó không có gì lạ, chắc chắn như vậy. Mọi thứ khi rõ khi mờ chỉ tại nắng không đều. Buổi trưa làm xôn xao một chút, khi nào chẳng thế ở giữa ngày. Đâu phải lần đầu có trạng thái hoang mang bồn chồn. Có lẽ nó tới từ một chi tiết đâu đó không đáng quan tâm. Nó chỉ đi qua. Chẳng có chuyện gì khác thường. Những khuôn mặt bên cạnh vẫn thản nhiên, đường phố không sống động hơn. Đừng thắc mắc, đừng im lặng. Từ một thời gian rồi, cái thân cái gần lâu lâu gây choáng váng, sau đó là một cảm giác rạo rực kỳ lạ. Làm như, vì đám đông dày đặc chung quanh, da với da thân mật nhau lâu quá, bàn tay cứ la cà chỗ mềm mại không vải, vai cứ xích lại gần đòi thêm hơi ấm. Gần thế nào là đủ ? Bao lâu rồi đã thiếu ? Chờ gì nữa bây giờ ? Thôi chẳng hiểu làm gì, mặc kệ, để xem sao, đâu biết chừng. Lối về may là còn nhớ. Những trạm metro đổi tên không ngừng, đường còn dài mà không chịu đi nhanh, sắp tới mà vội vàng làm chi. Người nói không có người nghe.
Hắn đánh sai mật số ở cửa nhà, vào phòng nàng hỏi gì đó không rõ, hãy khoan, hắn tìm đôi môi, nàng đã chờ, cái mềm bất ngờ, lưỡi hấp tấp, lưỡi tham lam, có gì vùng dậy đến đón, lưỡi lẫn lộn vào nhau, quấn lấy nhau không chịu rời, rồi những cánh tay muốn siết chặt, siết chặt thêm nữa, bỏ chỗ này chạy tới chỗ kia, ở trên ở dưới ở đâu, ai đó ưỡn người lên cho phía dưới cạ vào nhau nhiều hơn, có bàn tay ôm lấy hết mông giúp vào, có bàn tay lẻn vào sau áo khoác, có bàn tay sờ soạng khắp ngực, vải vướng víu, vải cản trở, da thịt thèm khát hẳn lên đằng sau, khuy áo không cưỡng lại, bàn tay mở thêm đi vào, bàn tay luồn dưới áo đi lên, núm vú tìm được chợt cứng, khiến lưỡi cuồng dậy phía trên, ở đó nó cố cản bước tiến phía quần jean, quá trễ, những ngón tay đã lọt vào trong, toả ra trong vùng rậm, sà tới chỗ sâu. Rồi hắn bị chặn lại bất thình lình. Nàng vùng vẫy, vụt thoát ra. Hai người thở hổn hển, lảo đảo một lúc, mặt bơ phờ, mắt tránh nhìn nhau.
Họ đứng đó bất động, áo quần tội lỗi, chờ nhịp thở đều lại. Một hồi sau nàng bước tới cửa sổ, mở rộng màn. Nàng quay trở vào, đi tới đi lui vô định, vấp phải đồ đạc chỗ này chỗ kia. Hắn nhìn theo, quờ quạng dọn phòng. Chỉ một lúc là nàng không còn chịu nổi. Nàng đi tới giường, cởi giầy, nằm vật ngửa trên nệm. Hắn cúi xuống gần, mới biết hơi thở nàng không dịu. Một lần nữa đôi môi hở gọi. Lưỡi thiếu nhau từ nãy giờ, thiếu nhau biết chừng nào. Nhưng hai người phải ngồi dậy. Thời gian đừng lẹ quá như vậy. Họ cố gắng cởi quần áo từ từ. Từng cử chỉ thật chậm, thật chậm, cố tách khỏi cơn cồn cào trong người cứ tăng dần. Rồi hắn nhìn thấy trọn vẹn thân thể nàng. Trần truồng nằm mở. Tất cả thân thể nàng đang chờ đợi, kêu gọi, thúc giục.
Buổi chiều hôm ấy, nắng tràn vào căn phòng từ cửa sổ màn không khép. Nắng bao trùm hai thân thể yêu nhau mãi không nguôi. Nắng để ý những quần áo rải rác trên sàn. Nắng lê ra đến tận hiên ngoài, quá cửa phòng quên đóng.
v
Người ta đã tả quá đầy đủ về tình yêu, từ cả chục thế kỷ rồi còn gì. Những kẻ sinh sau đẻ muộn chỉ có thể sao chép lại cách nào cho đỡ nhàm chán. Tình yêu bất hủ có khi nhờ những nhân vật lịch sử, hay những nhân vật nhiều tài, nhiều tiền. Trấn Hưng và Ngân Vi không có gì hơn người. Tình yêu ly kỳ khi đầy những đụng độ khốc liệt, những thảm kịch kinh hồn. Giữa Ngân Vi và Trấn Hưng chỉ lèo tèo vài ba xích mích nghèo nàn. Ngân Vi bực mình về tính gàn dở của hắn, chỉ chực sửa mọi thứ, kể cả những đồ mới toanh trong nhà. Và đầu óc an phận của hắn, không có tham vọng một ngày nào thôi làm công. Trấn Hưng khó chịu về cái tật lanh vặt của nàng, cứ tưởng mình khôn hơn thiên hạ. Nhìn thấy một vài điều đã nghĩ thế giới và cuộc đời không còn bí mật, chuyện nào mình cũng biết cũng hiểu. Đấy, mâu thuẫn giữa hai người lẩm cẩm có thế, lấy gì làm một câu chuyện sóng gió. Tình yêu cao siêu khi xảy ra giữa những con người đam mê hay khắc khoải. Nhưng có lẽ phải nhiều học thức và văn hoá mới tới mức đó. Trấn Hưng và Ngân Vi chỉ yêu lặt vặt. Yêu những rung động nàng để lộ. Yêu những trìu mến nhỏ nhoi đến từ hắn. Cuộc sống chật vật giữ họ dính chặt mặt đất. Chỉ biết Ngân Vi yêu đến độ bỏ cả giờ làm thêm khi họ được ở nhà với nhau. Và Trấn Hưng thương tới cả những vườn hoa tầm thường của nàng. Hai người chưa giàu, nhưng đã bớt được một thiếu thốn lớn, đã được một người ở gần. Hoàn cảnh không dư dả của họ trừ được một cái nghèo.
Chuyện tình của Trấn Hưng và Ngân Vi, kém gì ai, cũng dẫn tới hôn nhân và con cái. Đám cưới của họ không lớn. Chỉ được một thồi 12 người, ở một tiệm ăn Việt Nam có nhạc sống và sàn nhảy hẳn hoi. Tiệc tân hôn ít người nhưng quan khách có Tây Đầm và Tàu. Cô dâu đêm đó được cả nhà hàng sang trọng chú ý. Nàng đẹp quá trong chiếc áo dài trắng thêu, hở cổ, có hoa trắng trong tóc vẫn buông thả. Chú rể mặt gần như tươi. Côm lê cà vạt không thiếu mù xoa ở túi vét. Bà Tâm, áo nhung, hột xoàn và chuỗi ngọc, có lúc xúc động đến phải chấm mắt. Hình ảnh đáng ghi nhớ nhất là khi cô dâu chú rể ra sàn nhảy lần đầu tiên trong đời họ. Họ chỉ biết nhìn nhau và ôm nhau cho bớt lúng túng mắc cở. Ngân Vi và Trấn Hưng về sau có hai đứa con béo tốt. Thằng nõ giống hệt mẹ. Đẹp như thiên thần, mắt láo liêng, suốt ngày tìm bạc cắc. Cái nường chẳng khác gì bố. Mới sinh ra đã làm vẻ chán ngán cuộc đời, đụng một chút là nhè. Nó thích bẻ gẫy búp bê rồi lắp lại. Nhưng còn chỗ đâu để kể về chúng nó.
Bệnh" sợ vợ. Vua truyền gọi họ đến quảng trường, nơi có cắm hai lá cờ, một lá màu xanh, lá kia màu vàng. Theo lệnh vua, ai sợ vợ phải đứng dưới lá cờ vàng.
Cuối cùng chỉ còn một người đứng dưới lá cờ xanh. Vua hỏi về bí quyết của sự can đảm, người nọ đáp:
Tâu bệ hạ, trước khi tới đây, vợ thần có dặn thần không được nhập bọn với đám đông.2762
Kết thúc phiên toà, một đạo diễn điện ảnh có tuổi bị buộc tội "quấy rối tình dục" với nữ diễn viên trẻ. Người bạn già bức xúc túm ông ta lại hỏi:
- Này, sao trong phiên tòa, anh lại nhận tội? Tôi biết rất rõ là anh không hề làm chuyện đó mà.
- Đúng là tôi vô tội, nhưng ở tuổi tôi mà còn bị kết tội đó, thì kể cũng khoái chứ sao!
2430
Chênh Vênh Anh lồng xe trên phố như một con chuột cố nhờ sức gió dập tắt ngọn lửa bén vào mình. 23 giờ, phố núi vắng tênh. Man man trong gió một điệu tăng-gô buồn từ quán cà phê vườn nào đó vọng ra: “Đường về đêm nay vắng tênh... Hàng cây lướt nhanh...”. Anh đã cảm thấy lạnh và muốn về nhà. Nhưng không được. Hương! Hương tóc, hương tình vẫn còn lẩn quất trên áo anh...
Mặc dù Giang đã cam đoan nàng không hề trang điểm, và cũng không hề dùng một chút nước hoa nào, nhưng anh vẫn ngửi thấy mùi thơm, mùi thơm không rõ ràng nhưng dai dẳng bám riết lấy tâm trí anh. Những đường phố khuất nẻo mọi đêm thơm lừng thiên lý vậy mà hôm nay anh không thấy gì ngoài cái mùi ám ảnh suốt từ lúc chia tay Giang.
Anh đột ngột vặn mạnh tay ga, chiếc xe già nua giật mình ằng ặc mãi mới chiều ý anh tăng tốc. Gió u ú thổi qua tai anh với tốc độ kinh người, vậy mà anh vẫn còn ngửi thấy mùi thơm bám trên áo. Anh bất lực muốn trào nước mắt, đành lủi thủi dong xe chầm chậm ra cầu. Cầu treo Kon-Klor đây. Cây cầu nối phố với rừng đây. Mỗi khi có nỗi niềm không biết chia sẻ cùng ai anh lại ra đứng nơi này để tận hưởng cảm giác tận cùng của nỗi cô đơn.
Hồi chiều Giang điện cho anh kèm theo lời đề nghị, không, yêu cầu mới đúng: “Em đã đọc xong cái truyện anh đưa. Em cần gặp anh ngay!”. “Không, không nên Giang à”. “Tại sao?”. “Vì... vì không tốt cho em”. “Nói dối! Anh cũng muốn gặp em, nhưng anh sợ, đúng không?”. Anh im lặng thú nhận.
Anh làm nghề viết, một nghề viết không được ai công nhận bởi anh chẳng có trong biên chế một báo nào, vì thế cuộc sống của anh luôn trong tình trạng vất vưởng. Cái bằng đại học ngữ văn không giúp được anh xin việc, đành mài nó ra thành những bài viết nhỏ cộng tác với vài tờ báo. Đã thế anh lại không năng động như người khác luôn đón đầu sự kiện để viết, anh chỉ viết những gì anh thích, đôi lúc máu hâm nổi lên anh cắm đầu cả tháng vào viết văn, vì thế túi anh lúc nào cũng ráo như tổ chim mùa thu, nợ tiền cơm bụi tháng này qua tháng khác.
Ấy thế mà có tới 4 cô gái lần lượt yêu anh, chỉ có điều khi anh ngỏ lời cầu hôn thì họ đều im lặng, lắc đầu. Cô gái thứ năm anh không cần yêu và tìm hiểu gì nhiều bởi ngày nào cũng gặp, ngày nào cũng được người ấy hai lần bưng suất cơm đặt trước mặt cùng câu nói: “Anh cứ ăn đi khi nào có trả cũng được”. Nghe nói nàng bị bệnh tim. Đã có vài chàng trai mê cái dáng thon gầy dân dã cùng với cơ ngơi cơm bụi, nhưng khi biết sự thật họ lặng lẽ chuồn. Khi anh ngỏ lời cầu hôn nàng cũng nói thật: “Anh biết em bị bệnh tim rồi chứ? Bác sĩ khuyên không nên có chồng. Có chồng thì không nên có con...”. Mặc, một quả tim yếu nhưng vẫn biết thương một gã nghèo như anh, quả tim ấy chưa đến nỗi hỏng. “Mày sẽ phải trả giá cho cái triết lý cùn này!” - Thụy, thằng bạn đồng niên đã cảnh cáo trước khi anh quyết định cưới nàng. Trớ trêu cho anh là lúc này Giang xuất hiện, một phóng viên mới tinh của tờ báo anh thường cộng tác, mới gặp lần đầu cả hai người đã cảm thấy nửa kia của đời mình vừa tìm thấy.
Giang khóc trên vai anh: “Sao em không gặp anh sớm hơn được chứ!”. Anh cắn chặt môi: “Ừ... anh mới ký vào giấy đăng ký kết hôn hôm qua”. “Không thể nào khác ư anh?”. “Không, em hiểu cho, Trân sẽ chết nếu anh phụ cô ấy!”. Giang không tin, bắt anh dẫn đi ăn cơm bụi. Chỉ khi giáp mặt, tận mắt chứng kiến Trân mặt trắng bệch, ôm ngực thở dốc khi vừa thấy anh cặp kê với Giang, khay cơm bụi rớt xuống sàn tung tóe, Giang mới tin. “Đây là bạn của anh. Còn đây là vợ sắp cưới của anh”. Nghe lời giới thiệu công khai, Trân mới tạm thời qua cơn sốc. Nhưng trước vẻ đẹp thanh tao của Giang, Trân tỏ ra lúng túng vụng về tội nghiệp, đánh động lòng trắc ẩn của Giang. Nhưng nhìn vào mắt Giang, anh hiểu Giang vẫn hy vọng vào một biến động nào đó trong cuộc sống vợ chồng sắp tới của anh.
Đêm tân hôn, hàng xóm chung quanh anh nhốn nháo bởi một ca cấp cứu lạ. Lạ là bởi những ca cấp cứu kiểu này chỉ xảy ra ở thời “Nam nữ thọ thọ bất thân”. Cũng may quả tim của Trân cũng dần quen với hạnh phúc quá đỗi ngọt ngào. Ban đầu cuộc sống vợ chồng anh khá dễ chịu. Trân vẫn quán xuyến quán cơm nhưng cũng dành thời gian chăm chút anh bằng tất cả sự hàm ơn và tình yêu cộng lại. Nàng không đòi hỏi gì anh nhiều. Nhưng anh thì có. Mỗi khi viết được cái gì, anh reo toáng lên: “Trân! Em xem này!”. Nàng đón bản thảo và đi xuống bếp. Anh nằm lim dim trên giường tận hưởng niềm vui của vận động viên leo núi vừa chinh phục xong một đỉnh dốc. “Em đọc xong chưa? Thế nào?” - Anh hồi hộp hỏi trước khi ngồi vào mâm cơm tương đối nhiều ca-lo, mà cái dạ dày nhỏ như trái quýt chỉ quen với cơm bụi và rượu đế của anh đâu cần như thế. Trân thành thật: “Em chưa đọc. Mà có đọc em cũng chẳng hiểu gì dâu”. Nàng len lén xuống bếp mang lên tập bản thảo đã lem nhem mỡ trộn lẫn nhọ nồi: “Hồi đi học em hay bị ngất, cứ đọc một lức là mắt hoa lên”. Anh thở dài sười sượi, vừa thương vợ, vừa xót xa cho đứa con tinh thần của mình không được đoái hoài.
Nhưng Giang thì khác. Giang hồ hởi đón nhận tất cả những gì anh viết ra. Anh hồi hộp ngắm nhìn Giang đọc bản thảo của anh, khấp khởi mừng khi thấy khuôn mặt Giang giãn nở, lòng cuống thốn lên khi thấy cặp mày cong mảnh nhướng lên, cặp môi mọng hồng mím lại. Sau mỗi lần như thế Giang lại buông bản thảo nhìn anh đăm đắm: “Văn anh như có móng vuốt, mà em thích lối văn như thế. Lương tâm con người đang chai đi vì tham vọng, tiền tài. Phải cào bật nó ra cho rướm máu, đau một chút nhưng em tin con người sẽ sống nhân hậu với nhau hơn”. Chao ôi! Đối với người cầm bút, còn hạnh phúc nào hơn khi có người hiểu mình đến thế. Không kìm được lòng nữa, anh và Giang đã hẹn gặp nhau tại một quán cà phê.
Cái quán khuất nẻo, mỗi bàn được cách ly nhau bằng những mảnh lồ ô ghép cùng những chậu cây kiểng tạp. Lần ấy, trước lúc ra về, anh đã lập cập cài lại cúc áo cho Giang, còn Giang cẩn thận dùng tay lau đi vết son mờ trên môi anh, tỉ mẩn nhặt những cọng tóc vương trên cúc áo len sờn anh thường mặc. Vậy mà về đến nhà anh đã sững người bởi câu hỏi của Trân:88